Thứ Tư, ngày 24 tháng 04 năm 2024

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN – NĂM C

Chuyên mục: Suy niệm Chúa Nhật - Ngày đăng: 05.11.2022
Chia sẻ:

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN – C

Lời Chúa: 2Mcb. 7, 1-2.9-14; 2Tx. 2,16–3,5; Lc. 20, 27-38

Lời Chúa: Lc 20, 27-38

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: Nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ goá đó, để cho anh mình có kẻ nối giòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào; sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy? vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ”.

Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại.

Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê đã cho biết điều ấy trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Nhưng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa”.

Ảnh: Google

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

1. Đời này, đời sau–‘Manna’

Suy Niệm

Cuộc đời con người có vẻ như chấm dứt bằng cái chết.

Một triết gia Đức bảo con người sinh ra để chết.

Cái chết là số phận của mỗi người,

nhưng nói chung ai cũng muốn sống.

Kitô giáo cho rằng con người sinh ra là để sống mãi.

Cái chết chỉ là cánh cửa mở vào cõi vĩnh hằng.

Một số tôn giáo tin rằng đời người có nhiều kiếp.

Kitô giáo chỉ nhận có một cuộc đời ta đang sống.

Chính cuộc đời duy nhất này định đoạt số phận vĩnh cửu của ta.

Không có một cơ hội thứ hai để làm lại.

Chính vì thế phải sống hết mình cho đời này

để đáng hưởng hạnh phúc đời sau.

Đời sau mãi mãi là một mầu nhiệm.

Chẳng ai chụp hình được thiên đàng hay hỏa ngục.

Người đã khuất cũng không trở lại để kể ta nghe.

Bởi thế, nhiều người không tin có đời sau.

Cả những tín hữu cũng bị cuốn hút bởi vật chất,

và sống như thể chỉ có đời này.

Đời sau là chuyện ở đâu đó, hoàn toàn xa lạ.

Người thuộc phái Xađốc tin rằng sau cái chết

linh hồn con người vất vưởng như cái bóng nơi âm phủ.

Âm phủ là nơi tối tăm, buồn chán, thiếu sự sống.

Người Pharisêu lạc quan hơn,

cho rằng đời sau là sự kéo dài của đời này.

Người ta sống như trước, nhưng tràn trề hạnh phúc.

Đức Giêsu vén mở cho ta phần nào bức màn đời sau.

Đời sau khác hẳn đời này.

Người ta không cưới vợ lấy chồng, không cần con nối dõi,

nhưng sống như các thiên thần,

nghĩa là chỉ lo phụng sự và ca ngợi Thiên Chúa.

Đời sau là nơi không còn bóng dáng của thần chết.

Người ta thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh.

Toàn bộ con người được sống lại: cả hồn lẫn xác.

Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian,

nhưng sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu

để chung hưởng hạnh phúc với linh hồn.

Trong tháng cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời,

chúng ta nghĩ đến cái chết và đời sau.

Cái chết dạy tôi biết cách sống.

Đời sau kéo tôi ra khỏi những hạnh phúc giả tạo,

và những nỗi khổ đau do mê lầm.

Tôi đang đi về đời sau

để gặp Đấng mà tôi đã tin yêu suốt đời.

Tất cả cuộc hành trình đều phải hướng về nguồn cội.

Chúng ta đã được dựng nên cho Thiên Chúa,

và chúng ta còn khắc khoải mãi cho đến khi gặp được Ngài.

Gợi Ý Chia Sẻ

Bạn nghĩ gì về cái chết? Cái chết của một người bạn hay một người thân có khi nào gây âm vang trong lòng bạn không?

Có khi nào bạn hình dung thiên đàng trong trí bạn không? Thiên đàng có hấp dẫn bạn không? Phải chăng thiên đàng chỉ có ý nghĩa khi bạn đã nếm được hương vị của tình bạn đối với Thiên Chúa ngay từ đời này?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

khi ra thăm nghĩa địa, khi vào viếng phòng hài cốt,

con hiểu rằng mình phải có lòng tin lớn lao

mới dám nghĩ một ngày nào đó những thân xác hư hoại này sẽ sống lại.

Con người trở về bụi tro, nhưng bụi tro sẽ trở lại làm người,

vì con người sinh ra là để bất tử như Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, trần gian này quá đẹp

khiến con mải mê, quên mình là lữ khách.

Thiên đàng lại xa xôi, chẳng có chỗ trong con.

Con loay hoay vun quén cho đời sống cá nhân,

như thể con sẽ sống mãi trên mặt đất.

Xin khơi dậy nơi con niềm khát khao những điều cao cả.

Xin đừng để con mãn nguyện với những cái tầm thường.

Ước gì Chúa cho con nếm chút vị ngọt của trời cao,

khi con quên mình để sống cho anh em trên mặt đất.

2. Sống lại–TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong chương trình “Những điều bạn có thể chưa biết” của đài VTV3 có tường thuật một trường hợp lạ lùng: Một phụ nữ bị nhồi máu cơ tim. Chị tắt thở. Chị đã chết. Nhưng nhiều giờ sau, chị tỉnh lại. Các bác sĩ hỏi chị đã thấy gì trong thời gian ấy. Chị trả lời: chị thấy mình như bay bổng lên cao, và từ trên cao chị nhìn xuống thấy các bác sĩ, các y tá đang chăm sóc cho mình, nhìn thấy thân xác mình nằm bất động, nhìn thấy thuốc men, dụng cụ y tế. Chị cũng nhìn thấy một chiếc giày tennis cũ màu xanh da trời, đế giày bị mòn ở mép trong bàn chân, giây giày màu trắng, đầu một sợi dây thòng xuống dưới đáy giày. Nghe lời tả rất chi tiết của chị, vị bác sĩ chuyên điều tra băn khoăn để ý tìm kiếm. Một hôm vị bác sĩ đi qua tòa nhà đối diện nhìn sang bệnh viện, bà giật mình kinh hãi vì thấy ở tầng ba của tòa nhà, trên một gờ xi măng rất cheo leo, có một chiếc giày tennis cũ ai đã đặt ở đó tự hồi nào. Vị bác sĩ quan sát kỹ lưỡng và thấy chiếc giày giống từng chi tiết với chiếc giày mà người chết kể lại: chiếc giày vải cũ màu xanh, đế giày mòn ở mép trong, dây giày màu trắng, đầu một dây thòng xuống nằm ở dưới đáy giày.

Đó là một trong 1370 trường hợp trở về từ cõi chết mà các bác sĩ Đức và Mỹ đã điều tra. Theo những người có kinh nghiệm về cái chết này thuật lại thì: Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này. Và sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai muốn kiếm tiền bạc, danh vọng, lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người. Tất nhiên đây chưa phải là bằng chứng chắc chắn về việc người chết sống lại. Nhưng nó rất gần với mặc khải của Lời Chúa hôm nay. Và kinh nghiệm hiếm có của họ rất có thể hữu ích cho ta. Kinh nghiệm của họ nói với ta hai điều:

1) Có cuộc sống khác ở bên kia cái chết. Kinh nghiệm của họ phù hợp với niềm tin dân gian, nhất là của người Việt Nam vẫn tin rằng: thác là phế thách, còn là tinh anh. Vì tin có sự sống ở bên kia cái chết mà chúng ta mới thờ kính tổ tiên, cúng quảy, giỗ chạp.

Niềm tin ấy phù hợp với giáo lý của Chúa. Khi Môsê thấy Chúa hiện ra trong bụi gai cháy đỏ. Ông hỏi Chúa là ai. Chúa trả lời: “Ta là Thiên Chúa của Abraham, Isaác, Giacóp”. Vào thời của Môsê, Abraham đã qua đời được 5, 6 trăm năm. Vậy mà Chúa vẫn tự giới thiệu là Thiên Chúa Abraham, tức là Abraham vẫn sống, đang sống bên Chúa. Vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của người sống chứ không phải Thiên Chúa của kẻ chết.

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhiều lần nhắc đến cuộc sống sau cái chết như dụ ngôn người giàu có và Lagiarô, trong dụ ngôn về ngày phán xét, dụ ngôn lúa đồng và cỏ dại.

Theo thánh Phaolô, cuộc sống đời sau mới là đích điểm mà mọi tạo vật nhắm tới. Trong thư Rôma, Ngài viết: “Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang của con cái Người. Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt phải chịu vậy. Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến nay, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,19-23)

Chúng ta rên siết vì cuộc sống hiện tại đầy khổ ải. Chúng ta mong chờ cuộc sống đích thực ở mai sau. Đời sống này là thời kỳ thai nghén. Ta phải chịu đau đớn để sinh vào đời sau.

2) Cuộc sống ở bên kia rất khác với cuộc sống hiện tại. Khi Chúa Giêsu trả lời người Sadducêô, Chúa Giêsu đã mặc khải ba chân lý.

Chân lý thứ nhất: Chỉ những ai được tuyển chọn mới được vào Nước Chúa. Sự sống đời sau có đó. Nhưng không phải ai cũng vào được. Chỉ có những người được xét là xứng đáng mới được vào. Trong Phúc Âm, nhiều lần Chúa đã nói tới việc tuyển chọn này. Chúa sẽ loại chiên ra khỏi dê, lúa tốt ra khỏi cỏ dại, cá tốt ra khỏi cá xấu. Tiêu chuẩn để chọn lựa là Tám mối phúc, nhất là giới răn bác ái yêu thương.

Chân lý thứ hai: Người ta sẽ giống như thiên thần. Đời sống trên trời sẽ không có gì giống với đời sống dưới đất. Sẽ không còn đói khát nên sẽ không cần ăn uống. Sẽ chẳng có lấy vợ lấy chồng, sẽ chẳng cần sinh con để nối dõi vì người ta không bao giờ chết nữa. Nếu vậy, trên trời ta có còn là ta nữa không hay ta trở thành một người khác, một kiếp khác? Thưa, tuy có khác nhưng ta vẫn là ta. Đứa bé bụ bẫm hôm nay chẳng có gì giống với cái bào thai ngọ nguậy trong bụng mẹ hôm qua. Nhưng cả hai chỉ là một. Bà cụ 90 tuổi hôm nay chẳng còn gì giống với cô thiếu nữ mà bà đã là cách nay 70 năm. Nhưng cả hai vẫn là một. Chú bướm xinh đẹp nhởn nhơ bay lượn trên khóm hoa hôm nay chẳng có gì giống với gã sâu xấu xí lê la trên đất hôm qua. Nhưng cả hai vẫn chỉ là một.

Trên trời, ta sống một cuộc sống khác, không ăn uống, không lấy vợ lấy chồng. Nhưng ta vẫn là ta. Có khác biệt nhưng vẫn có liên tục.

Chân lý thứ ba: Ta sẽ trở thành con Thiên Chúa. Sống lại rồi, ta như đứa con bấy lâu phiêu bạt xa quê nay được trở lại nhà cha mẹ. Tâm hồn luôn bị dằn vặt vì niềm khao khát vô biên, nay mới được no thỏa: Thiên Chúa chính là hạnh phúc lấp đầy được vực thẳm khao khát vô biên của ta. Thánh Augustinô đã nói: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, nên lòng con mãi khắc khoải băn khoăn cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Là con Thiên Chúa, hạnh phúc lớn nhất của ta là được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi là cội nguồn hạnh phúc, nên thánh Phaolô đã nói: “Những đau khổ ta chịu bây giờ không thấm gì so với hạnh phúc sau này ta sẽ được. Và mọi tạo vật mong tới ngày được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, để được cùng con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,22). Vì hạnh phúc ấy mà tám mẹ con trong bài đọc thứ nhất đã cam chịu mọi khổ hình.

Lời Chúa hôm nay đem lại cho ta bao niềm hy vọng. Chúa cho ta biết, đời ta sẽ không đi trong bất định, lạc vào hư vô, nhưng đời ta có một cùng đích, đó là trở về với Thiên Chúa là cội nguồn của ta. Đời ta sẽ không chìm đắm trong đau khổ, nhưng sẽ vươn lên hạnh phúc, hạnh phúc làm con Thiên Chúa, hạnh phúc chia sẻ sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đời ta như vậy sẽ không đi vào mạt kiếp lụi tàn, nhưng sẽ triển nở trong vinh quang tự do. Đúng như lời thánh Phaolô nói: “Gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cr 15,43-44)

Lạy Chúa, xin cho con biết sống ở đời này theo đúng Lời Chúa dạy, để mai sau con xứng đáng được trở nên con của Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Cái chết là một thành phần của đời sống. Bạn chuẩn bị và đón nhận cái chết thế nào?

2) Con người sinh ra không phải để chết nhưng để sống. Bạn hiểu câu này thế nào?

3) Đời sau ta sẽ sống với Chúa. Ngay từ bây giờ bạn phải làm gì để chuẩn bị cho cuộc sống với Chúa?

3. Bên kia sự chết–TGM. Giuse Vũ Văn Thiên

Bên kia sự chết là cái gì? Đó là câu hỏi luôn làm lương tâm con người mọi thời đại day dứt. Nhìn chung, các tôn giáo thường có mục đích nghiên cứu và tìm cách đưa ra câu trả lời cho vấn nạn này. Do Thái giáo cũng không phải là ngoại lệ. Người Do Thái suy tư về ý nghĩa cuộc đời và về sự sống sau khi chết. Sách Macabê thuộc loại văn chương ảnh hưởng văn hoá Hy Lạp, được viết vào khoảng thế kỷ thứ hai trước Công nguyên. Tác giả khẳng định: bên kia sự chết là sự sống. Đó là hạnh phúc dành cho những ai trung thành với Chúa. Thiên Chúa là quan toà xét xử con người và sẽ ban thưởng cho những ai sống đạo đức, mến Chúa yêu người. Câu chuyện về người phụ nữ và bảy người con lần lượt bị giết trước mặt người mẹ được viết lại như một tấm gương khích lệ cho các thế hệ mai sau, đồng thời diễn tả niềm tin vào đời sau của Do Thái giáo. Bà là người can đảm, khuyên các con đừng nhụt chí trước đao phủ và kẻ quyền thế. Bởi lẽ quan quyền thế gian chỉ giết được thể xác mà không thể giết được tâm hồn. Chúng ta thấy bà là người mẹ phi thường. Nếu bà có chí khí kiên cường như vậy, là vì bà tin vào sự sống đời sau và tin vào quyền năng của Thiên Chúa tối cao.

Kitô giáo cũng cùng chung niềm tin với người Do Thái về hạnh phúc đời sau, tuy có những khác biệt. Cũng lại là con số “bảy”, nhưng lần này là bảy người cùng lấy một người phụ nữ làm vợ. Câu hỏi do phái Sađốc đặt ra, nhằm chế giễu và gài bẫy Chúa Giêsu, vì phái này không tin vào sự sống lại. Quả vậy, nếu có sự sống đời sau thì người đàn bà này sẽ là vợ của ai? Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi, nhưng Người khẳng định có sự sống đời sau. Khi đó, con người sẽ trở nên thần thiêng, giống như các thiên thần. Họ không còn cưới vợ lấy chồng, vì là con cái của sự sống lại. Chúng ta tưởng tượng, nếu đời sau con người lại lấy vợ lấy chồng, thì đương nhiên lại có sinh sản và chắc chắc sẽ lại có …ly dị. Như vậy, đâu còn là hạnh phúc thiên đàng, nơi được trình bày như hạnh phúc hoàn hảo vì được chiêm ngắm Chúa và được sống trong tình yêu trọn vẹn.

Cũng liên quan đến sự chết, có biết bao vấn nạn khác thường được đặt ra: Người ta chết chôn trong mồ, trở thành cát bụi, làm sao sống lại? Những người mất một phần chi thể, khi sống lại sẽ ra sao? Trước khi chết, người ta già nua, bệnh tật xấu xí, khi sống lại sẽ ở tình trạng nào? Không ai có thể đưa ra một câu trả lời chính xác, vì họ không phải là Thiên Chúa và vì họ chưa bao giờ từng trải những kinh nghiệm và những trường hợp nêu trên. Những trả lời, nếu có, chỉ là suy luận của lý trí con người. Tuy vậy, đối với Chúa, “không có gì mà Ngài không làm được”. Từ ban đầu của lịch sử, Thiên Chúa đã lấy bùn đất nắn thành hình con người và thở sinh khí làm cho con người có sức sống – theo cách trình bày của tác giả sách Sáng thế. Cũng vậy, vào ngày tận thế, Thiên Chúa sẽ làm cho bụi đất trở thành con người. Nói đúng hơn là Thiên Chúa tái tạo con người từ bụi đất, là thành phần còn lại sau khi được an táng trong lòng đất. Vì vậy, khi suy tư về vận mệnh tương lai của thân phận con người, chúng ta tin vào quyền năng và tình yêu thương của Thiên Chúa, với niềm xác tín Ngài luôn muốn những điều tốt cho chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta vững lòng trông cậy nơi Ngài, như Thánh Phaolô mời gọi cộng đoàn tín hữu Thêxalonica (Bài đọc II).

Trong tháng 11 dương lịch, Giáo Hội mời gọi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người đã qua đời. Việc cầu nguyện cho người đã qua đời cũng là khẳng định họ vẫn tồn tại sau khi chết. Các linh hồn nơi luyện ngục đang chờ đợi được thanh tẩy để xứng đáng ra trình diện trước nhan Chúa. Việc cầu nguyện và những việc lành phúc đức của chúng ta sẽ rút ngắn thời gian tinh luyện của các linh hồn nơi luyện ngục, cho họ sớm được hưởng Thánh Nhan Chúa trên quê hằng sống. Việc cầu nguyện cho người đã qua đời cũng mời gọi chúng ta suy tư về sự chết và về sự sống đời sau. Nghĩ đến sự chết sẽ giúp chúng ta sống tốt hơn, đồng thời hối thúc chúng ta làm những việc lành, vì những việc tốt chúng ta làm đều được Chúa ghi nhận và thưởng công.

Hạnh phúc thiên đàng không phải là ngẫu nhiên và cho hết mọi người, nhưng là kết quả cuộc một cuộc đời sống tốt lành, mến Chúa yêu người và nhiệt thành làm việc thiện. Vào lúc tạm biệt trần thế, chúng ta đâu có mang theo được của cải bạc tiền, nhưng là ân nghĩa và phúc đức chúng ta đã thực hiện khi sống trên trần gian. Một tác giả đã viết rất sâu sắc: “Khi ta sinh ra, ta khóc, mọi người cười. Hãy sống sao để khi rời cõi thế, mọi người khóc mà ta cưỡi mãn nguyện”. Cái “cười” của người ra đi, đó chính là sự thanh thản, không ân hận, nhưng hài lòng vì mình đã sống đẹp trên trần gian, lúc ra đi để lại thương nhớ và những kỷ niệm đẹp nơi mọi người, để rồi hình ảnh đẹp của họ sẽ lắng đọng nơi người thân mãi mãi.

4. Sự sống đời sau – ViKiNi–‘Xây Nhà Trên Đá–Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

Hầu hết nhân loại đều tin con người qua khỏi đời này, sẽ có một cuộc sống khác: một cuộc sống đời sau, một cuộc sống lại, không phải chết là hết. Nhưng có một số người không tin có sự sống khác sau khi chết, nên họ đã đặt ra những vấn nạn vô lý.

Thời Đức Giêsu, phái Sa đốc (Sadduceéns) không tin có sự sống lại. Họ đã tưởng tượng ra câu chuyện khá lố bịch để hỏi Đức Giêsu: “Nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả cưới vợ rồi chết không con. Theo luật Môsê, người em phải lấy chị góa đó để có con nối dòng, và cả bảy anh em đều chết không con. Khi sống lại, chị góa đó là vợ ai?”

Nếu nhận có sự sống lại theo họ nghĩ thì thật căng, thật khó xử và gây rất nhiều rắc rối. Vậy phải chấp nhận không có sự sống lại là khỏe, là giải quyết êm đẹp mọi vấn đề rắc rối! Họ khoái trí với lý luận đó và nhiều lý luận quá vật chất như thế. Lý luận của những người dựa vào giả thuyết tiến hóa của Charler Robert Darwin (1809-1882) cũng thế. Giả thuyết này cho rằng: mọi sinh vật đều có chung một tổ tông. Những hình thức cao hơn của đời sống phát sinh từ những biến dạng của những hình thức đơn giản hơn (Funk &Wagnalls: Encyclopedia). Đó mới chỉ là giả thuyết (hypothesis) chưa được xác minh theo phương pháp khoa học. Nếu mọi sinh vật đều bởi một Ông tổ vật chất nẩy sinh đột biến, thì chết đều trở về vật chất, không còn sự sống nữa.

Những người không tin có sống lại đó, họ vẫn xây những ngôi mộ thật đẹp, những lăng tẩm thật vững chắc. Họ kỷ niệm ngày chết tổ tiên, anh hùng long trọng. Chẳng lẽ họ lại tô điểm cho cái xác đã rữa thối? Tôn vinh những ngôi mộ bằng đất đá? Như vậy, miệng thì chối không có sự sống lại. Nhưng việc họ làm chứng tỏ lòng họ tiềm ẩn một niềm tin sống lại. Nếu chỉ vì ghi công và noi gương các bậc anh hùng, vĩ nhân thì cách tốt nhất là ghi lại trong sử xanh lưu danh muôn thuở. Mồ mả quá tốn phí, lại chóng đổ nát. Những người nhân danh khoa học để chối không có sống lại, không có Thiên Chúa, mà xây mồ mả như thế là phản khoa học.

May mắn thay số người như vậy quá ít, so với hầu hết nhân loại tin có sống lại, tin có Thiên Chúa Ông Eymieu đã công bố bảng thống kê 432 nhà bác học thế kỷ 19 thì có 367 vị tin có Thiên Chúa và sự sống lại. Bác sĩ Dennaert người Đức cho biết trong số 300 nhà bác học lỗi lạc nhất ở 4 thế kỷ vừa qua có 242 vị tin, 38 vị không rõ lập trường, 20 vị không tin và dửng dưng” (VQ. Đi Về Đâu – tr.39; René Courtois: Des Savants nous parlent de Dieu. p. 11).

Những tôn giáo vĩ đại như Hồi Giáo, Ấn Giáo, Phật Giáo đều tin có đời sau. Vạn thế sư biểu như Khổng Tử tin rằng chết là an nghỉ ngàn thu. Khi Tử Cống xin nghỉ học về thờ phụng cha mẹ cho khỏi mệt. Khổng Tử bảo việc nào trên đời này làm trọn bổn phận đều rất khó nhọc, nghỉ sao được! Tử Cống thất vọng kêu lên: Vậy con không có lúc nào được nghỉ ư? Khổng Tử đáp: Có chứ, lúc nào con thấy cái huyệt đào nhẵn nhụi, cái mộ được đắp chắn, người đưa con bỏ về. Bấy giờ là lúc con được nghỉ. Cống reo lên: Vậy chết hay thật, quân tử thì được nghỉ ngơi, tiểu nhân hết làm bậy” (Giảm chi. Đại vương THTH. Tr. 54). Khổng Tử còn dạy hiếu đối với cha mẹ: “Sống thì lấy lễ mà thờ, chết thì lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế” (Luận ngữ II, 5). Người Việt Nam tin chết là thể phách, còn là tinh anh, sinh ký tử qui. Sinh là ký gởi, chết là về cội nguồn tinh anh.

Hầu hết nhân loại tin có sự sống đời sau, nhưng chưa biết rõ thế nào. Bậc chí thành như Khổng Tử đã thú nhận rằng: “Vị tri sinh, yên tri tử”: Chưa biết rõ cái lẽ sống, thì cái lẽ chết cứ để yên đó. Chỉ mình Đức Giêsu là biết rõ cái lẽ chết đời sau, Người nói:

Thứ nhất: Đời này cưới lấy chồng vợ, đời sau thì không. Những ai được xét xứng đáng thì được hạnh phúc đời sau. Xét như một cuộc thi tuyển, chỉ tuyển những người sống xứng đáng ở đời này mới được thưởng hạnh phúc đời sau.

Thứ hai: Họ sống lại được giống như thiên thần. Đời sống Thiên Thần hoàn vượt trên tầm hiểu biết của trí thức khoa học và vượt mọi kinh nghiệm của loài người. Thiên Thần là bậc thiêng liêng tinh thần, không có hình hài thể xác cho nên không bị chết nữa, và các ngài đang được hưởng hạnh phúc vinh quang Thiên Chúa. Chúng ta khi được sống lại cũng được sống như các ngài. Chúng ta có thể ví đời sau khác với đời này, như đứa trẻ khác với khi nó sống trong bào thai, như con bướm khác với lúc nó là con sâu, như cây xanh tốt khác với hạt mọc nên nó. Tuy vậy, nó có sự tiếp tục từ bào thai sang đứa trẻ, từ con sâu thành con bướm, từ hạt giống mọc nên cây.

Thứ ba: họ sống lại được làm con Thiên Chúa, sống thân mật với Thiên Chúa là Cha mà họ suốt đời kính mến hết lòng. Không còn vinh phúc nào hơn nữa, nên thánh Phaolô hằng “cầu xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã lấy lòng nhân hậu mà ban cho chúng ta niềm phấn khởi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp” (Bài đọc II)

Sau hết: Họ sống lại vì Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống chứ không phải của kẻ chết. Thiên Chúa đã dựng nên họ, đã cứu chuộc họ, đã chọn họ, yêu thương họ như các tổ phụ Abraham, Isaác, Giacóp để họ sống hưởng hạnh phúc trong gia đình đầy yêu thương của Thiên Chúa, chứ không phải để họ chết. Lời tung hô Alêluia đã reo vang lên: “Vạn tuế Đức Kitô, Đấng đầu tiên từ cõi chết sống lại. Người vinh hiển quyền năng, Vạn vạn tuế!”. Người là đầu thân thể đã sống lại để cho chi thể được sống lại với Người.

Lạy Chúa, là Cha chúng con, đã dựng nên và cứu độ chúng con. Xin cho chúng con luôn sống theo luật yêu thương của Chúa dù gặp gian nan khốn cực đến đâu, chúng con quyết noi gương bảy anh em Macabê để được sống lại vinh phúc đời đời.

5. Con người sẽ sống lại–Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.

Sống lại, là điều rất khó dung hợp được với khoa học, và rất khó giải thích cho con người ngày nay. Tuy vậy, nhiều người tin có sự sống mai hậu.

Niềm tin có sự sống mai hậu

Bài đọc trong sách Maccabêô cho thấy niềm tin sống lại nơi bảy anh em và người mẹ tuyệt vời. Con người có thể cướp mạng sống “chóng qua” của nhau, nhưng không thể cướp được sự sống đời đời.

Có người mẹ nào mà không thương con? Có người mẹ nào mà không muốn con mình sống? Người mẹ của bảy người con này thật tuyệt vời. Bà thương con và nuôi dạy con rất tốt. Bằng chứng là những người con vâng lời và kính trọng bà. Bà không chỉ muốn con mình sống, nhưng bà còn muốn con mình sống hạnh phúc vĩnh cửu. Bà biết ông vua độc ác có thể cướp mạng sống quý giá của những người con yêu của bà, nhưng Thiên Chúa sẽ trả lại cho chúng đời sống vĩnh cửu. Và bà đã can đảm khuyên con mình trung thành với lề luật Chúa, để được sống đời đời. Niềm tin sống lại nơi bảy người con, và đặc biệt nơi người mẹ, thật tuyệt vời.

Qua thái độ sống của người mẹ và bảy người con này, người ta nhận ra sự sống mai hậu tồn tại. Nếu không có sự sống lại, làm sao những người công chính dám chết? Làm sao các vị tử đạo dám chấp nhận cái chết?

Con người sống lại vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của người sống

Những người thuộc phái Sađốc là những người quý phái và học thức thời Đức Yêsu. Họ không tin con người sẽ sống lại sau khi chết. Không chỉ thế, họ còn tìm được lý chứng để cho thấy tin kẻ chết sống lại là phi lý, và không hợp với luật Môsê nữa. Trường hợp họ hỏi Đức Yêsu hôm nay cho thấy điều đó: nếu tin kẻ chết sống lại, thì người đàn bà đã ăn ở với bảy anh em trong một nhà đó, sẽ là vợ của người nào?! Điểm tới của câu hỏi không là người đàn bà đó là vợ của ai trong bảy người, nhưng là “tin kẻ chết sống lại là phi lý”.

Đức Yêsu cho họ thấy họ không hiểu sự sống đời sau. Đời sau không dựng vợ gả chồng, nên không có sự “phi lý” như họ tưởng. Và như vậy, việc kẻ chết sống lại, không phải là chuyện phi lý. Hơn nữa, lý luận của Đức Yêsu cũng rõ ràng. “Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống, chứ không phải là Thiên Chúa của kẻ chết”. Nếu người chết không sống lại, Thiên Chúa có hay không có, Ngài như thế nào con người đâu cần bận tâm vì đâu có ích lợi gì cho con người! Nếu con người tin có Thiên Chúa, và tin rằng Ngài yêu thương con người, hàm chứa con người sẽ sống lại.

Con người sống lại, vì Đức Yêsu đã sống lại

Có một số người thời thánh Phaolô cũng không tin có sự sống lại. Họ cũng lý luận: làm sao người chết sống lại được, với thân xác nào người chết sống lại? Và thánh Phaolô đã trả lời: “chỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cor.15, 44).

Lý luận chính yếu của thánh Phaolô về việc người chết sống lại: “Đức Yêsu đã sống lại”. Với Phaolô, Đức Yêsu đã sống lại nên kẻ chết sẽ sống lại (1Cor.15, 12). Nếu người chết không sống lại, thì Đức Yêsu sống lại để làm gì? Nếu người chết không sống lại, thì ki-tô hữu là kẻ ngu dại nhất, vì không biết tận hưởng những lạc thú đời này.

Con người sống lại, là hậu quả của tình yêu và công bằng. Vì yêu, mà Thiên Chúa cho con người sống lại để chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Vì công bằng, mà những người sống công chính được bù đắp những gì họ đã hy sinh trong cuộc đời tại thế này. Thực sự, những người công chính đã được bình an và hạnh phúc ngay trong đời này, thậm chí cả những lúc như thể họ tuyệt vọng. Tuy vậy, hạnh phúc vĩnh cửu còn vượt xa điều họ đã nhận được tại cuộc đời chóng qua này.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Đâu là điều lợi và điều hại khi tin con người sẽ sống lại?

2. Bạn có muốn: con người sẽ sống lại không? Tại sao?

3. Theo bạn, làm sao để giúp người khác tin vào sự sống đời đời?

6. Cuộc sống đời sau–Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ Ðề: Cuộc sống đời sau

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Lời Chúa hôm nay bảo đảm có một cuộc sống đời sau. Đây quả là một niềm hy vọng vui mừng, vì cuộc sống nơi dương thế của chúng ta sẽ không kết thúc bằng ngõ cụt, nhưng đó là một chặng của cuộc hành trình về cõi trường sinh.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta sống thế nào để sẽ mãi hạnh phúc trong cuộc sống đời sau.

II. Gợi ý sám hối

Chúng ta quá lo cho cuộc sống đời này mà ít lo cho cuộc sống đời sau.

Nhiều khi chúng ta sống buông thả như không có đời sau.

Cách sống của chúng ta chưa thuyết phục được người khác rằng chúng ta thực sự tin có đời sau.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (2 Mcb 7, 1-2. 9-14)

Chuyện kẻ về thời vua Antiochus bắt đạo. Một bà mẹ và 7 người con thà chịu chết chứ không chịu bỏ đạo Chúa.

Trích đoạn này chỉ ghi cái chết của 4 người con đầu. Lời họ nói với vua đều khẳng định Chúa sẽ cho họ hưởng sự sống đời đời.

2. Đáp ca (Tv 16)

Đây là lời cầu nguyện của những vị tử đạo: “Con đã sống công minh chính trực, con sẽ được trông thấy mặt Ngài. Khi thức giấc, con sẽ được thỏa tình chiêm ngưỡng Thánh nhan”

3. Tin Mừng (Lc 20, 27-38)

Mặc dù nhóm Sađốc không tin vào cuộc sống đời sau, nhưng qua lời lẽ của họ, người ta thấy họ có một quan niệm hết sức vật chất về cuộc sống ấy: ở đời sau người ta cũng cưới vợ lấy chồng sinh con và hưởng thụ tất cả những lạc thú như đời này.

Trong câu trả lời, Chúa Giêsu vừa xác nhận có cuộc sống đời sau, vừa cho biết ý nghĩa của cuộc sống ấy:

Đời sau người ta sẽ bất tử, do đó không cần lưu truyền nói giống, cho nên cũng không cần cưới vợ lấy chồng.

Hạnh phúc duy nhất và cũng là quan tâm duy nhất của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Chúa, như các thiên thần vậy.

4. Bài đọc II (2 Tx 2, 16–3, 5) (Chủ đề phụ)

Như đã trình bày (Chúa nhựt 31), nhiều tín hữu ở giáo đoàn Thêxalônica nghĩ rằng sắp tận thế nên đâm ra lười biếng không làm việc và sống buông thả. Trong trích đoạn của Chúa nhựt trước, thánh Phaolô đã vạch ra sai lầm của suy nghĩ đó.

Trong trích đoạn hôm nay, Thánh Phaolô nói thêm: dù không biết chắc khi nào tận thế và Chúa lại đến, nhưng các tín hữu phải sống trong niềm hy vọng và mong chờ Chúa đến. Chính niềm hy vọng và sự mong chờ này sẽ là động lực giúp họ sống tốt.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Bàn về việc sống lại

Ông Cao Bá Quát là một nhà thơ nổi tiếng trong lịch sử văn học Việt nam. Ông có mấy câu thơ như sau:

“Ba vạn sáu ngàn ngày lá mấy,

Cảnh phù du trông thấy những nực cười.

Thôi công đâu chuốc lấy sự đời

Tiêu khiển một vài chung lếu láo.”

Ông Cao Bá Quát nghĩ rằng đời người vắn vỏi lắm, dài nhất là 3 vạn 6 ngàn ngày, nghĩa là 100 năm, sau đó thì ai cũng chết, mà chết là hết tất cả, cho nên còn sống bao lâu thì hãy lo ăn chơi, hưởng thụ, uống rượu “tiêu khiển một vài chung lếu láo”. Những người không tin có đời sau, không tin có sống lại, thì cũng dễ rơi vào quan niệm sống buông trôi hưởng thụ như 4 câu thơ trên.

Thời Chúa Giêsu, phái Sađốc cũng không tin có sống lại. Họ dựa vào một khoản luật của Môsê để đặt ra một câu chuyện lố bịch chế diễu Chúa Giêsu. Khoản luật đó là: Nếu một người đàn ông có vợ nhưng chưa có con mà bị chết, thì một trong các anh em trai của người chết ấy phải cưới lấy người vợ góa. Khi sinh ra đứa con đầu tiên thì phải coi đứa con đó là con của người đàn ông quá cố. Mục đích của luật này là để cho người quá cố không bị tuyệt tự, nhưng vẫn có con lưu truyền nòi giống cho mình. Phái Sađốc đã căn cứ vào khoản luật này và đặt ra một thí dụ: gia đình kia có 7 anh em trai, người thứ nhất lấy vợ rồi chết mà không có con, người thứ hai lấy người vợ góa đó nhưng cũng chết không con, tới người thứ 3, thứ tư, năm, sáu bảy đều lần lượt lấy người vợ góa đó và cũng đều chết mà không có con. Vậy khi sống lại thì người đàn bà này sẽ là vợ của ai? Ta thấy mục đích của phái Sađốc là mỉa mai cho rằng sống lại là việc phi lý, vì nếu có sống lại thì chẳng lẽ người đàn bà ấy có thể là vợ chung của tập thể 7 anh em kia sao?

Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời rất khôn khéo. Ngài vừa chứng minh rằng sống lại là một điều hợp lý, vừa giải thích cho người ta hiểu tình trạng của kẻ sống lại như thế nào.

Trước hết, để chứng minh rằng sống lại là điều hợp lý, Chúa Giêsu lập luận rằng Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, chỉ có kẻ sống mới hưởng được tình thương của Chúa. Nếu chết mà là hết thì đâu còn hưởng được tình thương của Chúa. Do đó Chúa phải cho kẻ chết sống lại để họ có thể hưởng được tình thương Chúa mãi mãi. Lập luận này đối với chúng ta ngày nay thì hơi lạ tai, khó hiểu. Nhưng đối với người Do thái thời đó, vốn rất quen với quan niệm “Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống”, thì họ đều dễ hiểu. Tóm lại là Chúa Giêsu khẳng định rằng kẻ chết sẽ được sống lại.

Rồi Chúa Giêsu còn giải thích tình trạng của kẻ sống lại như thế nào: đó là một cuộc sống khác hẳn cuộc sống bây giờ, không còn cưới vợ lấy chồng nữa; cuộc sống ấy rất thánh thiện như “các thiên thần” cuộc sống ấy rất thân mật với Chúa, kẻ lành sống lại được coi là “Con của Chúa”.

Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay thuật lại một cuộc tranh luận về giáo lý giữa phái Sađốc và Chúa Giêsu. Phái Sađốc mỉa mai việc kẻ chết sống lại, còn Chúa Giêsu thì khẳng định tín điều ấy. Chúng ta chẳng cần đi sâu vào chi tiết cuộc tranh luận đó làm chi. Điều cần chúng ta quan tâm hơn là hãy suy nghĩ về niềm tin của mình. Vấn đề thực tế đối với chúng ta là chúng ta tin có sự sống lại Vậy nếu chúng ta tin có sống lại thì bây giờ chúng ta phải sống như thế nào?

Hồi nảy chúng ta đã nghe lại mấy câu thơ của ông Cao bá Quát với chủ trương còn sống bao lâu thì hãy ăn chơi, hưởng thụ cho tối đa, kẻo chết rồi sẽ không còn được hưởng thụ nữa. Đây là quan niệm của những người không tin có sống lại. Vì quan niệm như vậy, cho nên nếu họ có sống buông thả, chạy theo hưởng thụ thì cũng là hợp lý thôi. Thế nhưng có những người có đạo mà cũng sống theo kiểu đó, quan tâm duy nhất của họ là chỉ lo ăn, lo mặc, lo xài, lo mua sắm, lo chơi, lo thỏa mãn những nhu cầu vật chất. Sống kiểu đó là mâu thuẫn với niềm tin của mình.

Hạng người thứ hai không quá duy vật như số người vừa kể trên. Tuy họ mãi mê kiếm tiền và rất coi trọng cuộc sống vật chất, nhưng họ vẫn không quên đời sau. Họ ít đến nhà thờ, ít đọc kinh cầu nguyện, nhưng họ chịu khó bỏ tiền ra để xin lễ, chịu khó bỏ tiền ra để góp phần xây sửa nhà thờ, đóng góp tiền bạc khi có những cuộc quyên góp… Bỏ tiền ra như vậy là họ yên tâm, cho rằng mình đã có bỏ vốn để đầu tư cho đời sau. Có phải đó là niềm tin vào sự sống lại không? Có lẽ cũng là niềm tin, nhưng là tin lệch lạc: hạnh phúc đời sau không phải mua được bằng tiền bạc đâu. Đời này thì có tiền mua tiên cũng được, nhưng đời sau không phải vậy!

Thiết nghĩ nếu chúng ta tin rằng có sống lại, thì chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy bằng cách sống của mình. Thể hiện thế nào?

Trước hết, ta phải biết đánh giá những biến cố xảy ra ở đời này bằng cặp mắt đức tin: người không tin thì rất sợ chết, rất sợ bệnh tật, rất sợ mất mát, rất sợ đau khổ. Họ sợ như vậy là phải, bởi vì họ không biết có đời sau. Chỉ có mỗi đời này mà đời này lại bệnh tật, mất mát, khổ sở và chết nữa thì không sợ sao được. Nhưng người có đạo như chúng ta đã tin có đời sau, đã tin rằng đời này chỉ là tạm, đời sau mới vĩnh viễn, mà cũng sợ như thế tức là mâu thuẫn với niềm tin của mình.

Điểm thứ hai để thể hiện niềm tin của mình vào sự sống lại là chúng ta phải biết phân chia thời giờ của ta để quan tâm chăm lo mọi mặt:

Dành một phần thời giờ để lo làm ăn sinh sống.

Dành thêm một phần thời giờ khác để gần gũi với con cái, giáo dục gia đình.

Thêm một phần thời giờ nữa để xây dựng những tương quan xã hội.

Và chắc chắn cũng phải dành một phần thời giờ để lo việc đạo, đời sau.

Chúng ta phải nhớ nguyên tắc “Gieo gì thì gặt nấy”: nếu chúng ta dành hết thời giờ ở đời này để chỉ lo tiền bạc vật chất thì chúng ta chỉ gặt được tiền bạc vật chất mà thôi; nếu ta không dành thời giờ để xây dựng hạnh phúc gia đình thì sẽ không có gì lạ nếu gia đình ta chẳng hạnh phúc; nếu ta không đầu tư thờ giờ và công khó để lo cho đời sau thì mong gì đời sau ta sẽ được hạnh phúc.

Dưới đây là một câu ngạn ngữ phương Tây cho chúng ta suy nghĩ:

Nếu bạn muốn hạnh phúc một ngày, hãy mua một cái áo mới

Nếu bạn muốn hạnh phúc một tuần, hãy làm thịt một con heo.

Nếu bạn muốn hạnh phúc một năm, hãy cưới vợ lấy chồng.

Nếu bạn muốn hạnh phúc một đời, hãy làm người sống tử tế

Nếu bạn muốn hạnh phúc một muôn đời, hãy làm người có đạo tốt.

* 2. Sống lại

Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe đề cập đến vấn đề kẻ chết sống lại. Mỗi khi chúng ta đọc kinh Tin Kính, chúng ta vẫn tuyên xưng “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Chúng ta tuyên xưng như thế và chúng ta tin điều đó dễ dàng. Chứ thực ra vấn đề này không dễ dàng cả vào thời Chúa Giêsu lẫn ở thời nay.

Thời nay có nhiều người chỉ nghĩ đến vật chất: ngay cả Thiên Chúa, linh hồn và đời sau họ còn không tin, huống chi là tin chuyện xác loài người chết rồi mà một ngày kia còn sống lại được. Thời Chúa Giêsu 2000 năm trước đây cũng thế. Vấn đề kẻ chết sống lại là một tín điều không phải do trí óc con người lý luận ra, mà do Thiên Chúa mạc khải dần dần qua dòng thời gian. Ở thời xa xưa, khi mạc khải Chúa chưa tỏ hiện trọn vẹn, người Do thái cũng tin như những dân ngoại: Họ tin rằng sau khi chết, phần linh hồn của con người còn tồn tại, tồn tại trong cõi âm phủ tối tăm không ánh sáng vì thiếu hết mọi hạnh phúc, linh hồn kẻ lành người dữ sau khi chết đều phải rời vào cõi âm phủ buồn thảm đó. Còn phần xác thì tiêu tan ra, không hy vọng gì sống lại được. Mãi đến thời anh em nhà Macabê khởi đầu dành độc lập cho đất nước Do thái, nghĩa là khoảng 100 năm trước Chúa Giáng sinh, mạc khải mới cho biết xác loài người có ngày sẽ sống lại. Chính vì tin tưởng như thế nên vào thời này, như đoạn sách thánh lúc nãy thuật lại, có 7 anh em nhà bị bắt và được dụ dỗ bỏ đạo, 7 anh em sẵn sàng thà chết phần xác mà không bỏ đạo còn hơn là chết luôn phần hồn vì tội chối Chúa, vì họ tin chắc rằng xác thể họ sẽ không chết mãi, nhưng Thiên Chúa sẽ cho sống lại vinh hiển. Tuy đã có mạc khải như thế, nhưng cho tới thời Chúa Giêsu, vẫn có người còn chưa tin theo. Đại biểu của những kẻ không tin này là phái Sađóc. Vì không tin, nên khi nghe Chúa Giêsu giảng về kẻ chết sống lại, họ mỉa mai chế giễu và đến với Chúa đặt ra một câu hỏi lố bịch cốt ý chọc ghẹo Chúa. Họ lý luận: nếu như ông nói người ta sẽ sống lại, thì giả sử một nhà kia có 7 con trai, anh cả lấy vợ rồi chết. Và căn cứ theo luật Môsê thì em kế phải cưới người vợ góa để có con nối dõi tông đường, nhưng em kế cũng chết mà không con, rồi người thứ ba lấy, rồi cũng chết, cứ thế cho đến hết 7 anh em. Vậy khi sống lại thì người đàn bà kia là vợ của ai? Khi hỏi như thế, nhóm Sađóc dĩ nhiên không cần Chúa trả lời rằng người đàn bà đó là vợ của ai cả, nhưng muốn Chúa bị bắt bí và phải thú nhận rằng giáo lý của Ngài về việc kẻ chết sống lại lại là bố bịch và do đó Ngài phải phủ nhận giáo lý đó để đi theo lập trường của họ. Nhưng trong câu trả lời của Chúa Giêsu, Ngài chẳng những giải thích rõ hơn về việc kẻ chết sống lại, mà còn trả lời thẳng về việc ai là chồng của người đàn kia. Đại khái Ngài bảo: vấn đề kẻ chết sống lại là một điều chắc chắc có căn cứ trên sách thánh, bởi Thiên Chúa đã phán Ngài là Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp, mà Thiên Chúa không là Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống, cho nên các tổ phụ đó tuy đã lìa đời nhưng vẫn là kẻ sống và xác thể họ sẽ sống lại. Ngài còn cho phái Sađóc biết thêm rằng: sau khi sống lại người ta không còn sống theo những điều kiện của đời này, nghĩa là không còn cưới vợ lấy chồng nữa.

Tất cả đều hướng về Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc thật và độc nhất, và là Đấng thoả mãn mọi nhu cầu của con người.

Chúng ta là con cái Chúa đang sống giữa con cái thế gian như một nhóm thiểu số, như hạt muối trong lòng đất, như nhúm men trong thúng bột. Nhiều người sống quanh ta không tin ở đời sau, và đa số không tin việc sống lại. Do chính cuộc sống chúng ta, chúng ta phải làm sao chứng minh cho mọi người về niềm tin của chúng ta:

– Tin rằng xác loài người ngày sau sống lại, chúng ta phải làm sao cho mọi người thấy rằng ngoài những giá trị thuần túy vật chất như tiền bạc, cơm áo, tài sản… còn có những giá trị tinh thần quý báu hơn như thà mất mát một vài tiện ích vật chất chứ không phạm tội để bảo tồn những giá trị thiêng liêng của linh hồn; như không khư khư nhắm mắt chỉ lo cho đời sống vật chất đời này mà quên mất đời sau: như dám quảng đại hy sinh chia xẻ những của cải mình đang có cho những người anh chị em túng thiếu hơn mình…

Một niềm tin chắc chắn và được biểu lộ qua một cuộc sống cụ thể như thế mới làm cho những kẻ không tin không chế nhạo chúng ta và còn có sức lôi kéo họ đi theo niềm tin của chúng ta về việc kẻ chết sống lại.

* 3. Hợp hoan bên Chúa

Trong kho tàng chuyện cổ Tây Phương có câu chuyện Công Chúa Ngủ Trong Rừng, như sau:

Ngày xưa, ở vương quốc hạnh phúc, nhà vua sinh dược một công chúa xinh đẹp tuyệt vời. Lễ rửa tội được tổ chức linh đình, có mặt các bà tiên, mỗi bà tặng công chúa một món quà là một lời chúc tốt đẹp.

Dù không được mời, mụ phù thuỷ ghen tức cũng bay đến, lẩm bẩm câu chúc dữ: “Một ngày kia, cái suốt chỉ sẽ đâm vào tay công chúa và con bé sẽ phải chết!” Nói xong, mụ bay vù qua cửa sổ. Mọi người buồn bã mất vui. May thay, vẫn còn một bà tiên tốt bụng đến trễ. Bà nói: “Ta sẽ làm nhẹ lời nguyền rủa ấy: cô bé sẽ không chết, chỉ ngủ một giấc rất dài cho tới khi một hoàng tử tốt lành, sẽ đến nắm tay kéo dậy và cô sẽ được hạnh phúc mãi mãi”.

Để đề phòng, nhà vua cấm tất cả thần dân không được dùng suốt chỉ. Nhưng một ngày kia, công chúa lên tháp canh trong lâu dài và thấy một bà lão đang khâu vá. Cô xin bà cho khâu thử. Thế là cái suốt chỉ đâm vào tay cô, cô lăn ra chết!

Người ta đặt xác cô giữa lâu đài, nhưng các bà tiên tốt bụng đã khiến mọi người trong lâu đài cùng bất tỉnh cả. Một rừng cây mọc lên che phủ lâu đài. Hoa thơm cỏ lạ bốn mùa đua nở.

Thời gian trôi đi đã ngàn năm, cho đến khi một hoàng tử lịch lãm đi săn ngang qua đó, khám phá ra toà lâu đài. Chàng bước vào ngỡ ngàng trước nàng công chúa xinh đẹp. Hoàng tử đã quì gối cầm tay công chúa, và nàng liền mở mắt chỗi dậy. Thế là hoàng tử rước công chúa về kinh thành, xin vua cha tổ chức lễ cưới linh đình.

*

Công chúa ngủ trong rừng chính là hình ảnh của người tín hữu an nghỉ trong ơn nghĩa Chúa. Sau một giấc ngủ dài họ được Thái Tử Bình An là chính Chúa Giêsu cầm tay nâng dậy, đưa vào tiệc cưới Nước Trời.

Chúng ta tin rằng con người sinh ra là để được sống mãi. Cái chết chỉ là ngưỡng cửa đưa vào chốn trường sinh. Một người chỉ có một cuộc sống, cuộc sống đời này sẽ quyết định số phận cho cuộc sống đời sau. Việc thiện hôm nay sẽ bảo đảm cho hạnh phúc ngày mai. Đúng như câu hát của nhạc sĩ Hoàng Vân: “Ngày mai, đang bắt đầu từ ngày hôm nay”.

Phái Xa đốc, trái lại, họ không tin có sự sống đời sau, cũng chẳng tin có sự sống lại, nên hôm nay, Chúa Giêsu muốn tiết lộ một vài hình ảnh của đời sau rằng: Đời sau khác hẳn đời này. Người ta “không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng” vì con người “không thể chết nữa”, nên đâu cần sinh con để bảo tồn nòi giống, nhưng được “sống ngang hàng với các thiên thần” là ca ngợi, tôn vinh và phụng thờ Thiên Chúa. Họ được thông phần vinh quang Thiên Chúa (Lv 12, 7), được dự phần vào dòng dõi của Người (1 Ga 3, 2). Thánh Phao lô viết: “Việc kẻ chất sống lại cũng vậy. Gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt, gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí mà chỗi dậy là thân thể có thần khí (1 Cr 15, 42-44).

Quả thật, con người được Thiên Chúa dựng nên để sống trường sinh, nhưng vì sự đố kỵ của ma quỷ mà cái chết đã nhập vào thế gian. Thánh ý của Thiên Chúa không thể mãi mãi bị ngăn chặn bởi quỷ ma, con người phải tìm lại được quyền bất tử của mình. Đó là sự sống lại của những người Công chính. Lời than thở của thánh Augúttinô đã nói lên nỗi khát khao của con người: “Lạy chúa Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, nên lòng con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ an trong Chúa”.

Chúa dựng nên con người để hưởng hạnh phúc, nhưng không chỉ là hạnh phúc tạm bợ đời này, mà là hạnh phúc vĩnh hằng đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau, về với Đấng hằng đợi chờ và yêu thương ta mãi mãi. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú bên đường mà quên cùng đích cuộc đời là phải gặp được Chúa. Có những kẻ sống như thể mình không bao giờ phải chết, họ ung dung hưởng thụ những thú vui trần tục. Họ đã chết ngay khi còn đang sống. Có những kẻ sống như thể chỉ có đời này, tự điển sống của họ không có từ “đời sau”. Họ đang sống mà như đã chết.

*

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con hưởng dùng hương hoa của cuộc sống cùng với bao niềm vui và hạnh phúc. Chúng con chỉ xin Chúa thêm một ân huệ này là cho chúng con được về hợp hoan với Chúa đời đời. Amen. (Thiên Phúc)

* 4. Nghĩ đến sự chết

Càng lớn tuổi, chúng ta càng ý thức rằng cuộc sống này ngắn ngủi chừng nào và mỏng dòn như thế nào. Và mặc dù không muốn, càng ngày chúng ta càng nghĩ nhiều về sự chết.

Việc suy nghĩ về sự chết không nên khiến chúng ta bi quan sợ hãi, trái lại nó phải đem đến cho chúng ta những giá trị tích cực: nhờ nghĩ đến cái chết, chúng ta sẽ yêu quý sự sống hơn; nhờ nghĩ đến cái chết, chúng ta sẽ đón nhận từng ngày sống như một món quà; và khi đón nhận cuộc sống như một món quà của Chúa, chúng ta sẽ sống mà yêu thương Chúa nhiều hơn.

Chết chỉ là một bước đi qua. Tuy nhiên, nhiều người nghe nói thế mà không muốn tin như thế. Thực ra, có gì khó tin lắm đâu? Cuộc đời vốn gồm nhiều bước đi qua:

Khi chúng ta sinh ra là chúng ta đi qua từ cuộc sống trong bụng mẹ sang cuộc sống bên ngoài.

Khi chúng ta đến trường là chúng ta đi qua từ cuộc sống ở gia đình nhỏ bé sang cuộc sống ở một cộng đồng rộng lớn hơn.

Khi lập gia đình là chúng ta đi qua từ cuộc sống một mình sang cuộc sống lứa đôi.

Khi đến tuổi hưu dưỡng, chúng ta sẽ đi qua từ cuộc sống làm việc sang cuộc sống nghỉ ngơi.

Mỗi một bước đi qua đều dẫn đến một tình trạng vừa giống như chết nhưng đồng thời cũng là một cách sống mới.

Thì ngày chết cũng vậy: đó là một bước đi qua từ cuộc sống đời này sang cuộc sống đời sau.

* 5. Làm chứng cho niềm tin vào cuộc sống đời sau

Bà mẹ và 7 người con trong bài đọc I là những người tin có sự sống đời sau, và họ đã làm chứng cho niềm tin ấy bằng cách dám hy sinh mạng sống đời này.

Chúng ta tuyên xưng có sự sống đời sau thì chúng ta cũng phải làm chứng cho người khác thấy là chúng ta thực sự tin như thế. Người khác mà thấy chúng ta thực sự tin như thế thì có thể họ mới tin theo chúng ta.

Nhưng thế nào là chứng tỏ mình thực sự tin vào cuộc sống đời sau?

Là chúng ta dám từ bỏ những thứ mà cuộc sống đời này cần.

Là chúng ta không quá sợ khổ và sợ chết.

Là trong khi còn sống, chúng ta không chỉ tìm kiếm những giá trị vật chất để bảo đảm cho đời này, mà còn tìm kiếm cách hăng say hơn những giá trị tinh thần và đạo đức là bảo đảm cho cuộc sống đời sau.

* 6. Kinh nghiệm cận tử

Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:

Cảm nghiệm thứ nhất của những người ấy là thấy mình rời khỏi thân xác của mình, đồng thời cảm thấy nhẹ nhàng dễ chịu sau khi rời khỏi thân xác.

Cảm nghiệm thứ hai là thấy mình đi trong một đường hầm rất dài. Sau khi đi hết đường hầm thì tới một vùng ánh sáng và gặp một Đấng tỏa ra ánh sáng. Thứ ánh sáng này sáng hơn mọi thứ ánh sáng họ đã từng thấy ở trần gian nhưng không chói mắt mà lại rất dễ chịu, đến nỗi họ muốn được ở mãi trong ánh sáng đó và bên cạnh Đấng tỏa ánh sáng đó.

Cảm nghiệm thứ ba là được Đấng sáng láng ấy cho thấy lại cuộc đời của họ, giống như xem một cuốn phim quay tất cả những lời nói việc làm và suy nghĩ của họ từ hồi có trí khôn cho đến lúc chết. Lúc xem lại cuốn phim cuộc đời ấy, khi thấy một việc xấu thì tự nhiên lòng họ cảm thấy buồn và bứt rứt khó chịu, đồng thời đấng sáng láng ấy đánh giá cho họ biết đó là một việc làm không tốt. Ngược lại khi thấy một việc tốt thì họ cảm thấy vui, dễ chịu và hạnh phúc, đồng thời đấng sáng láng ấy khen thưởng. Những việc tốt là những việc đã làm vì lòng yêu thương, những việc xấu là những việc họ đã làm do động cơ không yêu thương.

Được ở trong ánh sáng huyền diệu ấy và ở gần đấng sáng láng ấy, ai cũng cảm thấy vô cùng hạnh phúc nên muốn ở lại mãi, nhưng Đấng ấy bảo: “Bây giờ con chưa được ở lại, vì con còn nhiều việc bổn phận phải làm ở trần gian. Vậy con phải về”. Và khi đó là lúc họ tỉnh lại.

Tất cả những người sống lại ấy đều thay đổi cách sống: từ đó trở đi họ không sợ chết nữa; họ không coi trọng việc tìm kiếm danh lợi thú nữa mà chỉ lo chu toàn bổn phận và đối xử với mọi người bằng tình thương.

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu nói: Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Tin tưởng vài tín điều kẻ chết sống lại, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

1. Hội thánh là hiện thân của Thiên Chúa Tình yêu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / biết cố gắng sống trọn vẹn đức bác ái yêu thương / để mọi người nhận biết Chúa qua chính đời sống của mình.

2. Thử thách gian truân dễ làm cho con người mất niềm tin / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang gặp khó khăn / buồn phiền trong cuộc sống / biết tìm đến Chúa là Đấng hay an ủi kẻ ưu phiền.

3. Chúa yêu thương hết thảy mọi người / không bao giờ kỳ thị thiên tư / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết noi gương Chúa trong cách cư xử của mình.

4. Cuộc sống hôm nay quyết định số phận mai sau của người tín hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết nhiệt thành sống đức tin / để nhờ đó mà được hưởng sự sống đời đời.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu Kitô, việc Chúa Phục sinh từ cõi chết là một đảm bảo cho cuộc sống đời sau của chúng con. Xin cho chúng con biết tuân giữ trọn vẹn Lề Luật của Chúa, để sau này cùng được chung hưởng vinh phúc trên trời với Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con của Ngài. Ngài dẫn dắt từng bước chân ta đi trên con đường dương thế này, và cuối cùng Ngài sẽ dẫn chúng ta về nhà Ngài. Với tất cả lòng tin yêu phó thác, chúng ta hãy cầu nguyện với Ngài.

VII. Giải tán

Xin Thiên Chúa thắp lên trong lòng anh chị em niềm hy vọng vào cuộc sống đời sau. Xin cho niềm hy vọng ấy là động cơ giúp anh chị em sống tốt trong từng giây phút của cuộc sống đời này. Lễ xong, chúc anh chị em luôn bình an.

7. Cuộc sống mai hậu–Lm Giuse Đinh Lập Liễm

A. DẪN NHẬP.

Chết là một qui luật phổ biến: mọi người đều phải chết. Người Việt nam chúng ta tin rằng, trong tình trạng bình thường, cuộc đời của mỗi người phải trải qua 4 giai đọan: sinh, lão, bệnh, tử. Chết là giai đọan kết thúc cuộc đời. Nhưng chết rồi sẽ ra sao? Đi về đâu? Hay là đi vào hư vô?  Người Việt chúng ta tin rằng chết là trở về cội nguồn vì “Sinh ký tử qui” (Hòai Nam Tử): Sống là gửi, là nhờ, chết mới là về!

Trong thời Đức Giêsu, người ta cũng tin như thế, nhất là với nhóm biệt phái. Nhưng nhóm Sađucêu là những tư tế thiên về chính trị và vật chất thì không tin như thế. Họ không tin có sự sống lại và sự sống đời sau. Do đó họ đã cố bịa ra một câu chuyện kỳ cục để gài Đức Giêsu vào thế bí và để cho mọi người thấy rằng sống lại là một chuyện lố bịch. Nhưng dựa vào Kinh Thánh, Đức Giêsu đã chứng minh cho họ là có sự sống lại và có đời sau; đồng thời cũng cho họ biết là đời sống mai hậu khác với đời sống ở trần gian này, không còn cưới vợ gả chồng nữa, người lành sống lại giống như các thiên thần luôn lo việc phụng thờ và ca ngợi Thiên Chúa trong hạnh phúc vinh quang.

Chúng ta vẫn tuyên xưng niềm tin ấy khi đọc kinh Tin kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Lời thánh Phaolô nhắn gửi cho tín hữu Côrintô càng làm cho chúng ta xác tín: “Nếu chết là hết, thì quả thật chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong thiên ha”(x. 1Cr 15,19). Cuộc sống của chúng ta ở trần gian này là cuộc hành trình đi về nguồn cội là quê trời, nơi mà Đức Giêsu đã nói: “Để con ở đâu thì chúng cũng ở nơi đó với Con”. Cuộc sống mai hậu của chúng ta sẽ như thế nào thì tùy thuộc vào cuộc sống hiện tại của chúng ta ở trần gian này vì “gieo giống nào thì gặt giống  nấy”.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: 2Mcb 7,1-2.9-14.

Khi cuộc bách hại khốc liệt xẩy ra vào thế kỷ II thời vua Antiochus, dân Do thái đã có những vị tử đạo. Câu chuyện kể về một bà mẹ với 7 người con thà chịu chết chứ không chịu bỏ đạo Chúa đã chứng tỏ  niềm tin ngày càng gia tăng rằng sau khi chết, mỗi người vẫn còn tiếp tục sống. Lần đầu tiên các vị tử đạo của Cựu ước đã khẳng định xác kẻ lành sẽ được phục sinh. Sở dĩ những thanh niên này can đảm chối từ sự sống trần thế, là vì họ tin chắc rằng  Thiên Chúa đủ quyền năng để phục sinh họ vĩnh viễn.

Giá trị câu chuyện ở chỗ cho thấy sự phục sinh không là một ý tưởng. Đó là niềm hy vọng cho những ai chịu mất mạng. Hồng ân đáp lại sự dâng hiến. Ai không bao giờ cho  sẽ không mong lãnh nhận được điều gì. Tư tưởng này liên kết với Tin mừng hôm nay.

+ Bài đọc 2: 2Tx 2,16-3,5.

Tiếp theo đoạn thư của Chúa nhật tuần trước, thánh Phaolô khuyên tín hữu Thessalonica hãy kiên tâm bền chí. Khó khăn không thiếu, nhưng phương tiện để vượt qua cũng nhiều, đó là lòng trung tín chân thật dựa trên Lời Chúa và những hướng dẫn của ngài.

Sau đó, ngài xin họ cầu nguyện cho việc truyền giáo của ngài được thành công, dù gặp nhiều chông gai. Ngài phục vụ Lời Chúa và mong Lời Chúa được hoàn thành cũng như được “tôn vinh” nơi lời đáp  xin vâng của những người được Lời Chúa kêu gọi.

+ Bài Tin mừng: Lc 20,27-38.

Nhóm Sađucêu thiên về chính trị có quan điểm khác với nhóm biệt phái và luật sĩ. Họ không tin có cuộc sống đời sau. Họ không công nhận điều gì  ngoài những điều Thiên Chúa đã mạc khải cho Maisen. Họ bác bỏ sự sống lại và cho rằng đó chỉ là truyền thống hoàn toàn của con người. Họ tưởng rằng cuộc sống mai hậu nếu có thì cũng chỉ như cuộc sống ở đời này, cũng cưới vợ gả chồng, sinh con cái và hưởng thụ tất cả lạc thú như ở đời này. Nên họ đưa ra cho Đức Giêsu một vấn nạn khó giải quyết.

Để trả lời cho họ, Đức Giêsu vừa xác nhận có sự sống đời sau, vừa cho họ biết ý nghĩa về cuộc sống ấy:

– Trong cuộc sống mai hậu, người ta sẽ bất tử, không còn vấn đề truyền sinh, nên không còn cưới vợ gả chồng nữa.

– Trong ngày sống lại, người ta sẽ giống như các thiên thần để hưởng hạnh phúc bên Chúa.

Đức Giêsu cho chúng ta hiểu rằng ngôn ngữ loài người không đủ sức diễn tả  tình trạng cụ thể của người được phục sinh. Câu hỏi của nhóm Sađcêu vì thế không đáng phải ghi nhớ.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Cuộc sống mai hậu của chúng ta.

I. MỘT VẤN NẠN ĐƯỢC ĐẶT RA.

1. Thân thế nhóm Sađucêu.

Trong thời Đức Giêsu, có ba nhóm rất có thế lực và chi phối đời sống tôn giáo cũng như xã hội Do thái. Ba nhóm ây là luật sĩ, biệt phái và Sađucêu. Nhóm luật sĩ và biệt phái là những người đạo đức chuyên lo việc học hỏi Thánh Kinh và giữ luật một cách tỉ mỉ. Họ chuyên lo việc đạo chứ không quan tâm đến chính trị. Tuy thế, họ là những người giả hình và hay chống đối Đức Giêsu. Nhiều lần Ngài đã phải thẳng thắn vạch trần bộ mặt giả dối của họ.

Còn nhóm thứ ba là Sađucêu. Đây là một nhóm tư tế cao cấp trong Do thái giáo. Họ có quyền cả về sinh hoạt tôn giáo và chính trị Do thái từ trước thời Đức Kitô. Họ chỉ chấp nhận Ngũ Kinh, coi Maisen là vị tiên tri vĩ đại và hoài nghi các tiên tri khác. Họ không tin linh hồn bất tử và sự sống lại (họ trái ngược và kình địch với nhóm biệt phái) vì hai lý do: một là họ bảo giáo lý về sự sống đời sau không có trong Thánh Kinh (đối với họ chỉ có luật Maisen thôi), hai là họ nghĩ rằng: quyền năng của Thiên Chúa không vượt qua con người.

2. Một cái bẫy được giương ra.

Với trí khôn minh mẫn và trào phúng, họ cố làm cho câu chuyện sống lại trở nên lố bịch và buồn cười, họ đã nại đến thế giá ông Maisen mà Đức Giêsu không thể không nhìn nhận (Đnl 23,5) để bịa ra câu chuyện về sự sống lại.

Theo luật Maisen, luật mà Thánh Kinh gọi là luật Levirat (Dt 25, 5-10), khi có người anh em trong gia đình chết mà không có con, người anh em còn sống phải lấy chị dâu hay em dâu góa  để gây dòng họ cho anh em mình. Đứa con đầu tiên sinh ra  do sự phối ngẫu này được xem như là con đẻ của người anh xấu số, được phép nhân danh người quá cố để tiếp tục sống  trong cộng đoàn Israel. Theo phái Sađucêu, việc áp dụng luật như vậy, nhất thiết chứng minh rằng không có sự sống lại.    Họ hỏi Đức Giêsu: Nếu một người đàn bà theo luật Levirat lấy liên tiếp 7 anh em mà không có con thì khi sống lại  bà là vợ ai?

Thực ra, trong thực tế không có trường hợp nào xẩy ra như vậy; nhưng ở đây chỗ quá đáng của 7 anh em có mục đích cho ta thấy việc sống lại  là một việc không thể tin được.

Cái sai lầm của những người Sađucêu đặt ra câu chuyện này là ở chỗ quan niệm có tính cách vật chất về sự sống lại. Họ nghĩ đời sống trần gian này thế nào, thì khi sống lại  ở đời sau cũng vậy: Đời này dựng vợ gả chồng thì đời sau cũng chồng nào vợ nấy.

II. MỘT GIẢI ĐÁP ĐƯỢC THỰC HIỆN.

Đức Giêsu đã trả lời bằng cách  bác bỏ quan niệm sai lầm  về sự sống lại mà phái Sađucêu chế giễu. Ngài chứng minh rằng: “Con cái đời này cưới vợ gả chồng”, sự sống tại trần thế có cưới vợ gả chồng  vì lẽ đời sống con người có sinh có tử, và vì có tử nên con người cần phải dựng vợ gả chồng để truyền sinh và nối dõi.

Trong đời sống mai hậu họ không còn cưới vợ gả chồng vì hai lý do: một là vì họ sẽ không thể chết được nữa, và họ được ngang hàng với các thiên thần; hai là vì họ trở nên con cái Thiên Chúa, và là con cái của sự sống lại, nghĩa là được thừa hưởng một thế giới mới và sự sống mới từ nơi Thiên Chúa.

* “Quả thật, họ không thể chết nữa”, vì được ngang hàng với các thiên thần: khi sống đời đời, người ta sẽ không còn lo lắng việc đời nữa, ngoài việc phụng sự và ngợi khen Thiên Chúa, giống như nhiệm vụ của các thiên thần.

* “Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”: Kiểu nói của người Sêmít này có nghĩa là  một khi được Thiên Chúa nhận là con cái thì họ cũng được thừa hưởng thế giới mới và sự sống mới nhờ việc sống lại (x. Ep 1,5; Rm 8,18-21).

Còn nói về việc kẻ chết sống lại thì Đức Giêsu dựa vào Thánh Kinh để chứng minh có sự sống lại. Ngài nêu ra một đoạn trong sách Xuất hành mà nhóm Sađucêu công nhận để chứng minh chân lý ấy: khi hiện ra với Maisen trong bụi gai đang cháy, Thiên Chúa đã tự xưng là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaác và Thiên Chúa của Giacóp (x. Xh 3,6). Mà Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống: Các tổ phụ Abraham, Isaác và Giacóp dù đã qua đời, nhưng câu nói của Thiên Chúa với Maisen có hàm ý là các vị ấy hiện vẫn còn sống. Vì Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống đang điều khiển lịch sử loài người. Ngài không thể là Thiên Chúa của những kẻ chết, mà phải là của những kẻ sống. Con người gồm cả hồn lẫn xác, nên không những linh hồn con người thiêng liêng không bao giờ chết được, mà cả thân xác con người, dù có hóa thành bụi đất, thì nhờ quyền năng của Thiên Chúa Hằng Sống, cũng sẽ được sống lại trong ngày tận thế (x. Ga 11,23-26).

III. CUỘC SỐNG ĐỜI NAY VÀ MAI HẬU.

1. Chết là một qui luật phổ biến.

Có biết bao vĩ nhân thế giới, biết bao anh hùng cái thế đã qua đi mà chỉ còn trong sử sách. Ngay Hoàng đế Tần Thủy Hoàng của Trung hoa xưa đã truyền lệnh cho các thầy thuốc tìm ra thuốc  trường sinh cho nhà vua mà đành chịu bó tay. Ông đã chết như mọi người. Kinh nghiệm này đã được Văn Thiên Trường nói lên như một khẳng định:

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.

“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử”: từ xưa đến nay ai mà không chết? Đúng vậy. Đời người ngắn ngủi lắm. Thi sĩ Cao Bá Quát cũng nói lên kinh nghiệm đó trong mấy vần thơ:

Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy,

Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười.

hôi công đâu chuốc lấy sự đời,

Tiêu khiển một vài chung lếu láo.

Thi sĩ nghĩ rằng đời người vắn vỏi lắm, dài nhất là 3 vạn 6 ngàn ngày, nghĩa là 100 năm, sau đó thì ai cũng chết, mà chết là hết tất cả, cho nên còn sống bao lâu thì hãy lo ăn chơi, hưởng thụ, uống rượu “tiêu khiển một vài chung lếu láo”.

2. Nhưng chết là gì?

Có nhiều cách định nghĩa về cái chết nhưng không định nghĩa nào thấy thỏa đáng. Chúng ta chỉ biết rằng con người kết thúc cuộc đời này khi linh hồn lìa khỏi  xác. Chỉ khi nào linh hồn lìa khỏi xác thì mới là chết thật.

Chết là một sự chuyển đổi chứ không phải là một mất mát, đi vào ngõ cụt hay đi vào hư vô.

Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu trước khi sinh thì đã nói với chị em đang đứng chung quanh: “Em không chết đâu, em đi vào cõi sống”.

 Ngay cả những người ngoại giáo từ ngày xưa đã tin như thế, nên Hòai Nam Tử đã nói: “Sinh ký tử qui”: sống là sống gửi, còn chết mới là về. Về đâu?  Đi về cội nguồn, đi về một kiếp khác chứ không phải đi vào hư vô.

Cũng trong niềm tin đó, thi sĩ Nguyễn Du trong “Đoạn trường tân thanh” đã khẳng định: “Thác là thể phách còn là tinh anh”.

Lời than thở của thánh Augustinô đã nói lên nỗi khát khao của con người  được an nghỉ trong Chúa sau khi lìa cõi đời này: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, nên hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được an nghỉ trong Chúa”.

Truyện: Đại tá David Marcus.

Đại tá David Marcus bị chết trong trận chiến ở Israel tháng 6 năm 1948. Trong bóp của ông, người ta thấy một tấm thẻ ghi lại những lời thi vị hóa cái chết như sau:

“Tôi đang đứng trên bờ biển. Bên cạnh tôi một con tầu đang trương buồm trắng phất phơ trong gió sớm hướng về đại dương. Con tầu trông thật đẹp và mạnh mẽ. Tôi đứng nhìn theo nó cho đến khi nó chỉ còn là  một dải mây trắng nơi trời và nước hòa lẫn với nhau. Lúc đó có người đứng cạnh tôi thốt lên: “Kìa, con tầu biến mất rồi”! – Biến đi đâu? – Biến khỏi tầm mắt tôi, thế thôi! Nó vẫn là cột buồm, là vỏ tầu rộng lớn như lúc nó rời cạnh tôi và cũng vẫn đủ khả năng mang hàng hóa tươi sống  đến nơi đã định. Kích thước con tầu chỉ giảm đi trong ánh nhìn của tôi chứ không phải nơi chính nó. Và ngay lúc đó tiếng người cạnh tôi vang lên: “Kìa! Nó biến mất rồi”! thì lại có nhiều tiếng khác ở chân trời đàng kia vang lên đầy hoan hỉ: “Kìa! Nó đến rồi”! Và đó chính là lúc chết (M. Link).

3. Kiếp sống mai hậu.

Nhiều người tự nghĩ: nếu cuộc sống chỉ có đời này, và chết là hết, thì liệu những việc tôi đang làm đây có ý nghĩa gì không? Và nói như thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô: “Nếu chết là hết, thì quả thực chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ” (x. Cr 15,19). Quả thật, nếu không có niềm tin vào sự sống lại, không có niềm tin vào sự phán xét công minh và yêu thương của Thiên Chúa sau khi chết, có lẽ không ai trong chúng ta ngu dại gì mà sống ngay thẳng, thành thật; và cũng chẳng có ai  dù đủ kiên trì để chịu đựng những thử thách, bất công, hoặc cũng chẳng ai dại gì mà đi chia sẻ, giúp đỡ người khác nếu điều đó không có lợi cho mình.

Tiền nhân chúng ta tin tưởng: “Hữu công tắc thưởng, hữu tội tắc trừng”: Có công thì được thưởng, có tội thì phải phạt. Điều này rất hợp với tự nhiên, bởi vì kinh nghiệm đã cho thấy nhiều người ngay lành gặp phải rủi ro trong khi những người tội lỗi gặp nhiều may mắn, nếu không có thưởng phạt đời sau, thì sao cho hợp lẽ công bằng?

Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã rất chú ý đến  hiện tượng mà họ gọi là “kinh nghiệm cận tử”(near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:

–  Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.

–  Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).

Chúng ta chưa ai có kinh nghiệm về cuộc sống mai hậu nên không thể hiểu được và cũng không diễn tả được, nhưng chúng ta hãy tin vào Lời Chúa. Đức Giêsu cho chúng ta biết trật tự, cách tổ chức, sinh hoạt, cách thế hiện hữu trong cuộc sống mai hậu không giống như cuộc sống đời này. Không thể lấy kinh nghiệm hiện hữu của cuộc sống này để áp dụng vào  việc suy đoán cách hiện hữu của cuộc sống mai hậu. Đối với cuộc sống mai hậu, con người không hề có một kinh nghiệm nào và cũng không có một từ ngữ nào  tương xứng để diễn tả. Thánh Phaolô có nói về sự siêu nghiệm ấy như sau: “Điều mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người là điều mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ được”(1Cr 2,9).

Đức Giêsu đã khẳng định: Đời sống của các kẻ sống lại được  hiệp thông với Thiên Chúa hằng sống, là đời sống hoàn toàn mới lạ so với đời sống trần gian này. Đời sống đó không có kiểu mẫu nào ở đời này cả. Đó là một cuộc sống không thể nào tưởng tượng ra nổi, một cuộc sống hoàn toàn được biến đổi, một cuộc sống của những người “con Thiên Chúa”, những “người được hưởng ơn phục sinh”: “Họ giống như các thiên thần”.

Truyện: Bác sĩ Paul Nagai.

Chết không phải là hết. Paul Nagai, từ sau quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki, đã  trở thành con người bất hủ, vì sự tận tụy và tấm lòng hy sinh vô bờ bến của ông đối với các nạn nhân.

Chính ông đã để lại mấy dòng tâm sự làm cho ta biết tại sao ông từ vô thần đã trở thành con người có tin tưởng.

“Trong kỳ nghỉ xuân – lời ông –  lúc đó tôi học hết năm thứ hai đại học y khoa, mẹ tôi bị trúng phong. Tôi hối hả chạy đến đầu giường mẹ tôi, người chỉ còn một chút hơi thở. Mẹ tôi trừng trừng nhìn tôi, mà thở ra. Cái nhìn cuối cùng  của cặp mắt bà mẹ đã sinh ra, đã giáo dục và đã thương tôi đến cùng, cặp mắt này nói cho tôi một cách rõ rệt: dầu sao khi người khuất núi, người vẫn còn luôn luôn ở bên Takashi yêu dấu của bà. Tôi nhìn trong con mắt đó, tôi con người đã không tin có linh hồn và tự nhiên tôi cảm thấy: linh hồn mẹ tôi có; linh hồn mẹ tôi lìa khỏi xác nhưng còn tồn tại mãi mãi”.

Sau đó ông thêm rằng: “Con người tôi đã đổi hẳn, dầu tôi làm hết sức cũng không thể làm cho tôi tin phục rằng cái đã gọi là mẹ tôi đã bị hoàn toàn tiêu diệt… Con mắt tôi lần đầu tiên mở ra nhìn thấy  cái thế giới siêu hình” (Văn Quy, Đi về đâu, tr 7-8).

4. Tin vào sự sống lại.

Chúng ta rất phấn khởi và đầy tin tưởng khi đọc lời tung hô Alleluia: “Vạn tuế Đức Kitô, Đấng đầu tiên từ cõi chết sống lại. Người vinh hiển quyền năng. Vạn vạn tuế”. Người là đầu thân thể đã sống lại để cho chi thể được sống lại với Người.

Mỗi khi chúng ta đọc kinh Tin kính, chúng ta vẫn tuyên xưng: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Chúng ta tuyên xưng như thế và chúng ta tin điều đó dễ dàng. Chứ thực ra vấn đề này không dễ dàng cả vào thời Đức Giêsu lẫn ở thời nay.

Người Kitô hữu tin rằng không chỉ có linh hồn tham dự vào cuộc sống mai hậu, mà cả thân xác  cũng sẽ sống lại  sau khi hư nát một thời gian, để tham dự vào sự sống thần linh và vĩnh cửu đời sau. Thân xác ấy sẽ được biến đổi để phù hợp với cách hiện hữu mới ấy. Niềm tin vào sự sống lại được xây dựng trên nền tảng sự sống lại của Đức Kitô, mà các tông đồ là những người đã thấy tận mắt, đã sẵn sàng chịu đau khổ và chết để làm chứng. “Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng”(Cv 2,32; 10,41).Đây là một trong những niềm tin căn bản nhất của người Kitô hữu, đến nỗi có thể nói  ai không tin vào sự sống lại thì không phải là Kitô hữu.

Tin vào sự sống lại không phải là niềm tin vu vơ, phản khoa học, nhưng ngược lại chính các nhà khoa học thượng thặng lại tin nhận điều đó. Ông Eymieu đã công bố bản thống kê 432 nhà bác học thế kỷ 19 thì có 367 vị tin có Thiên Chúa và sự sống lại. Bác sĩ Dennaert người Đức cho biết trong số 300 nhà bác học  lỗi lạc nhất ở 4 thế kỷ vừa qua có 242 vị tin, 38 vị không rõ lập trường, 20 vị không tin và dửng dưng (Văn Quy, Đi về đâu, tr 39).

Truyện: Con bọ nước.

Một nhà sản xuất và giám đốc của một hãng phim lớn, ông Cecil B. DeMille vừa có nhiều năng khiếu về nghệ thuật, lại có đời sống nội tâm sâu xa nữa. Ông nhận xét sự chia sẻ của mình với bạn bè như sau:

“Trong khi đi thuyền canô trên hồ Maine, ông chú ý thấy một bầy con bọ nước cánh cứng ngay  dưới mặt nước. Một con trong bầy ngoi lên trên mặt nước và từ từ bò lên mạn thuyền canô. Sau cùng, nó phấn đấu leo lên được bên trên thuyền, bám vào thành gỗ và lăn ra chết. DeMille đã quên bẵng đi con bọ nước này cho đến mấy tiếng đồng hồ sau đó ông lại chú ý thấy một con bọ nước khác. Trong ánh mặt trời ấm áp, cái vỏ cứng bên ngoài của nó  đã trở nên khô và dòn. Chăm chú theo dõi, ông thấy cái vỏ của nó đã vỡ đôi ra, và từ bên trong nổi ra một hình thức mới, một con chuồn chuồn, cất cánh bay lên không gian với mầu sắc tráng lệ lóng lánh trong ánh mặt trời. Chỉ trong một thoáng, con chuồn chuồn đã bay được xa hơn là con bọ nước bò đi chậm chạp trong nhiều ngày. Nó bay lượn vòng quanh, phóng lên, lao xuống, chập chờn trên mặt nước.

DeMille chú ý thấy cái bóng của nó in hình trên mặt hồ. Con bọ ở dưới nước cũng có thể nhìn thấy điều đó, nhưng bây giờ người đồng loại của chúng  trước đây đã hiện hữu trong một tình trạng vượt xa sự hiểu biết của chúng. Còn con bọ nước vẫn đang sống trong thế giới nhỏ bé và giới hạn, trong khi người anh chị em bà con  của nó  đã có được tất cả sự tự do giữa trái đất và bầu trời.

Khi nói với bạn bè của ông điều đã nhìn thấy, DeMille đã kết luận với câu hỏi gợi ý như sau: “Có thể nào Thượng Đế vĩ đại của vũ trụ làm điều đó cho con bọ nước, lại không làm cho con người sao”(Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa…, tr 367-368).

5. Chuẩn bị cho đời mai hậu.

Chúa dựng nên con người để hưởng hạnh phúc, nhưng không phải chỉ là hạnh phúc tạm bợ đời này, mà là hạnh phúc vĩnh hằng đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau, về với Đấng hằng đợi chờ và yêu thương ta mãi mãi. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú bên đường mà quên cùng đích cuộc đời là phải gặp được Chúa. Có những kẻ sống như thể mình không bao giờ phải chết, họ ung dung hưởng thụ những lạc thú trần tục. Họ đã chết ngay khi còn đang sống. Có những kẻ sống như thể chỉ có đời này, tự điển sống của họ không có từ “đời sau”. Họ đang sống mà như đã chết.

Cuộc đời này tuy ngắn ngủi, nhưng lại rất quan trọng: nó ảnh hưởng một cách quyết định đến cách thế hiện hữu của ta trong cuộc sống mai hậu. Một người sống đầy tình người, đầy yêu thương ở đời này chắc chắn tình trạng đời sau sẽ khác hẳn  với người đời này sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình. Đời này là nhân, đời sau là quả: nhân nào sinh quả nấy, cây nào sinh trái nấy, “Cây tốt thì sinh trái tốt, cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, cũng như cây xấu không thể sinh trái tốt”(Mt 7,17-18). Người làm tốt sẽ được thưởng, người làm điều xấu sẽ bị phạt như thư Rôma và sách Khải huyền viết: “Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm”(Rm 2,6; Kh 2,23).

Nói đến nguyên tắc “gieo gì thì gặt nấy”, phương Tây có một câu ngạn ngữ rất hay:

Nếu bạn muốn hạnh phúc một ngày, hãy mua một cái áo mới.

Nếu bạn muốn hạnh phúc một tuần, hãy làm thịt một con heo.

Nếu bạn muốn hạnh phúc một năm, hãy cưới vợ lấy chồng.

Nếu bạn muốn hạnh phúc một đời, hãy làm người sống tử tế.

Nếu bạn muốn hạnh phúc muôn đời, hãy làm người có đạo tốt.

Để kết luận, chúng ta tự hỏi: Tôi sẽ chọn cho mình cách sống nào? Sống để chiếm lấy vĩnh cửu hay là chỉ những kẻ chọn lấy đời này và đánh mất đời sau? Đời sau vẫn cứ là huyền nhiệm lớn không thể tả. Chẳng ai biết thiên đàng, hỏa ngục như thế nào. Người ta chụp được rất nhiều hình ảnh lạ mắt, nhưng chưa từng có ai  lấy được hình ảnh của thiên đàng hay hỏa ngục. Vì không thể tìm được chân dung, người tín hữu nói riêng và loài người nói chung, dễ bị cuốn hút vào những cái thấy được của cuộc đời này, bám chặt vào nó  đến nỗi có lúc đã trở nên tội lỗi và lún sâu vào tội lỗi.

Chúng ta hãy tâm niệm rằng Sống là để chết. Ta biết mình đang đi về đời sau để gặp Đấng mà mình tin yêu suốt đời. Vì thế, cái chết không làm cho chúng ta bi quan, ngược lại, cái chết dạy ta biết cách sống. Ta hãy sống như sẽ chết, để khi chết, ta trở về nguồn cội đích thật của mình là quê hương vĩnh cửu. Nơi đó Chúa đang chờ để ban hạnh phúc muôn đời cho kẻ đã “xét đáng được dự phần đời sau” là chính chúng ta.

8. Vấn đề sống lại–Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Mấu chốt của vấn đề mà nhóm Xa-đốc hỏi Chúa Giêsu là sự sống lại và sự sống đó như thế nào. Chúa đã trả lời làm hai bước: Trước hết, Chúa nói về bản chất của cuộc sống sau khi sống lại, sau đó, Chúa đưa ra một lập luận dựa trên một kiểu nói cơ bản nhất trong bộ Ngũ Kinh là những sách mà những người Xa-đốc công nhận là Sách Thánh.

Trước hết, về bản chất của cuộc sống sau khi sống lại. Chúa cho biết nó không phải là một sự lặp lại cuộc sống trần gian, hai yếu tố của cuộc sống trần gian mà những người Xa-đốc nêu lên là chuyện cưới vợ lấy chồng và cái chết thì sẽ không còn nữa, những người đã sống lại thì được ngang hàng với các thiên thần nên không thể chết được nữa. Sự sống sau khi sống lại là sự tham dự trọn vẹn vào cuộc sống của Thiên Chúa, lúc đó người ta mới thể hiện đầy đủ bản chất là con Thiên Chúa, vì người ta được sống bằng chính sự sống của Thiên Chúa. Con của loài vật thì có sự sống của loài vật, con của loài người thì có sự sống của loài người, con của Thiên Chúa thì có sự sống của Thiên Chúa. Người ta được ngang hàng với các thiên thần, giống như các thiên thần, không còn bận tâm nào khác ngoài việc chiêm ngắm và ngợi khen Thiên Chúa. Vậy thì lập luận của những người Xa-đốc không đứng vững, bởi vì chính quan niệm của họ về cuộc sống sau khi sống lại không đúng.

Tiếp theo, Chúa Giêsu dựa vào một kiểu nói cơ bản rút ra từ một đoạn văn then chốt trong Cựu Ước và đối với lịch sử Do Thái, đó là đoạn văn kể việc Thiên Chúa hiện ra với ông Mô-sê dưới hình ngọn lửa cháy trong bụi gai (Xuất Ai Cập 3,6). Chúa nhấn mạnh vào ông Mô-sê, vì phái Xa-đốc nhìn nhận uy quyền của ông. Trong sách thì đây là lời Thiên Chúa tự xưng với ông Mô-sê, nhưng vì truyền thống Do Thái coi đây là sách do ông Mô-sê viết, nên Chúa Giêsu dựa vào đó mà lập luận. Ông Mô-sê gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-sa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Phái Xa-đốc không tin có đời sau, chết là hết, bởi vậy Chúa Giêsu lập luận: nếu chết là hết, thì các vị tổ phụ kia đã chết rồi, mắc mớ chi mà gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp. Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống chứ đâu phải là Thiên Chúa của kẻ chết. Bởi vì đã gọi Ngài là Thiên Chúa của ai tức là người đó đang sống, tuy đối chúng ta thì người đó chết rồi. Ông Mô-sê không khẳng định có sự sống lại, nhưng trong kiểu nói này ông Mô-sê cho thấy rằng có cuộc sống đời sau, con người không chỉ có cuộc sống trên trần gian này thôi, chết không phải là hết, nhưng là đi vào một cuộc sống mới, sống trước mặt Thiên Chúa và sống cho Thiên Chúa.

Chúng ta thấy lối lập luận của Chúa Giêsu thật độc đáo, nên những người tranh luận với Chúa đã chịu lý và không thể cãi lại. Vì thế, bài Tin Mừng hôm nay là dịp thuận tiện để chúng ta suy nghĩ về lời tuyên xưng cuối cùng trong kinh Tin Kính về sự sống lại và sự sống đời sau. Thực vậy, chúng ta tin có sự sống lại và có sự sống đời sau, nên chết không phải là hết, nhưng là bắt đầu sống thực sự, như chúng ta vẫn hát trong thánh lễ an táng: “Lạy Chúa, đối với tín hữu Chúa, đời sống thay đổi chứ không bị tiêu diệt”. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, trên giường hấp hối, cũng đã nói: “Tôi không chết, tôi đang bước vào sự sống”. Quả thực, sự chết vẫn hiện hữu, nhưng chết chỉ là chốc lát, một khoảnh khắc, một giây phút, một bước đi: từ tạm thời sang vĩnh cửu, từ hữu hạn sang vô hạn, chết là bắt đầu một đời sống mới, một cuộc đời vĩnh cửu.

Tóm lại, chết là một sự kiện hiển nhiên không cần phải chứng minh, đã là con người thì sẽ phải chết. Và đối với đức tin của chúng ta, thì thân xác chúng ta chắc chắn sẽ sống lại, nhưng sống lại để sống như thiên thần hay quỷ dữ lại là chuyện khác. Chắc chắn thân xác chúng ta sẽ sống lại, nhưng sống lại để sống hạnh phúc muôn đời hay bất hạnh ngàn thu là vấn đề chúng ta phải hết sức quan tâm, bởi vì kẻ lành, kẻ sống tốt lành thánh thiện cũng sống lại, và kẻ dữ, kẻ sống xấu xa tội lỗi cũng sống lại, nhưng sống lại để được thưởng hay chịu phạt, đó là điều khác biệt. Căn cứ vào đâu để Thiên Chúa thưởng hay phạt chúng ta? Căn cứ vào đời sống hiện nay của chúng ta, đời này quyết định số phận đời sau, như Chúa đã quả quyết: “Ai sống làm sao Ta sẽ trả cho như vậy”, “gieo thứ gì gặt thứ ấy”.

Lạy Chúa, cuộc sống này có là bao? Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy? Xin cho chúng con luôn nhớ mình sẽ phải chết để sống tốt, sống lành hầu xứng đáng đón nhận phần thưởng vĩnh phúc.

9. Vấn đề kẻ chết sống lại—Lm JB Lê Ngọc Dũng

Con người có một linh hồn bất tử và sự sống đời sau hay không? Con người chúng ta thường hay thắc mắc như vậy.

Có lẽ chúng ta nghĩ rằng các tôi giáo đều dạy là có đời sau. Tuy nhiên, Do Thái giáo lại không chủ trương là có đời sau một cách rõ rệt. Hai trường phái lớn của Do Thái giáo bất đồng ý kiến với nhau về đời sau. Trường phái Saducêo không tin có sự sống lại. Họ chống lại niềm tin vào đời sau của trường phái Pharisêu. Họ nêu chuyện 7 anh em cưới một vợ để bác bỏ niềm tin sống lại.

Ngày nay, giữa cuộc sống không tin vào Thiên Chúa, hay lãng quên Thiên Chúa, gắn chặt vào vật chất trần gian, vào đời sống thực tại trần gian, thì người ta lại thích những chuyện huyền bí. Những cuốn sách ghi lại những kinh nghiệm của những người trở về từ cõi chết lại là những cuốn sách bán chạy nhất Âu Mỹ. Hai tác giả nổi tiếng nhất trong lãnh vực này là bác sĩ Raymond Moody với cuốn “Đời Sau” (Life After Life) và bác sĩ Melvin Morse với cuốn “Được Ánh Sáng Biến Đổi” (Transformed by the Light).

Có người chết lâm sàng 5 phút, có người chết nửa giờ, rồi sống lại. Cả mấy trăm trường hợp, được gọi là sống lại hay hồi sinh, được khảo sát bằng phương pháp khoa học đàng hoàng. Truyện bà Betty Eadie là một trường hợp điển hình cho tất cả những người đã chết rồi sống lại. Những gì thấy được có thể tóm lược vào 4 điểm chính:

1. Sau khi chết thì hồn ra khỏi xác nhìn thấy chính xác của mình và mọi sinh hoạt chung quanh.

2. Rồi hồn như đi nhanh qua một ống tối dài như bà Betty Eadie kể lại trong cuốn “Được Ánh Sáng Ấp Ủ” (trang 39) Đây đúng là thung lũng bóng tối sự chết như Kinh Thánh đã từng nói tới.

3. Gặp được Nguồn Sáng: Có người cảm nghiệm thấy Chúa, có người thấy Đức Maria như bà Betty Eadie: “thấy tắm trong ánh sáng và thấy một bà mầu nhiệm mặc áo trắng đến cầm tay nâng đỡ tôi” (trang 191). “Bây giờ thì tôi biết có Chúa thật… Tôi thấy Ngài điều khiển trí khôn ngoan và sức mạnh này. Tôi thấy trực tiếp rằng Chúa muốn chúng ta trở nên giống như Ngài, và Ngài cho chúng ta những đặc tính giống như Chúa, như óc tưởng tượng và sáng tạo, ý chí tự do, trí thông minh, và nhất là khả năng yêu thương…” (trang 61).

Cũng có những trường hợp, thay vì gặp vùng ánh sáng yêu thương, thì lại gặp vùng đen tối hiện hình thành quỉ dữ trong biển lửa khủng khiếp ghê rợn, như bác sĩ Raymond Moody thuật lại trong “Ánh Sáng Muôn Năm” (Light Beyond, Bantam Books 1989, trang 26-27).

4. Được biến đổi: “Tất cả mọi trường hợp đều được biến đổi sau khi đã gặp ánh sáng này… Họ trở nên đầy nhiệt lực và dễ thương hơn, đôi khi họ được sức cảm thụ lạ về những lãnh vực tâm linh trước kia không hề biết” (Được Ánh Sáng Biến Đổi, trang 6). Một số người biết trước truyện sẽ xảy ra trong tương lai hay ở xa “Họ ít sợ hoặc không sợ chết nữa, vì họ biết có một cuộc sống mới.”

Những kinh nghiệm về cõi đời sau như thế, được kể lại, chúng ta không biết là thực sự đã xảy ra hay không, vì cũng có thể là chuyện tưởng tượng. Tuy nhiên rất có nhiều điều không sai lạc với giáo lý Công giáo mà còn giúp ta biết được một số nét của cõi đời sau.

Ngay chính thánh Phaolô cũng có lần kể lại chuyện về chính mình bị ném đá chết ngất đi tại Lystra: “Tôi sắp kể về các cuộc thị kiến và khải minh Chúa ban cho tôi. Tôi biết có một người trong Đức Kitô, cách đây mười bốn năm được bốc lên tầng trời thứ ba; và tôi biết người đó đã được bốc lên Thiên Đàng và được nghe thấy những tiếng nói mà người thường không có thể cũng không được phép phát ra…” (2Co 12,1-6).

Và chúng ta cũng nhớ đến chuyện thánh Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên. Khi bị hành hình, tuy chưa chết nhưng ngài nhìn lên trời và thấy thị kiến, Ngài la to: “Tôi thấy Con Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa”. Cũng chính vì làm chứng cho sự thật như thế. Stêphanô bị dân Do Thái cho là phạm thượng và ném đá ông cho đến chết.

Tất cả những điều trên giúp ta xác tín thêm về chân lý đời sau mà Chúa Giêsu mạc khải trong bài Tin Mừng hôm nay: “Những ai được xét là đáng hưởng hạnh phúc đời sau… họ không thể chết nữa, vì họ được ngang hàng với thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, bởi đã được sống lại.” (Lc 20, 34-36).

Niềm tin về sự sống lại, về thưởng phạt đời sau không cho phép chúng ta thờ ơ với vận mạng đời đời của mình. Chúa Giêsu nhiều lần nhắc bảo, chỉ dạy chúng ta về điều này. Ngài dạy hãy vào qua cửa hẹp để vào Nước Thiên Chúa; được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì.

Xin cho chúng ta biết xây dựng đời sau bằng chính đời này, biết dùng của cải đời này để mua nước thiên đàng mai sau. Nói cách khác hơn, xin cho chúng ta sống xứng đáng là con cái Chúa, để đáng được hưởng hạnh phúc với Ngài.

10. Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống–Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

“Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa” hay “vì Chúa.” (Lc 20, 37-38)

Augustine nói rất đúng: Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người để từng phút giây “hướng về Ngài”. Quả thật, Thiên Chúa trao ban sự Thiện tốt hảo, kể cả chính mình cho con người để con người được sống.

Cái chết không là một phần kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu” (Kn 1, 13-14). Do tội, sự chết đã du nhập vào trong tạo dựng, Thánh Phaolô nói: “Nọc của sự chết là Tội, mãnh lực của Tội là Lề luật” (1Cr 15, 56), đúng là tội lỗi sinh ra sự chết vì sự chết cắt đứt mối liên hệ với Đấng Hằng Sống làm ra sự sống. Nhưng “Đội ơn Thiên Chúa, Đấng đã ban toàn thắng cho ta nhờ Chúa chúng ta, Đức Yêsu Kitô!” (1 Cr 15, 57).

Vâng, vinh quang cho Đức Giêsu Chúa chúng ta, Đấng đã chiến thắng kẻ thù trên trần gian! Lời Hằng Sống đã kết thân với phận người, được đánh dấu bằng cái chết, để chiến thắng sự chết vào buổi sáng Phục Sinh. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa đã xuống đầy lòng chúng ta, những người chịu phép Rửa tội, ngõ hầu chiến thắng của Chúa Kitô Phục sinh hiện diện trong đời ta.

Đức Kitô đã phục sinh, sự chết không làm gì được Ngài nữa. Nên “nếu ta sống, chính cho Chúa mà ta sống; và nếu ta chết, thì chính cho Chúa mà ta chết. Vậy dù sống, dù chết, ta vẫn thuộc về Chúa,” (Rm 14, 8 ). Làm sao không ngạc nhiên cùng với Thánh Phaolô kêu lên: “Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu?” ( 1Cr 15, 55 ) Đó là lý do tại sao “những người được coi là xứng đáng lãnh phần thưởng trong thế giới mai ngày và sự sống lại từ cõi chết, nghĩa là những người đã được rửa tội, không thể chết nữa: họ là con cái Thiên Chúa, thừa hưởng sự sống lại.”

Tất nhiên, chúng ta không thể tưởng tượng được sự viên mãn ở đời sau sẽ ra sao, các thiên thần gợi ý cho thấy một cuộc sống hoàn toàn dành cho việc ngợi khen Chúa, trong sự hiệp thông hoàn hảo và tạ ơn muôn đời. Vì sự chết sẽ không làm gì được nữa, không cần thiết để đảm bảo sự sống còn của muôn loài: hôn nhân như một tổ chức để duy trì cuộc sống không có lý do để tồn tại nữa. Chúng ta sống trong một mối quan hệ tình yêu hoàn hảo với Thiên Chúa và với nhau, trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần.

Như thế chúng ta sẽ hiểu câu trả lời của Chúa Giêsu cho phái Sađốc: “Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại”. (Lc 20, 34-36)

Câu trả lời của Chúa Giêsu trước vấn nạn kẻ chết sống lại của nhóm Sađốc cho thấy: Cái nhìn của họ về cuộc sống đời sau còn quá hẹp hòi. Họ không hiểu ý nghĩa của sự phục sinh hàm chứa trong câu Thánh Kinh: Thiên Chúa là Chúa các tổ phụ. Người là Thiên Chúa của kẻ sống (x. Lc 20, 37-38). Nếu tin Thiên Chúa hằng hữu thì phải tin con người có cuộc sống vĩnh cửu. Họ không chấp nhận sự kiện con người sẽ sống lại là vì họ không chịu tìm hiểu Kinh Thánh. Đó là điểm đáng trách của họ. Họ không biết vì không chịu tìm hiểu và xin Chúa soi sang.

Ước gì các cặp vợ chồng đừng có lo lắng: vì tình yêu đích thực của chúng ta trong cuộc sống hay chết này không chỉ bảo toàn nhưng biến đổi: vợ chồng nhận biết Thiên Chúa trong ánh sáng của tình yêu liên kết họ với nhau cách hoàn toàn trong một nụ hôn vĩnh cửu. Hôn nhân không kết thúc với cái chết, nhưng biến đổi. Chúa chúng ta làm mất đi tất cả những hạn chế đặc trưng của sự sống trên trái đất. Tương tự như thế, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái hoặc giữa bạn bè với nhau sẽ không bị quên lãng. Nhưng nói rằng hôn nhân trần thế là một kinh nghiệm tiêu cực, hiểu lầm và đau khổ. Cái chết không cắt đứt các mối liên hệ có còn là lý do để sợ hãi nữa không? Không, bởi vượt qua thời gian vào cõi đời đời, cái xấu sẽ biến mất chỉ còn cái tốt. Tình yêu hiệp nhất họ với nhau, ngay cả khi nó chỉ kéo dài một thời gian ngắn, thấy phát triển đầy đủ, trong khi các khuyết điểm, hiểu lầm, đau khổ mà họ đã gây ra cho nhau sẽ tan biến.

Nhiều cặp vợ chồng sẽ được trải nghiệm tình yêu đích thực giữa họ với tình yêu, niềm vui và sự viên mãn của hiệp thông mà họ đã không được biết đến trên trái đất cho đến khi họ được đoàn tụ “trong Thiên Chúa”, vì Ngài sẽ hiểu tất cả, người ta sẽ bảo đảm tất cả, tha thứ tất cả.

Vậy, nói gì về những người đã lập gia đình cách hợp pháp với nhiều người như góa vợ và góa chồng rồi tái hôn? (Cụ thể trường hợp phái Sađốc giới thiệu về Chúa Giêsu, bảy anh em đã liên tục kết hôn với cùng một người phụ nữ). Đối với họ là bằng nhau, lặp đi lặp lại cùng một điều: đó là tình yêu đích thực và món quà mỗi cặp vợ chồng, khách quan tất cả đều tốt, Thiên Chúa sẽ không xóa nhòa nhưng hoàn tất nó ở trên trời. Trong Thiên Chúa sẽ không có sự cạnh tranh hay ghen tuông: những điều không thuộc về tình yêu đích thực, hay dưới ách thống trị do hậu quả của tội lỗi, sẽ không tồn tại ở trên trời.

Tóm lại có “một cuộc sống khác” đang chờ đợi chúng ta, như Đức Giêsu nói: “Họ là con cái Thiên Chúa”. Đối với Chúa Giêsu chắc chắn rằng một vài lời nói lên tất cả, bởi vì đối với Ngài không có hạnh phúc lớn hơn: là con cái Thiên Chúa được chia sẻ trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa.

Sống, yêu, ca tụng, vui mừng… tất cả những động từ này sẽ đề cập đến thực tế duy nhất tồn tại ở nơi Thiên Chúa, những người cuối cùng sẽ là “tất cả trong mọi sự”; “Bởi lòng yêu mến Người đã tiền định cho ta được phúc làm con, nhờ Đức Yêsu Kitô, và vì Người, chiếu theo nhã ý của thánh chỉ Người,”(Ep 1, 5 ).

Lạy Chúa, “Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16). Amen.

11. Tuyên xưng đức tin vào sự sống đời sau–Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH: Những người phái Xa-đốc không tin có sự sống lại sau này, nên khi nghe Đức Giêsu giảng về mầu nhiệm kẻ chết sống lại, họ đã tìm cách phi bác giáo lý ấy qua một câu chuyện giả tưởng về bảy anh em nhà kia theo luật Thế Huynh của Mô-sê đã tiếp nối nhau lấy cùng một người đàn bà và đều chết mà không có con. Từ đó họ đặt vấn đề: Nếu có chuyện kẻ chết sống lại thì người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy anh em? Đức Giêsu đã dùng Kinh Thánh để chứng minh có cuộc sống vĩnh hằng sau đời tạm này, và còn cho biết cuộc sống ấy như thế nào.

CHÚ THÍCH:

– C 27-28: + Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc: Đây là một số người thuộc hàng tư tế phục vụ Đền thờ, là những người không tin có sự sống lại cũng như không tin có đời sau, đang khi người Pha-ri-sêu thì tin kẻ chết sẽ sống lai (x. Cv 23,8), dựa vào lời sấm của ngôn sứ Đa-ni-en như sau: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ. Những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao.” (x. Đn 12,2-3). Còn Đức Giêsu luôn khẳng định giáo lý về mầu nhiệm kẻ chết sống lại đối lập với phái Xa-đốc, nên phái này đã đến nêu thắc mắc nhằm phi bác giáo lý kẻ chết sống lại của Đức Giêsu và các người Biệt phái. + Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều Luật này…: Nhằm chế diễu giáo lý về sự sống lại, nhóm Xa-đốc đã trưng ra điều luật “Thế huynh” của Mô-sê nội dung như sau: Nếu người anh lấy vợ mà chết không con, thì em trai của anh ta phải lấy bà chị dâu làm vợ. Đứa con sinh ra đầu tiên sẽ được Luật pháp công nhận là con của người anh đã chết, để cho người anh có con cái nối dòng (x. Đnl 25,5).

– C 29-33: + Vậy nhà kia có bảy anh em trai…: Nhóm này đưa ra câu chuyện giả định chưa từng xảy ra. Sai lầm của nhóm Xa-đốc là đã quan niệm rằng khi sống lại thì người ta cũng sẽ sống y như khi còn sống ở trần gian. Nghĩa là hai người đã là vợ chồng thì khi sống lại sẽ vẫn sống đời vợ chồng với nhau.

– C 34-36: + Con cái đời này cưới vợ lấy chồng: “Con cái đời này” là những người thuộc về trần gian. Câu này có nghĩa là: Vì sự sống của con người ở trần gian có sinh có tử, nên người ta cần phải lấy vợ lấy chồng để sinh con cái nối dòng. + “Nhưng những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết”: Câu này chỉ nhấn mạnh đến việc kẻ lành sống lại để được hưởng vinh quang, và không đề cập đến số phận của kẻ dữ. Thực ra không chỉ những người được Thiên Chúa tuyển chọn và xét xứng đáng mới được sống lại, nhưng là tất cả mọi người: tội lỗi cũng như công chính, đều được sống lại, như thánh Phao-lô đã đề cập trong sách Công Vụ như sau: “Tôi đặt nơi Thiên Chúa niềm hy vọng này là: người lành kẻ dữ sẽ sống lại” (Cv 24,15; x Ga 5,28-29; Mt 25,34-45). + Thì không cưới vợ, cũng chẳng lấy chồng: Họ không dựng vợ gả chồng, một là vì thân xác sẽ được siêu hóa không bao giờ chết và nên giống như các thiên thần; Hai là vì họ trở nên con cái của Thiên Chúa, hay con cái của sự sống lại, nghĩa là được thừa hưởng một thế giới mới và được sự sống mới từ nơi Thiên Chúa (x. Ep 1,5; Rm 8,18-21).

– C 37-38: + Còn vấn đề kẻ chết trỗi dậy…: Đức Giêsu đã dựa vào Thánh kinh để chứng minh có sự sống lại của những kẻ đã chết. Người nêu ra một đoạn trong sách Xuất hành: Khi hiện ra với Mô-sê trong bụi gai đang cháy, Thiên Chúa đã tự xưng là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác và Thiên Chúa của Gia-cóp (x. Xh 3,6). + Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống: Các Tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp dù đã chết, nhưng qua câu nói với Mô-sê, Thiên Chúa cho biết các vị ấy hiện vẫn đang sống với Chúa.

CÂU HỎI: 1) Trong hai nhóm Pha-ri-sêu va Xa-đốc, nhóm nào tin xác lòai người ngày tận thế sẽ sống lại, nhóm nào không tin? 2) Luật “Thế huynh” của Mô-sê quy định thế nào về việc kết hôn giữa em trai với chị dâu? 3) Phải chăng chỉ những người lành thánh mới được sống lại vào ngày tận thế, còn những kẻ tội lỗi sẽ chết luôn và không bao giờ sống lại? 4) Đức Giêsu đã dựa vào bằng chứng nào để khẳng định mọi người sẽ sống lại trong ngày tận thế?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống” (Lc 20,38).

2. CÂU CHUYỆN:

– HÌNH ẢNH MINH HỌA VỀ CÁI CHẾT:

Đê-Vít Ma-Cớt (David Marcus) là một viên sĩ quan của quân đội Ít-ra-en đã chết trận vào tháng 6 năm 1948. Người ta đã tìm thấy một cuốn nhật ký, trong đó ông đã ghi lại cảm nghĩ của ông về cái chết có thể xảy ra với ông như sau: “Tôi đang đứng trên một bến cảng ở bờ biển. Trước mặt tôi là một con tàu vừa trương buồm chuẩn bị ra khơi. Con tàu trông mới hùng vĩ và đẹp làm sao! Tôi đứng nhìn theo nó cho đến khi nó chỉ còn là một vệt trắng ở đường chân trời. Lúc đó, có một người bạn đứng cạnh tôi nói to lên rằng: “Xem kìa, con tàu đã biến mất rồi!”. Nhưng thực ra nó đâu có biến mất. Nó vẫn còn ở đó với chiếc buồm màu trắng và thân tàu to lớn đúng như kích thước khi tôi nhìn thấy nó đậu ở bến cảng. Hiện giờ nó đang trên đường đi đến một nơi đã định trước. Kích thước con tàu chỉ nhỏ dần đi trong mắt của tôi và cuối cùng đã biến mất khỏi tầm nhìn hạn hẹp của tôi mà thôi. Rồi ít ngày sau, con tàu đó sẽ tới một bến cảng mới. Tại nơi nó sắp cập bến lại vang lên tiếng nói đầy vui mừng của những người đang chờ đón người thân: “Ồ con tàu chúng ta chờ đợi đã đến rồi kìa!”. Con tàu đó chính là hình ảnh cái chết của mỗi người chúng ta”.

– CẢM NGHIỆM VỀ THẾ GIỚI ĐỜI SAU:

Từ sau khi quả bom nguyên tử ném xuống thành phố Na-ga-sa-ki của Nhật Bản, bác sĩ TA-KA-SHI NA-GAI (1908-1951) đã trở thành một nhân vật nổi tiếng nhờ sự tận tâm và tấm lòng hy sinh cao cả phục vụ các nạn nhân bị nhiễm phóng xạ nguyên tử của ông. Sau khi ông chết, người ta đã tìm thấy mấy dòng tâm sự ông để lại, cho biết lý do tại sao từ một người vô thần ông đã trở thành một người tín hữu có đức tin mạnh vào Thiên Chúa như sau:

“Trong kỳ nghỉ Xuân, lúc đó tôi học hết năm thứ hai đại học y khoa, mẹ tôi bị trúng phong. Tôi hối hả chạy đến đầu giường của mẹ tôi khi ấy chỉ còn một chút hơi thở. Mẹ tôi trừng trừng mở mắt nhìn tôi thở hắt ra. Cái nhìn cuối cùng của cặp mắt bà mẹ đã sinh ra, đã giáo dục và đã thương yêu tôi đến cùng. Cặp mắt này nói cho tôi một cách rõ ràng: Sau khi chết, bà vẫn luôn ở bên tôi là Takashi yêu dấu của bà. Tôi nhìn vào trong cặp mắt đó. Tôi, một con người vốn không tin có linh hồn, tự nhiên đã cảm thấy linh hồn mẹ tôi đang có đó; linh hồn mẹ tôi khi chết đã lìa khỏi thân xác nhưng vẫn tồn tại mãi mãi”. Rồi Na-gai viết thêm: “Từ đó, con người của tôi đã thay đổi hẳn: Dù tôi đã cố gắng hết sức nhưng cũng không thể khiến tôi tin rằng con người mẹ tôi đã hoàn toàn bị tiêu diệt… Con mắt tôi lần đầu tiên đã mở ra và nhìn thấy thế giới siêu hình”.

3. SUY NIỆM:

Thực tế cho thấy con người ta ai cũng đều phải chết! Chết là giai đoạn cuối cùng trong bốn giai đoạn cuộc sống của mỗi người chúng ta là: Sinh- lão- bệnh- tử. Nhưng chết là gì và sau khi chết chúng ta sẽ đi đâu? Ta phải làm gì để được sống lại trong hạnh phúc vĩnh hằng đời sau?

1) Chết là gì và chết rồi con người sẽ đi đâu?:

Chết là khi linh hồn lìa ra khỏi xác. Hầu hết nhân loại đều tin: chết không phải là đi vào cõi tiêu diệt, nhưng là trải qua một cuộc biến đổi từ cuộc sống vật chất trần gian sang cuộc sống vĩnh cửu đời sau được diễn tả qua câu nói: “Sinh ký tử qui” – sống chỉ là ở tạm, chết mới là đi về. Nhưng đi về đâu? Thưa là đi về với cội nguồn, về cõi vĩnh hằng với Đấng tạo thành nên mình.

Riêng đối với các tín hữu là những người tin vào Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai và đi theo con đường “qua đau khổ vào trong vinh quang” của Người thì chết là trải qua cuộc biến đổi với Đức Giêsu như lời thánh Phao-lô dạy: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người” (2 Tm 2,11). Thánh Au-gút-ti-nô cũng nói lên niềm khát mong được nghỉ yên trong Chúa ở đời sau qua lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, nên tâm hồn con vẫn luôn khắc khoải mãi cho đến khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”. Còn thánh nữ Tê-rê-sa Hài đồng Giêsu lúc sắp chết cũng đã nói với các chị em đứng chung quanh về niềm tin của mình vào một cuộc sống vĩnh hằng như sau: “Em không chết đâu, em sắp đi vào cõi sống”.

2) Hai lập trường đối lập về mầu nhiệm kẻ chết sống lại:

– Trong thời Đức Giêsu, các người Biệt phái (Pha-ri-sêu) tin rằng: ngoài cuộc sống đời này còn một cuộc sống vĩnh hằng ở đời sau. Còn phái Xa-đốc gồm các tư tế Đền thờ đã không tin có cuộc sống ở đời sau như vậy. Do đó khi nghe Đức Giêsu giảng về sự kẻ chết sống lại, họ đã phi bác bằng việc đặt ra một câu chuyện giả tưởng như sau: Nhà kia có bảy anh em trai, người thứ nhất lấy vợ rồi chết mà không có con. Theo luật “Thế huynh” của Mô-sê, người thứ hai phải lấy người vợ góa đó, nhưng rồi người này cũng chết không con. Tới người thứ ba, tư, năm, sáu, bảy đều lần lượt lấy người vợ góa đó và cũng đều chết mà không để lại một người con nào. Vậy nếu có sự sống lại thì người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy anh em? Mục đích của phái Xa-đốc khi đưa ra câu chuyện này là để chứng minh niềm tin vào sự sống lại là vô lý. Vì nếu còn có một cuộc sống ở đời sau như vậy thì chẳng lẽ người đàn bà ấy lại là vợ của cả bảy anh em nhà đó hay sao? – Để trả lời, trước hết Đức Giêsu cho biết tình trạng người ta sau khi sống lại sẽ không cưới vợ lấy chồng. Cuộc sống của họ sẽ hoàn toàn thanh khiết như “các thiên thần”. Họ sẽ trở thành “con cái của Thiên Chúa” (Lc 20,34-36). Tiếp đến Đức Giêsu xác nhận sự kẻ chết sống lại là điều chắc chắn vì dựa trên Lời Chúa trong Thánh Kinh: Khi hiện ra với ông Mô-sê trong bụi gai cháy mãi không tàn, Đức Chúa đã tự xưng mình như sau: “Ta là Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, I-sa-ác và Gia-cóp” (Xh 3,6). Câu này hàm ý Thiên Chúa là Đấng hằng sống và điều khiển thế giới người sống. Các tổ phụ dân Do Thái dù đã chết nhưng linh hồn các ngài vẫn đang sống và thân xác các ngài sau này cũng sẽ sống lại.

3) Niềm tin của người tín hữu về cuộc sống đời sau:

Khi đọc kinh Tin kính, các tín hữu tuyên xưng đức tin vào mầu nhiệm này như sau: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Thánh Phao-lô cũng đã khẳng định về một cuộc sống mới trong Đức Kitô: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế! Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15,19-20). Cuộc sống của chúng ta nơi trần gian là cuộc hành trình về quê trời. Cuộc sống ấy sẽ ra sao tùy thuộc vào cuộc sống hiện tại của chúng ta trên trần gian theo nguyên tắc: “gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy”.

4) Thể hiện đức tin vào mầu nhiệm này thế nào?:

– Một là không nên sợ chết: Những người không có đức tin sẽ rất sợ chết vì cho rằng chết đi là hết. Nếu người tín hữu sợ chết là tự mâu thuẫn với niềm tin của mình về một cuộc sống vĩnh hằng sau khi chết. Sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại về cái chết anh dũng của Phó tế Tê-pha-nô tử đạo như sau: “Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” (Cv 7,55-56).

– Hai là phải chuẩn bị cho cuộc sống mai hậu: Nếu một người chỉ lo kiếm tiền rồi lại tim cách hưởng thụ các nhu cầu vật chất thể xác thì sẽ chỉ gặt hái được thứ hạnh phúc bọt bèo chóng qua. Muốn đạt được hạnh phúc lâu dài cần phải có đức tin và sống phù hợp với đức tin ấy như câu ngạn ngữ tây phương sau đây:

“Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc một ngày, hãy mua cho mình một một bộ quần áo mới.

Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc một tuần, hãy giết thịt một con heo.

Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc một năm, hãy lập gia đình với người mình yêu.

Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc một đời, hãy sống một cuộc sống lương thiện.

Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc muôn đời, hãy sống như một tín hữu tốt lành”.

Người tín hữu tốt sẽ luôn sống giới răn mến Chúa yêu người theo lời Chúa dạy trong “Tám Mối Phúc Thật” (x. Mt 5,3-12). Thánh Phao-lô cũng cho biết có sự thưởng phạt người lành kẻ dữ trong ngày tận thế: “Ngày đó Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ đã làm” (Rm 2,6).

– Ba là năng cầu nguyện cho các người thân qua đời: Hằng năm, Hội thánh dành riêng tháng Mười Một để khuyến khích các tín hữu cầu nguyện cho ông bà cha mẹ đã qua đời. Đây cũng là cơ hội giúp chúng ta suy nghĩ về bốn sự sau là: sự chết, sự phán xét, thiên đàng và hỏa ngục. Chính sự chết dạy cho chúng ta biết phải sống như thế nào. Niềm tin vào Thiên đàng hay hỏa ngục sẽ giúp chúng ta tránh những đam mê hạnh phúc giả tạo đời này và động viên chúng ta can đảm chịu đựng những đau khổ gặp phải để đền tội và đi con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” để về quê trời đời sau. Trong tháng này, khi làm các việc lành cầu nguyện cho các linh hồn là chúng ta thể hiện niềm tin vào mầu nhiệm kẻ chết sống lại và cuộc sống vĩnh hằng đời sau.

4. THẢO LUẬN: Ngày nay nhiều người chỉ biết đi tìm thứ hạnh phúc bọt bèo chóng qua trong những thú vui nhục dục và những đam mê bất chính. Bạn sẽ làm gì giúp bạn bè và người thân nhận ra tình trạng sa đọa của họ để hồi tâm sám hối và sống cuộc đời bác ái yêu thương để tuyên xưng đức tin cụ thể vào cuộc sống vĩnh hằng đời sau?

5. NGUYỆN CẦU:

– Lạy Chúa Giêsu. Khi đọc kinh Tin kính, tuy miệng con tuyên xưng mầu nhiệm kẻ chết sống lại và tin có sự sống đời sau, nhưng trong thực hành, con lại thường lỗi đức công bình khi có cơ hội, gây ra bao thiệt hại về vật chất cũng như tinh thần cho tha nhân, mà không nghĩ đến việc con sẽ phải đền trả khi ra trước tòa Chúa phán xét sau này. Dường như đức tin của con mới chỉ là thứ đức tin lý thuyết và không đủ mạnh để ngăn cản con khỏi sống ích kỷ và tội lỗi. Trong Tin mừng hôm nay, Chính Chúa đã khẳng định rằng: Thân xác lòai người sau này sẽ sống lại. Khi ấy người ta sẽ không còn cưới vợ lấy chồng, không còn bon chen kiếm sống như ở trần gian, nhưng mọi người sẽ trở nên giống như các thiên thần của Thiên Chúa và được sống trong hạnh phúc muôn đời.

– Lạy Chúa, con muốn rằng: ngay từ bây giờ con sẽ thuộc trọn về Chúa. Con xin dâng lên Chúa tất cả tâm tư, cùng những niềm vui nỗi buồn và những ước vọng của con. Xin Chúa thương nhận và ban xuống dồi dào hồng ân cứu độ cho con. Xin cho con luôn phó thác cuộc sống trong tay Chúa và sẵn sàng đón nhận mọi thử thách, với niềm tin rằng chúng đều hữu ích cho phần rỗi đời đời của con.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

12. Thực tại mới, tương giao mới–Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật

Câu trả lời của Vị Ngôn Sứ

Đứng trước cái chết, con người cảm thấy cuộc đời cá nhân của mình bị cắt ngang, họ tìm cách kéo dài sự hiện diện, sự tổn tại của mình qua các tác phẩm nghệ thuât, qua các công trình, qua con cái. Với những dấu vết đó, họ tự an ủi mình bằng cách nghĩ rằng họ không hoàn toàn biến mất, không hoàn toàn tiêu tan vì vẫn có những người nhắc nhớ đến họ, vẫn lưu giữ những kỷ niệm, những dấu vết của họ. Theo chiều hướng này, luật Mô-sê đã đưa ra điều khoản về “thế huynh” (xem Đnl 27,5-6): một người đàn bà goá mà không có con, phải kết hôn với em chổng để duy trì dòng dõi cho người anh quá cố.

Luật Mô-sê dành ưu tiên cho người đàn ông, nên phụ nữ, trẻ con chỉ là phương tiện, và từ đó tạo nên cả một hệ thống về quyền lợi, dựa trên những mối liên hệ khác nhau của ý định muốn tổn tại lâu dài. Những người thuộc phái Xa-đốc đã bắt đầu từ những mối liên hệ, những quyền lợi của cuộc sống này để đặt câu hỏi với Đức Giêsu: “Người đàn bà ấy sẽ là vợ ai?”

Theo một khía cạnh, câu hỏi đó có lý, vì nó khởi đi từ quan niệm về sự tổn tại, về quyền lợi, như đã được ghi lại trong luật Mô-sê, với mục đích duy trì dòng dõi của con người.

Thế nhưng, câu hỏi tự nó có tính cách phi lý và quá chi li: đây là một câu hỏi lắt léo nhằm để bắt bẻ hơn là làm sáng tỏ vấn đề. Đức Giêsu biết điều đó và Người không quan tâm. Người làm bùng nỗ hệ thống tư tưởng của con người về cuộc sống mai sau. Với tư cách là Vị Ngôn Sứ, Đức Giêsu đưa ra câu trả lời không theo lối suy nghĩ và những hoàn cảnh của cuộc sống trần gian. Người đến để loan báo, để thông ban sự sống mới, nhưng sự sống đó không phải là một sự tổn tại, không phải là trường thọ; trái lại, đó là một cuộc tái sinh, là sự đạt tới một thực tại khác, một mức độ mới.

Câu trả lời của Đức Giêsu không hề có ý nói rằng thực tại mới sẽ làm cho mọi người, mọi mối tương giao trở nên bằng nhau, như là một kiểu san bằng tất cả, nhưng chỉ có ý gạt bỏ khía cạnh xác thịt hay tình cảm của những mối tương giao: đó chỉ là những điểm khởi đầu có tính cách tự nhiên.

Khi người ta khen ngợi thân mẫu của Người, Đức Giêsu đã nói: “Ai là mẹ tôi, ai là anh em tôi?”, và Người đã khẳng định về một tương giao mới, về ý nghĩa của gia đình dựa trên mối tương giao với Lời Chúa. Những tương giao nhân bản vẫn có giá trị, nhưng sẽ phải nhường chôỵ cho một tương giao đích thực, trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa.

Thực tại mới

Như thế, đời sau là một thực tại, một thực tại mới, khắc hẳn với trần thế này. Trong thực tại mới đó, tất cả đều biến đỗi: không thể lấy những tiêu chuẩn của trần gian để xét đoán, để mô tả đời sau. Thật là lầm lẫn khi đặt vấn đề: trong cuộc sống mai sau không có hôn nhân sao? hay tương tự như thế: ở đời sau có đá banh không? có ti-vi không? có… không? Những câu hỏi này vẫn chỉ dựa trên cái nhìn của trần thế để hiểu về đời sau.

Tuy vậy, vẫn có thể dựa trên mặc khải để hiểu về thực tại mới này như sau:

– Con người được nhìn thấy Thiên Chúa “nhãn tiền”. Thiên Chúa như thế nào, con người được thấy như vậy: đó là hưởng kiến, đó là hạnh phúc, vì được nhìn thấy Thiên Chúa với tất cả vinh quang của Người. Trong Thiên Chúa, con người hiểu rõ những gì liên quan đến mình, kể cả mối tương giao với bạn bè, với người thân trên mặt đất.

– Trong thực tại mới này, con người chìm ngập trong vinh quang rực rỡ của Thiên Chúa, không có gì cao đẹp hơn vinh quang đó, và con người chỉ có việc hưởng vinh quang, ca tụng vinh quang.

– Trong cuộc sống trần thế, con người vui hưởng tình yêu, cái đẹp, sự hiểu biết, quyền lực… những điều này chỉ có tính cách tương đối. Còn trong thực tại mới, Thiên Chúa là chính tình yêu, tình yêu trọn vẹn, là toàn năng, toàn mỹ, toàn thiện.

Đàng khác, theo thánh Phao-lô: thân xác của con người trong thực tại mới này sẽ hoàn toàn khác hẳn với thân xác trên mặt đất, như một cây to lớn khác với hạt giống khởi đầu. Cái gieo xuống là thân xác tự nhiên, cái mọc lên là thân xác thiêng liêng.

Thân xác vinh hiển không cần phải ăn uống hay những liên hệ của trần thế này. Khi ấy, con người được như thiên thần và nên con cái Thiên Chúa: họ hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và quy hướng về Người.

Tin vào Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống

Như vậy, câu trả lời của Đức Giêsu được giải thích như sau: Với cái chết, nhân loại được biến đỗi từ tình trạng thể lý, và được giải thoát khỏi những ràng buộc của trần thế. Chính Đức Kitô, Đấng sẽ chịu chết và phục sinh, loan báo sự thay đỗi này. Không chỉ có số phận của thân xác được thay đỗi, nhưng cả các tương giao xã hội: cơ chế và luật pháp sẽ chẳng còn giá trị, bởi vì chúng chỉ là thực tại tạm thời và vô ích, được sử dụng cho cuộc sống trần gian. Còn trong thực tại mới, tất cả phải biến mất, vì đó là cuộc sống vinh quang, là thời gian viên mãn, là “thời của Đức Kitô”.

Trong trình thuật này, Đức Giêsu nối kết hai ý niệm “con Thiên Chúa” và “được sống lại”. Điều này có nghĩa là con Thiên Chúa là những người được sinh ra trong đời sống vĩnh cửu, đời sống của chính Thiên Chúa.

Những người được hưởng ơn phục sinh có hai nét đặc trưng:

– Một là sự tự do của con cái Thiên Chúa. Theo thánh Phao-lô: những người con của Thiên Chúa không còn phải chịu nô lệ dưới ách lề luật, nhưng là những người hưởng tự do trong ân sủng.

– Hai là họ được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn. Nhờ sự vâng phục Thánh Thần – không hề đi ngược với tự do – họ trở nên những người sống giữa trần gian với nét độc đáo riêng của mình.

Nói thế, bởi vì Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống: Người đã tạo tác sự sống và không để sự sống phải tiêu vong; trái lại, Người duy trì sự sống qua việc làm cho kẻ chết sống lại và ban phát sự sống trường cửu. Đức Giêsu sẽ chịu chết và Người sẽ sống lại để tất cả mọi người đều được phục sinh, được tham dự vào sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa.

Khi Đức Giêsu nói: “Thiên Chúa của tỗ phụ Áp-ra-ham, của tỗ phụ I-xa-ác, của tỗ phụ Gia-cóp”, Người không chỉ gợi lại các biến cố của thời quá khứ và các nhân vật đã qua, nhưng còn cho thấy Thiên Chúa là Đấng Bất Tử, là Đấng Bảo Tổn. Tất cả những ai đã chân thành, đã tin Thiên Chúa đều được sống với Người, sống vĩnh cửu. Niềm tin chân chính vào Thiên Chúa cũng gắn liền với niềm tin vào sự sống vĩnh cửu.

Qua cuộc đối thoại giữa Vị Ngôn Sứ của sự sống vĩnh cửu và những người không tin vào sự sống này, chúng ta được nhìn thấy những viễn tượng mới, rất rộng lớn.

Con người được mời gọi tín thác vào Thiên Chúa hằng sống, Đấng luôn yêu thương và hằng mong ước cho họ được sống với Người mãi mãi. Sự sống, tình thương nơi Thiên Chúa không phải là điều bất toàn, có tính cách tạm thời; trái lại đó là sự sống, là tình thương trọn vẹn, vĩnh cửu. Bởi vì Người là Đấng Hằng Sống và là Tình Yêu. Không nhận điều đó tức là không tin Người là Đấng Toàn Năng, và coi Thiên Chúa như bất cứ ngẫu tượng nào khác.

Ngoài ra, con người được kêu gọi vượt qua những giới hạn của tình trạng gia đình, nghề nghiệp, xã hội; đổng thời họ được kêu gọi vượt qua những biên giới của tình yêu trần thế, để ngay từ cuộc sống nơi trần thế, họ đã khởi đầu cho những tương giao mới, đạt tới tầm mức của con cái Thiên Chúa sẽ được hoàn tất trong cuộc sống mai sau.

Như vậy, với Đức Giêsu, cái chết không còn là một kết thúc, nhưng là khởi đầu cho cuộc sống mới, cuộc sống đích thực, cuộc sống vĩnh cửu.

Hạnh phúc cho những ai, trong những mối tương giao nhân loại, đã bắt đầu kiến tạo thực tại vĩnh cửu này. Bởi vì ngay từ bây giờ, họ đã khám phá ra sự thật của mối tương giao mới, mối tương giao do chính Thiên Chúa làm nảy sinh.

* * *

Lạy Thiên Chúa, Đấng sáng tạo tâm hổn,

Chúa là Đấng cho mọi loài được sống,

xin ban hạnh phúc cho chúng con.

Chúng con sống

không nhờ sức lực của chúng con

nhưng nhờ sự sống của Chúa

đang thấm nhuần cả vũ trụ.

Không phải tự sức chúng con

hoàn thành các công việc,

nhưng chính quyền năng cao cả của Chúa,

đang sống trong chúng con.

Một bạn trẻ Nhật Bản

13. Thiên Chúa của người sống–Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

Nằm trong văn mạch của một loạt tranh luận giữa Chúa Giêsu và các thủ lãnh tôn giáo tại Giêrusalem: vấn đề về quyền bính (20,1-8); nộp thuế cho Cêsar (20,20-26); Con của vua Đavít (20,41-44), đoạn tin mừng nầy bàn đến vấn đề kẻ chết sống lại (20,27-38). Chúa Giêsu đã đến Giêrusalem (19,28-40), dạy dỗ trong đền thờ (19,47-21,38; 20,1.5.37.38). Có thể phân chia đoạn thành hai phần: – Đặt vấn đề và một câu chuyện dẫn chứng (20,27-33); – Giáo huấn của Chúa Giêsu về sự sống lại (20,34-38). Những từ ngữ quan trọng của đoạn: “sống lại” (cc. 27.33.35.36) đóng khung đoạn; “con cái của Thiên Chúa” (c. 36); “Thiên Chúa của sự sống” (c. 38); “chết” (cc. 28.30.31.32.36); “kẻ chết” (cc. 35.37.38).

Người thuộc phái Sađucêô đặt vấn đề kẻ chết sống lại với Chúa Giêsu (c. 27). Họ xuất hiện lần duy nhất ở đây trong Tin mừng Luca, và vài lần trong sách Tông đồ Cộng vụ (4,1; 5,17; 23,6-8). Nhóm Sađucêô là những con cháu của Zadok (x. 2 Sam 8,17; Ezk 40,46; 43,19). Họ là những tư tế trong đền thờ Giêrusalem. Đối với họ, chỉ có Torah bằng văn tự mới có giá trị. Giáo huấn về sự sống lại không tìm thấy trong Sách Luật của Môsê, mà chỉ thấy ở những sách khác, và không được dạy rõ ràng (x. Gióp 19,26; Tv 16,9.11; Is. 26,19; Tv 6,5; 88,10.11; 115,17; Hc 9,4–10; Is. 38,18, 19). Do đó, họ thấy không nhất thiết phải tin vào điều nầy; trong khi đó, người Pharisêô lại tin có sự sống lại (Cv 23,8). Từ “sự sống lại”, anastasis, Luca dùng trong tin mừng để bàn về vấn đề sống lại của kẻ chết (x. 14,14; 20,27.33.35.36). chỉ trong sách Công vụ tông đồ, từ nầy mới được dùng để chỉ sự sống lại của Chúa Giêsu (Cv 1,22; 2,31; 4,2.33; 17,18; 26,23). Luca dùng động từ “chỗi dậy” (24,6.34) thay vào đó.

Người Sađucêô đưa ra lý chứng từ luật Môsê về việc lấy chị dâu để có con cho anh mình (20,28; Đnl 25,5; Kn 38,8). Luật nầy quy định là nếu người anh lấy vợ, chết đi mà không có con nối dòng, người em kế tiếp phải lấy chị dâu ấy. Người con sinh ra đầu tiên được kể là con của anh mình. Câu chuyện người Sađucêô đưa ra là có tới bảy anh em. Ai cũng như nhau là lấy người phụ nữ ấy và không có con trước khi chết. Hậu quả “không có con” nầy làm cho việc sống lại trở nên phi lý, vì người phụ nữ nầy sẽ là vợ của ai lúc ấy (20,29-33).

Trong phần hai, Chúa Giêsu trả lời cho vấn đề sống lại (cc. 34-38): – Một số đặc tính trong cuộc sống của những người sống lại (cc. 34-36); – Trích dẫn sách của Môsê để minh chứng Thiên Chúa của sự sống lại (cc. 37-38).

Trong phân đoạn 20,34-36, Luca phân biệt “con cái của đời nầy” (c. 34) và “con cái của Thiên Chúa” hay “con cái của sự sống lại” (c. 36); cũng như phân biệt giữa “con cái sự sáng” và “con cái đời nầy” (16,8). Giữa hai thế giới nầy có những khác biệt của chúng. Việc “cưới vợ gả chồng” (c. 34) là cần thiết để lưu tồn sự sống con người trên trần gian nầy (cả hai động từ “cưới” “gả” đều ở thì hiện tại). Trong cuộc sống của những người sống lại từ cõi chết, sẽ không có việc cưới gả nữa (c. 35). Động từ “xét xứng đáng” đi với động từ “đạt đến” chỉ Thiên Chúa phán xét trước khi cho ai vào sự sống lại (c. 35). Câu 36, “gar”, “vì”, đưa ra giải thích: “Không thể chết nữa”; nên việc cưới gả không còn tồn tại nữa. Như thế, cưới gả, trong đó bao hàm việc sinh con, là để khỏi phải chết. Khi không chết nữa, con người nên ngang hàng với thiên thần; họ cũng là “con cái của Thiên Chúa”. Từ “isangelos”, có nghĩa là “bằng thiên thần” (x. Mc 12,25). “Bằng thiên thần” có nghĩa họ là “con cái của Thiên Chúa”, như thiên thần được gọi là “thiên thần của Thiên Chúa” (2:9). Họ được sống trong vinh quang của Thiên Chúa (9,26), và hiện diện trước mặt Người (x. 12,8-9; 15,10). Như các thiên thần con người sẽ luôn sống trong thông hiệp với Thiên Chúa là Đấng không bao giờ chết trong cuộc sống mới (c. 38). Họ là con cái của Người, của sự sống lại, nên họ không thể chết (c. 36a). Vậy, việc cưới gả chỉ cho cuộc đời nầy, không ở đời sau.

Trong phân đoạn thứ hai 20,37-38, Luca đưa ra một dẫn chứng về việc Thiên Chúa làm cho “chỗi dậy từ những kẻ chết” (c. 37a). Và sau khi chứng minh, Luca đi đến kết luận là “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là kẻ sống” (c. 38b). Dẫn chứng lấy từ Sách Luật của Môsê, vì người Sađucêô chỉ tin vào đó. Khi trích dẫn, Luca đã không trích dẫn trực tiếp câu “Ta là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac và Thiên Chúa của Giacóp” (Xh 3,6. 15-16), mà đặt lời nầy vào miệng ông Môsê. Luca làm Môsê trở thành người nói lại lời nầy để chứng minh có việc kẻ chết sống lại (c. 37): “Về việc kẻ chết được làm cho chỗi dậy từ kẻ chết, Môsê cho biết trong chuyện bụi gai, khi ông nói…”. Động từ “nói”, ở thì hiện tại, chỉ ông vẫn đang nói. Khi hiện ra với Môsê, Thiên Chúa nhận mình là Thiên Chúa của cha ông; đồng thời cũng là Thiên Chúa của ba đời tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp. Chỉ một Thiên Chúa ấy thôi. Môsê xác nhận là “Chúa”, kurios, mà mọi người đang tôn thờ chính là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac và Thiên Chúa của Giacóp”. Các tổ phụ đã qua đi, Chúa nầy vẫn còn tồn tại.

Kết luận (c. 38): Theos, Thiên Chúa, đặt ở vị trí nhấn mạnh. Luca muốn khẳng định quyền năng của Thiên Chúa. Người không bất lực trước sự chết như người Sađucêô tưởng nghĩ; sự chết được nhắc đến nhiều lần trong đoạn nầy. Trái lại, là Thiên Chúa Hằng Sống (Cv 14,15), Người đã làm cho các tổ phụ sống lại. Họ đang sống. “Zaōn” chỉ những người đang sống sau khi đã chết (24,5; Cv 10,42). Thiên Chúa nầy của các tổ phụ (Cv 5,30) cũng làm cho Chúa Giêsu “chỗi dậy” (24,6.34; Cv 3,15; 4,10; 5,30). Đó là bằng chứng hiển nhiên nhất của sự sống lại. Luca còn thêm: “Vậy tất cả đang sống trong Người” (c. 38b). Có nhiều cách hiểu khác nhau về câu ngắn nầy, tùy theo định nghĩa từ “tất cả” ám chỉ ai, và thể datif của “autō”, “cho Người” hay “trong Người”? Văn mạch có thể giúp xác định những điều nầy. Phân từ hiện tại “zōvtōv”, được dùng như một danh từ chỉ “những người đang sống”; đó là các tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp vừa được đề cập ở câu trước (c. 37). “Tất cả” là các tổ phụ. Họ là những người đang sống, và sống “trong Thiên Chúa”, bởi vì sự sống của họ tùy thuộc vào Thiên Chúa. Vậy, Thiên Chúa là Đấng làm cho kẻ chết sống lại, nên tất cả đều phải sống trong Người.

Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa của sự sống, nên con cái của Người cũng là con cái của sự sống lại. Hãy sống như người có sự sống của Thiên Chúa trong chính mình và có niềm tin vào sự sống lại đời sau.

14. Chúa Nhật 32 Thường Niên–Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 32 Thường Niên Năm C thắp sáng một trong những vấn đề căn bản nhất của đức tin chúng ta: “Kẻ chết sống lại”.

2Mcb 7: 1-2, 9-14

Sách Ma-ca-bê quyển hai thuật lại cuộc tử đạo anh dũng của bà mẹ và bảy người con. Họ chấp nhận hy sinh sự sống đời này, vì họ tin chắc rằng Chúa sẽ cho họ được sống lại muôn đời.

2Tx 2: 16-3: 5

Thánh Phao-lô cầu nguyện cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca để họ gặp thấy ở nơi Chúa Giêsu niềm an ủi bất diệt và niềm tin vững mạnh trong những thử thách.

Lc 20: 27-38

Tin Mừng của thánh Lu-ca thuật lại cuộc tranh luận của Chúa Giêsu với nhóm Xa-đốc về vấn đề kẻ chết sống lại.

BÀI ĐỌC I (2Mcb 7: 1-2, 9-14)

Sách Ma-ca-bê quyển hai được viết bằng Hy-ngữ quãng năm 124 tCn. Sách này không kể những biến cố lịch sử tiếp theo sau sách Ma-ca-bê quyển một, nhưng đúng hơn trong lời tựa của mình, tác giả cho biết ông chỉ “thu gom lại” thành một cuốn duy nhất từ một tập sách gồm năm cuốn sách do công trình biên soạn của ông Gia-xon người Ky-rê-nê nào đó (x. 2: 23). Nhân vật này chúng ta không biết chút gì về ông ngoài việc ông là một kiều Do thái mộ đạo chịu ảnh hưởng Hy-lạp và có thể ông viết ở A-lê-xan-ri-a Ai-cập.

Sách Ma-ca-bê quyển hai đưa ra những cái nhìn rất sâu sắc về lòng tin của dân Ít-ra-en vào thời kỳ vua Hy-lạp là An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê chủ trương hy lạp hóa toàn thể đế quốc của ông bằng cách tiêu diệt niềm tin của dân Do thái. Đoạn trích hôm nay thuật lại một phần cuộc tử đạo anh dũng của người mẹ và bảy người con. Cuộc bách hại khủng khiếp này nêu bật niềm tin vào cuộc phục sinh thân xác của người công chính và cuộc tạo dựng từ hư không.

1. Cuộc phục sinh thân xác của người công chính

Sách Đa-ni-en đã khai mở rồi: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ chỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời” (Đn 12: 2). Sách Ma-ca-bê quyển hai tái khẳng định cách mạnh mẽ cuộc sống sau khi chết liên quan đến những người bị bách hại và “phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong cuộc đời đạo hạnh” (2Mcb 12: 45). Câu chuyện về cuộc tử đạo của bảy anh em và bà mẹ của họ tỏa ánh hào quang rực rỡ của niềm hy vọng này (2Mcb 7: 9, 11, 14, 23, 29, 36). Đối với những kẻ bách hại và quân vô đạo, họ “sẽ không thoát khỏi án phạt của Thiên Chúa toàn năng, là Đấng thấu suốt mọi sự” (2Mcb 7: 35).

2. Cuộc tạo dựng từ hư không (ex nihilo)

Lời của bà mẹ khuyên đứa con út của mình trong cảnh bị tra tấn vì đạo: “Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy” (2Mcb 7: 28). Đây là lời khẳng định mạnh mẽ nhất và dứt khoát nhất về cuộc tạo dựng từ hư không.

BÀI ĐỌC II (2Tx 2: 16-3: 5)

Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Trong đoạn trích hôm nay, thánh Phao-lô cầu nguyện cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca để họ được gặp thấy ở nơi Chúa Giêsu niềm an ủi bất diệt và niềm tin vững mạnh trong mọi thử thách.

1. Niềm an ủi bất diệt (2: 16-17)

Thánh Phao-lô đã cố làm yên lòng các tín hữu Thê-xa-lô-nica bằng giáo huấn rõ ràng của mình. Tuy nhiên, thánh nhân nhận ra rằng giáo huấn vẫn chưa đủ. Thánh nhân cầu nguyện để họ gặp thấy niềm an ủi ở nơi Chúa Giêsu Ki-tô mà họ đã tín thác cuộc đời của họ vào Ngài, và ở nơi Thiên Chúa là Cha của họ. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban cho họ niềm an ủi “bất diệt”, nghĩa là niềm an ủi không thuộc vào thế giới này nhưng vào vương quốc Thiên Chúa, vì thế, niềm an ủi này được chính Thiên Chúa bảo đảm.

2. Niềm tin vững mạnh trong mọi thử thách (3: 1-5)

Ở đây chúng ta thoáng thấy tấm lòng của một nhà truyền giáo không biết mệt mõi, mong ước phổ biến Tin Mừng để mọi người thấy được tình yêu của Thiên Chúa tuyệt diệu đến mức độ nào. Buồn thay, không phải mọi người đều tin, nhưng Thiên Chúa vẫn trung tín. Thánh Phao-lô tin tưởng rằng Ngài sẽ làm cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca thêm vững mạnh trong những thử thách mà họ đang phải gánh chịu.

Khi “truyền lệnh” cho họ (3: 4), thánh Phao-lô nhấn mạnh giáo huấn của thánh nhân xuất phát từ Chúa Ki-tô Phục Sinh, Đấng đã ủy quyền cho thánh nhân giảng dạy cho họ (x. 1Tx 2: 13; 4: 2, 11; cũng 2Tx 3: 6, 10, 12).

Kiểu nói: “biết yêu mến Thiên Chúa” (3: 5) bao gồm cả tình yêu Thiên Chúa dành cho họ, lẫn tình yêu họ dành cho Thiên Chúa, tương tự với kiểu nói: “biết chịu đựng như Đức Ki-tô”. Thánh nhân đang quy chiếu đến cả sự chịu đựng của Đức Giêsu giữa những đau khổ và thử thách, lẫn đến sự dự phần vào đức hạnh mà Đức Giêsu đã ban cho các môn đệ Ngài.

TIN MỪNG (Lc 20: 27-38)

Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc tranh luận của Chúa Giêsu với nhóm Xa-đốc về kẻ chết sống lại (20: 27-38). Cuộc tranh luận này được đặt vào trong bối cảnh Chúa Giêsu thi hành sứ vụ sau cùng của Ngài tại Giê-ru-sa-lem theo đó những nhóm có thế lực trong dân Ít-ra-en, lần lượt đến gặp Đức Giêsu và luân phiên đặt ra cho Người những câu hỏi thâm hiểm để mong hãm hại Người (19: 47-21: 38).

1. Vấn nạn của nhóm Xa-đốc (20: 27-33)

Đối thủ của Đức Giêsu lần này là nhóm Xa-đốc. Nhóm Xa-đốc tuy không đông bằng nhóm Pha-ri-sêu nhưng rất giàu có và có thế lực. Về phương diện trần thế, họ là giai cấp thống trị cộng tác chặt chẽ với chính quyền Rô-ma chiếm đóng, vì muốn bảo vệ của cải và duy trì địa vị của mình

Về phương diện tôn giáo, nhóm Xa-đốc chỉ chấp nhận thẩm quyền của bộ Ngũ Thư mà thôi. Dựa trên lối giải thích Ngũ Thư của họ, họ không tin kẻ chết sống lại. Nhóm Xa-đốc này cũng như bao người Do thái chính thống đều tin chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, nhưng việc Thiên Chúa có cho con người được sống lại hay không thì thuộc về thẩm quyền của Ngài. Vì thế, nhóm này không tin vào sự sống lại mai sau, bởi vì không có bằng chứng nào về một niềm tin như thế được tìm thấy trong bộ Ngũ Thư. Hơn nữa, không có kinh sư nào, những ngươi thông luật, giải đáp cho vấn nạn mà họ nêu lên.

Căn cứ theo luật Lê-vi (x. Đnl 25: 5tt.), nếu một người qua đời mà không có người nối dõi tông đường, thì người em phải cưới chị dâu ấy để cho anh mình có người con nối dõi tông đường. Dựa trên luật này, họ hư cấu một câu chuyện bảy anh em lần lượt lấy một người vợ để có người con nối dõi tông đường, nhưng đều chết mà không có con; vậy nếu có sự sống lại thì ai sẽ là chồng của người phụ nữ này. Như vậy, niềm tin vào sự sống lại thật là lố bịch.

2. Câu trả lời của Chúa Giêsu (20: 34-38)

Chúa Giêsu quả quyết có sự sống lại, đồng thời cũng giải thích những đặc tính của sự sống lại: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng”. Như thế, theo Chúa Giêsu, lập luận của nhóm Xa-đốc về sự sống lại như vậy thì thật là quá duy vật. Theo lập luận này, cuộc sống lại chỉ là tiếp tục cuộc sống trần thế, dù được nâng cao lên đến mức độ nào. Nếu hiểu cuộc sống lại như vậy là giới hạn quyền năng của Thiên Chúa và coi thường tình yêu của Ngài: “Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”.

Để bác bỏ lập luận của nhóm Xa-đốc dựa trên bộ Ngũ Thư để phủ nhận niềm tin vào sự sống lại, Chúa Giêsu viện dẫn sách Xuất Hành (Xh 3: 2, 6), một trong năm quyển sách được gọi là Ngũ Thư, để cho thấy cách hiểu của nhóm Xa-đốc thật sự sai lầm trầm trọng. Dựa trên Xh 3: 2, 6 trong đó Thiên Chúa tỏ mình ra cho ông Mô-sê: “Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp”, Chúa Giêsu kết luận: “Thiên Chúa không là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”, có nghĩa rằng Thiên Chúa vẫn thường hằng có mối liên hệ với ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, dù các vị tổ phụ này đã chết từ lâu rồi. Vì thế, dù những người công chính này đã chết trên bình diện thể lý, họ vẫn đang sống, thật sự sống trong Thiên Chúa và mong chờ sự sống lại.

3. Barclay đã đưa ra một lời nhận xét rất xác đáng như sau: “Có thể chúng ta cảm thấy đoạn Kinh Thánh này thật khô khan. Nó đề cập đến những vấn đề có vẻ sôi bỏng trong thời Chúa Giêsu với những lý luận mà một kinh sư cho là rất mạnh, nhưng người thời nay lại không thấy thế. Nhưng từ chỗ khô khan đó, ta rút được một chân lý lớn lao cho những ai giảng dạy hoặc muốn làm chứng về Ki-tô giáo. Chúa Giêsu đã dùng những lý luận mà dân chúng đang nghe Người có thể hiểu được, Người nói với dân chúng theo ngôn ngữ riêng của họ, Người gặp gỡ họ trên chính mảnh đất của họ và chính đó là lý do tại sao giới bình dân đã nghe Người cách thích thú. Đôi lần, chúng ta đọc những sách đạo hoặc về thần học, ta thừa nhận rằng những gì được viết quả là đúng, nhưng không thể đem trình bày cho những đầu óc mới hiểu biết ít, và họ lại là đa số trên thế giới cũng như trong Hội Thánh. Chúa Giêsu đã dùng ngôn ngữ và lý luận mà dân chúng có thể và đã hiểu được, Người gặp gỡ họ trong ngữ vựng của họ. Chúng ta sẽ giảng đạo, làm chứng cho họ Chúa tốt hơn nhiều, khi học tập đường lối phổ biến Tin Mừng của chính Chúa Giêsu” (“Tin Mừng theo Thánh Lu-ca”, 238-239).

15. Thiên Chúa của kẻ sống

Con người sẽ sống lại, đó là một niềm tin đã có nơi phần đông người Do Thái. Thực vậy, anh em Macabê đã thưa lên với vị vua đang tính giết hại họ như sau: Vua chỉ cất được mạng sống chúng tôi ở đời này, nhưng Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi là những kẻ đã chết vì lề luật của Ngài, được sống lại trong cuộc sống đời đời. Vào thời Chúa Giêsu, người biệt phái cũng tin như vậy.

Tuy nhiên cũng có một số người thuộc phái Saducêô, gồm những nhà quý tộc hoặc tầng lớp cao trong hàng tư tế, lại không tin có sự thưởng phạt đời sau, không tin có sự sống lại. Đối với họ việc con người sống lại chỉ là chuyện khôi hài.

Đoạn Tin Mừng cho thấy họ đã tìm cách tranh luận với Chúa Giêsu về vấn đề này vì biết rằng Chúa Giêsu rao giảng sự sống lại. Để chống lại niềm tin tưởng ấy, họ đã đưa ra một thí dụ tiêu biểu từng được sử dụng trong các cuộc tranh cãi để học quê đối phương. Câu chuyện được đưa ra hẳn không phải là một sự thật cho bằng một giả thuyết: Một người phụ nữ có tới bảy đời chồng hợp pháp, và cuối cùng thì người phụ nữ ấy cũng chết. Nếu như có sự sống lại, thì người phụ nữ ấy sẽ là vợ của ai đây? Chúa Giêsu đã trả lời: Nếu Thiên Chúa đã làm bạn với các tổ phụ như Abraham, Isaac và Giacóp, thì không phải chỉ là làm bạn trong chốc lát mà là đời đời. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là Thiên Chúa của kẻ sống.

Thực ra ở đây Chúa Giêsu không tả rõ sự sống lại như thế nào, điều Ngài muốn khẳng định đó là Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Và trong suốt cuộc đời, qua những lời giảng dạy nhất là qua thái độ cư xử, Ngài muốn cho người ta hiểu rằng Thiên Chúa là Đấng ban sự sống, là Đấng làm cho sống. Và ngay cả những kẻ tội lỗi, Ngài cũng không muốn họ phải hư đi, trái lại, Ngài muốn họ hối cải để được sống và sống một cách dồi dào. Những phép lạ chữa lành bệnh tật, làm cho kẻ chết sống lại có thể được coi là dấu chỉ về một Thiên Chúa yêu chuộng sự sống. Và khi Chúa Giêsu đón nhận cái chết trên thập giá, thì cũng chính là lúc Ngài chiến thắng sự chết để cho sự sống được lên ngôi.

Là kẻ sống thực ra không phải là chuyện dễ. Bởi vì có những kẻ hiện còn đang thở, đang ăn, đang sống nhưng thực ra họ đã chết, bởi lẽ họ đã không thể có một phản ứng gì mới mẻ. Những kẻ sống rập theo chữ viết, rập theo những điều đã quy định từ ngàn xưa đến độ không còn thấy những gì xảy ra trước mắt. Như thầy Lêvi vì mải mê tuân giữ một nghi tiết của lề luật, nên đã làm như thể không có người bị cướp đánh trọng thương và vất bên lề đường, hay nói cách khác đã không có được một phản ứng thích hợp với hoàn cảnh hiện tại. Những kẻ ấy không còn là những người sống.

Còn chúng ta thì sao. Là những người còn đang sống, chúng ta có biết phản ứng và thích nghi với hoàn cảnh hay là chúng ta cũng chỉ là một thây ma đã chết từ lâu?

16. Sự sống lại

Phái Saddu thuộc trào lưu văn hoá Hy Lạp, đề cao tiền của, thế lực và thể xác. Phái này tuy ít, nhưng lại gồm những tay anh chị trong giới quý tộc hay tư tế cao cấp. Phái này thành lập vào thời Ba Tư thống trị Do Thái và chạy theo ngoại bang. Dưới thời đế quốc Lamã, họ có nhiều uy lực chính trị và tôn giáo. Dân chúng Do thái không có cảm tình với nhóm này vì nếp sống và quan điểm của họ. Sử gia Flaviô viết: Những người Saddu thường cứng cỏi ngay cả với anh em cùng phái và bất lịch sự trong cách giao tế với người đồng hương cũng như ngoại bang.

Về tôn giáo, phái này chỉ nhận có Ngũ Kinh của Maisen, khinh bỏ tập tục của nhóm biệt phái. Nếu họ có giữ tập tục nào thì chỉ để che mắt và để có thể liên hệ với dân Do Thái. Họ không tin Thiên Chúa quan phòng, không tin linh hồn bất tử. Linh hồn chết làm một với thân xác. Họ càng không tin kẻ chết sống lại, cho nên họ đưa luật Lêvi ra để chất vấn Chúa về vấn đề hôn nhân.

Họ bịa ra câu chuyện một thiếu phụ có 7 đời chồng cùng chết không con nối dõi. Rồi thiếu phụ đó cũng chết. Vậy thì ngày sống lại ai sẽ là chồng của thiếu phụ ấy. Đặt vấn đề như vậy họ cho là Chúa sẽ thất thế, hoặc phải chấp nhận chế độ đa phu hoặc sẽ có tranh chấp xô xát sau khi sống lại. Nhưng Chúa đã chỉ cho họ thấy quan điểm của họ lầm lạc. Ngày sống lại sẽ chấm dứt mọi liên hệ hôn nhân trần thế. Ngày ấy dòng giống nhân loại không cần phải đông thêm nữa và đời sống lúc ấy là linh thiêng như thiên thần. Để chứng minh điều đó, Chúa Giêsu đã dựa vào chính Ngũ Kinh của Maisen để lập luận: Thiên Chúa đã thề rằng Người là Chúa của Abraham, Isaac, Giacob cho đến đời đời. Người Do Thái tin rằng ba tổ phụ nay vẫn còn sống. Vậy Thiên Chúa là Chúa của người sống chứ không của kẻ chết.

Sau cái chết trần gian là đi vào cõi hằng sống. Suốt một đời thân xác và linh hồn cùng nhau phục vụ không lẽ đời sau bị tách rời để được thưởng hay bị phạt. Nếu không có sự sống lại thì sự sống trần gian còn có ý nghĩa gì? Chúng ta sống là để làm gì? Bao nhiêu đau khổ hằn ghi trên khuôn mặt như bệnh tật, tai nạn. Những bệnh nhân kinh niên như phong cùi, ung thư, mù, lao, què cụt, mà ga chủng tộc. Sống để làm gì, chịu đựng để làm gì nếu không trông mong vào sự sống lại của thân xác ngày mai. Bao nhiêu nam nữ thanh niên sống độc thân vì Nước Trời có còn dám sống và tiếp tục sống nếu bỏ đi tín điều sống lại? Bao nhiêu trẻ thơ, bao nhiêu cụ già gìn giữ sự sống từng giây phút trong một thân xác tàn phai cũng vì trông chờ vào giây phút sống lại.

Một hiện tượng ít khi chúng ta đặt vấn đề là ở đời này người ta thường đem sử dụng những gì cũ kỹ hư hỏng. Những giẻ rách vứt đi được người ta cho vào máy chế biến để trở thành những tờ bìa hay giấy báo. Những bao nylon vứt đi được người ta mua cả hàng tấn để nấu lại. Những vụn sắt, ô tô cũ, người Nhật mua về với giá rẻ mạt, họ đem nấu lại làm thành xe Toyota nổi tiếng trên thế giới. Những lon Coca, lon những bia vứt đi trở thành những đồ chơi xuất cảng. Những rác rưởi đốt bỏ nhưng sẽ trở thành phân bón. Các xương xẩu con vật đem nấu lại làm keo dán và nhiều hữu ích cho y khoa… Thật bẽ bàng cho người không tin vào sự sống lại vì như vậy thân xác họ còn kém xa những vật phế thải vì sau khi chết, người ta vội vã đem đi chôn chẳng dùng vào được việc gì cả.

Trong kinh Tin Kính chúng ta thường tuyên xưng: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Thế nhưng chúng ta phải làm gì để ngày sống lại của chúng ta sẽ là một ngày vinh quang và hạnh phúc.

17. Sống lại

“Mặt trận phía tây hoàn toàn yên tĩnh”, đó là tựa đề của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng. Cuốn tiểu thuyết này kể lại một câu chuyện thật cảm động:

Trong cuộc giao tranh giữa Đức và Pháp, một chú lính trẻ người Đức đang ngồi dưới hầm để tránh đạn, thì bất ngờ, một người lính Pháp lạc bước cũng nhảy xuống. Trước khi người lính Pháp nhận ra kẻ địch dưới hầm, thì anh đã bị chú lính Đức đâm cho mấy nhát, khiến anh ngã quỵ. Anh nằm thoi thóp chờ chết.

Chú lính Đức chăm chú nhìn vào cặp mắt sợ hãi của người lính Pháp. Chú thấy miệng của người lính này há hốc với đôi môi nứt nẻ. Chú ta liền động lòng thương, rút chai nước của mình và cho người lính thù địch ấy uống. Khi người lính ấy qua đời, chú ta cảm thấy ân hận thấm thía.

Trông thấy chiếc ví, chú ta liền mở ra xem, trong đó có bức ảnh chụp một người đàn bà và một bé gái. Chú ta bỗng nhận thấy người lính đã chết kia không còn phải là kẻ thù nữa, nhưng là một người chồng, một người cha, một người biết yêu thương như chú ta. Và điều gì đã xảy ra dưới hầm nơi chú lính Đức đối diện với người mà chú mới giết chết?

Phải chăng chú bất ngờ nhận ra bổn phận phải yêu thương đồng loại? Không phải vậy. Chú chợt nhìn thấy người từng bị xem là kẻ thù của chú bằng một ánh sáng hoàn toàn mới. Chính nhờ ánh sáng này mà chú đã thay đổi thái độ đối với người lính Pháp.

Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Như chúng ta đã biết: Nhóm Sađốc gồm những kẻ không tin có sự sống lại. Họ đã dựa vào đoạn sách Đệ Nhị Luật để đưa ra vấn nạn với Chúa Giêsu. Sách Đệ Nhị Luật viết: Khi anh em ruột ở chung với nhau mà một người chết không con, thì vợ của người ấy không được thuộc về người chồng khác ngoài nhà. Một người anh em của chồng sẽ lấy nàng làm vợ. Và đứa con trai đầu lòng sinh ra sẽ lưu danh người anh em đã chết.

Với vấn nạn này nhóm Sađốc đòi Chúa Giêsu phải có một lập trường dứt khoát. Nếu Ngài không tin có sự sống lại thì họ được thêm một đồng minh. Còn nếu Ngài tin, thì làm sao giải quyết vụ hôn nhân cho người vợ goá với bảy người anh em ruột làm chồng mình.

Dựa vào lời của Chúa, chúng ta thấy: nhóm Sađốc hiểu sai về việc sống lại, cũng như về cuộc sống mai sau. Với họ sống lại là phục hồi những điều kiện vật chất của người quá cố. Trong khi đó Chúa Giêsu lại bảo: Người sống lại sẽ giống như các thiên thần, nên không còn dựng vợ gả chồng nữa. Đối với chúng ta, vấn đề chỉ được thực sự giải quyết qua cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô, để rồi chúng ta luôn tuyên xưng: Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau.

Từ những điều vừa trình bày, chúng ta đi tới hai kết luận. Kết luận thứ nhất đó là hãy biết yêu thương giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những người thân yêu trong gia đình, như ông bà cha mẹ, anh chị em ngay từ bây giờ, lúc họ còn sống, kẻo khi sự chết đến thì đã quá muộn.

Kết luận thứ hai đó là hãy biết chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết là một tâm hồn trong sạch, không bị hoen ố bởi tội lỗi và đôi bàn tay chất đầy công nghiệp, bằng những hành động bác ái yêu thương chúng ta đã thực hiện được, nhờ đó trong ngày sau hết, chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào cuộc sống vĩnh cửu.

18. Mầu nhiệm Cánh chung–Lm. GB. Trần Văn Hào

Trong những Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội mời gọi chúng ta suy nghĩ về cuộc sống mai sau, cuộc sống mà chúng ta đang vươn hướng tới. Nghĩ về cái chết và cuộc sống mai hậu không phải là một thái độ mang vẻ bi quan, nhưng ngược lại, đây là cách thức để khơi dậy niềm hy vọng và giúp chúng ta sống cuộc sống hiện sinh cho thật ý nghĩa. Chúng ta vẫn tuyên xưng đức tin khi đọc kinh Tin kính: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”. Đó là niềm hy vọng cánh chung của mọi Kitô hữu, bởi vì chết không phải là hết. Cái chết không kết thúc cuộc sống chúng ta một cách vô nghĩa, nhưng nó chính là cửa ngõ đưa dẫn chúng ta vào cuộc sống vĩnh hằng. Đây cũng là sứ điệp mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay gợi mở.

Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Luca thuật lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và nhóm Saducêo. Nhóm này không tin có sự sống lại. Đối với họ, chết là một dấu chấm hết. Những người Saducêo đưa ra câu chuyện giả định và có tính ngụy tạo về một phụ nữ có 7 đời chồng để gài bẫy Đức Giêsu. Nếu Chúa trả lời có sự sống lại, thì không thể giải quyết vấn đề ai là chồng chính thức của người phụ nữ ấy trong cuộc sống mai sau, còn nếu Chúa trả lời không, đương nhiên họ có thêm một đồng minh. Tình thế tiến thoái lưỡng nan. Câu trả lời của Chúa Giêsu là một khẳng định chắc chắn mang tính thần khải về sự sống lại trong ngày sau hết. Tuy nhiên Ngài không nói rõ cuộc sống ấy sẽ như thế nào, vì tâm địa hẹp hòi của người Do thái lúc bấy giờchưa thể lãnh hội được chân lý của mầu nhiệm. Ngài chỉ cho họ biết rằng trong đời sống mới, con người sẽ sống như các thiên thần, không còn chuyện dựng vợ gả chồng như cuộc sống hôm nay. Chúa cũng từ từ vén mở cho chúng ta biết về thực tại cách chung. Trong cuộc sống mai hậu sẽ không còn khổ đau và chết chóc, bởi vì con người đi vào cuộc sống trường cửu.

Thời cựu ước, tư tưởng về cuộc sống mai sau rất mờ nhạt. Sách Macabê là quyển sách đầu tiên nói về sự sống lại. Bảy anh em nhà Macabê đã can đảm tiến nhật cái chết với niềm tin tưởng này. Trước khi lìa đời, họ đã nói với vua Antiôkhô: “Chúng tôi chết vì luật pháp của vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời(2Mac 7,a)” hoặc “ Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại. Còn vua, vua sẽ không được sống lại để hưởng sự sống đời đời đâu”(c.14). Sau này, khi Guiđa thắng trận và thu gom các tử thi, ông đã gom tiền gửi về Giêsusalem để dâng lễ tạ tội cầu cho những người đã chết. Tác giả thư Macabê còn chú thích thêm: “Thật thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho kẻ đã chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn(2 Mac 12,44). Niềm tin về sự sống lại mai sau được Đức Giêsu dần dần khai sáng. Thánh Phaolô đã nhắc đi nhắc lại về niềm tin này, như trong Rm chương 8; Rm 6,8; 1 C 15,20-23; 2 C4, 14-15; Pl3, 20; 2Tm2,8-13 v.v..

Mọi người đều phải chết.

Để chuẩn bị cho cuộc sống mai sau, chúng ta phải đi qua cái chết. Đây là một thực tại mà không ai có thể trốn tránh. Ngày xưa vua Tần Thủy Hoàng đã sai phái cả ngàn y sĩ tài giỏi đi khắp nơi săn lùng những thang thuốc quý để ông được trường sinh bất tử, nhưng cuối cùng ông cũng phải chết giống như mọi người. Biết bao anh hùng hào kiệt đã lẫy lừng một thời, được mọi người ca tụng như những vĩ nhân ‘đời đời sống mãi’, nhưng tất cả cũng đều đã chết. Xác của họ có đặt trong những lăng tẩm nguy nga để mọi người đến kính viếng, cũng chỉ là một nắm xương khô mà thôi. Triết học kinh điển của Hy Lạpnổi tiếng với tam đoạn luận‘Mọi người đều phải chết, Socrate là người, nên(ergo) Socrate cũng phải chết’. Tam đoạn luận ấy cũng được ứng dụng cho mỗi người trong chúng ta.

Là Kitô hữu, chúng ta chuẩn bị đón nhận cái chết như thế nào.

Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị có kể lại một giai thoại. Hồi còn bé, ban đêm ông ngủbên mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết. Giữa đêm khuya vắng, có tiếng khóc não nuột vang lên. Đứa bé sợ quá ôm chầm lấy mẹ. Nó hỏi mẹ: “Mẹ ơi, chết là gì hả mẹ”. Câu hỏi của đứa bé khiến bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời làm sao. Bà bật dậy ngồi vào bàn và mở Kinh Thánh ra đọc. Trong Tin Mừng Gioan, bà đọc thấy đoạn viết: “Trước lễ Vượt qua, Đức Giêsu biết giờ của Ngài đã đến, Ngài phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Ngài yêu thương họ đến cùng”(Ga 13,1). Gấp sách lại, bà trở về giường nói với đứa trẻ: “Con ơi, chết là trở về với Chúa Cha và yêu thương đến cùng”. Đây là khuôn mẫu từ cái chết của Chúa Giêsu để giúp chúng ta suy gẫm và chuẩn bị đón nhận cái chết nơi mình. Khi mang thân phận con người, Chúa Giêsu đã từng run sợ khi đối diện trước cái chết. Ngài sợ đến mức độ mồ hôi và máu toát ra. Tác giả thơ Do Thái đã viết: “ Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ(Dt5,7). Mọi người chúng ta cũng vậy, theo bản năng tự nhiên, ai cũng sợ hãi khi tiếp cận cái chết. Nhưng với niềm tin và lòng yêu mến, chúng ta sẽ chiến thắng. Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “Tình yêu mạnh hơn sự chết’’(Rm 8, 39). Thánh nữ Têrêsatrên giường hấp hối đã nói với các chị em trong cộng đoàn: “Em sắpchết, nhưng không phải em chết mà em đang tiến về cõi sống”.Mới đây người ta cho đăng hình một nữ tu rất xinh đẹp, lúc nào trên môi cũng nở nụ cười cho dầu đang phải chiến đấu chống lại những đau đớn do bệnh ung thư. Vị nữ tu này khi chết, trên gương mặt xinh xắn vẫn nở một nụ cười rất tươi. Người phụ nữ trẻ này đã an bình trở về với Chúa và kết thúc cuộc hành trình trần gian không một chút lưu luyến.

Kết luận:

Một linh mục nọ tổ chức tại giáo xứ một lễ an táng khá đặc biệt. Ngài báo trước từ lâu để đông đảo mọi người đến tham dự. Giữa nhà thờ ngài đặt một cỗ quan tài. Theo truyền thống, trước khi đưa thi hài ra phần mộ, quan tài được mở nắp để từng người đến tiễn biệt người quá cố lần cuối. Nhưng khi mọi người nhìn vào quan tài để xem người nằm trong đó là ai, họ không thấy gì, chỉ thấy một tấm gương lớn, phản chiếu chính khuôn mặt của họ. Vị linh mục chú thích: “ Mỗi ngày anh chị em hãy tự mai táng chính mình”.

Thiên Chúa là tình yêu. Nếu chúng ta sống sung mãn trong tình yêu, chúng ta sẽ trở nên bất tử vì được thông dự vào bản tính củaThiên Chúa, là Đấng không bao giờ chết. Đây là phương cách giúp chúng ta thực hành để đạt đến sự bất tử trong cuộc sống vĩnh hằng mai sau.

19. Hợp hoan bên Chúa – Thiên Phúc–‘Như Thầy Đã Yêu’

Trong kho tàng truyện cổ Tây phương có câu chuyện Công Chúa Ngủ Trong Rừng, như sau:

Ngày xưa, ở vương quốc hạnh phúc, nhà vua sinh được một công chúa xinh đẹp tuyệt vời. Lễ rửa tội được tổ chức linh đình, có mặt các bà tiên, mỗi bà tặng công chúa một món quà là một lời chúc tốt đẹp.

Dù không được mời, mụ phù thủy ghen tức cũng bay đến, lẩm bẩm câu chúc dữ: “Một ngày kia, cái suốt chỉ sẽ đâm vào tay công chúa và con bé sẽ phải chết!”. Nói xong, mụ bay vù qua cửa sổ. Mọi người buồn bã mất vui. May thay, vẫn còn một bà tiên tốt bụng đến trễ. Bà nói: “Ta sẽ làm nhẹ lời nguyền rủa ấy: cô bé sẽ không chết, chỉ ngủ một giấc rất dài cho tới khi một hoàng tử tốt lành, sẽ đến nắm tay kéo dậy và cô sẽ được hạnh phúc mãi mãi”.

Để đề phòng, nhà vua cấm tất cả thần dân không được dùng suốt chỉ. Nhưng một ngày kia, công chúa lên tháp canh trong lâu đài và thấy một bà lão đang khâu vá. Cô xin bà cho khâu thử. Thế là cái suốt chỉ đâm vào tay cô, cô lăn ra chết!

Người ta đặt xác cô giữa lâu đài, nhưng các bà tiên tốt bụng đã khiến mọi người trong lâu đài cùng bất tỉnh cả. Một rừng cây mọc lên che phủ lâu đài. Hoa thơm cỏ lạ bốn mùa đua nở.

Thời gian trôi đi đã ngàn năm, cho đến khi một hoàng tử lịch lãm đi săn ngang qua đó, khám phá ra lâu đài. Chàng bước vào ngỡ ngàng trước nàng công chúa xinh đẹp. Hoàng tử đã quỳ gối cầm tay công chúa, và nàng liền mở mắt chỗi dậy. Thế là hoàng tử rước công chúa về kinh thành, xin vua cha tổ chức lễ cưới linh đình.

Công chúa ngủ trong rừng chính là hình ảnh của người tín hữu an nghỉ trong ơn nghĩa Chúa. Sau một giấc ngủ dài họ được Thái Tử Bình An là chính Chúa Giêsu cầm tay nâng dậy, đưa vào tiệc cưới Nước Trời.

Chúng ta tin rằng con người sinh ra là để được sống mãi. Cái chết chỉ là ngưỡng cửa đưa vào chốn trường sinh. Một người chỉ có một cuộc sống, cuộc sống đời này sẽ quyết định số phận cho cuộc sống đời sau. Việc thiện hôm nay sẽ bảo đảm cho hạnh phúc ngày mai. Đúng như câu hát của nhạc sĩ Hoàng Văn: “Ngày mai, đang bắt đầu từ ngày hôm nay”.

Phái Xađốc, trái lại, họ không tin có sự sống đời sau, cũng chẳng tin có sự sống lại, nên hôm nay, Chúa Giêsu muốn tiết lộ một vài hình ảnh của đời sau rằng: Đời sau khác hẳn đời này. Người ta “không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng” vì con người “không thể chết nữa”, nên đâu cần sinh con để bảo tồn nòi giống, nhưng được “sống ngang hàng với các thiên thần” là ca ngợi, tôn vinh và phụng thờ Thiên Chúa. Họ được thông phần vinh quang Thiên Chúa, được dự phần vào dòng dõi của Người. Thánh Phaolô đã viết: “Việc kẻ chết sống lại cũng vậy. Gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt, gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí mà chỗi dậy là thân thể có thần khí.

Quả thật, con người được Thiên Chúa dựng nên để sống trường sinh, nhưng vì sự đố kỵ của ma quỉ mà cái chết đã nhập vào thế gian. Thánh ý của Thiên Chúa không thể mãi mãi bị ngăn chặn bởi quỉ ma, con người phải tìm lại được quyền bất tử của mình. Đó là sự sống lại của những người công chính. Lời than thở của thánh Augustinô đã nói lên nỗi khát khao của con người: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con, hướng về Chúa, nên lòng con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ an trong Chúa”.

Chúa dựng nên con người để hưởng hạnh phúc, nhưng không chỉ là hạnh phúc tạm bợ đời này, mà là hạnh phúc vĩnh hằng đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau, về với Đấng hằng đợi chờ và yêu thương ta mãi mãi. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú bên đường mà quên cùng đích cuộc đời là phải gặp được Chúa. Có những kẻ sống như thể mình không bao giờ phải chết, họ ung dung hưởng thụ những thú vui trần tục. Họ đã chết ngay khi còn đang sống. Có những kẻ sống như thể chỉ có đời này, tự điển sống của họ không có từ “đời sau”. Họ đang sống mà như đã chết.

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa, đã cho chúng con hưởng dùng hương hoa của cuộc sống cùng với bao niềm vui và hạnh phúc. Chúng con chỉ xin Chúa thêm một ân huệ này, là cho chúng con được về hợp hoan với Chúa đời đời. Amen.

20. Vấn đề kẻ chết sống lại – Veritas–‘Hãy Ra Khơi’

Các bài đọc trong Phụng Vụ hôm nay, đặc biệt là bài Tin Mừng theo thánh Luca, thánh sử muốn nêu bật cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và những người thuộc nhóm Sađốc, giúp chúng ta tin tưởng vào sự sống lại của thân xác đời sau và xác tín hơn vào tình thương cứu độ của Thiên Chúa.

Với đoạn Tin Mừng này, chúng ta cần nắm rõ và tin vào sự sống lại không đồng nhất giữa các nhóm Do thái khác nhau. Hai trong những nhóm này là nhóm Pharisêu hay còn gọi là biệt phái và nhóm Sađốc. Nhóm biệt phái là những người đạo đức, tuân giữ nhiệm nhặt những luật lệ, họ sống trong giới bình dân, phần đông gồm các ký lục, họ ít quyền hành nhưng có nhiều ảnh hưởng trong dân chúng.

Nhóm biệt phái tin linh hồn bất tử và tin có sự sống lại của thân xác, vì thế nhóm này đồng tình với Chúa Giêsu về kẻ chết sống lại. Trái lại, nhóm Sađốc là những người quí tộc Do thái thời ấy, phần đông gồm các hàng tư tế giàu có, giữ những địa vị cao nhất trong đạo Do thái. Họ lấy Ngũ Thư của Môisen làm tiêu chuẩn độc nhất về đạo lý mà những sách này không nói rõ ràng về sự sống lại, nên đối với họ linh hồn và thể xác chết là hết. Họ không tin có sự sống lại và không tin có thiên thần.

Vì vậy, trong bài Tin Mừng hôm nay những người thuộc nhóm Sađốc dựa vào luật của Môisen và tập tục của họ mà chất vấn Chúa Giêsu về sự sống lại đời sau. Họ làm như thế vừa để bắt bẻ Ngài, vừa để chống lại nhóm biệt phái, đồng thời cũng nói lên quan điểm hưởng thụ của họ. Nhưng Chúa Giêsu cũng dẫn chứng lỗi của Môisen mà cho họ thấy sự sai lầm của họ về đạo lý, đồng thời phá đổ thái độ hưởng thụ, ích kỷ của họ.

Đối với con người hiện nay, nói chung ai cũng tin vào một thế giới linh thiêng nào đó đằng sau thế giới đời này, mặc dầu có nhiều phong trào vô thần, nhưng đó chỉ là lý thuyết. Thực tế, những người tự xưng là vô thần nhưng họ vẫn hằng tưởng niệm hương hồn của những người quá cố. Thậm chí họ còn tưởng niệm và suy tôn những vị đã chết cả hằng bao thập kỷ. Nhưng cách riêng đối với Kitô hữu chúng ta, chúng ta càng xác tín hơn là sự bất tử của linh hồn và sự sống lại của thể xác.

Có câu chuyện kể rằng, một lần kia ông Vontain một triết gia vô thần đã gặp Pascal và nói rằng, ông tin linh hồn bất tử và có sự sống lại đời sau để rồi trong đời sống hiện tại ông sống khắc khổ và đạo hạnh, với mình sống nhịn nhục, chịu thua thiệt với người khác, nếu không có đời sau ông là kẻ dại dột.

Pascal đã trả lời: ông nói đúng. Ông không tin linh hồn bất tử cũng không tin có sự sống đời sau nếu sống hưởng thụ thác loạn, nhưng nếu có đời sau thì ông là kẻ dại dột và ngu xuẩn hơn tôi, vì tôi chỉ thiệt thòi tạm đời này, còn ông, ông mất cuộc sống đời đời.

Niềm tin vào sự sống lại đời sau vừa là một khát vọng, vừa là một điều khó khăn đối với con người. Khát vọng vì con người không cảm thấy bằng lòng với cuộc sống này, không thể chấp nhận những bất công còn đầy dẫy trong cuộc sống này. Đó là điều mà không bao giờ con người có thể giải quyết nổi, không bao giờ chịu đựng được sự phi lý vì những mất mát chia lìa mà cuộc sống này phải đón chịu. Khó khăn vì người ta cảm thấy chắc tâm khi đạt được những thành công, tìm thấy những bảo đảm cho cuộc sống này để mình sung sướng, mặc dù đó chỉ là tạm bợ hơn là thả mồi bắt bóng. Ở thế giới bên kia, Von-ta-in và những người Sađốc là những người muốn an tâm với những sung sướng hiện tại rõ ràng như thế.

Bài đọc 1 trong sách Macabêô, Vatiôcô và quan thần của vua và tưởng ai cũng thế nên lấy những hình phạt thể xác đe dọa các tín hữu, bắt họ phải làm những điều trái với niềm tin của họ. Niềm tin của người Kitô hữu phải là khinh chê cuộc sống này, không phải là để thả mồi bắt bóng nhưng là qui chiếu đời sống này vào Thiên Chúa. Để hoàn thành chương trình cứu độ, khi đó Người trả lại những mất mát, Người hoàn thành những khát vọng, Người nối lại những chia lìa, Người đổi những giới hạn nên một trời mới đất mới.

Người Kitô hữu ước vọng hạnh phúc đời sau không phải là người chán đời bi quan, nhưng là người tràn đầy yêu thương, sống mãnh liệt niềm tin khát vọng, thực hiện đời mình cho tốt đẹp hơn, muốn đem lại hạnh phúc cho người khác trọn vẹn hơn.

Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Xác tín điều này giúp cho người Kitô hữu vượt qua lòng ích kỷ, thắng vượt được sự nhát đảm và cảm nhận được giá trị của niềm vui đích thực, niềm vui là con cái Thiên Chúa bởi cuộc sống lại. Ước gì mỗi người chúng ta luôn xác tín niềm tin đó, niềm tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.

21. Tin vào sự sống đời sau

Đã bước vào cuộc đời này ắt có ngày chết. Đó là chân lý, đó là định luật của đời sống con người. Và như vậy, chết là lẽ thường tình của một kiếp nhân sinh. Tuy nhiên, điều mà chúng ta cần đặt ra, đó là: chết rồi sẽ đi về đâu? Bên kia cái chết là gì?

Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại một cuộc tranh luận về giáo lý giữa phái Sađốc và Chúa Giêsu. Phái Sađốc mỉa mai việc kẻ chết sống lại, còn Chúa Giêsu thì khẳng định tín điều ấy. Chúng ta chẳng cần đi sâu vào chi tiết cuộc tranh luận đó làm chi. Điều cần chúng ta quan tâm hơn là hãy suy nghĩ về niềm tin của mình. Vấn đề thực tế đối với chúng ta là chúng ta tin có sự sống lại.

Những câu hỏi như thế, nhóm Xa đốc trong trang Tin Mừng hôm nay đã đặt ra cho Chúac Giêsu. Nhân cơ hội, Chúa Giêsu đã mạc khải cho họ biết về cuộc sống mai hậu. Và đây cũng chính là câu trả lời cho mỗi chúng ta về vấn nạn về cuộc sống mai hậu.

Những người Xađốc đến gặp Chúa Giêsu để điều tra về giáo huấn của Người. Họ đặt câu hỏi dựa trên luật thế huynh để xem Chúa Giêsu nghĩ gì về việc kẻ chết sống lại. Như trong giai thoại trước (Lc 20,20-26), Chúa Giêsu giải quyết vấn nạn kiểu giải nghi theo cách bất ngờ khiến các kinh sư cũng phải thán phục. Gọi là “giải nghi”, vì ở đây câu hỏi được đặt ra không nhắm đến bản thân Đức Giêsu hoặc quan hệ của Người với giới chức Giêrusalem. Câu hỏi mang tính lý thuyết, mà rất có thể thường được người Xađốc đặt ra cho người Pharisêu.

Họ đến gặp Chúa Giêsu và hỏi Ngài một câu hỏi xem ra không thể trả lời được. Căn cứ theo luật Lêvi ( Đnl 25, 5tt.), nếu một người qua đời mà không có người nối dõi tông đường, thì người em phải cưới chị dâu ấy để cho anh mình có người con nối dõi tông đường. Dựa trên luật này, họ hư cấu một câu chuyện bảy người anh em lần lượt lấy một người vợ để có người con nối dõi tông đường, nhưng đều chết mà không có con; vậy nếu có sự sống lại thì ai sẽ là chồng của người phụ nữ này. Như vậy, niềm tin vào sự sống lại thật là lố bịch.

Những người này không những tin ở Ngũ thư mà còn tin ở các sách Tiên tri và các sách khác nữa. Đó là những sách đã khởi sự với phong trào Đệ nhị luật, tức là suy nghĩ về luật pháp. Biệt phái là các thần học gia không ngừng học hỏi và dạy dỗ luật pháp. Họ quý những sách viết sau như những sách viết trước vì họ quan niệm Lời Chúa và mạc khải sống động và triển khai không ngừng. Thế nên họ tin lời sách Đaniel cũng như lời sách Maccabê về việc phục sinh sau này.

Họ dựa vào một khoản luật của Môsê để đặt ra một câu chuyện lố bịch chế diễu Chúa Giêsu. Khoản luật đó là: Nếu một người đàn ông có vợ nhưng chưa có con mà bị chết, thì một trong các anh em trai của người chết ấy phải cưới lấy người vợ góa. Khi sinh ra đứa con đầu tiên thì phải coi đứa con đó là con của người đàn ông quá cố. Mục đích của luật này là để cho người quá cố không bị tuyệt tự, nhưng vẫn có con lưu truyền nòi giống cho mình. Phái Sađốc đã căn cứ vào khoản luật này và đặt ra một thí dụ: gia đình kia có 7 anh em trai, người thứ nhất lấy vợ rồi chết mà không có con, người thứ hai lấy người vợ góa đó nhưng cũng chết không con, tới người thứ 3, thứ tư, năm, sáu bảy đều lần lượt lấy người vợ góa đó và cũng đều chết mà không có con. Vậy khi sống lại thì người đàn bà này sẽ là vợ của ai? Ta thấy mục đích của phái Sađốc là mỉa mai cho rằng sống lại là việc phi lý, vì nếu có sống lại thì chẳng lẽ người đàn bà ấy có thể là vợ chung của tập thể 7 anh em kia sao?

Câu trả lời của Chúa Giêsu khẳng định rằng sẽ có sự phục sinh, đồng thời cũng giải thích những đặc tính của sự phục sinh mà biện luận của bè Xađốc đơn giản là loại bỏ.

Căn cứ trên bộ Ngũ Thư, bè Xađốc bài bác niềm tin vào sự sống lại. Vì thế, Chúa Giêsu viện dẫn sách Xuất Hành (Xh 3, 2-6), một trong sách thuộc về bộ Ngũ Thư, để cho thấy cách hiểu sai lầm trầm trọng của bè Xađốc. Từ Xh 3, 2-6 trong đó Thiên Chúa tự bày tỏ mình cho ông Môsê: “Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp”, Chúa Giêsu rút ra câu kết luận: “Thiên Chúa không là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”, có nghĩa rằng Thiên Chúa vẫn thường hằng có mối quan hệ với Ápraham, Ixaác và Giacóp, dù các vị tổ phụ này đã chết từ lâu rồi. Vì thế, dù những người công chính này đã chết trên bình diện thể lý, họ vẫn đang sống, thật sự sống trong Thiên Chúa và mong chờ cuộc phục sinh.

Chúa Giêsu vạch cho họ thấy sự sai lầm này, Người nói: Con cái đời này thì cưới vợ lấy chồng; còn những ai đáng hưởng đời sau và sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng… bởi họ được như thiên thần và nên con cái Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đã bắt lẽ các người Xađốc ngay trong chính lý luận của họ, khiến họ phải đuối lý không thể nào trả lời được. Vì thế, không lạ gì mà các kinh sư khi chứng kiến cuộc tranh luận đã phải thốt lên lời khen ngợi: “Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm” (20, 39).

Bề ngoài, người Xa đốc và Đức Giêsu nói về cùng mộtvì Thiên Chúa. Trong thực tế, họ quan niệm Thiên Chúa là một Đấng Tạo hóa và Nhà lập pháp lạnh lùng, đã nói tiếng nói cuối cùng khi bố trí thế giới hiện tại và khi ban Luật Môsê. Đối với Đức Giêsu, Thiên Chúa không kéo con người ra từ hư vô để rồi lại đẩy nó rơi vào hư vô. Ai đã được Thiên Chúa gọi đi tới sự sống, thì được Ngài nhắm cho đạt tới sự sống đời đời. Đối với chúng ta, mọi sự tùy thuộc Thiên Chúa. Số phận chúng ta tùy thuộc Ngài là ai, và là ai đối với loài người.

Đối với người Xađốc, Thiên Chúa là một vì Thiên Chúa của những quy định pháp lý và là một vì Thiên Chúa có quyền năng đã bị cạn kiệt khi tạo dựng thực tại trần gian như hiện có. Đấy là những tiền giả định mà Đức Giêsu không chấp nhận. Họ coi Thiên Chúa như là Đấng đã ban cho dân Israel một loạt những giới luật nhằm bảo đảm cho họ một cuộc sống tốt lành và trật tự trên mặt đất này. Ngược lại, đối với Đức Giêsu, Thiên Chúa trước khi là Thiên Chúa của các quy định, là Thiên Chúa của lòng nhân lành luôn chiếu cố đến từng con người, hướng dẫn, săn sóc từng con người. Thiên Chúa không liên hệ với con người trước tiên bằng luật lệ, nhưng bằng lòng nhân ái tỏ ra với các tổ phụ. Thiên Chúa không chỉ săn sóc các ngài trong một thời gian ngắn để rồi sau đó bỏ mặc cái ngài trong cái chết. Đã được Thiên Chúa cúi mình xuống trên mình với lòng nhân ái, con người mãi mãi được nhắm cho sống, bởi vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống.

Chúa Giêsu phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26). Thiên Chúa làm chủ sự sống. Thiên Chúa là “Thiên Chúa của kẻ sống”. Chúa là Thiên Chúa của tôi nếu tôi đang sống, nghĩa là nếu tôi còn đang ở trong tương quan mật thiết với Ngài. “Thiên Chúa của kẻ sống” có nghĩa là “đối với Người, tất cả đều đang sống”. Vậy nếu tôi cắt đứt tương quan với Người tức là tôi đã chết và như thế Thiên Chúa không thể là Thiên Chúa của tôi nữa.

Muốn được sống đời sống ấy trong ngày sau hết, mỗi kitô hữu cần phải đặt trọn niềm tin tưởng phó thác nơi Thiên Chúa. Sống tương quan mật thiết với Chúa, thực thi lời Chúa dạy, sống công bình bác ái và hãy loại bỏ những hành vi gian ác, lối sống sa hoa, những lời nói gian tà, những tình cảm bất chính, những đam mê trần tục, không chiều theo cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt.

Thật vậy, Chúa là sự sống lại và là sự sống, xin Chúa cho ta biết đi trên đường lối của Chúa, biết tin tưởng phó thác nơi lòng thương xót của Chúa để ta cũng được sống lại ngày sau hết, được nên giống các thiên thần và là con cái của Thiên Chúa.

22. Chết không phải là hết–Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Cuộc sống luôn đặt ra cho chúng ta một câu hỏi: Tôi sinh ra làm gì? Chết rồi đi đâu? Đây là câu hỏi đưa đến một hướng đi cho cuộc đời. Tin vào sự sống đời sau chắc chắn con người sẽ có cách hành xử khác với những người vô thần từ chối sự sống thần linh.

Thử hỏi, nếu không có sự sống đời sau cuộc đời này sẽ ra sao? Có lẽ người ta sẽ thấy cuộc đời là một phi lý. Sinh ra trong cuộc đời. Vật lộn với cuộc sống. Tranh đấu để tồn tại. Sống ăn ngay ở lành. Làm việc lương thiện. Chết rồi hết! Quả là bất công, vì đang khi đó có biết bao người sống chìm đắm trong lạc thú, sống vô luân họ chết cũng là chấm hết, hóa ra cuộc đời họ quá sướng, trong khi kẻ ăn ngay ở lành lại thiệt thòi vì hy sinh vô ích. Thế nên, phải có đời sau để trả lại công bằng cho cuộc sống làm người hôm nay. Người Phật Giáo thì tin vào kiếp luân hồi. Người Công Giáo thì có Cánh Chung. Chung quy đều là câu trả lời cho lý do phải sống ăn ngay ở lành trong cuộc sống làm người hôm nay.

Quả thực, nếu cuộc đời là bể khổ và chết là hết thì thật là một tai họa cho kiếp người chúng ta, đúng như một ai đó đã ngao ngán bảo rằng:

“Cây xanh thiếu lá nó xanh xanh

Biết mình thế này thà đừng sinh ra”

Vâng, nếu cuộc đời này thiếu hạnh phúc như cây xanh thiếu lá thì niềm tin cho chúng ta sự hy vọng vào một thế giới ngày mai sẽ không còn đau khổ, và không còn sự chết. Con người sinh ra không phải để chết mà là để sống. Cái chết chỉ là sự chuyển đổi một cách sống khác hoàn hảo hơn cuộc sống hôm nay.

Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã nghiên cứu đến hiện tượng gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:

– Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.

– Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).

Cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu chính là câu trả lời cho cuộc sống chúng ta. Ngài đã chết và sống lại. Sự sống Phục sinh của Ngài hoàn toàn khác lạ với cuộc sống nhân trần. Mặc dù Ngài vẫn mang thân xác con người nhưng các môn đệ đã không nhận ra Người. Sự sống Phục sinh luôn thanh thoát nhẹ nhàng. Ngài đến và đi. Ngài hiện diện chỗ này. Ngài hiện diện chỗ khác. Không gian và thời gian như dừng lại với cuộc sống Phục sinh. Ngài nói rằng Ngài về Nhà Cha. Về nơi hạnh phúc trường sinh. Nơi đó Ngài cũng dọn chỗ cho tất cả những ai tin vào Người.

Lời Chúa hôm nay cũng khẳng định cho chúng ta thấy có sự sống đời sau. Sự sống đời sau thì tròn đầy, viên mãn. Con người không còn phải lo dựng vợ gả chồng để lưu truyền nòi giống. Con người sống bất tử như các thiên thần. Vì Đấng Tạo dựng con người đã mạc khải chính mình là Thiên Chúa kẻ sống chứ không phải kẻ chết. Ngài tạo dựng chúng ta để được sống trường sinh như Ngài.

Nhưng để có một sự sống đời sau cũng đòi hỏi con người hôm nay biết sống tròn trách nhiệm làm người của mình. Chúa Giêsu luôn hoàn thành bổn phận Chúa Cha. Ngài đã tìm ý Chúa Cha để thực hiện. Ngài luôn xin vâng theo thánh ý Chúa Cha. Đây cũng là con đường tiến vào sự phục sinh vinh quang với Chúa nếu chúng ta biết đi theo con đường của Chúa. Con đường của hy sinh, từ bỏ những đam mê tội lỗi. Con đường của vâng phục theo thánh ý Chúa Cha, cho dẫu đường đời có lắm gian nguy. Con đường hẹp nhưng mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.

Ước gì niềm tin vào sự phục sinh mai sau sẽ giúp chúng ta biết sống một cuộc đời đầy ý nghĩa hơn. Một cuộc đời sống tôn thờ Thiên Chúa và phục vụ đồng loại. Một cuộc đời lương thiện và vi tha. Xin đừng vì những quyến luyến của danh lợi thú khiến chúng ta đánh mất sự sống trường sinh. Amen.

23. Nếu chết là hết?–Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Trong ngôn ngữ Việt Nam khi nói về sự chết luôn hàm ý là một sự chuyển tiếp chứ không kết thúc. Sự chết luôn là một khởi hành cho một chuyến đi mới ở một thế giới khác với chốn dương gian. Có lẽ chúng ta đã từng nghe và cũng từng nói những từ ngữ như: Từ trần, Qua đời, Băng hà, Đi rồi,… khi nói về một người chết. Những từ này theo từ điển Việt Nam được giải thích như sau:

+ Từ trần nghĩa là từ giã cõi này để đi đâu đó. Vậy là chết rồi vẫn còn đi tiếp.

+ Qua đời nghĩa là qua đời này đến một đời khác. Vậy là còn một đời nữa.

+ Băng hà nghĩa là đi qua một dòng sông, hàm ý qua sông để đến một chỗ mới.

Nhiều người còn lý luận rằng phải có sự sống sau khi chết mới có thể trả lại công bằng cho sự sống trần gian. Nếu không thì cuộc đời này là một phi lý khi người sống thiện lại bị thiệt thòi còn kẻ gian ác lại sống sung sướng hưởng lạc. Thế nên, sự sống đời sau sẽ là phần thưởng cho những ai sống tốt lành và ngược lại là hình phạt cho ai ăn ở ác nhân ác đức.

Đây cũng là lẽ công bằng vì nếu chết là hết thì người ta đâu cần sống tốt như bài thơ của ai đó đã viết:

Nếu chết là hết thì

Sống tốt để làm gì

Học hành có nghĩa chi

Phấn đấu làm việc cũng vậy thôi

Giàu có sung sướng rồi gì nữa

Văn minh lịch sự để làm gì

Danh tiếng này kia có ích chi

Lời Chúa còn dạy rằng: “Con người đã được định là phải chết một lần rồi sau đó chịu phán xét.” Chết một lần rồi sau đó chịu phán xét, đó là quy luật của Thiên Chúa đã định cho loài người. Chết một lần rồi chịu phán xét nghĩa là chết rồi không phải là hết mà còn có đời sau. Theo Kinh Thánh thì con người là cát bụi sẽ trở về với cát bụi, nhưng đó chỉ là phần thân xác. Con người chúng ta không những chỉ có thân xác mà còn có linh hồn. Linh hồn thì giống hình ảnh Thiên Chúa nên sẽ bất tử, vĩnh hằng, dầu cho cái chết thể xác có trở về với bụi tro thì linh hồn vẫn sống trường sinh bất tử.

Lời Chúa hôm nay khẳng định có sự sống đời sau. Sự sống đó không còn lệ thuộc bởi việc dựng vợ gả chồng vì con người đã tham dự vào sự sống bất diệt của Đấng hằng sống. Sự sống đó cũng không còn lệ thuộc bởi vật chất, hay bởi danh lợi thú vì con người không còn cảm thấy thiếu thốn mà đã đạt đến sự sung mãn trong sự sống thần linh của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Thiên Chúa hằng sống và con người là hoạ ảnh của Thiên Chúa, nên con người cũng được thừa hưởng sự sống thần linh của Chúa. Đây chính là niềm vui, là sự khích lệ cho cuộc đời chúng ta. Đau khổ cuộc đời này sẽ qua. Những khốn khó trần gian sẽ qua đi. Cuộc sống trần gian chỉ là tạm bợ. Sự sống thần linh mới là vĩnh cửu. Cuộc sống đó không còn những tranh chấp của danh lợi thú, không còn những khổ đau của thiếu thốn, không còn nước mắt của dòng đời bể khổ mà chỉ còn hạnh phúc viên mãn bên Chúa mà thôi.

Nguyện xin Chúa là Đấng hằng sống luôn nâng đỡ phù trì chúng ta trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.

24. Cuộc sống mai sau–Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Niềm tin vào cuộc sống mai sau đã bén rễ sâu vào tâm trí nhân loại từ rất xa xưa.

Khi mai táng người chết, các bộ tộc thời thượng cổ chôn cả những dụng cụ săn bắn chung với người qua đời vì tin rằng người quá cố sẽ tiếp tục sử dụng chúng khi bước qua thế giới khác.

Các vua chúa Trung quốc thời xưa thì cho chôn luôn cả hoàng hậu, phi tần, quân hầu… theo mình để những người này tiếp tục hầu hạ, phục dịch nhà vua trong thế giới bên kia.

Người Bana, Jarai cùng một số các dân tộc khác đang sinh sống ở Tây Nguyên tin rằng khi qua đời, người chết lại bắt đầu một cuộc sống mới, tiếp tục lao động, sản xuất, sinh sống như ở cõi trần. Vì thế, người ta chôn theo người chết nhiều vật dụng từ các loại nông cụ đơn giản như liềm để cắt lúa; rìu và xà gạt để chặt cây, phát rừng làm rẫy; xà bách để làm cỏ… đến các thứ chén bát, xoong, nồi, vàng bạc… để khi về thế giới bên kia, người chết có của mà dùng.

Tại Việt Nam, mỗi năm vào chiều ngày 30 tết, nhiều gia đình có nghi lễ đón rước ông bà cha mẹ đã qua đời về ăn tết với con cháu, trình báo lên ông bà tổ tiên những sinh hoạt quan trọng trong năm, rồi có lễ đưa tiễn ông bà vào chiều mồng 3 tết.

Những hình thức tín ngưỡng này biểu lộ niềm tin vào linh hồn, vào sự sống đời sau.

Tuy nhiên, thời xưa cũng như hiện nay, vẫn còn nhiều người không chấp nhận sự sống đời sau, trong số đó, có những người thuộc phái Xa-đốc thời Chúa Giêsu, được thuật lại trong Tin mừng thánh Lu-ca trích đọc hôm nay.

Chúa Giêsu dạy có sự sống đời sau

Khi những người thuộc phái Xa-đốc đến chất vấn Chúa Giêsu về cuộc sống đời sau, Chúa Giêsu khẳng định là có. Ngài dạy rằng có “những người được xét là đáng được hưởng phúc đời sau thì không còn chết nữa. Họ giống như các thiên thần” (Lc 20, 36).

Đặc biệt là qua dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giêsu cũng tỏ cho thấy kẻ dữ thì “phải ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng lấy sự sống muôn đời” (Mt 25,46). Như thế, Chúa Giêsu khẳng định không những có cuộc sống đời sau mà còn cho biết cuộc sống đó sẽ kéo dài “muôn đời muôn kiếp.”

Ngoài ra, Chúa Giêsu còn báo cho ta biết có sự sống đời sau khi đoan hứa rằng: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở… Thầy đi dọn chỗ cho anh em. … và Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 1-2).

Ngoài những lời dạy của mình, Chúa Giêsu còn dùng cả cuộc đời của Ngài để minh chứng cho thấy có cuộc sống đời sau.

Sự kiện Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết chứng tỏ có sự sống đời sau

Dù là Thiên Chúa quyền năng, Chúa Giêsu đã trở nên hoàn toàn là người như chúng ta, đã sống kiếp phàm trần như chúng ta, đã chết như chúng ta và qua ngày thứ ba, Ngài đã từ trong cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển. Điều nầy chứng tỏ loài người có sự sống đời sau.

Công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu chứng tỏ có sự sống đời sau

Nếu không có cuộc sống đời sau, không có thiên đàng hoả ngục, con người chết rồi là hết, và sau khi chết, ai cũng chỉ còn là tro bụi như ai… thì Chúa Giêsu chịu khổ nạn cách đau đớn và chịu chết tức tưởi, ô nhục trên thập giá để làm gì? Cái chết đau thương của Chúa Giêsu trên thập giá chẳng mang lại lợi ích gì cho bất cứ ai. Cuộc khổ nạn đó hoàn toàn vô ích. Chẳng lẽ Ngôi Hai Thiên Chúa lại chịu khổ nạn và chịu chết cách vô ích sao?

Chính vì muốn cứu loài người khỏi phải án phạt đời đời trong hỏa ngục và để cho họ được tiến vào thiên đàng hưởng phúc đời sau nên Chúa Giêsu đã không ngại trao hiến thân mình chịu chết đau thương như thế. Điều nầy chứng tỏ cuộc sống mai sau hoàn toàn có thực.

Lạy Chúa Giêsu,

Xin cho niềm tin vào cuộc sống đời sau trở thành một động cơ mạnh mẽ thúc đẩy chúng con sống tốt lành thánh thiện để mai đây được hưởng phúc đời đời.

Xin cho niềm hy vọng nầy cũng thúc đẩy chúng con hy sinh cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng dâng lễ nhiều hơn trong tháng 11 nầy để cầu cho ông bà cha mẹ và các tín hữu đã ra đi trước chúng con được về quê trời vui hưởng hạnh phúc ngàn thu.

25. Có chăng một thế giới bên kia?–‘Cùng Đọc Tin Mừng’–Lm Ignatio Trần Ngà

Sau khi Raymond Moody xuất bản quyển Life after life (Cuộc Sống sau cõi đời nầy) vào năm 1975, công chúng phương Tây ngày càng quan tâm đến kinh nghiệm cận tử (tạm gọi là trải nghiệm sự chết đi sống lại). Có một số người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã được giới chuyên môn về y khoa xác nhận là đã chết lâm sàng và thi thể của họ được đưa vào nhà xác. Nhưng sau đó họ hồi sinh.

Năm 1982, George Gallup ước lượng có khoảng 8 triệu người ở Mỹ và 23 triệu người trên toàn thế giới đã trải qua kinh nghiệm nầy.

Những năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ rất chú ý đến hiện tượng nầy. Họ đã phỏng vấn 1,370 người trải qua kinh nghiệm cận tử. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:

– Có một cuộc sống khác ở “cõi bên kia” và cuộc sống đó hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.

– Điều đặc biệt là sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không còn ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người. (Willie Hoffsuemmer).

Bác sĩ George Rodonaia, có học vị tiến sĩ trong ngành thần kinh học (về sau nầy cũng là một tiến sĩ tâm lý học tôn giáo) vốn là công dân Liên Xô, nhập cư vào Mỹ năm 1989. Ông là chuyên gia nghiên cứu về thần kinh tại Đại học Moscow. Ông đã trải qua một kinh nghiệm cận tử đặc biệt nhất được ghi nhận từ trước đến giờ. Ông được giới y khoa xác nhận là chết ngay lập tức sau một vụ tai nạn ô tô vào năm 1976, được đưa vào nhà xác và được quàn tại đó trong ba ngày. Ông vẫn không hồi sinh cho tới khi bác sĩ tiến hành giải phẩu phần bụng như một phần của công tác khám nghiệm tử thi.

Ông thuật lại trải nghiệm về cuộc sống bên kia và xác quyết rằng chính biến cố nầy khiến ông đổi đời tận gốc rễ.

Trước khi trải qua kinh nghiệm cận tử, ông vừa là bác sĩ vừa là một nhà thần kinh học, và là người theo chủ nghĩa vô thần. Vậy mà sau lần chết đi sống lại đó, ông chú tâm học bộ môn tâm lý học tôn giáo, nhận bằng tiến sĩ tâm lý học tôn giáo. Sau đó ông trở thành tín đồ thuộc giáo hội Eastern Orthodox. Hiện nay, ông là mục sư tại nhà thờ the First united Methodist ở Nederland, bang Texas, Hoa Kỳ. (nguồn: Tổ Chức Nghiên Cứu Về kinh nghiệm cận tử (Near Death Experience Reseach Foundation. (http://www.nderf.org/Vietnamese/index.htm)

Có chăng một cuộc sống đầy hoan lạc ở ‘cõi bên kia’ như những người trải qua kinh nghiệm cận tử xác quyết?

Những người thuộc phái Xa-đốc không tin điều đó. Họ dựng lên một kịch bản một vợ bảy chồng để phi bác niềm tin vào sự sống đời sau.

Chúa Giêsu Dạy Cho Chúng Ta Biết Có Sự Sống Đời Sau

Khi những người thuộc phái Xa-đốc đến chất vấn Chúa Giêsu về sự sống lại, Chúa Giêsu khẳng định có sự sống đời sau. Ngài dạy rằng có những người được xét là đáng được hưởng phúc đời sau thì không còn chết nữa. Họ giống như các thiên thần (câu 36). Rồi Ngài cũng trích dẫn sách thánh, đoạn sách nói về Thiên Chúa hiện ra với Mô-sê trong bụi gai, để chứng tỏ rằng Abraham, Isaac và Gia-cóp dù đã từ trần từ lâu nhưng vẫn còn đang sống. Mà nếu các vị nầy còn sống, tức là có sự sống đời sau.

Trong dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng, Đức Giêsu cũng tỏ cho thấy kẻ dữ thì “phải ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng lấy sự sống muôn đời.” (Mt 25,46) Như thế, Chúa Giêsu tỏ cho thấy không những có cuộc sống đời sau mà còn cho biết cuộc sống đó sẽ kéo dài “muôn đời muôn kiếp.”

Cuộc Đời Của Đức Giêsu Minh Chứng Cho Sự Sống Lại

Ngoài những lời dạy của mình, Chúa Giêsu còn dùng cả cuộc đời của Ngài để minh chứng cho thấy có cuộc sống đời sau.

* Nếu không có cuộc sống đời sau, không có thiên đàng hoả ngục, con người chết rồi là hết, chỉ còn là bụi đất… thì Chúa Giêsu chịu khổ nạn để làm gì? Máu Chúa Giêsu đổ ra hoàn toàn vô ích.

Nhưng chính vì để cứu con người khỏi hư mất và đem lại cho họ sự sống hoan lạc đời sau nên Con Thiên Chúa đã xuống trần, chịu vô vàn đau thương khổ luỵ và chấp nhận trả bằng giá máu để chuộc lấy con người.

* Chúa Giêsu, dù là Thiên Chúa quyền năng, nhưng đã trở nên hoàn toàn là người như chúng ta, đã sống như chúng ta, đã chết như chúng ta nhưng rồi Người đã từ trong cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển.

Sự kiện Chúa Giêsu sống lại chứng tỏ cho chúng ta biết có sự sống đời sau và những ai gắn bó với Chúa Giêsu, trở nên chi thể trong Thân Mình Người thì cũng sẽ được sống lại như Người.

* * *

Niềm tin vào sự sống mai sau đem lại cho chúng ta niềm vui và hy vọng. Niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc đời và cho mọi sinh hoạt của chúng ta hôm nay.

Ước gì niềm tin nầy thôi thúc chúng ta sống theo đường lối Chúa Giêsu để rồi chúng ta sẽ đạt đến nơi mà Người đã đến. Ước gì niềm hy vọng nầy cũng sẽ thúc đẩy chúng ta hy sinh cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng dâng lễ nhiều hơn trong tháng 11 nầy để cầu cho ông bà cha mẹ và các tín hữu đã ra đi trước chúng ta được về quê trời vui hưởng hạnh phúc ngàn thu.

26. Kẻ chết sống lại và sự sống đời đời–Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng

Lc 20: 27. 34-38: Một trong những chân lý nền tảng của đức tin Công giáo đó là sự phục sinh kẻ chết. Chân lý này được tuyên xưng trong Kinh Tin kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Niềm tin này dựa trên nền tảng chắc chắn là Mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô.

Một trong những chân lý nền tảng của đức tin Công giáo đó là sự phục sinh kẻ chết. Chân lý này được tuyên xưng trong Kinh Tin kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Niềm tin này dựa trên nền tảng chắc chắn là Mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Đó là niềm hy vọng, là động lực để mỗi Kitô hữu sống cách tốt đẹp, thánh đức hành trình dương thế của mình.

I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA: Lc 20,27-38

Thiên Chúa của người sống

Tin mừng ghi lại câu trả lời của Chúa Giêsu về vấn nạn của những người Sadducêô, một trong những nhóm người Do thái quan trọng thời bấy giờ. Nhóm này nghi ngờ và chối bỏ niềm tin kẻ chết sống lại. Chúa Giêsu khẳng định sự phục sinh của kẻ chết.

a. Những người Sadducêô (nghĩa là con cháu của Sadoc), thuộc chi họ Lêvi (Ed 40,46), là giai cấp tư tế. Từ lâu họ không còn giữ đạo cách thuần túy nữa. Họ chỉ chú trọng đến việc phượng tự bên ngoài và ít quan tâm đến các giáo điều tôn giáo. Họ thoả mãn với những việc phụng tự của mình. Họ phủ nhận sự sống lại mặc dầu có tin linh hồn bất tử, nhưng khi chết linh hồn ở trong Shéol. Với họ, niềm tin vào sự sống lại là chuyện do con người tạo ra chứ trong Kinh thánh (Ngũ Thư) không có xác quyết.

b. Niềm tin vào sự sống lại xuất hiện trước thời Chúa Giêsu khoảng hai thế kỷ với Đaniel (Đn 12,2-3). Chúa Giêsu không dựa vào Đaniel để trả lời vấn nạn vì những người Sadducéens không chấp nhận. Chúa Giêsu đặt nền tảng trên lề luật: Thiên Chúa là Thiên Chúa của các Tổ phụ, mà Thiên Chúa thì hằng sống, Thiên Chúa của kẻ sống. Vậy các Tổ phụ là những người nghĩa thiết của Chúa thì làm sao chết được.

c. Tuy nhiên, câu trả lời của Chúa Giêsu cũng mạc khải cho biết về cuộc sống mai hậu. Cuộc sống này hoàn toàn khác với cuộc sống tại thế này: Con cái đời này lấy vợ gả chồng, còn những người xét đáng được hưởng sự sống lại thì không, họ như các thiên thần. Cuộc sống mới là cuộc sống của con cái Chúa, con cái tự do. Không còn phải nô lệ cho sự chết và tội lỗi nữa. Con cái Chúa đã đạt đến sự bất tử nên không còn cần hôn nhân nữa. Cuộc sống mai hậu không giống và không tiếp nối cuộc sống tại thế này. Tuy nhiên, những gì người ta sống ở trần thế này lại ảnh hưởng đến việc xét xem có đáng được đi vào cuộc sống mới hay không. Ngay tại thế này người ta cũng có thể tiên hưởng, cảm nếm sự sống đời sau nếu biết sống theo ý Chúa.

II. GỢI Ý SUY NIỆM

1. Tín điều: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”, tín điều không dễ tin

Những người Sadducêô không tin vào sự sống lại. Họ đến chất vấn Chúa Giêsu về vấn đề này. Những người này không tin vì họ chưa hiểu hết vấn đề, hơn nữa, chính họ cũng chưa hiểu hết lời Kinh thánh đã được mạc khải. Thực ra mạc khải về sự sống lại chỉ có từ Thế kỷ thứ II TCN với Đaniel, và chỉ thực sự rõ ràng với sự phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu Kitô. Đây quả là một vấn nạn không thể hiểu nỗi với lý trí con người, cho dù người ta phần lớn trong nhân loại đều tin tưởng con người có linh hồn bất tử. Nhất là với thời đại ngày nay, khi mà khoa học phát triển thì lý trí con người càng tự mãn với việc cố kéo dài tuổi thọ hơn là chấp nhận có sự sống đời sau, có sự sống lại. Tìm vui hưởng cuộc sống tại thế này hơn là mơ tưởng đến cuộc sống mai hậu. Chính xã hội và con người ngày hôm nay cũng đến để chất vấn Kitô hữu về vấn nạn này như ngày xưa người Sadducêô đã chất vấn Chúa Giêsu.

Vì thế, đức tin của Kitô hữu hôm nay phải đối diện với vấn nạn không dễ giải thích vì dù sao đó cũng là mầu nhiệm đòi phải tin hơn là đi tìm lời giải thích. Chính đời sống đức tin, cung cách sống hiện tại của Kitô hữu sẽ là câu trả lời thỏa đáng cho câu chất vấn của ngày hôm nay.

2. Tin vào sự sống đời sau, một hướng đi cho đời hiện tại

Đối diện với cái chết luôn là một nỗi âu lo, ám ảnh và đáng sợ đối với tâm thức con người. Quan niệm về cái chết và sự sống đời sau như thế nào thì sẽ ảnh hưởng rõ rệt đến cuộc sống và cách sống tại thế này. Phần đông trong tâm thức và niềm tin bình dân của con người nói chung và của người Việt Nam nói riêng thì mô phỏng cuộc sống Cõi Âm cũng giống như ở dương thế vậy. Những người Sadducêô khi chất vấn Chúa Giêsu đưa ra lập luận về hôn nhân, họ cũng nghĩ tưởng đời sống mai hậu như cuộc sống hiện tại mà thôi. Tất cả đều dựa trên kinh nghiệm về cuộc sống hiện tại để suy đoán cuộc sống mai sau. Từ đó, cách sống sẽ hướng theo quan điểm này. Với người Kitô hữu thì khác, câu trả lời của Chúa Giêsu trước người Sadducêô cho thấy cuộc sống đời sau không phải như hiện tại này: không dựng vợ gả chồng, người ta sống như các thiên thần. Điều này không có nghĩa là không còn là người hay đã biến thành các thiên thần nhưng có nghĩa là con người đã thực sự được giải thoát khỏi kiếp nô lệ cho tội lỗi và sự chết, đồng thời, thoát khỏi mọi giới hạn của thế giới này để trở nên bất tử, nên con cái tự do của Thiên Chúa.

Sự sống đó triển nở từ nơi Thiên Chúa, do đó, cách sống của Kitô hữu sẽ là một cách sống được thể hiện bằng niềm lạc quan vui sống, hy vọng và tín thác vào Thiên Chúa. Họ không còn sợ chết nữa và sự chết không làm gì được họ.

3. Từ lời giải đáp vấn nạn của Chúa Giêsu đến việc tôn trọng và bảo vệ sự sống giữa xã hội hôm nay

Sống hiện tại và tin vào cuộc sống mai sau khác với cuộc sống hiện tại này không có nghĩa là cả hai đối lập nhau, tách rời nhau. Trong công trình sáng tạo, sự sống của Thiên Chúa được trao ban cho con người. Với công trình cứu độ cũng chính sự sống phát xuất từ Thiên Chúa được trao ban cho con người được cứu. Sự sống hiện tại và sự sống đời sau đều phát xuất từ một nguồn mạch duy nhất là Thiên Chúa. Sự sống của Thiên Chúa chỉ có một, nhưng cách đón nhận của con người và biểu lộ sự sống ấy của con người thì khác. Nói cách khác, sự sống ở đời này và sự sống đời sau đều xuất phát từ Thiên Chúa nên đều được yêu quí và tôn trọng như nhau. Nếu không có sự tôn trọng sự sống đời này, nếu chỉ biết hủy diệt sự sống đời này thì sẽ không bao giờ có sự sống đời sau. Ngày nay, nhân loại đang chứng kiến một nền văn minh của sự chết hoành hành thế giới: chiến tranh, hận thù, chia rẽ, nghèo đói, bất công bạo lực, phá thai, không tôn trọng quyền con người…

Với thực trạng đó, niềm tin vào sự sống lại phải là nỗ lực làm cho con người hôm nay được sống và sống dồi dào ngay từ trần thế này. Niềm tin vào sự sống lại không nhằm tìm cách chốn chạy khỏi thực tại này, nhưng là động lực để dấn thân phục vụ sự sống, bảo vệ và phát triển một nền văn hóa của tình thương và sự sống.

III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU

Mở đầu: Anh chị em thân mến, khi minh chứng có sự sống lại, Chúa Giêsu đã khẳng định Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa hằng sống những ước nguyện của chúng ta:

1. Giáo hội chính là cộng đồng đón nhận và hiệp thông sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho niềm tin vào sự sống lại luôn được loan truyền và phát triển sâu rộng trong mọi thành phần Giáo hội.

2. Nền văn minh của sự chết ngày nay đã và đang đẩy biết bao con người vào trong thảm cảnh bi thương và chết chóc. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia luôn có được sự khôn ngoan để biết đề ra những quốc sách mang lại lòng yêu mến, tôn trọng sự sống, phẩm giá và quyền sống của mọi con người.

3. Sự sống do chính Thiên Chúa ban tặng cho con người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người, mọi gia đình trong cộng đoàn chúng ta luôn biết yêu thương, chăm lo phát triển sự sống và nhân cách nơi thanh thiếu niên. Xin cho mọi người trẻ biết yêu quý sự sống của mình để tránh xa những tệ nạn hủy hoại cuộc sống và nhân cách.

Lời kết: Lạy Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương cho chúng con được làm người, làm con Chúa. Xin cho chúng con ngày càng biết phát triển sự sống của mỗi người bằng nỗ lực thăng tiến đời sống trong công bằng, bác ái và thánh thiện. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

27. Có chăng sự sống bên kia cái chết–Lm Thiện Duy

Vì biết cuộc sống này chóng qua, nên nhà thơ Xuân Diệu đã nhắc nhở mình phải “vội vàng” kẻo không còn kịp nữa:

“Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm, Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn: Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều. Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm,cho đã đầy ánh sáng, Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

Tuy nhiên cũng có người thấy chán ngán cuộc đời, muốn bỏ cuộc đời này đi:

“Ta muốn bỏ đi bỏ cuộc đời

Quay lưng nhìn lại chẳng mỉm cười

Còn gì thương nhớ còn lưu luyến

Cứ thế mà đi bỏ cuộc chơi

Thế sự quay cuồng chẳng còn chi

Có chăng mộng mị cõi hồn si

Tâm tư trống rỗng ôi chán ngán

Cười, khóc, buồn, vui…để làm gì?

Ta đã bỏ đi bỏ cuộc chơi

Bỏ đi phiền muộn bỏ sầu rơi

Mình ta lê bước mình ta bước

Mỉm cười nhàn nhạt hỡi ta ơi…!

(Thơ chán đời, Vô danh)

Từ hai khuynh hướng đó cho chúng ta thấy cuộc đời này sẽ qua đi. Có người cố bám víu, có người muốn thoát khỏi… nhưng chung quy vẫn là sự tạm bợ của cuộc sống trần gian; dù có níu kéo hoặc chối từ thì nó cũng sẽ qua đi.

Nhưng sau cuộc sống đời này là gì? Có người cho rằng: không là gì cả. Vì vậy bao lâu còn sống phải lo hưởng thụ kẻo không kịp như nhà thơ Cao Bá Quát: “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy những nực cười. Thôi công đâu chuốc lấy sự đời, tiêu khiển một vài chung lếu láo”.

Còn đức tin dạy cho chúng ta như thế nào về sự sống đời sau? Phụng vụ lời Chúa hôm nay là một câu trả lời rõ ràng nhất.

I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

1. Bài Đọc I: (2 Mcb 7, 1-2. 9-14)

Đoạn sách Macabê kể về câu chuyện bắt đạo thời vua Antiôkhô. Một người mẹ và bảy người con thà chịu chết chứ không chối bỏ niềm tin của mình. Đoạn này kể về cái chết anh dũng của bốn người con đầu. Nhà vua muốn dùng những cực hình khủng khiếp nhằm làm cho họ sợ mà bỏ Chúa, đồng thời cảnh cáo cho những người sau. Ví dụ người con thứ ba: “Vừa được yêu cầu, anh ta thè lưỡi, can đảm đưa tay ra và khẳng khái nói: “Tôi có được lưỡi này, tay này là do Chúa Trời ban. Nhưng vì luật Chúa Trời, tôi coi khinh những thứ đó” (2Mcb, 7, 11). Tuy nhiên dù hình phạt, dù giết chết vẫn không làm họ sợ. Họ vẫn mạnh dạn tuyên xưng niềm tin của mình. Đâu là lý do để họ mạnh mẽ như vậy? Thưa vì: “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại”(2Mcb, 7, 14). Nghĩa là họ tin tưởng vào hạnh phúc đời sau mà Thiên Chúa hứa ban cho họ, nên họ không sợ điều gì hết, kể cả cực hình và cái chết.

2. Tin Mừng: Lc 20, 27-38

Luca kể câu chuyện những người Sađốc không tin có sự sống đời sau, nên đến hỏi Chúa Giêsu về một điều luật của Môsê. Luật này thực ra đã bị bãi bỏ vào TK I, đó là luật nối dõi tông đường. Luật này cho phép người ta cưới chị dâu khi anh mình chết mà không có con, với mục đích để anh mình có người nối dõi. Vấn đề mà những người Sađốc đặt ra để bắt bẻ và cười nhạo Chúa Giêsu là có bảy anh em trai cùng cưới một người đàn bà, vì hễ người nào cưới xong cũng chết. Vậy thì nếu có sự sống đời sau, thì người đàn bà đó là vợ của ai? Quả thật một vấn đề hóc búa!

Qua câu hỏi này thể hiện được cái nhìn của một nhóm người, rằng không có sự sống đời sau. Và giả dụ có thì sự sống đời sau cũng tiếp nối sự sống đời này. Cũng cần sinh sản để lưu truyền nòi giống. Cũng có cưới vợ lấy chồng và mọi sinh hoạt giống như ở trần thế. Một câu hỏi khó đối với con người, nhưng với Đấng “là sự sống và là sự sống lại” thì không có gì là khó khăn.

Trước hết Chúa Giêsu khẳng định có sự sống lại, vì “Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Apraham, Isaac và Giacop” (Lc 20, 37). Thiên Chúa đã ký kết giao ước với những tổ phụ đến muôn đời, chẳng lẽ lại chấm dứt vào lúc họ chết sao? Vì vậy cái chết chỉ là chấm dứt một giai đoạn thôi, chắc chắn sẽ có sự sống đời sau, sự sống mới. Vì chúng ta tin: “Chúa vẫn trung thành mãi, dù thời gian bao năm biến thay, dù lòng ta nghi nan hững hờ, thì muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương”.

Điều thứ hai mà Chúa Giêsu tiết lộ là đời sau không như đời này: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết thì không cưới vợ và cũng chẳng lấ chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” (Lc 20, 34-36). Chính vì đời sau bất tận, chúng ta sẽ sống muôn đời nên không cần đến việc lưu truyền nòi giống nữa. Mà không cần lưu truyền nòi giống nên chẳng cần phải cưới vợ, lấy chồng nữa. Quá hợp lý!

Có người sẽ đặt vấn đề về hạnh phúc trong đời sống vợ chồng. Nếu không cưới vợ lấy chồng nữa thì làm sao hạnh phúc? Thưa khi đối diện với Thiên Chúa thì không còn hạnh phúc nào có thể sánh bì. Bài giảng trên núi của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rằng, chỉ Nước Trời, chỉ Đất Hứa, chỉ Thiên Chúa mới đem lại hạnh phúc đích thật, còn tất cả niềm vui, hạnh phúc từ tiền bạc, của cải, danh vọng, dục vọng chỉ có ngần có hạn và không phải là vĩnh cửu. Hay như lời Thánh vịnh đã nói: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi an bình”, và “ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc, đâu là an vui”.

Qua phụng vụ lời Chúa hôm nay, qua tuyên tín của Giáo hội, chúng ta tuyên xưng lại: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Có sự sống đời sau, và hạnh phúc đích thật của sự sống đời sau là được ở bên Chúa.

II. SỐNG NIỀM TIN VỀ SỰ SỐNG LẠI

Chúng ta xác tin điều đó, thì chúng ta phải sống làm sao để khi chấm dứt cuộc sống này, mình được bước vào sự sống đời sau với niềm hạnh phúc bên Chúa. Muốn được hạnh phúc bên Chúa ở sự sống đời sau thì ngay từ bây giờ chúng ta phải sống gắn bó với Chúa và gắn bó với con người, vì “ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay”.

1. Gắn bó với Chúa

Dân Do Thái trước khi vào vùng Đất Hứa phải lang thang trong sa mạc suốt 40 năm. Đó là thời gian để dân Do Thái biết rõ về tương quan của họ với Thiên Chúa, Đấng đã chọn và yêu thương họ, để coi họ có thực sự tin tưởng Người hay không. Chính trong sa mạc dân Do Thái đã gắn bó mật thiết với Thiên Chúa hơn. Thánh Phaolô nói: “Hành trình trong sa mạc của dân Israel cũng là một biểu trưng cho hành trình của chúng ta đến với Thiên Chúa”.

Vậy thì trong hành trình đức tin nơi trần thế, giống như dân Do Thái lang thang trong sa mạc, chúng ta cũng phải gắn bó với Thiên Chúa. Nghĩa là nhìn nhận Ngài là chủ tể cuộc đời ta và quy hướng mọi sự về Ngài. Những khi dân Do Thái chạy theo một thần minh nào khác là rõ ràng họ không gắn bó với Thiên Chúa của mình. Những khi dân Do Thái nổi lên đòi làm theo ý riêng mình là rõ ràng họ không gắn bó với Thiên Chúa. Và cụ thể nhất khi sụp lạy trước con bò vàng là họ đang chối từ Thiên Chúa. Khi đòi quay trở lại Ai Cập là họ đang bắt Thiên Chúa làm theo ý mình…

Sự gắn bó với Chúa trong đời sống của Kitô hữu được thể hiện qua việc họ có nhìn nhận Ngài là chủ tể cuộc đời họ không? và có sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa không?

a. Nếu nhìn nhận Ngài là chủ tể cuộc đời, thì mọi ưu tiên trong cuộc sống họ phải dành cho Ngài. Những giờ phút cầu nguyện, những thánh lễ, nhất là ngày Chúa Nhật, việc học hỏi Giáo lý và suy niệm lời Chúa, những việc đạo đức như lần chuỗi, cầu lễ… phải luôn chiếm ưu tiên trong cuộc đời họ. Nếu nhìn nhận Ngài là chủ tể thì phải sẵn sàng từ bỏ những thú vui, những lôi kéo khác như bài bạc, rượu chè, sắc dục…

Thánh Augustinô là tấm gương rõ ràng nhất về việc dành mọi ưu tiên cho Chúa. Tuy với quá khứ đầy dẫy những đam mê, những tội lỗi, nhưng từ khi biết Chúa, yêu Chúa thì Ngài đã sẵn sàng từ bỏ tất cả và đã thốt lên: “Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng”.

Vì vậy giả dụ có những ai còn những đam mê khiến họ không thể dành ưu tiên cho Chúa được, thì hãy nhớ rằng không phải là không được, mà vì chúng ta chưa yêu Chúa đủ.

b. Nếu sẵn sàng làm theo thánh ý Thiên Chúa thì phải “vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Có những đau khổ, những buồn phiền, những bệnh tật, những trái ý xảy ra, chúng ta cứ van xin hoài mà không thấy theo ý mình. Hãy biết rằng, chúng ta chỉ thấy những cái trước mắt, còn Chúa thấy cả cuộc đời chúng ta. Nếu trong những hoàn cảnh như vậy mà chúng ta chán nản, thất vọng, thậm chí bỏ Chúa luôn thì rõ ràng chúng ta không chấp nhận vác thập giá theo Chúa. Mà nếu không có thập giá thì sẽ không có Phục Sinh.

2. Gắn bó với con người

Nếu gắn bó với Thiên Chúa là yêu mến Ngài “hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn”, thì gắn bó với con người là “Yêu người như mình ta vậy”.

Yêu người như chính bản thân ta là muốn họ cũng được như ta, cũng hạnh phúc ở đời này và đời sau. Vì vậy vừa phải quan tâm đến họ trong cuộc sống này, nhưng nhất là phải quan tâm đến phần hồn phần rỗi của họ.

a. Quan tâm đến người khác trong cuộc sống này là tình người dành cho nhau. Thánh Phaolô đã nói: “Vui với người, khóc với người khóc”. Nghĩa là cùng chia sẻ với nhau mọi hoàn cảnh. Nhưng phải coi chừng đó là sự chia sẻ hay sự tò mò để thỏa mãn tính hiếu kỳ của chúng ta.

Trong thời gian qua, cả xã hội sôi sục với việc đi tìm thi thể chị Lê Thị Thanh Huyền, nạn nhân vụ phi tang xác của thẩm mỹ viện Cát Tường. Thi thể của chị Huyền thì vẫn chưa thấy đâu, tuy nhiên đã có 6 cái xác khác bị nghi là của chị. Cùng trên sông Hồng, cùng trong một địa bàn tìm kiếm, cùng là những người không may mắn, nhưng sự đối xử của xã hội với họ lại không như nhau. Có những người xung quanh vô cảm với những cái xác đó bởi vì không phải là điều mà họ đang mong đợi. Có vẻ mọi người cũng không chú ý đến những nhân vật phụ này lắm. Biết đâu trong số các thi thể trôi sông kia, ai đó cũng là nạn nhân của một vụ án dã man như chị Huyền? Nhiều người trong chúng ta đang quên đi nỗi đau của người khác mà chỉ chăm chăm đến mục đích của mình. Chúng ta đang lo lắng cho con người, lo lắng đến các giá trị của xã hội hay chúng ta chỉ đang thỏa mãn sự tò mò những câu chuyện giật gân thôi? Hãy quan tâm đến người khác, chứ đừng tìm thỏa mãn tính tò mò của bản thân mình.

b. Nhất là chúng ta phải quan tâm đến phần hồn, phần rỗi của người khác. Khi còn sống, phải nhắc nhở nhau để sống đạo tốt. Khi đã qua đời, hãy tha thứ những gì có thể tha thứ để anh chị em chúng ta giảm bớt thời gian thanh luyện.

Nói tóm lại, phụng vụ Lời Chúa hôm nay thật thích hợp khi chúng ta đang sống trong tháng 11, tháng cầu nguyện cho các Linh hồn. Chúng ta tin rằng có sự sống đời sau, để ngay từ bây giờ chúng ta lo gắn bó với Chúa và gắn bó với con người để có thể được hạnh phúc viên mãn ở sự sống đời sau, trong Nước Chúa.

28. Sự sống đời sau sẽ như thế nào?–Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Kính thưa quý OBACE

Gần đây từ Miền Bắc đến Miền Nam, xuất hiện nhiều người tự xưng mình là những “nhà ngoại cảm” có khả năng tiếp xúc với vong hồn, cõi âm, cũng từ đó rộ lên phong trào tìm hài cốt người thân. Không chỉ như thế, nhiều nhà ngoại cảm đã biến mình trở thành những thứ thày bói, thày thuốc, chữa bệnh và bói bệnh cho nhiều người, chữa bệnh bằng cách đào nhà để tìm cốt. Trong số này có cả một vài linh mục tu sĩ biến mình trở thành ông thày bà cốt. Có một thời gian Bộ Thương Binh Xã hội cũng cậy nhờ những người này để truy tìm hài cốt các liệt sĩ, tuy nhiên một vài tuần gần đây báo đài đồng loại đưa tin và lật tẩy cảc chiêu lừa của các nhà ngoại cảm này. Qua xét nghiệm ADN, thì đa số đều không chính xác, có khi là xương hoặc răng thú vật. Điều này đang khiến dân chúng hoang mang nửa tin nửa ngờ. Việc bốc cốt tìm cốt này nó không chỉ tác động trên đời sống người dân, mà nó còn tác động trên đời sống đức tin của nhiều tín hữu, và điều nguy hiểm hơn nữa là nó đang làm sai lệch giáo lý của Giáo Hội Công Giáo về Bốn Sự Sau: Sự chết, Phán xét, Thiên Đàng và Hỏa ngục.

Cho đến hiện nay thì cả những người xưng mình là vô thần, cũng không thể phủ nhận được niềm tin linh hồn bất tử và sự hiện hữu của một cuộc sống sau khi chết. Trước đây, có một thời những người duy vật, vô thần cực đoan đã phủ nhận Thiên Chúa và tất cả các thực tại thiêng liêng, và họ cho rằng con người chỉ là vật chất, chết là hết. Thế nhưng ngày nay trong thực tế, chính những người này lại đang tin vào thế giới vô hình, thế giới của các linh hồn, và tin rằng thế giới ấy đang ảnh hưởng trên thế giới trên cuộc sống hiện tại và còn ảnh hưởng trên tương lai sự nghiệp của họ. Chính vì vậy mà họ cúng bái, tin kiêng, yểm bùa và không dám xúc phạm đến xác chết, đến mồ mả của người chết.

Quả thực nếu chết là hết theo quan niệm của những người chủ trương duy vật vô thần, thì con người không khác chi con vật. Nếu con người không có linh hồn, thì cái chết của con người cũng không khác chi cái chết của con chó, và người ta cũng không cần thắp nhang tôn kính người qua đời. Niềm tin tôn giáo chỉ cho chúng ta biết rằng, con người có xác có hồn. Đặc biệt đức tin Kitô Giáo còn cho chúng ta một niềm tin chắc chắn rằng: Cái chết chỉ là một giai đoạn tạm thời, là giai đoạn chờ đợi, rồi tất cả chúng ta sẽ có ngày sống lại khi Đức Kitô trở lại.

Niềm tin kẻ chết sống lại là một niềm tin đã có từ lâu nơi các dân tộc, đặc biệt nơi những người Do Thái. Họ tin rằng những ai trung thành với lề luật của Thiên Chúa, thì sẽ được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Câu chuyện trong sách Macabê cho thấy những người Do Thái đã kiên cường với đức tin của cha ông, chấp nhận mọi đau khổ cực hình, can đảm chấp nhận cái chết, vì tin tưởng và hy vọng, Thiên Chúa sẽ trả lại cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn. Câu chuyện sách Macabê thuật lại có bảy anh em cùng chịu chết một cách đau đớn nhưg họ không sợ hãi vì tất cả họ tin rằng sau một giây lát chịu cực hình họ sẽ được gặp lại Thiên Chúa, và vì thế họ thà chịu chết chứ không chịu lỗi luật của thiên Chúa.

Trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xứng: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Niềm tin vào sự sống lại đời sau vẫn là một thách thức đối với nhiều người, khiến họ không dễ gì chấp nhận. Thời Chúa Giêsu cũng có một nhóm người thuộc phải Xadốc không chấp nhận niềm tin này, nên họ mới đặt vấn đề với Chúa Giêsu: Có một người cưới bảy anh em trai, mà cuối cùng chết đi không ai có con, thì sau này nếu như sống lại người ấy là vợ của ai trong số họ? Nhân cuộc tranh luận này, Chúa Giêsu sửa lại lối suy nghĩ của họ về cuộc sống đời sau, vì họ nghĩ rằng cuộc sống đời sau hoàn toàn giống như cuộc sống tại thế, cũng dựng vợ gả chồng, cũng xây nhà cửa, cũng có của cải vật chất…, Nhưng Chúa Giêsu cho thấy cuộc sống đời sau trổi vượt hơn hẳn cuộc sống đời này và hoàn toàn khác với cuộc sống đời này. Cuộc sống mai sau là cuộc sống không còn đau khổ chết chóc, không còn dựng vợ gả chồng, không còn tìm thú vui thể xác nữa, mà trái lại mọi người sống siêu thoát, sống hạnh phúc trong thế giới của Thiên Chúa giống như các thần linh, và họ hạnh phúc vì được ở cùng Thiên Chúa. Hạnh phúc ở đời sau mới là hạnh phúc đích thật của con người và là niềm khao khát của mọi người, khao khát được trở nên như thần linh, được gặp gỡ Thiên Chúa là cội nguồn cuộc đời của mình,

Cũng trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu cho thấy, Thiên Chúa dựng nên con người vì yêu thương và Ngài muốn cho con người được sống và sống hạnh phúc mãi mãi, và vì thế, Ngài đã “thổi hơi” thở thần linh của Ngài cho con người, hơi thở ấy chính là sức sống của Thiên Chúa được thông chia cho con người, ban tặng cho con người. Chính vì thế, những ai thuộc về Thiên Chúa, giữ gìn mối dây sự sống với Thiên Chúa thì sẽ không bị hủy diệt. Thiên Chúa mãi là Thiên Chúa của kẻ sống, và các tổ phụ như Apraham, Isaac, Giacop, hay tất cả mỗi chúng ta, là những người đón nhận sự sống từ Thiên Chúa họ vẫn đang sống, song vì sự hiện diện của họ khác chúng ta nên chúng ta không nhìn thấy họ, nhưng họ vẫn đang nhìn thấy chúng ta.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xác tin một cách chắc chắn rằng, chúng ta sẽ không bị hủy diệt vĩnh viễn, nhưng nhờ kiên trì theo Chúa ở thế gian này, chúng ta sẽ được sống mãi mãi bên Chúa, và ngày sau hết chúng ta sẽ từ bụi đất sống lại. Đồng thời xin cho chúng ta biết thể hiện niềm tin vào cuộc sống mai sau bằng cách ngay từ hôm nay sống tốt và sống đầy tràn tình yêu thương mỗi ngày, vì chúng ta chỉ có thể sống trong vương quốc của tình yêu thương khi hôm nay chúng ta biết yêu thương, và nhờ đời sống của mỗi tín hữu chúng ta làm chứng cho mọi người về niềm tin vào sự sống mai sau của chúng ta.

Thưa quý OBACE, chính vì muốn biết sự sống bên kia cái chết sẽ như thế nào nên con người từ cổ tới kim vẫn đang cố gắng để giải thích và diễn tả cuộc sống ấy, có điều là nhiều người đã không tin và không dựa vào sự mạc khải của Thiên Chúa, mà muốn tự mình hoặc là cho mình có khả năng để biết và tiếp xúc được với thế giới ấy. Những câu chuyện về ma quỷ là những câu chuyện hấp dẫn và được thêm bởi nhiều tình tiết cho ly kỳ và gợi lên sự tò mò cho nhiều người, đặc biệt gần đây những câu chuyện về vong hồn dường như đang có sức ảnh hưởng đến nhiều người.

Là kitô hữu, chúng ta tin rằng tất cả những ai trung thành với giới răn lề luật của Thiên Chúa, sống công chính thánh thiện, thì sau khi chết họ sẽ được vào hưởng vinh quang với Thiên Chúa, sống hạnh phúc đời đời, còn nhưng ai chưa xứng đáng thì phải trải qua một thời gian thanh luyện để nên xứng đáng hơn. Còn những người khi sống đã quyết liệt từ chối Đức Kitô và ân sủng của Ngài thì sau khi chết họ sẽ không được gặp Đức Kitô, không được bước vào nhà của Ngài, mà phải rơi vào nơi đầy hận thù, thất vọng và chết chóc. Như thế, thì sẽ không thể có những linh hồn đi lang thang, và cũng không ai có thể nói chuyện được với vong hồn, vì hai thế giới hoàn toàn khác nhau.

Chúng ta đừng quên rằng, ma quỷ là tên luôn gieo sự nghi ngờ, ngay từ đầu, nó đã gieo nghi ngờ cho Adam – Eva, và đến nay nó tìm mọi cách quấy phá và làm lung lạc đức tin của chúng ta. Nó có thể mượn các hình thức của vong hồn, mượn miệng của người sống để nói về đủ điều, kể cả những điều tốt lành, hoặc những điều ghê sợ để gieo vào trong chúng ta sự nghi ngờ về sự hiện diện, và quyền năng của Thiên Chúa, và khuyến khích chúng ta tin vào quyền năng và sự ly kỳ của nó, cuối cùng là chạy theo nó.

Chúng ta cũng cần nhớ rằng, ma quỷ nó không cám dỗ chúng ta ngay một lúc, nhưng nó dùng các câu chuyện được thêu dệt và truyền miệng từ người này qua người khác để dần dần đánh gục đức tin của chúng ta, nó dùng các hình thức bói toán gọi hồn, để khiến chúng ta tin vào các ông thày bà thày mỗi khi gặp khó khăn hay bệnh tật, khiến cho người tin hữu đánh mất thói quen cầu nguyện, và sống phó thác, không còn muốn lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa nữa. Trong thư thánh Phêrô, đã có lần chia sẻ: Ma quỷ thù địch của anh em, nó như sư tử rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự.

Dựa vào lời Thánh Phaolô hôm nay, để chúng ta cầu xin Đức Giêsu Kitô và xin Thiên Chúa Cha của Ngài luôn gìn giữ và bảo vệ chúng ta, xin Ngài làm cho tâm hồn chúng ta nên vững mạnh sống với niềm hy vọng phục sinh và xin đừng để chúng ta sa chứơc cám dỗ của ma quỷ. Amen.

29. Thiên Chúa của kẻ sống–An Phong

Niềm tin vào sự sống đời sau vừa là một khát vọng, vừa là một điều khó khăn đối với con người. Khát vọng vì con người không cảm thấy bằng lòng với cuộc sống này; không thể chấp nhận những bất công còn đầy dẫy mà cuộc sống này không bao giờ có thể giải quyết hoàn toàn; không thể chịu đựng được sự phi lý vì những mất mát, chia lìa của cuộc sống nhân loại phải đón nhận. Khó khăn vì người ta dễ cảm thấy chắc tâm khi đạt được những thành công, tìm thấy những bảo đảm cho cuộc sống này để mình được sung sướng; hơn là “thả mồi bắt bóng” ở thế giới nào khác.

Những người Sađốc là những người muốn an tâm với những sung sướng rõ ràng như thế; vua Antioco và quần thần của vua thì tưởng ai cũng như thế, nên lấy những hình phạt thể xác để đe dọa các tín hữu.

Niềm tin của người kitô hữu không phải là khinh chê cuộc sống này để “thả mồi bắt bóng”, nhưng luôn qui chiếu đời sống của mình vào ngày Thiên Chúa hoàn thành chương trình cứu độ; khi đó Ngài “trả lại” những mất mát, Ngài hoàn thành những khát vọng, Ngài nối lại những chia lìa, Ngài biến đổi những giới hạn nên một “trời mới đất mới”.

Người ước vọng hạnh phúc đời sau không phải là người chán đời, bi quan; nhưng là những người tràn đầy lòng yêu thương, sống mãnh liệt niềm khát vọng thực hiện cuộc đời mình cho tốt đẹp hơn, muốn mang lại hạnh phúc cho người khác trọn vẹn hơn.

Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, xác tín điều đó giúp cho người kitô hữu vượt qua lòng ích kỷ, thắng được sự nhát đảm và cảm nhận được giá trị của niềm vui đích thực, niềm vui “là con cái Thiên Chúa, bởi đã được sống lại”.

Tâm tình hiệp lễ

Vầng đông dậy, ánh hồng gieo rắc

Chốn thiên cung nhã nhạc vang hòa…

Ấy Vua Cả oai phong lẫm liệt

Cõi âm ty: hủy diệt tiêu tan.

Chân người dẫm nát tử thần

Tù nhân đau khổ ân cần đưa lên.

Đã im bặt câu than tiếng khóc,

Đã hết rồi cảnh ngục thê lương,

Sứ thần áo trắng vui mừng

Loan tin Chúa đã vui mừng phục sinh.

Xin cho mọi lòng thành hoan hỉ

Mãi muôn đời mừng lễ Vượt Qua

Tái sinh ơn nghĩa chan hòa

Vang vang khúc khải hoàn ca reo hò.

Muôn lạy Chúa Giêsu từ ái

Đấng lừng danh đánh bại tử thần.

Ngàn đời hiển trị muôn dân

Cùng Ngôi Thánh Phụ Thánh Thần quang vinh.

Thánh Thi Phục Sinh

30. Chết là về cõi sống–‘Cùng Nhau Suy Niệm”–Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Khi nhìn về kiếp nhân sinh thật mong manh và vắn vỏi, nhạc sĩ Trinh Công sơn đã từng thốt lên:

Con chim ở đậu cành tre

Con cá ở trọ trong khe nước nguồn.

Tôi nay ở trọ trần gian

Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời

Dẫu biết rằng cuộc đời này chỉ là quán trọ nhưng quán trọ cuộc đời này thật hấp dẫn, hấp dẫn đến nỗi ai cũng muốn níu kéo thời gian nơi quán trọ. Thế nhưng cho dù có bám víu, có cố công vun trồng những tiện nghi thật đầy đủ cho quán trọ cuộc đời này, rồi cũng có ngày phải từ giả tất cả để ra đi.

Vâng, thưa anh chị em, là người ai trong chúng ta cũng phải chết. Sự chết đó là định luật tất yếu của đời người. Có người chết vì bệnh tật, vì thiên tai, vì tai nạn. Có người chết khi tuổi đời còn rất trẻ và cũng có người chết khi tuổi đời đã vượt quá “thất thập cổ lai hy”. Sự chết dường như là mẫu số chung cho tất cả những con người đang sống trên mặt đất. Nhưng cái chết luôn luôn là bất ngờ, con người không bao giờ biết mình sẽ chết ngày nào và ở nơi nào?

Đôi khi chúng ta tự hỏi: Tại sao Chúa không cho mình biết trước ngày giờ mình sẽ ra đi để mình chuẩn bị đầy đủ hành trang về với Chúa? Để mình dẹp bỏ mọi công danh sự nghiệp, mọi danh lợi thú cho tâm hồn thanh thản bình an. Có lẽ Chúa không muốn điều đó. Vì Chúa vẫn tôn trọng tự do của con người, Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta: Hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào chủ sẽ về, và cũng không biết khi nào kẻ trộm đến. Chúa đòi chúng ta phải tỉnh thức, phải nỗ lực làm tròn bổn phận mà Chúa đã trao phó. Tựa như một trận đá banh, nếu biết trước tỷ số, trận bóng sẽ nhàm chán và các cầu thủ sẽ thiếu trách nhiệm với bổn phận của mình trên sân cỏ. Một trận bóng chỉ đẹp khi mà các cầu thủ đều phải tỉnh thức, phải nỗ lực làm tròn trách nhiệm và chu toàn tốt vị trị được trao. Cuộc đời con người cũng vậy. Không biết lúc nào mình sẽ phải ra khỏi sân cỏ cuộc đời, nhưng chúng ta phải sống đầy đủ trách nhiệm của mình thì cuộc đời đó mới đẹp, mới xứng đáng được lãnh thưởng ân phúc mà Chúa sẽ trao ban cho ai tín trung với ngài.

Thế nhưng, trong niềm tin kytô giáo, chúng ta tin rằng bên kia sự chết đó là ánh binh của sự phục sinh, của sự sống vĩnh cửu bên Chúa. Sự chết không phải là hết. Chết là chuyển đổi sự sống thêm sung mãn hơn. Đó là sự sống trong Thiên Chúa hằng sống. Hơn nữa, Thiên Chúa tạo dựng con người không phải để chết mà là để sống đời đời. Cái chết thể xác chỉ là hậu quả của tội Adam. Nhưng Chúa Giêsu khi mang kiếp người Ngài đã phục sinh để kéo mọi người lên cùng Chúa. Ngài đi qua cái chết để vực dậy con người khỏi cái chết trầm luân bởi lạc xa tình Chúa nay được sống trong ân nghĩa Chúa.

Lời Chúa hôm nay khẳng định có sự sống đời sau. Sự sống đó không còn lệ thuộc bởi việc dựng vợ gả chồng vì con người đã tham dự vào sự sống bất diệt của Đấng hằng sống. Sự sống đó cũng không còn lệ thuộc bởi vật chất, hay bởi danh lợi thú vì con người không còn cảm thấy thiếu thốn mà đã đạt đến sự sung mãn trong sự sống thần linh của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Thiên Chúa hằng sống và con người là hoạ ảnh của Thiên Chúa, nên con người cũng được thừa hưởng sự sống thần linh của Chúa. Đây chính là niềm vui, là sự khích lệ cho cuộc đời chúng ta. Đau khổ cuộc đời này sẽ qua. Những khốn khó trần gian sẽ qua đi. Cuộc sống trần gian chỉ là tạm bợ. Sự sống thần linh mới là vĩnh cửu. Cuộc sống đó không còn những tranh chấp của danh lợi thú, không còn những khổ đau của thiếu thốn, không còn nước mắt của dòng đời bể khổ mà chỉ còn hạnh phúc viên mãn bên Chúa mà thôi.

Nguyện xin Chúa là Đấng hằng sống luôn nâng đỡ phù trì chúng ta trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.

31. Thiên Chúa của kẻ sống–Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

Thiên đàng theo ý con người

Không có một tôn giáo nào mô tả Thiên Đàng là một khu vườn với những lạc thú vật chất và nhất là những lạc thú nhục dục tuyệt đỉnh với những cô gái trinh đẹp tuyệt vời và trẻ mãi không già… như trong kinh Koran. Người ta gọi Thiên Đàng của Hồi Giáo là Thiên Đàng của lạc thú (The Paradise of Delights) hoặc Thiên Đàng của Kinh Koran (The Koranic Paradise).

Kinh Koran (47:15) cho biết trên thiên đàng có những con sông với những dòng nước nguyên chất (rivers of purest water) những con sông sữa tươi không bao giờ hư (rivers of milk for ever fresh) và những con sông mật ong trong sạch nhất (rivers of clearest honey). Chương 56:16-39 mô tả thiên đàng là những khu vườn lạc thú (garden of delights) và mọi người lên thiên đàng đều trở thành những thanh niên trẻ mãi không già (Immortal Youth). Điều đặc biệt nhất là trên thiên đàng Hồi Giáo có các cô gái trinh đẹp tuyệt vời với những cặp mắt đen huyền vô cùng quyến rũ (the dark-eye houris).

Thiên Chúa Allah đã phán rằng: “Ta đã tạo ra các cô trinh nữ tuyệt vời đó, giữ cho họ mãi mãi trinh trắng với tình yêu nồng nàn để làm phần thưởng cho những ai làm việc phải” (We created the hourist and made them virgins, loving compassion, a reward for those on the right hand – Koran: surah 56).

Hầu hết các thanh niên Hồi Giáo cuồng tín đều ước mơ sớm được lên thiên đàng lạc thú. Con đường ngắn nhất và bảo đảm nhất để họ đạt được mục đích này là sẵn sàng tử đạo trong các cuộc thánh chiến (Jihad). Kinh Koran hứa rằng: “Những ai bị giết vì Chúa đều được vào thiên đàng lạc thú” (As for those who are slain in the cause of God, He will admit them to the Paradise of Delight). “Đừng bao giờ nghĩ rằng những người bị giết vì Chúa sẽ chết. Họ sẽ sống mãi, không có gì phải sợ hãi hoặc hối hận, hãy vui hưởng các hồng ân của Chúa. Chúa không bao giờ từ chối phần thưởng dành cho các tín đồ của Ngài” (Never think that those who were slain in the cause of God are dead. They are alive and well provided for by the Lord. Have nothing to fear or to regret, rejoicing in God’s grace. God will not deny the faithful their reward – Koran 3:169). (Internet)

Ở Trung Quốc, khi người ta khai quật những phần mộ cổ xưa, đặc biệt hạng người giàu có, và vua chúa, người ta khám phá nhiều thứ đồ mang theo để phục vụ cho “cuộc sống mai sau” được sung túc như cuộc sống trần gian họ từng được hưởng. Tần Thủy Hoàng là một thí dụ. Năm 1974, người ta bắt đầu khai quật và khám phá hàng ngàn tượng lính đất nung trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Theo tài liệu sử học Trung Quốc và những truyền thuyết được lưu truyền rộng rãi, nó giống như một phần bản đồ thành phố với những bức tường, cung điện, nghĩa trang, tức là có thể phục vụ Tần Thủy Hoàng khi ông sang thế giới bên kia.

Ở Việt Nam, cũng có tục lệ đốt “hàng mã”. Hàng mã gồm đủ loại, từ nhà lầu, xe hơi, xe Honda, đến quần áo, tiền bạc, để người chết dùng khi về cõi âm phủ.

Hóa ra, hạnh phúc trên Thiên Đàng, trong cõi vĩnh hằng, cũng tầm thường, nhàm chán đến thế sao? Và chính cái tầm thường, nhàm chán, chóng qua ấy, lại chính là sự cản trở bước tiến con người, cản trở sự vươn cao, sự thăng hoa của con người. Hạnh phúc của cuộc sống sau khi chết cũng không khác gì cuộc sống trần thế, nên phải thụ hưởng những gì ta đang có trên cõi đời này, cần gì tin những hứa hẹn xa xôi về hạnh phúc mà mình sẽ có.

Những thứ hạnh phúc giới hạn phù phiếm kiểu trần gian ấy rồi cũng dẫn đến những giới hạn của cuộc sống, những ngang trái, u sầu, những khát vọng vô tận không thể đáp ứng được…

Tình huống người vợ có bảy đời chồng mà nhóm Xa-đốc đặt ra thật khó xử nếu con người sống lại và “cuộc sống trần gian” lập lại ở… bên kia thế giới! Khi đưa ra trường hợp này, phái Xa-đốc thật có lý khi nhìn thấy bao điều rắc rối của cuộc sống sau khi con người sống lại và nếu cuộc sống “kiếp sau” này giống hệt đời người đã đi qua. Và như thế, con người phải giải quyết những gì cuộc sống trần gian còn dang dở.

Thực tế, câu chuyện mà nhóm Xa-đốc đưa ra chỉ là một trong muôn thứ vấn đề rắc rối khó giải quyết khi con người từ cõi chết sống lại và tiếp tục sống như chưa từng chết. Hãy thử tưởng tượng còn biết bao nhiêu chuyện ngang trái, biết bao nhiêu nghịch cảnh, biết bao chuyện trắng đen, con người sẽ giải quyết ra sau khi con người sống lại.

Thật, nhóm Xa-đốc cũng có lý của họ khi dựa vào đó để bảo vệ lập trường của mình. Vì họ không tìm thấy câu giải đáp cho vấn đề.

Sở dĩ họ không thể tìm thấy câu giải đáp, vì họ quan niệm sự sống lại – cõi vĩnh hằng – hay vào Thiên Đàng – không khác gì cuộc đời trần thế. Con người sau khi sống lại, vẫn là con người của ngày nào khi còn sống ở trần gian!

Thế thì, bản thân con người, sự sống lại đó có khác gì sự thức dậy từ một giấc ngủ? Và cuộc sống sau khi chết, có khác gì thay đổi một chỗ định cư?

Thiên đàng theo thánh ý Chúa.

Sự sống lại.

Cuộc hành trình của con người là một cuộc hành trình lột xác, không ngừng thay đổi và lớn lên trong Thánh Thần.

Con người phải nhận ra những tội lỗi thấp hèn của mình và sống trong tình yêu của Thiên Chúa. – Sống trong tình yêu Thiên Chúa, là sự sống lại trong Đức Giêsu Kitô. “Khi còn nô lệ tội lỗi, anh em được tự do không phải làm điều công chính. Bấy giờ anh em thu được kết quả nào, bởi làm những việc mà ngày nay anh em phải xấu hổ? Vì rốt cuộc những việc ấy đưa đến chổ chết. Nhưng giờ đây anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở thành nô lệ của Thiên Chúa; anh em thu được kết quả là được trở nên thánh thiện, và rốt cuộc sự sống đời đời. Thật vậy, lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta, là cái chết; còn ân huệ Thiên Chúa ban không, là sự sống đời đời trong Đức Kitô, Chúa chúng ta”. (Rm.6,20-23).

Chính nhờ sự sống trong Đức Kitô, con người được thanh sạch, trong trắng. Sự sống lại ấy làm con người trở nên như thiên thần. Cuộc sống của một con người mới trong một thế giới mới.

“Phép rửa nay đã cứu thoát anh em. Nhờ phép rửa này, không phải là anh em được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cầu xin Thiên Chúa ban cho mình một lương tâm trong trắng, nhờ Đức Kitô phục sinh, Đấng đã lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (1Pr.3,21-22).

Thế giới vĩnh hằng

Thiên Chúa ban sự sống cho mọi loài thụ tạo. Và sự sống bởi Ngài mà có. Ngài yêu thương sự sống mà Ngài tạo dựng ra.

Do đó, Ngài không bao giờ hủy diệt sự sống, điều mà Ngài đã tạo dựng và Ngài thấy tốt lành. “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”(Lc.20,28).

Thế giới vĩnh hằng không phải là thế giới trần gian kéo dài để tiếp nhận con người từ cõi chết sống lại. Cõi Vĩnh Hằng là một thế giới hoàn toàn mới với hạnh phúc vô biên vượt qua thứ hạnh phúc dục vọng phàm phu của kiếp người trần thế. Thế giới ấy là “Trời mới Đất mới” mà những con người đã được thanh luyện và sống lại trong Đức Kitô mới hiểu được và vào được. “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến đi mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh Giêrusalem mới, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm đến đón tân lang. Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh. 21,1-4).

Những điều cũ đã biến mất, nên không có sự tồn tại của câu chuyện “người đàn bà có bảy đời chồng” hay những “chuyện cũ” tương tự. Tất cả đã trở nên tinh tuyền trong Đức Kitô. Và tất cả chỉ còn là niềm hạnh phúc vô tận trong Tình Yêu Thiên Chúa. “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người”. (Kh.7,14).

Nếu con người vẫn còn mê ngủ trong những cuộc vui hưởng thụ trần thế, họ sẽ dừng lại hạnh phúc đời người ở giới hạn đó. Nếu con người không vươn cao lên, con người không thể nào hiểu được thế nào là sống lại và thế nào là hạnh phúc trong Đức Kitô. Không thể nào hiểu được thì không thể nào tin được con người sẽ sống lại, như những người thuộc nhóm Xa-đốc. Vì, mọi sự chỉ sáng tỏ trong ánh sáng Đức Kitô. Và Nước Trời chỉ thuộc về những ai Ngài tuyển chọn. “Kìa đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhàn lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: ‘Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta’”. (Kh.7,9-10).

Thực tế, con người ngày nay với những bước tiến khoa học, đã vươn ra rất xa. Vươn xa đến tận cuối chân trời, vươn xa vào vũ trụ mênh mông, nhưng con người đã không vươn cao được, ngược lại con người còn tuột dốc. Những giá trị đạo đức của con người ngày nay thu hẹp lại, còn những điều phi nhân phi nghĩa thì phình to ra. Con người vươn rộng chiều ngang nhưng lại thu ngắn chiều cao. Tâm hồn của con người cạn dần sức sống thiêng liêng và những giá trị nhất thời thay thế dần những giá trị cao siêu bền vững.

Thật sự, sống lại, phải được hiểu là sự sống lại trọn vẹn xác hồn. Sống dồi dào. Sống hạnh phúc. Và như thế, không có sự sống lại và không có thiên đường trong những con tim không có tình yêu Thiên Chúa ngự trị.

Lạy Chúa,

Xin cho con từng ngày luôn tỉnh thức, từng ngày đổi mới, từng ngày sống lại, trong tình yêu Chúa. Amen.

32. Đời Này và Đời Sau–R. Veritas

Bạn đã làm người được bao nhiêu năm?

Chết hết làm người, bạn dự định sẽ làm gì?

Sống và chết là điều mà mọi người đều nghĩ tới. Và hơn thế nữa, ý nghĩa và cùng đích của cuộc đời này luôn luôn là điều mà ta hằng quan tâm suy nghĩ. Ngay cả những người vô thần, dù không tin có cuộc sống ở đời sau, vẫn băn khoăn lo lắng cho những gì xảy ra sau khi ta chết: Lúc đó ta sẽ ra sao? Sẽ làm gì? Sẽ đi về đâu? Về cõi trường sinh vĩnh phúc, hay nơi trầm luân đời đời?

***

Bạn thân mến! Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc đến đời sau, nơi mà con người không còn đói khát nên sẽ không cần ăn uống. Sẽ chẳng cần lấy vợ lấy chồng. Sẽ chẳng cần sinh con để nối dõi vì người ta không bao giờ chết nữa. Nhưng đời sau vẫn là một nhiệm mầu, vì chẳng ai tận mắt nhìn thấy đời sau, chẳng ai chụp hình quay phim được thiên đàng hay hỏa ngục. Người đã chết cũng chẳng bao giờ trở lại đời này để kể cho ta nghe về đời sau. Bởi thế, nhiều người không tin có đời sau. Đời sau là chuyện ở đâu đó, hoàn toàn xa lạ, cho nên con người bị cuốn hút bởi “tham sân si” của đời này, sống như thể chỉ có đời này, bám dính lấy đời này. Thế nhưng, đời này được kết thúc bằng cái chết. Mọi người đều phải đi qua sự chết. Cái chết là cánh cửa mở ra cho con người đi vào cuộc sống mới ở đời sau. Nơi đó những người công chính không còn phải chết nữa, nhưng được sống lại, và sống đến muôn muôn đời.

Một số tôn giáo tin rằng đời người có nhiều kiếp. Giáo lý Công giáo khẳng định chỉ có một kiếp người, đó là cuộc đời ta đang sống. Chính cuộc đời duy nhất này định đoạt số phận của ta ở đời sau. Lúc đó ta sẽ ra sao? Sẽ đi về đâu? Về nơi trường sinh vĩnh phúc hay cõi trầm luân đời đời?

Chúng ta chỉ đi qua cuộc đời này một lần mà thôi, không có một cơ hội thứ hai để ta làm lại. Chính vì thế ta phải cố gắng nỗ lực sống hết mình trong cuộc đời này, để đời sau ta được sống lại với Thiên Chúa, vì “Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, và đối với Ngài, tất cả đều đang sống.” (Lc 20,38). Và đó cũng là cơ sở vững chắc cho ta mạnh dạn tuyên xưng đức tin trong kinh Tin Kính: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”.

Lời Chúa hôm nay đem lại cho ta bao niềm hy vọng. Hy vọng vì đời ta sẽ không đi trong bất định, không lạc vào hư vô, nhưng có một cùng đích là trở về với Thiên Chúa là cội nguồn của ta. Đời ta sẽ không chìm đắm trong đau khổ, nhưng sẽ vươn lên trong hạnh phúc; hạnh phúc được làm con cái Thiên Chúa, hạnh phúc được chia sẻ sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Chúng ta tin tưởng vững vàng và hy vọng chắc chắn rằng: Cũng như Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì sau khi chết, người công chính cũng được sống mãi với Đức Kitô Phục sinh và Người sẽ cho họ sống lại ngày sau hết. (GLHTCG, số 989)

Lạy Chúa Giêsu, trần gian này quá đẹp khiến con mải mê, quên mình là lữ khách. Thiên đàng lại xa xôi, chẳng có chỗ trong lòng con. Con loay hoay vun quén cho đời sống cá nhân, như thể con sẽ sống mãi trong cuộc đời này. Xin khơi dậy trong con niềm khát khao những điều cao cả trên trời, và đừng để con mãn nguyện với những cái tầm thường nơi trần thế tạm bợ này. Amen.

33. Thiên Giới–Lm Vũ Đình Tường

Mỗi lần tham dự lễ mừng ngân khánh, kim khánh kỷ niệm đám cưới đều là những dịp đặc biệt vui không phải riêng cho đôi hôn nhân mà còn cho con cháu và mọi người tham dự.

Mừng vui vì họ đã trải qua một chặng đường dài nhiều chông gai trong cuộc sống hôn nhân. Đời sống hôn nhân được ví như người đi biển hoặc như người đi trong đêm. Tựa như lênh đênh trên biển cả bởi họ không biết khi nào sóng to gió lớn ập đến. Có khi là mây đen che phủ, có khi là bão tố ầm ầm. Đời sống hôn nhân ví như người lữ hành trong đêm không biết bước kế tiếp là an hay nguy, đắt bằng hay bước bỗng, vấp té vì thế mỗi bước chân đều quan trọng. Mỗi bước chân dẫn họ đến gần ngày mừng. Họ có thể không là những vĩ nhân, bằng cấp cao, có vai vế trong xã hội. Họ là những người dân bình thường, sống âm thầm nhưng học được nghệ thuật sống, nắm được chân lí khôn ngoan cách sống. Đời sống hôn nhân của họ cũng đủ vị đắng cay, ngọt bùi nhưng họ vượt qua được những hương vị đắng chát đó. Vì thế họ đáng ca tụng, đáng chúc mừng trong ngày mừng kim khánh, ngân khánh. Hôn nhân chấm dứt khi một trong hai người qua đời nhưng tình yêu họ dành cho nhau sâu đậm nhiều năm sau đó. Tôi may mắn gặp nhiều người dù người phối ngẫu đã mất nhiều năm trước nhưng mỗi lần nhắc đến họ nhắc với tâm tình thương mến, kính trọng và nuối tiếc vì người kia ra đi quá sớm. Điều này cho thấy lời thề hôn phối ‘Những gì Thiên Chúa liên kết con người không được phân li’ trở thành huyền thoại cho một số nhưng trở thành hiện thực được cho những đôi hôn nhân biết mở rộng tâm hồn đón ơn Chúa, trung thành với lời hứa.

Nhóm Sađốc không tin có sự sống lại nhưng lại dùng điều này gày bẫy Đức Kitô. Họ hỏi Ngài về đời sống hôn nhân sau khi con người qua đời. Đức Kitô dùng dịp này để giải thích cho họ về đời sống thiên giới.

Thứ nhất có sự khác biệt về cuộc sống hiện tại và cuộc sống tương lai. Con cái đời này cưới vợ gả chồng để duy trì và nối tiếp cuộc sống trần thế nhưng điều này không cần thiết nơi cuộc sống thiên quốc. Vì sao? Vì họ sống như thiên thần. Không còn dựng vợ, gả chồng. Ngay cả đau khổ thân xác tinh thần cũng biết mất. Cuộc sống mới tràn đầy hạnh phúc và yêu thương. Vì tràn đầy hạnh phúc, yêu thương nên không cảm thấy thiếu và như thế không có những nhu cầu như cuộc sống trần thế. Mọi người sống trong thiên quốc yêu thương nhau như anh chị em cùng một đại gia đình Chúa.

Thứ hai người Sađốc hiểu sai lầm về đời sau. Vì sao? Vì họ thiếu hiểu biết về Kinh Thánh. Họ là thầy dậy muôn dân như họ tự hãnh diện nhưng lại thiếu kiến thức, hiểu biết về điều họ rao giảng. Họ dùng hiểu biết trần thế giải thích nước trời nên giải thích của họ dẫn vào ngõ cụt, không lối thoát. Đức Kitô rao giảng tình yêu Thiên Chúa là tình yêu vô vị lợi và vĩnh cửu. Kẻ tin thể hiện tình yêu này qua cử chí bác ái, yêu thương, tha thứ, công bình. Chính bác ái, yêu thương là hành trang đi với họ vào Thiên quốc.

Thứ ba, Đức Kitô xác nhận tổ phụ Abraham, Isaac, Giacob không phải đã chết như nhóm Sađốc tin mà họ còn sống bên Chúa. Họ nhận biết Thiên Chúa là Đấng sáng tạo nên họ. Chính nhận thức này xác định họ sống, và sống trong hạnh phúc và yêu thương. Chỉ riêng điểm này đủ xác định họ còn sống vì nếu họ đã chết họ sẽ không thể nhận biết Thiên Chúa. Họ nhận biết Thiên Chúa bởi họ còn sống.

Nhóm Pharisiêu xem ra có vẻ cởi mở hơn nhóm Sađốc vì Pharisiêu tin vào thiên thần và tin vào sự sống lại còn nhóm Sađốc thì không.

34. Cuộc sống mới–AM Trần Bình An

Kimberly Clark Sharp với cuốn “Sau Ánh Sáng” (After the Light) và Betty Eadie với cuốn “Ðược Ánh Sáng Ấp Ủ” (Embraced by the Light) là hai trường hợp kể lại kinh nghiệm của chính mình đã thấy gì ở bên kia cửa tử. Truyện bà Betty Eadie là một trường hợp điển hình cho tất cả những người đã chết rồi sống lại. Những gì thấy được có thể tóm lược vào 4 điểm chính:

1. Sau khi chết thì hồn ra khỏi xác nhìn thấy chính xác của mình và mọi sinh hoạt chung quanh.

2. Rồi hồn như đi nhanh qua một ống tối dài, như Bà Betty Eadie kể lại trong cuốn “Ðược Ánh Sáng Ấp Ủ” (trang 39). Ðây đúng là thung lũng bóng tối sự chết như Kinh Thánh đã từng nói tới.

3. Gặp được Nguồn Sáng: Có người cảm nghiệm thấy Chúa, có người thấy Ðức Maria như bà Betty Eadie: “Thấy tắm trong ánh sáng và thấy một bà mầu nhiệm mặc áo trắng đến cầm tay nâng đỡ tôi” (trang 191). “Bây giờ thì tôi biết có Chúa thật. Không còn chỉ tin vào một lực vũ trụ, mà tin vào một Ðấng đàng sau sức mạnh đó. Tôi thấy Ðấng đầy yêu thương đã dựng nên vũ trụ và đặt mọi khôn ngoan vào đó. Tôi thấy Ngài điều khiển trí khôn ngoan và sức mạnh này. Tôi thấy trực tiếp rằng, Chúa muốn chúng ta trở nên giống như Ngài, và Ngài cho chúng ta những đặc tính giống như Chúa, như óc tưởng tượng và sáng tạo, ý chí tự do, trí thông minh, và nhất là khả năng yêu thương…” (trang 61). “Tôi cảm nhận tình yêu của Chúa vô điều kiện, vượt trên mọi tình yêu trần thế… Và tôi được ấp ủ trong cánh tay của ánh sáng vĩnh cửu này” (trang 53).

Lúc đó hồn được soi sáng nhìn lại và thấy tất cả cuộc đời của mình hiện lên trong một nháy mắt. Ðạo Chúa vẫn gọi là phán xét. Cũng có những trường hợp, thay vì gặp vùng ánh sáng yêu thương, thì lại gặp vùng đen tối, hiện hình thành quỉ dữ trong biển lửa khủng khiếp ghê rợn, như bác sĩ Raymond Moody thuật lại trong “Ánh Sáng Muôn Năm” (Light Beyond, Bantam Books 1989, trang 26-27).

4. Ðược biến đổi: “Tất cả mọi trường hợp đều được biến đổi sau khi đã gặp ánh sáng này… Họ trở nên đầy nhiệt lực và dễ thương hơn, đôi khi họ được sức cảm thụ lạ về những lãnh vực tâm linh trước kia không hề biết” (Ðược Ánh Sáng Biến Ðổi, trang 6). Một số người biết trước truyện sẽ xảy ra trong tương lai hay ở xa “Họ ít sợ hoặc không sợ chết nữa, vì họ biết có một cuộc sống mới. (trang 9-10). (Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường, Vũ Khúc Thăng Ca)

Hôm nay, nhân dịp phái Sađốc hỏi về chuyện đời sau, Đức Giêsu tiết lộ khá chi tiết về cuộc sống mới, một khi xác đất vật hèn này qua đi.

Sinh ký tử quy

Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật. (St 1. 7) Adam và Eva sống sung sướng trong Vườn Địa Đàng. Thiên Chúa chỉ cấm không được ăn “trái của cây cho biết điều thiện điều ác. “Vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết.” (St 2, 17). Nhưng qua chước cám dỗ của ma quỷ, Adam và Eva đã bất tuân, phạm tội. Thiên Chúa đã luận phạt: “Ngươi sẽ phải đổ môi hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, sẽ trở về với bụi đất.” (St 3, 19) Vậy, cái chết là quy luật tất nhiên của con người, nhưng hình như ai cũng cố quên đi cái chết của mình.

Thánh Phaolô cũng không quên nhắn nhủ với tín hữu Corinhtô: “Chúng ta biết rằng, nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá hủy đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra”(1Cr 5,1).

Chắc chắn thân xác chỉ là nơi sống tạm, để khi chết đi phần hồn trở về nơi phát xuất. Chính là trở về với Đấng Tạo Hóa. Sách Giáo Lý Công Giáo đã công khai xác nhận chết đi là hồn lìa khỏi xác.

Vì cố quên đi, cố gắng chối bỏ cái chết, con người mới ra sức ham sống, tham sống, nỗ lực phấn đấu lo toan cho bản thân. Mới quá nuông chiều thân xác mình, thể diện, danh giá mình, mà cư xử thất nhân, thất đức với tha nhân. Mới khinh khi, rẻ rúng, chà đạp, ức hiếp kẻ khác. Mỗi khi chiều theo dục vọng, ý riêng, hay tự ái, kiêu ngạo là lúc tôi đang ngộ nhận rằng, mình sống mãi, trường sinh bất tử. Mỗi khi tôi tham lam vơ vét, gian lận, lừa đảo, tham quyền cố vị, tôi chỉ biết sống ích kỷ, hưởng thụ, cố tình quên đi, không cần biết rằng, cái chết đang âm thầm đến từng giây, từng phút, từng giờ và từng ngày.

“Biết trần gian là nơi tạm trú, sao con còn bo bo dành cho được sở này, chức kia, tiêc nuối chiếc bàn chiếc ghế,..? Con sẽ mang nó theo vào Thiên Đàng “hưởng phúc” đời đời sao? Phi lý và điên khùng.” (Đường Hy Vọng, số 672)

Như vậy, thân xác này chỉ là cõi tạm. Nếu cứ mù quáng, ra sức o bế, vuốt ve nuông chiều, hưởng thụ, để rồi mai này chung cuộc tan rã trở về cát bụi, thì thật là phi lý và hoài công, vô ích. Càng lo toan phục vụ cho thân xác, tôi càng xa rời tha nhân, anh chị em chung quanh, càng xa lìa Thiên Chúa. Thánh Phaolô tha thiết nhắc nhủ: “Ở trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa… Điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa”(2Cr 5,6-7).

Cuộc sống mới

Đức Giêsu đã mặc khải về cuộc sống mới. Linh hồn được siêu thoát, trong sáng như thiên thần: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa”. Vì được ngang hàng với các thiên thần.”

Đức Giêsu đã an ủi Martha trước nấm mồ Lazarô: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống và ai sống mà tin Ta thì sẽ không phải chết bao giờ.”

Qua cái chết, linh hồn mới thoát ra khỏi thân xác hư nát, bước vào cuộc sống mới. Không còn bị giới hạn trong không gian ba chiều, không còn chịu ảnh hưởng từ trường, hay trọng lực, không bị nhiễu loạn âm thanh, sóng điện, không còn trao đổi bằng ngôn ngữ hay ký hiệu, linh hồn tiếp cận một thế giói mới, siêu hình, thanh thoát và kỳ diệu, mà không ngôn từ nào có thể diễn tả chính xác.

Hiện tượng này được diễn tả phần nào qua “kinh nghiệm cận tử” (NDE) trong “Life After Life”, một cuốn sách được xuất bản năm 1975 của Raymond Moody. Ông là một bác sỹ y khoa và là tiến sĩ triết học và tâm lý học. Trong cuộc phỏng vấn với Thời báo Đại Kỷ Nguyên, Moody kể lại một bằng chứng thậm chí còn cụ thể hơn, đó là trường hợp của một linh mục và một nữ tu sĩ ở Nam Phi cùng bị tai nạn xe hơi. Tim của cả hai đã ngừng đập và sau đó là một trải nghiệm cận tử (NDE). Sau khi họ được cứu sống lại, cả hai đã kể lại trải nghiệm thoát ra khỏi cơ thể và cùng nhau đi vào ánh sáng, với các tình tiết giống hệt như nhau.

“Đối với người không biết đích, giờ chết là giờ thất vọng, vì mất tiền tài, mất khoái lạc, mất bằng hữu; trước mắt họ, toàn tối tăm, hư vô, sụp đổ. Đối với con, cuối con đường hy vọng tràn ngập ánh sáng.” (Đường Hy Vọng, số 665)

Lạy Chúa,”Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ.” (Tv 16,10). Xin thương xót linh hồn tội lỗi chúng con, được cứu độ khỏi án phạt muôn đời.

Lạy Mẹ Maria, xin biến đổi chúng con trở nên con cái Thiên Chúa thật sự. Nhờ ơn cứu độ của Chúa Giêsu, hy vọng chúng con xứng đáng là con cái sự sống lại. Amen.

35. Giống như Thiên thần–AM Trần Bình An

Cuối tháng 4 năm 1987, người ta chở bà Hary Houghton, 68 tuổi, vào bệnh viện Boston vì chứng đau tim. Bệnh nhân ngưng thở lúc 6 giờ tối, mọi cứu chữa đều vô hiệu và bác sĩ tuyên bố bệnh nhân đã chết. Xác bà được tạm đặt trong một căn phòng riêng chờ thân nhân đến làm giấy tờ tẩm liệm. Khoảng 11 giờ đêm, bà Houghton tỉnh lại bấm chuông gọi y tá. Bác sĩ trực đến khám va xác nhận bà lão đã hồi sinh. Nhớ lại những diễn tiến sau khi chết bà kể lại:

“Tôi đang ngồi nhà đọc báo thì thấy choáng váng, xây xẩm mặt mày và tự nhiên hôn mê. Khi tôi tỉnh dậy tôi cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát, chung quanh tôi là một lớp sương khói dày đặc khiến tôi bỡ ngỡ không biết mình đang ở đâu. Một lúc thì nhận thức rằng có lẽ mình đã chết. Tôi thấy mình đang đứng ngay bên cạnh giường quan sát thân thể của tôi nằm bất động trên đó. Tôi bèn lên tiếng cầu nguyện thì thấy mình dễ chịu lạ thường, lớp ánh sáng bao quanh dần dần trở nên quang đãng hơn. Một lúc sau tôi thấy thân thể nhẹ hẫng như có thể bay bổng lên được. Lúc đó ở trên cao nhìn xuống, tôi thấy một chùm chìa khóa màu đỏ của ai để trên nóc tủ thuốc. Tôi thấy mình đã đi xuyên qua trần nhà để lên lầu trên và thấy hai người y tá đang xem một trận bóng rổ trên tivi, trận đấu vừa kết thúc khi đội Los Angeles Lakers thắng Boston Celtics và một người y tá đánh cuộc thua… Tôi nghĩ đến các con của tôi và lập tức thấy mình đang đứng trước mặt đứa con gái lớn. Con gái tôi đang khóc. Mỗi khi trong người khó chịu thì lớp ánh sáng bao quanh tôi lại chuyển sang một màu đen tối, nhầy nhụa khiến tôi sợ hãi. Hai đứa con đang bàn việc tôi đã không chịu mua bảo hiểm nhân thọ…. Tôi không biết sẽ đi đâu. Tôi chẳng có thân nhân hay bạn bè nào cả. Hình như tôi đã sống một cách ích kỷ, không giao thiệp với ai và cũng không có ai là bạn thân thiết.. Tôi bắt đầu cầu nguyện và tự nhiên thấy lớp ánh sáng bao quanh bỗng sáng chói một cách lạ lùng. Tôi là một người quá tự hào về mình, quá hãnh diện về những giá trị viển vông, tạm bợ mà không hề biết rằng nhiều điều đó hoàn toàn vô giá trị khi người ta từ bỏ cõi sống nầy. Hậu quả là tôi có một đời sống khô khan, không bạn bè thân thiết, ai ai cũng muốn xa lánh tôi, ngay cả những đứa con của tôi nữa. Tự nhiên tôi lên tiếng cầu nguyện. Tự nhiên tai tôi bỗng ù đi, luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên sáng chói một cách lạ lùng, tôi thấy bình tĩnh như có một sự an ủi lớn lao nào đó vừa đến với tôi, và tôi cương quyết rằng tôi sẽ chuộc lại lỗi lầm khi xưa. Tôi chắp tay cầu nguyện Thiên Chúa hãy cho tôi một cơ hội nữa và luồng ánh sáng chung quanh tôi tự nhiên sáng chói một cách mãnh liệt khiến tôi phải nhắm mắt lại và bất chợt tôi nghe được âm thanh quen thuộc. Tôi thấy minh đang nằm trên giường bệnh viện… Tôi đã tỉnh lại.” Lời khai của bà Houghton đều được bác sĩ Elizabeth Kubler Ros và những người liên quan, xác nhận hoàn toàn đúng. (Betty Eadie, Embraced By The Light)

Lời tường thuật của bà bà Hary Houghton thêm khẳng định linh hồn luôn hiện hữu trong mỗi người. Trong Tin Mừng thánh Luca hôm nay, Đức Giêsu giải đáp con người đi về đâu sau cái chết cho đám người theo phái Sa đốc, vốn không tin có đời sau.

Linh hồn hiện hữu

Nhân câu hỏi nếu người phụ nữ phải lấy bảy anh em ruột làm chồng rồi tất cả đều chết, thì khi sống lại sẽ là vợ của ai, Đức Giêsu thẳng thắn trả lời về đời sau: “(Ai) được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng.”

Đức Giêsu đã gián tiếp xác nhận linh hồn hiện hữu trong thân xác, khi an ủi các môn đệ đừng sợ hãi những kẻ dữ hãm hại.”Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục.” (Mt 10, 28)

Sinh ký tử quy

Sống gửi thác về, sống là ở gửi tạm, chết trở về cội nguồn, Đấng Tạo Hoá. Chính vì thế, khi Chúa thương gọi tôi về, hồn tôi hân hoan như trong một giấc mơ. Miệng tôi nức vui tiếng cười, lưỡi tôi vang lời ca hát, ngàn dân tung hô, tôi thật vinh phúc.” (Lm Kim Long, Ngày Về 1)

Hội Thánh cũng dạy rằng, linh hồn bất tử, (Cđ Latran 1513) không hư mất khi lìa khỏi xác trong giờ chết, và sẽ tái hợp trở lại với thân xác trong ngày phục sinh cánh chung. (GLHTCG, số 366)

Linh hồn tuy không hình hài, nhưng vẫn nhận biết mọi sự qua tư tưởng, trở nên siêu nhiên như các thiên thần. “Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần.”

Ngày cánh chung

“Những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết.” Thánh Luca gọi đó là “Ngày Của Chúa,” ngày phán xét chung, Đức Giêsu còn hoa mỹ gọi là “mùa gặt” trong dụ ngôn cỏ lùng, tất cả các linh hồn được xét xử công minh để thưởng phạt.

“Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Vậy, như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào, thì đến ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy…Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ.”(Mt 13, 39-43)

Hoặc như trong dụ ngôn tiêc cưới, chiếc áo cưới mà những người được mời phải mặc vào khi dự tiệc, là những tâm tình hãm mình, xả kỷ vị tha, yêu thương, chia sẻ, bác ái, hiến dâng, cho đi, thì mới được vào tham dự Nước Trời. Nếu không, kẻ cố chấp bất tuân sẽ bị trừng phạt. “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo: ”Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng! Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.” (Mt 22, 12-14)

“Giữa những đau khổ, oan ức, những giả dối, bất công, con hãy vững vàng tuyên xưng với toàn thể dân Chúa: “Và Người sẽ trở lại trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, nước Người sẽ không bao giờ cùng.” (Đường Hy Vọng, số 679)

Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con. Xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn. (Lời nguyện của Đức Mẹ Fatima dạy ba trẻ)

Khấn xin Mẹ Maria cầu bầu chúng con luôn cố gắng sống trung thành với Chúa luôn. Xin giúp chúng con mau hồi tâm, ăn năn sám hối, ngay mỗi khi sa chước cám dỗ. Amen.

36. Sống–Lm. Giuse Đỗ Vân Lực

Càng bị đe dọa, sự sống càng vùng dậy mãnh liệt. Cái chết là một đe dọa lớn nhất và ghê sợ nhất. Muốn vươn đạt tới sự sống vĩnh hằng, con người phải có một sức mạnh hơn tử thần. Hôm nay, Đức Giêsu dẫn ta tới một cuộc sống trên cõi thiên thần.

HAI CUỘC SỐNG.

Cuộc sống rất tương đối. Sự sống thật hữu hạn. Thế nhưng niềm tin mở ra một chân trời mới. Thế giới đang tiến về một đỉnh cao dành cho “những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết” (Lc 20,35) Sống trong thế giới đó, con người không còn bị lệ thuộc vào những điều kiện vật chất hữu hạn nữa. Tất cả đều “là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.” (Lc 20,36) Một cuộc lột xác hoàn toàn sẽ đem lại cho nhân loại một sự sống mới chưa từng thấy.

Sự sống bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Bởi vậy, sự sống không thể thua sự chết, không thể bị tắc nghẽn vì những giới hạn tử thần. “Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? Tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (1 Cr 15,56-57) Nếu không có Đức Giêsu, chắc chắn tất cả nhân loại sẽ bị tử thần khuất phục. Đó là điều sỉ nhục đối với Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu đã phục sinh để chứng minh Thiên Chúa “không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống” (Lc 20,38) nhờ máu Đức Giêsu đổ ra trên thập giá. Chính niềm xác tín vào sự sống như thế đã cho ta có quyền hi vọng vào chiến thắng cuối cùng của Thiên Chúa, Đấng “đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp.” (2 Tx 2,16)

Nếu chỉ nhìn theo nhãn quan trần thế, không thể nào có được niềm an ủi và cậy trông đó. Nhóm Xađốc đã dựa trên hiện tại để củng cố “chủ trương không có sự sống lại.” (Lc 20,27) Họ hoàn toàn căn cứ vào tương quan hôn nhân để phi bác cả một thế giới thiêng liêng, nơi con người “không thể chết nữa, vì được ngang hàng với thiên thần.” (Lc 20,35) Chỉ trong cuộc sinh tồn đắp đổi này, con người mới cần đến hôn nhân để duy trì cuộc sống. Còn trong cõi vĩnh hằng, tại sao cần phải duy trì sự sống bằng những phương tiện của thế giới vật chất nữa? Hai thế giới khác nhau không thể dựa trên cùng một nền tảng. Lập luận của nhóm Xađốc hoàn toàn nằm ngoài qui luật thiên giới. Họ không thể vượt ra ngoài cõi tục để thấy được cuộc sống của con cái Thiên Chúa, vì họ không phải là con cái sự sống lại. Cuộc sống đó thật là mầu nhiệm và siêu việt, nhưng lại rất thực tiễn vì đáp ứng được niềm ước vọng bất tử của nhân loại và vào chính sự phục sinh của Đức Giêsu. Thật vậy, “nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Kitô đã không chỗi dậy. Mà nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em.” (1 Cr 15,13.16) Nếu niềm tin chúng ta hoàn toàn hão huyền, làm sao Kitô giáo lại có thể đem lại cho nhân loại một nền văn minh tốt đẹp như vậy? Thực tế, nhân loại đã được giải thoát khỏi xích xiềng tội lỗi nhờ cuộc phục sinh của Đức Giêsu. Bởi thế, không thể không có sự sống lại. Đó là niềm tin căn bản nhất và vững chắc nhất, chi phối toàn thể cuộc sống Kitô hữu.

Niềm tin đó đã bắt nguồn rất sâu xa trong Kinh thánh. Quả thế, “hồi ấy, có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ” (2 Mcb 7,1) dưới thời vua Antiôkhô. Họ đã có tất cả sức mạnh chiến thắng tử thần nhờ “dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hi vọng sẽ được Người cho sống lại.” (2 Mcb 7,14) Bao nhiêu cực hình đã không chiến thắng nổi niềm tin vững chắc và đầy quả cảm đó. Nếu “luật pháp của cha ông” (2 Mcb 7,8) đã khiến cho họ có sức mạnh lớn lao đến thế, thì “Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.” (Rm 8,11) Thế nên, niềm tin vào sự sống lại được chính Ba Ngôi bảo đảm. Niềm tin đó đang trổ sinh những mùa màng tươi tốt trên toàn thế giới.

Như vậy Đức Giêsu đã dùng một lập luận vững chắc để phi bác niềm tin của phai Xađốc. Lập luận đó căn cứ trên thực tế cuộc sống thiên thần và qui chiếu vào Kinh thánh. Chính thực tại lớn lao là “Thiên Chúa của kẻ sống” đã đủ mạnh để áp đảo tất cả những lập luận bênh vực cho sự chết. Đối với Thiên Chúa, không có vấn đề chết. Vì tất cả đã được Đức Kitô trả lại sự sống mới bắt nguồn từ Thiên Chúa.

MỞ RỘNG TẦM NHÌN.

Không có sự sống mới đó, cuộc sống hiện tại sẽ trở thành nhàm chán và vô nghĩa. Nói khác sự sống lại không phải là sự nối tiếp cuộc sống hiện tại. Bởi vậy vấn đề các người Xađốc đặt ra hoàn toàn “trật dơ”. Sự sống lại khác tự bản chất, vì con người sẽ “ngang hàng với các thiên thần.” (Lc 20,36) Không có niềm hi vọng sống lại, không thể đủ nghị lực và phấn khởi vượt qua những thách đố phi lý của cuộc sống hiện tại. Trái lại, sự sống lại là động cơ thúc đẩy con người vươn tới những mục tiêu siêu việt.

Không mở rộng tầm nhìn, không thể thấy được tất cả ý nghĩa sự sống lại đem lại cho sự sống hôm nay. Sự sống hôm nay đang dẫn tới cái chết. Đó là một sự phi lý hoàn toàn. Nhưng sự sống lại giúp con người hiểu được tại sao mình sống và đang đi về đâu. Sự sống lại sẽ dẫn con người tới một sự thật: Thiên Chúa là “Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” (Lc 20,38) Nghĩa là, đối với các tín hữu, không gì, kể cả cái chết, có thể làm họ thất vọng. Những người không có niềm tin vào “Thiên Chúa của kẻ sống”, chỉ thích chọn giải pháp dễ dãi của tử thần. Chẳng hạn, những người chủ trương cho chết êm dịu, phá thai, triệt sản, khủng bố v.v hoàn toàn đóng khung tầm nhìn vào những giới hạn trần giới.

Bởi đấy, cần phải mở rộng tầm nhìn vào cõi sống của “con cái sự sống lại” để tìm một giải pháp toàn diện cho những bế tắc hôm nay. Nhưng đừng để bị những kẻ mơ mộng đánh lừa. Họ có thể nhân danh sự sống đời sau để đẩy con người vào cõi chết. Những kẻ khủng bố 11/9/2001 vừa qua cũng tin vào sự sống bất diệt nơi Thiên Chúa. Nhưng họ đã tạo ra bao đau thương cho chính mình và nhân loại. Có một sự mâu thuẫn giữa cuộc sống hiện tại và tương lai trong niềm tin của họ. Mặc dù có sự khác biệt sâu xa, nhưng niềm tin vào cõi bất tử không thể là một lối thoát cho những người tuyệt vọng như vậy.

Bởi đấy niềm tin vào sự sống lại chỉ chính đáng khi đem lại cho con người sức mạnh xây dựng cuộc sống hiện tại tốt đẹp hơn. Niềm tin đó đang là điểm tựa cho nhiều người trong cuộc chiến chống lại tử thần. Đó là lý do tại sao Kitô hữu không ngừng vận dụng mọi nỗ lực xây dựng nền văn minh sự sống, chống lại nền văn minh sự chết. Từ nay nhờ Đức Giêsu, trong văn minh sự sống Kitô hữu có thể đem lại niềm hi vọng lớn lao cho nhân loại.

Tất cả đều “dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại.” (2 Mcb 7,14) Lời hứa đó thực sự đã được thực hiện trên thập giá Đức Giêsu. Chính Người “là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25) của chúng ta. Không có Người, tất cả sẽ trở thành vô nghĩa và vô giá trị, vì tất cả bị thần chết tiêu diệt. Nhưng nếu muốn thoát ách tử thần, Kitô hữu phải “đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hi vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” (Pl 3,10) Thập giá là con đường dẫn tới sự sống và sự sống lại trong Đức Giêsu Kitô.

37. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên

Người Sađốc không tin có sự sống lại, và họ tìm được một vấn đề mà theo họ không có lời giải đáp nếu có sự sống lại. Đức Giêsu tuy có câu trả lời cho thắc mắc của họ, nhưng Ngài không dựa vào đó để khẳng định có sự sống lại. Ngài đưa người ta trở về với niềm tin của Abraham, của Isaac, của Giacob, đúng hơn là đưa mọi người về với niềm tin truyền thống. Trong niềm tin ấy, dân Israel đã khẳng định Abraham, Isaac, Giacob tổ phụ của họ vẫn hiện diện trong dân tộc họ, không phải chỉ như những kỷ niệm không bao giờ quên, nhưng với tất cả uy quyền của sự sống trong Thiên Chúa, vẫn đang chở che và cầu phúc cho con cháu qua muôn thế hệ. Cách giải đáp của Chúa Giêsu cho vấn đề có sự sống lại, là vì theo mạc khải Thiên Chúa được Môsê kêu cầu là “Thiên Chúa của Abraham, của Isaac, của Giacob”, và theo Đức Giêsu thì diều gì gắn liền với Thiên Chúa thì cũng mang sự sống vĩnh hằng của Người.

Thánh Phaolô cũng khẳng định như thế khi trình bày với dân Thessalonica: “Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã lấy lòng nhân hậu mà ban cho chúng ta niềm phấn khởi bất diệt…”.

Chính niềm tin truyền thống ấy đã làm nẩy sinh những chứng từ Tử Đạo ngay từ thời Cựu Ước như sách Macabêô đã thuật lại: mọi người Tử Đạo tin mình sẽ nhận lại sự sống từ tay Thiên Chúa, nếu họ trung tín liều chết để giữ trọn giao ước của Người.

Chính vì sự sống lại gắn liền với giao ước của Thiên Chúa, nên niềm tin này cũng đã tiến triển theo lịch sử giao ước. Đây là một khía cạnh cần phải được suy niệm nhiều hơn trong thời đại chúng ta, thời đại mà cá nhân chủ nghĩa đang làm băng hoại mọi giao ước, và do đó cũng làm băng hoại chính Giao Ước của Thiên Chúa.

Công đồng Vaticanô II trong hiến chế tín lý về Hội Thánh cũng đã long trọng nhắc lại niềm tin này trong khẳng định “Thiên Chúa không muốn cứu độ con người từng cá nhân riêng lẻ, nhưng kêu gọi họ làm thành một Dân Tộc.” Trong cách nhìn ấy, mọi lề luật của Thiên Chúa không phải là những thứ để cưỡng chế hay làm mất tự do của con người, nhưng đó là những cam kết để đi vào Giao Ước yêu thương, nơi mà sự tự do đạt tới mức phong phú tột đỉnh, vì là tự do phục vụ cho sự sống.

Nhưng thánh Phaolô nói “không phải ai cũng có đức tin” như vậy!

Con người ngày nay thường có suy nghĩ rằng sự sống là lợi ích của cá nhân, và định luật cạnh tranh sinh tồn dường như là điều tất yếu của lịch sử. Thế nhưng thực tế lịch sử nhân loại cho thấy cách suy nghĩ ấy chỉ đem lại hết thảm họa này tới thảm họa kia. Người ta bảo rằng cái chiến tranh khủng bố có nguyên ủy từ lối sống vị kỷ của những giới lãnh đạo…muốn đẩy những dân tộc nghèo mạt vào đường cùng. Nhưng chính khủng bố cũng là một thái độ bảo vệ ích kỷ không kém. Chỉ có lối nhìn của Lời Chúa mới giúp nhân loại thoát ra khỏi cái ngõ cụt của mọi suy nghĩ và hành động tự sát này. Sự sống vốn là hồng ân gắn liền với Giao Ước, người ta phải xây dựng Giao Ước này trong những giao ước gia đình, bộ tộc, quốc gia và quốc tế, để cho gia đình, bộ tộc, quốc gia và nhân loại mãi mãi là lời tiên báo của sự sống và sự sống lại.

Rõ ràng, có một sự khác biệt rất lớn, sự khác biệt giữa cuộc sống tại thế và cuộc sống đời sau như Đức Giêsu đã cho thấy trong cái giây hôn nhân. Tuy nhiên có một sự thống nhất nội tại giữa hai cuộc sống ấy: chính là cùng thuộc về Thiên Chúa hằng sống. Chối bỏ điều thống nhất nội tại này là nguyên nhân đưa đến cái chết của mình hay gây nên cái chết cho người khác.

38. Suy niệm của Achille Degeest

NHÌN CÁI CHẾT CỦA CHÚNG TA QUA CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊSU

Đức Giêsu nhắc nhở mạnh mẽ rằng Thiên Chúa của người tin không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, Người là Thiên Chúa của người sống vì chính Người là Thiên Chúa hằng sống, yêu mến sự sống. Với sự xác định như thế, Đức Giêsu nâng cuộc tranh luận lên tầm cao sự thật vượt trên những cuộc bàn cãi vô bổ. Chúa đưa những người Sađốc (giáo phái chủ trương không có sự sống lại) vào thế lố bịch trong khi họ muốn chế giễu Chúa. Câu vấn nạn tiêu biểu cho xảo thuật biện chứng mà một số người xa lạ với đức tin ưa dùng. Từ chối thảo luận toàn bộ mầu nhiệm, họ tách riêng nhân tố này hoặc nhân tố khác của mầu nhiệm, họ tự hào mình thông thái, thừa sức lý luận để bác bỏ từng nhân tố một. Đức Giêsu cho ta hiểu, muốn tranh luận với hạng người ấy thì phải đứng ngoài lãnh vực sở trường của họ. Phải đơn giản xác định đức tin trong tầm mức đức tin, nói về những dữ kiện đức tin thì phải ở chính cao độ của đức tin. Đức Giêsu xác định kẻ chết sẽ sống lại, nhưng Chúa loại bỏ cách nhìn quá giản lược cho rằng sống lại là trở lại đời sống thế gian như hiện nay. Chúng ta có thể nêu ra hai câu hỏi:

1) Chết là gì? Thật vậy, trước khi nói về sự sống lại, nên nói rõ về ý nghĩa sự chết. Chết là một sự kiện tàn khốc. Xét bề ngoài, một người chết là một người hết sinh tồn. Nhưng thật sự việc gì đã xảy ra? Sự chết đã chẳng bắt đầu cùng lúc với sự sống ư? Nghĩa là đời sống con người, trong thân phận hiện tại của mình, chẳng mang dấu vết sự chết đó sao? Sự chết được kiểm chứng chẳng biểu lộ một sự mất mát thê thảm, mất đi một trạng thái in hằn lên con người suốt cuộc đời dưới thế ư? Tội lỗi đã biến đổi chúng ta, chúng ta không còn là những con người phù hợp với quan niệm của Thiên Chúa trong ngày đầu sáng tạo. Do ân huệ Thiên Chúa, sự sống phải chăng là sự hoàn trả về nguyên trạng theo thánh ý Thiên Chúa quan niệm, muốn như thế và thương mến vô cùng? Trạng thái phục sinh sẽ như thế nào? Về điểm này, Đức Giêsu dạy chúng ta hãy gạt đi tất cả những ảo tưởng của xác phàm. Chúng ta sẽ sống lại trong trạng thái ‘con Thiên Chúa’ cả hồn lẫn xác, trong toàn bộ bản thể chúng ta. Đức Giêsu không muốn nói thêm. Nhưng nghĩ cho cùng, còn có gì hơn chức vị làm ‘con Thiên Chúa’ mà phải băn khoăn muốn biết thêm!

2) Đức Giêsu nghĩ về sự chết của chúng ta thế nào? Qua những lời phán dạy của Chúa, chúng ta cảm thấy Chúa nhìn cái chết của chúng ta qua cái chết của Người. Chúa phán, chúng ta sẽ là con Thiên Chúa. Chúa liên kết chúng ta với phẩm tước ‘Con Thiên Chúa’ của Người. Chúa nói thêm: “Hết thảy sẽ sống cho Thiên Chúa”. Đức Giêsu liên kết chúng ta với lịch sử Người, với mục đích tối hậu lịch sử Người, là đời sống của Chúa cho Thiên Chúa. Chúa biết sẽ vượt qua cái chết, để liên kết chúng ta với cuộc vượt qua của Chúa tiến lên đời sống trường sinh. Khi nói về cái chết của chúng ta, Chúa liên tưởng đến sự sống lại của Người. Đứng trước viễn ảnh đó, câu hỏi bẫy của phái Sađốc nó nhỏ mọn thiển cận làm sao! Không bao giờ người tín đồ của Đức Kitô phấn khởi đúng mức về niềm hy vọng do Thiên Chúa hằng sống biểu lộ trong Đức Giêsu Kitô ban cho?

39. Một mầu nhiệm lớn hơn chúng ta biết–‘Mở Ra Những Kho Tàng’–Charles E. Miller

Những mầu nhiệm là một phần của cuộc sống, những mầu nhiệm đó đã xảy ra trong hành tinh của chúng ta, đã được xoay vần với những khoảng cách chính xác của mặt trời, nếu không như thế một là chúng ta bị tiêu hủy trong ngọn lửa hoặc sẽ đông cứng thành băng? Vì sao trời đã mưa xuống và đất đã trổ sinh hoa trái? Và điều gì đã làm nên công việc tuyệt diệu ấy? Những điều kỳ diệu đó tâm trí con người chúng ta có thể miêu tả nhưng không thể hiểu hoặc cắt nghĩa. Một trong những điều kỳ diệu là nòi giống con người. Chúng ta là một sự kỳ diệu lớn nhất và là mầu nhiệm sâu xa nhất trong vũ trụ.

Chúng ta bắt đầu sự hiện hữu của mình trong thân xác mẹ của chúng ta như một phòng đơn độc nhỏ xíu có vẻ tầm thường, đã bám vào trong nhau của mẹ như một đặc ân quý giá của đời sống, đang tìm kiếm sự an toàn cư trú trong dạ của mẹ chúng ta. Chúng ta lớn lên và phát triển mỗi ngày rõ ràng hơn, thành một tạo vật mà Thánh Vịnh đoạn 8 đã miêu tả là nhỏ hơn các thiên thần một chút. Không phải những sự kỳ diệu này đã có thể trình bày những điều kỳ diệu lớn hơn chăng?

Không phải những người Pharisiêu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay không tin vào sự Phục Sinh từ cõi chết. Họ nghĩ rằng họ đã đánh bẫy Chúa Giêsu và đặt một câu hỏi cho có vẻ giống như sự Phục Sinh thì không thể có. Một người đàn bà đã kết hôn với bảy người chồng hành sự. Một câu hỏi đặt ra là người đàn bà đó là vợ của ai sau khi sống lại. Cái sai lầm của họ là nghĩ về giáo lý của sự Phục Sinh có nghĩa là những người sống lại sẽ sống một đời sống xác thịt như đã được sở hữu trước khi họ chết. Chúa Giêsu trong một vài từ đã sửa chữa những sai lầm của họ bằng bài giáo huấn này, mặc dầu trước khi Phục Sinh chúng ta có nhỏ hơn thiên thần một chút nhưng sau khi Phục Sinh chúng ta sẽ giống như các thiên thần. Chúng ta sẽ có một sự thay đổi. Chúng ta sẽ qua một sự phát triển mà không giống như việc chúng ta ở trong dạ mẹ để sửa soạn cho ngày sinh của chúng ta.

Sự phát triển của chúng ta đang diễn ra ngay bây giờ, đặc biệt là qua sự tiếp nhận Thánh Thể. Chúng ta lãnh nhận Thân Mình và Máu của Chúa, Đấng đã chết và sống lại. Đó là Chúa của sự sống lại vinh quang, Đấng đã nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta, duy trì và làm phong phú ân sủng cho đời sống của chúng ta. Khi chúng ta lãnh nhận Thánh Thể chúng ta hãy nhớ rằng, lời hứa đã được củng cố bởi Lời của Chúa Giêsu: “Ai ăn Thịt và uống Máu Ta sẽ được sống đời đời, và Ta sẽ cho chúng sống lại vào ngày sau hết”. Chúng ta chờ đợi trong niềm hy vọng và vui mừng việc đến để cứu thoát chúng ta, và chúng ta sẽ nói với Người những lời đáp ca trong Thánh Vịnh: “Lạy Chúa khi vinh quang Ngài xuất hiện, niềm vui của chúng con được tràn đầy”. Niềm tin của sự Phục Sinh đã đem lại niềm hy vọng và can đảm cho những người đi trước chúng ta. Những người sốt sắng, giống như bảy anh em trong bài đọc đầu tiên hôm nay đã sẵn sàng đi đến cái chết để giữ vững đức tin của họ. Thật là kinh ngạc khi chính mẹ của họ van xin họ hãy chấp nhận cái chế. Tất cả những điều này đã xảy ra bởi Thiên Chúa đã ban cho niềm tin và hy vọng phục hồi viên mãn sự sống trong sự Phục Sinh vào ngày sau hết.

Chúng ta bị thách đố không phải để chết cho đức tin nhưng là để sóng theo đức tin của chúng ta. Thật sự, sự Phục Sinh của chúng ta diễn ra như một mầu nhiệm được ẩn giấu trong Thiên Chúa, khi chúng ta có thể bảo đảm rằng điều đó sẽ là một điều kỳ diệu lớn lao bởi vì chúng ta sẽ thông dự vào sự Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô.

40. Đời sau khác đời này–Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Đức Cha Fulton J. Sheen trong tác phẩm “Trên đỉnh cao Thập Giá” đã kể rằng: Sau khi bị Thiên Chúa đuổi ra khỏi Địa Đàng và gánh chịu hình phạt lao dịch, A-đam đã phải vất vả khổ cực tìm kiếm của ăn. Một lần kia, trên đường ra nương rẫy, A-đam vấp phải thân xác bất động của A-ben. A-đam nâng dậy vác con lên vai đưa về nhà đặt trong vòng tay E-và. Ông Bà lay gọi nhưng A-ben không đáp trả. Trước đây A-ben là đứa con ngoan, lanh lợi, không có trầm lặng như vậy. Ông Bà nâng tay A-ben lên, bàn tay lại rơi xuống đất bất động, trước đây A-ben không hề như thế. Ông Bà nhìn vào đôi mắt của con: lạnh lùng, trắng dã, vô tư một cách bí mật, trước đây đôi mắt của A-ben có vô tình như vậy bao giờ đâu. Ông Bà kinh ngạc, nỗi kinh ngạc tăng dần lên. Thế rồi hai Ông Bà chợt nhớ lời Thiên Chúa: “Ngày nào ngươi ăn trái cây này, ngươi sẽ phải chết”.

Cái chết của A-ben là cái chết đầu tiên của nhân loại. Khi Nguyên tổ phạm tội, Địa Đàng đã đóng ngõ cài then. Đau khổ và sự chết đã tràn vào thế giới và chảy dọc theo thời gian. Thiên Chúa đã sinh ra sự sống, nhưng tội lỗi đã khởi phát ra sự chết. Sống và chết là hai thái cực đối chọi nhau. Sự sống và sự chết đều là kỳ công của Thiên Chúa. Con người không thể làm ra được sự sống cũng không tài nào cản ngăn được sự chết. Thế giới càng văn minh thì Tử Thần càng xuất hiện dưới muôn hình vạn trạng khác nhau. Có cái chết êm đềm thư thái, có cái chết đau đớn khốn khổ, muốn chết không được, muốn sống không yên. Càng chạy trốn Tử Thần, thì Tử Thần càng đến gần. Càng tránh đau đớn thì đau đớn càng nhiều.

Ở mọi thời đại, cái chết vẫn là một mầu nhiệm thách thức lý trí con người. Tại sao con người lại phải chết? Chết là gì? Đó luôn luôn là những câu hỏi làm xao xuyến tâm não con người trong mọi không gian và thời gian. Sự chết là một đề tài suy niệm phong phú. Mỗi tôn giáo, mỗi con người nhìn và hiểu một cách tuỳ theo quan niệm của mình, tuỳ theo niềm tin, tuỳ theo chọn lựa và thái độ cuộc sống.

Đối với Kitô giáo chúng ta, Thiên Chúa là Chúa của sự sống, ý định của Người là thông ban sự sống chứ không phải sự chết. Vậy sự chết bởi đâu mà có? Kinh Thánh trả lời rằng: sự chết là hậu quả của tội lỗi ( Rm 5, 12; 6, 23 ). Nhưng Thiên Chúa “vì quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài để những ai tin vào Người Con ấy sẽ không phải chết nhưng được sống muôn đời” ( Ga 3, 16 ) và lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho La-da-rô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất: “Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Lời mặc khải này có nhiều người tin vào Chúa, nhưng cũng không ít người nghi ngờ, không tin.

Bài Phúc Âm hôm nay kể về phái Xa-đốc không tin có sự sống lại, họ đặt ra những vấn nạn vô lý để chất vấn Chúa Giêsu. Họ trích sách Đệ nhị luật 25, 5-6 để hỏi Người: Nhà kia có 7 anh em trai. Người anh cả cưới vợ rồi chết không con. Theo luật Mô-sê, người em phải lấy chị goá để có con nối dõi, và cả 7 anh em đều chết không con. Khi sống lại, chị goá đó vợ sẽ là của ai?. Họ đưa ra ví dụ mà chẳng thể xảy ra trong thực tế. Trong thế giới mai sau, bà vợ thuộc về ai trong số 7 ông chồng? Chẳng lẽ 7 ông đánh nhau để dành 1 bà trên thiên đàng? Kiểu lý luận hàm ẩn một quan niệm, thế giới mai sau cũng như hiện tại, nối dài hiện tại. Người Việt Nam cũng vậy, thói quen đốt vàng mã, đốt đôla, đốt xe honda, đốt nhà lầu…cho người cõi âm xài…Người ta tin rằng thế giới mai sau cũng giống như thế giới mình đang sống cho nên người đã chết cũng cần xe, cần tiền…

Chúa Giêsu trả lời với hai nét độc đáo: thế giới mai sau là một thế giới hoàn toàn khác, hoàn toàn được biến đổi, và sự sống mới hoàn toàn được bắt đầu từ hôm nay.

Đời sau khác đời này. Người ta không lấy vợ gả chồng, không cần con nối dõi, nhưng sống như các thiên thần, chỉ lo phụng sự và ca ngợi Chúa. Đời sau không còn bóng dáng của Thần Chết. Con người thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh. Toàn bộ con người cả xác lẫn hồn được sống lại. Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian, nhưng sẽ được biến đổi cách kỳ diệu để chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với linh hồn. Bởi vì: “Đức Chúa là Thiên Chúa của Tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, đối với Người tất cả đều đang sống”.

Qua mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh sắp tới, Đức Giêsu sẽ hoàn tất mạc khải này. Đức Giêsu đã chiến thắng sự chết bằng chính cái chết trên Thập Giá và Người đã sống lại để trao ban sự sống mới, sự sống của Đấng Phục Sinh. Chính bởi sự yêu mến, vâng phục và dâng hiến nên cái chết của Chúa Kitô là một sự chiến thắng, bẻ gãy mũi nhọn của thần chết ( 1 Cr 15, 14 ). Thánh Phê-rô đã nói một cách sâu sắc: “Tội lỗi của chúng ta, chính Đức Kitô đã mang vào thân thể, mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta được sống cuộc đời công chính” ( 1 Pr 2, 24 ).

Vì Đức Giêsu đã thắng được những xao xuyến, thắng được những tuyệt vọng, nên Người đã biến cái hố thẳm hay biển cả mênh mông ngàn trùng xa cách giữa con người và Thiên Chúa thành biển cả tình thương liên kết hiệp nhất Thiên Chúa và loài người. Đức Kitô đã trở nên con đường giao hoà và Thập Giá Đức Kitô đã trở thành như chiếc thang nối liền trời và đất, kết hợp Thiên Chúa và loài người. Yếu tính sự chết đã được biến đổi. Sự chết không còn là tang tóc nữa mà đã trở thành Lễ Vượt Qua để tiến tới Vinh Quang Thiên Quốc. Từ nay Đức Giêsu không còn lệ thuộc vào thân xác vật chất nữa, những gì thuộc về thân xác vật chất đều đã chết trên Thập Giá. Chúa Kitô đã được Thần Khí hoá ( Rm 8, 11; 1 Pr 3, 18 ), và sự sống của Người thuộc về Thiên Chúa ( Rm 6, 10 )

Niềm tin vào Đức Giêsu, Đấng đã chết và sống lại là niềm tin cao cả nhất. Khi trái tim một người Kitô hữu ngừng đập thì chuông Nhà Thờ vang lên báo tin cho mọi người biết linh hồn một người đã được Chúa gọi về. Nghe chuông báo tử, mọi người đến tang gia để thăm viếng, phân ưu, đọc kinh cầu nguyện, tham dự nghi thức tẩm liệm, cùng đưa người chết đến Nhà Thờ. Linh cửu được đặt ngay trước Nhà Tạm của Chúa Giêsu. Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho sự sống lại của Chúa và của những ai theo Người được thắp sáng lên đặt cạnh quan tài. Thánh Lễ được cử hành để hiệp thông cầu nguyện cho người chết, nói lên việc Giáo Hội trân trọng với cả xác chết. Đại diện cho Giáo Hội là Linh Mục tiễn đưa người quá cố từ Nhà Thờ đến Đất Thánh, làm phép huyệt để thánh hoá nơi người chết an nghỉ và nói lên niềm hy vọng tuyệt vời: “Chúng ta gởi thân xác người thân yêu ở lại đây, đợi ngày sống lại gặp nhau trên Thiên Đàng.”

Sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô không những đã chuộc lại được cho con người những gì nó đã mất vì tội lỗi, nhưng còn là một cuộc sáng tạo. Bởi vì nhờ sự chết và sống lại của Người mà nhịp cầu liên kết giữa Thiên Chúa và con người được nối lại và một tương quan mới được thiết lập, đó là tương quan Cha Con. Nhờ cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Kitô, con người được tha thứ, được gội rửa sạch tội lỗi, khỏi án chết đời đời và trở nên con cái Thiên Chúa. Từ nay con người được gọi Thiên Chúa là Áp-ba, Cha ơi ( Rm 8, 15 ).

Tin và sống trong ân tình của Chúa Kitô chính là chiến thắng sự chết, chính là đã mang trong mình mầm sống của sự sống đời đời: “Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết” (Ga 11, 26; 1 Ga 3, 14). Không bao giờ chết chính là không bao giờ mất sự hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người. Niềm tin vào sự sống mai sau đem lại cho chúng ta niềm vui và hy vọng. Niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc đời và cho mọi sinh hoạt của chúng ta hôm nay. Niềm tin đó thôi thúc chúng ta sống theo Tin Mừng Chúa Giêsu. Niềm hy vọng ấy thôi thúc chúng ta hy sinh cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng dâng lễ, làm việc lành phúc đức nhiều hơn trong tháng 11 nầy để cầu cho những người thân yêu và các tín hữu đã ra đi trước chúng ta được về quê trời vui hưởng hạnh phúc ngàn thu.

Thiên Chúa dựng nên con người để con người được hưởng hạnh phúc đời này và cả đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú chóng tàn mà quên đi cùng đích cuộc đời là gặp được Chúa. Hạnh phúc duy nhất và cũng là quan tâm duy nhất của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Người.

Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và chúng con còn khắc khoải mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa (Thánh Augustinô). Amen.

41. Tin vào sự sống đời sau–Lm Giuse Đỗ Văn Thụy

Tin vào sự sống lại không phải là niềm tin vu vơ, phản khoa học, nhưng ngược lại chính các nhà khoa học thượng thặng lại tin nhận điều đó. Một lần nữa chúng ta lập lại lời tuyên xưng trong kinh tin kính: “tôi tin xác loài người ngày sau sống lại và sự sống đời sau.”

1. Chối bỏ việc kẻ chết sống lại

Trong thời Đức Giêsu, ba nhóm rất có thế lực và chi phối đời sống xã hội cũng như tôn giáo Do Thái. Ba nhóm ấy là Luật Sĩ, Biệt Phái và Sađucêu.

Nhóm Luật Sĩ và Biệt Phái là những người đạo đức chuyên lo việc học hỏi Thánh Kinh và giữ luật một cách tỉ mỉ. Họ chuyên lo việc đạo chứ không quan tâm đến chính trị. Tuy nhiên chính họ lại là những người giả hình và hay chống đối Đức Giêsu. Nhiều lần Ngài đã phải thẳng thắn vạch trần bộ mặt giả dối của họ.

Còn nhóm thứ ba là Sađucêu. Đây là một nhóm tư tế cao cấp trong Do Thái giáo. Họ có quyền cả về sinh hoạt tôn giáo và chính trị Do Thái từ trước thời Đức Giêsu.

Họ chỉ chấp nhận Ngũ Kinh, và chỉ coi Môsê là vị tiên tri vĩ đại nhất. Họ không tin linh hồn bất tử và sự sống lại (họ trái ngược và kình địch với nhóm Biệt Phái) vì hai lý do: một là họ bảo giáo lý về sự sống đời sau không có trong Thánh Kinh (đối với họ chỉ có luật Môsê thôi), hai là họ nghĩ rằng: quyền năng của Thiên Chúa không vượt qua con người.

Với trí khôn minh mẫn và trào phúng, họ cố làm cho câu chuyện sống lại trở nên lố bịch và buồn cười, họ đã nại đến thế giá ông Môsê mà Đức Giêsu không thể không nhìn nhận (Đnl 23,5) để bịa ra câu chuyện về sự sống lại.

Theo luật Môsê, luật mà Thánh Kinh gọi là luật Levirat (Dt 25, 5-10), khi có người anh em trong gia đình chết mà không có con, người anh em còn sống phải lấy chị dâu hay em dâu góa để gây dòng họ cho anh em mình.

Theo phái Sađucêu, việc áp dụng luật như vậy, nhất thiết chứng minh rằng không có sự sống lại. Họ hỏi Đức Giêsu: nếu một người đàn bà theo luật Levirat lấy liên tiếp 7 anh em mà không có con thì khi sống lại bà là vợ ai?

Thực ra, trong thực tế không có trường hợp nào xảy ra như vậy; nhưng ở đây chỗ quá đáng của 7 anh em có mục đích cho ta thấy việc sống lại là một việc không thể tin được.

Đức Giêsu đã trả lời bằng cách bác bỏ quan niệm sai lầm về sự sống lại mà phái Sađucêu chế giễu. Ngài chứng minh rằng: “con cái đời này cưới vợ gả chồng”, sự sống tại trần thế có cưới vợ gả chồng vì lẽ đời sống con người có sinh có tử, và vì có tử nên con người cần phải dựng vợ gả chồng để truyền sinh và nối dõi. Trong đời sống mai hậu họ không còn cưới vợ gả chồng vì hai lý do: một là vì họ sẽ không thể chết được nữa, và họ được ngang hàng với các thiên thần; hai là vì họ trở nên con cái Thiên Chúa, và là con cái của sự sống lại, nghĩa là được thừa hưởng một thế giới mới và sự sống mới từ nơi Thiên Chúa. (x. Ep 1,5; Rm 8,18-21).[ Lm. Giuse Đinh lập Liễm]

2. Khoa học chứng minh có “sự sống đời sau”

Sau khi Raymond Moody xuất bản quyển Life after life (cuộc sống sau cõi đời này) vào năm 1975, công chúng Phương Tây ngày càng quan tâm đến kinh nghiệm cận tử (tạm gọi là trải nghiệm sự chết đi sống lại). Có một số người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã được giới chuyên môn về y khoa xác nhận là đã chết lâm sàng và thi thể của họ được đưa vào nhà xác. Nhưng sau đó họ hồi sinh.

Năm 1982, George Gallup ước lượng có khoảng 8 triệu người ở Mỹ và 23 triệu người trên toàn thế giới đã trải qua kinh nghiệm này.

Những năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ rất chú ý đến hiện tượng này. Họ đã phỏng vấn 1.370 người trải qua kinh nghiệm cận tử. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:

– Có một cuộc sống khác ở “cõi bên kia” và cuộc sống đó hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.

– Điều đặc biệt là sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không còn ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người. (Willie Hoffsuemmer).

Bác sĩ George Rodonaia, có học vị tiến sĩ trong ngành thần kinh học (về sau nầy cũng là một tiến sĩ tâm lý học tôn giáo) vốn là công dân Liên Xô, nhập cư vào Mỹ năm 1989. Ông là chuyên gia nghiên cứu về thần kinh tại Đại học Moscow. Ông đã trải qua một kinh nghiệm cận tử đặc biệt nhất được ghi nhận từ trước đến giờ. Ông được giới y khoa xác nhận là chết ngay lập tức sau một vụ tai nạn ô tô vào năm 1976, được đưa vào nhà xác và được quàn tại đó trong ba ngày. Ông vẫn không hồi sinh cho tới khi bác sĩ tiến hành giải phẩu phần bụng như một phần của công tác khám nghiệm tử thi. Ông thuật lại trải nghiệm về cuộc sống bên kia và xác quyết rằng chính biến cố nầy khiến ông đổi đời tận gốc rễ.[ http://www.nderf.org/Vietnamese/index.htm]

Ông Eymieu đã công bố bản thống kê 432 nhà bác học thế kỷ 19 thì có 367 vị tin có Thiên Chúa và sự sống lại. Bác sĩ Dennaert người Đức cho biết trong số 300 nhà bác học lỗi lạc nhất ở 4 thế kỷ vừa qua có 242 vị tin, 38 vị không rõ lập trường, 20 vị không tin và dửng dưng.[ Văn Quy, Đi về đâu, trg. 39]

3. Niềm Tin Kitô hữu

Mỗi khi đọc kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng: “tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”, chúng ta tuyên xưng như thế và chúng ta tin điều đó dễ dàng, chứ thực ra vấn đề này không dễ dàng cả vào thời Đức Giêsu lẫn ở thời nay.

Người Kitô hữu tin rằng không chỉ có linh hồn tham dự vào cuộc sống mai hậu, mà cả thân xác cũng sẽ sống lại sau khi hư nát một thời gian, để tham dự vào sự sống thần linh và vĩnh cửu đời sau. Thân xác ấy sẽ được biến đổi để phù hợp với cách hiện hữu mới ấy. Niềm tin vào sự sống lại được xây dựng trên nền tảng sự sống lại của Đức Kitô, mà các tông đồ là những người đã thấy tận mắt, đã sẵn sàng chịu đau khổ và chết để làm chứng. “Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng”(Cv 2,32; 10,41). Đây là một trong những niềm tin căn bản nhất của người Kitô hữu, đến nỗi có thể nói ai không tin vào sự sống lại thì không phải là Kitô hữu.

Tin vào sự sống lại không phải là niềm tin vu vơ, phản khoa học, nhưng ngược lại chính các nhà khoa học thượng thặng lại tin nhận điều đó. Một lần nữa chúng ta lập lại lời tuyên xưng trong kinh tin kính: “tôi tin xác loài người ngày sau sống lại và sự sống đời sau.” Amen.

42. Niềm tin xác tín–Br. Quốc Toản, CRM

Chúng ta sống trên đời này là để thờ phượng Chúa và phục vụ tha nhân hầu được phúc hưởng nhan Thiên Chúa Hằng Sống đời sau. Để được thế mỗi người phải chiếu giãi đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Còn gương lành nào chiếu giãi đức tin cho bằng gương của bảy anh em lần lượt chịu tử đạo trước sự chứng kiến của người mẹ can đảm trong Bài Đọc thứ nhất hôm nay? (x. 2Mac 7:1-2; 9-14). Đây qủa là một tấm gương đáng được ghi nhớ muôn đời trong lịch sử nhân loại!

Bảy anh em đã chiếu sáng sự thánh thiện và lòng kiên trì qua sự chấp nhận những tra tấn dã man dưới tay phường vô nhân đạo. Sở dĩ họ chịu đựng được những tra tấn cũng một phần do sự khuyên bảo và khích lệ của người mẹ tràn đầy lòng tin. Đặc biệt hơn nữa là vì họ có một niềm tin xác tín rằng Thiên Chúa Hằng Sống, Thiên Chúa của công bằng và yêu thương, Đấng mà họ sẵn sàng hy sinh mạng sống đời này, đã dành cho họ một cuộc sống vĩnh cửu trên thiên đàng.

Trải qua hơn hai ngàn năm, hằng triệu Kitô hữu đã hy sinh mạng sống cách anh hùng vì đức tin. Trong số đó có các Thánh Tử Đạo Việt Nam của chúng ta. Ngày nay cũng có hằng triệu người đang chịu đau khổ và tử đạo liên lỉ vì cùng một đức tin. Tuy nhiên, họ may mắn hơn bảy anh em người Do-thái xưa vì họ có gương lành của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã chịu đựng một cuộc tử đạo đau đớn dã man hơn mọi người. Vì thế, một cách nào đó, gương lành của người mẹ và bảy anh em Do-thái đáng được ngưỡng mộ hơn. Nhưng, điều quan trọng là cũng chính một Thiên Chúa, Đấng đã ban cho họ những ơn cần thiết để chịu đựng mọi cơn thử thách, ngày nay vẫn tiếp tục ban cho mọi Kitô hữu những ơn cần thiết để chịu đựng mọi thử thách hầu được hưởng cuộc sống vĩnh cửu trên quê trời với Thiên Chúa Hằng Sống.

Những gương anh dũng của các tiền nhân đều đáng cho chúng ta phải thật sự ngưỡng mộ. Tuy nhiên, là những Kitô hữu, ngưỡng mộ không chưa đủ! Ta cần phải bắt chước và thực hành những gương anh hùng đó trong cuộc sống thường ngày. Theo tự nhiên, ai trong chúng ta khi nghĩ đến những thử thách tra tấn cũng phải giùng mình kinh hãi. Chắc chắn các đấng đi trước cũng vậy. Nhưng, khi cơn thử thách đến thì Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết để chịu đựng như Chúa đã ban cho các đấng tiền nhân.

Những tấm gương chứng nhân đức tin sáng ngời của các bậc đi trước là một thách đố mà chúng ta có thể áp dụng cho cuộc sống ngày nay. Chúng ta không cần phải hỏi, “Tôi có sẵn sàng chấp nhận những cực hình và cái chết vì đức tin hay không?” Điều chúng ta nên làm là xét xem mình có sẵn sàng và thật sự sống đức tin trong cuộc sống hằng ngày chưa. Nghĩa là chúng ta đã sống tinh thần chịu đựng, hy sinh và can đảm đúng với địa vị của mình hay chưa? Thí dụ: vợ chồng có nhịn nhục, can đảm hy sinh chịu đựng lẫn nhau hay không? Bố mẹ có quan tâm đến con cái và săn sóc, dậy dỗ chúng nên người hay chỉ lo làm ăn đến độ bỏ bê chúng? Con cái có biết vâng lời bố mẹ và chăm chỉ học hành cho giỏi hay chỉ biết đi chơi và phá nghịch xóm làng…v.v.?

Cuộc sống là một chuỗi ngày chiến đấu với ma quỉ, thế gian và xác thịt. Vì thế, để sống đúng địa vị của chính mình không phải là một chuyện dễ làm đối với bất cứ một ai. Với nhiều người đây chính là một cuộc tử đạo liên lỉ. Nhưng, hãy nghĩ đến hoặc nhìn lại những tấm gương xác tín đã tăng cường sức lực cho người mẹ và bảy anh em Do-thái xưa. Mọi Kitô hữu phải luôn tạo cho mình có một niềm tin xác tín vào Thiên Chúa Hằng Sống như thế.

Nếu chúng ta trung thành với Chúa thì Ngài sẽ thưởng chúng ta. Nếu chúng ta trung thành với giới răn của Chúa thì Ngài sẽ giữ lời hứa của Ngài. Và nếu Chúa có muốn chúng ta hy sinh mạng sống để làm chứng nhân cho Ngài thì Ngài sẽ ban cho chúng ta một cuộc sống hạnh phúc trường sinh trên quê trời. Được thế thì chúng ta đã hoàn tất được mục đích cuộc sống đời này; đó là chiếm được cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau với Thiên Chúa Hằng Sống.

43. Họ là con cái Thiên Chúa giống như các thiên thần–Lm. Huy Châu, CRM

Bài đọc thứ nhất và Phúc Âm hôm nay có cùng một nội dung: sự sống lại đời sau. Vấn đề sự sống lại trong bài Phúc Âm hôm nay được nêu lên do nhóm Xađuxê. Vậy chúng ta hãy tìm hiểu qua về nhóm này: Hai nhóm vị vọng trong dân Do Thái thời Chúa Giêsu mà Phúc Âm thường nhắc đến là Pharisiêu và Xađuxê. Hai nhóm này có nhiều khác biệt. Điển hình là nhóm Pharisiêu chủ trương lo việc tôn giáo, không nhúng tay vào chính trị. Họ tin có sự sống đời sau và có thiên thần. Ngược lại Xađuxê là một nhóm nhỏ nhưng có chỗ đứng trong guồng máy cai trị của người Rôma. Phái Xađuxê không tin có thiên thần và không tin có sự sống đời sau.

Nhìn lại bối cảnh Phúc Âm, có lẽ sau khi nghe Chúa Giêsu nói về sự sống đời sau, nhóm Xađuxê cảm thấy “khó chịu” nên muốn tìm cách gài bẫy Chúa Giêsu và đặt Ngài vào chỗ bí. Câu hỏi họ đặt ra về việc một người đàn bà lần lượt lấy 7 anh em theo luật Maisen có ghi trong sách Đệ Nhị Luật, đoạn 25, câu 5. Họ hỏi nếu người đàn bà đó lấy cả 7 anh em, thì sau khi sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ của ai? Câu hỏi này khi mới nghe thì có vẻ hóc búa và có lẽ nhóm Xađuxê hí hửng vì bắt bí được Chúa Giêsu. Nhưng câu trả lời của Chúa trước hết khiến cho họ bẽ mặt và làm cho câu hỏi đó thật chỉ là câu hỏi có vẻ “trẻ con”. Thứ nữa, câu trả lời của Chúa hé mở cho chúng ta thấy “tình trạng” con người được sống lại trên thiên đàng thế nào: trên thiên đàng người ta không sống trong tình trạng vợ chồng nhưng sống như các thiên thần (Lc 20:34-36). Thực sự chúng ta không biết các thiên thần “sống” như thế nào trên thiên đàng nhưng một số điều căn bản chúng ta biết về các thiên thần là các ngài không có thể xác, không lệ thuộc vào vật chất, và các ngài được hưởng kiến nhan Chúa nên được tràn ngập hạnh phúc.

Kinh nghiệm sống cho chúng ta thấy một tình trạng tâm lý tự nhiên là khi người ta được an toàn dư dật trong cuộc sống vật chất và danh vọng thì người ta coi nhẹ hay ít màng tới đời sống tinh thần. Họ thoả mãn với cuộc sống hiện tại, nên việc họ không tin vào đời sống sau này cũng là một điều dễ hiểu. Một điều lạ là ngày nay số người tin có sự sống sau khi chết (life after death) hay linh hồn bất tử tại Hoa Kỳ gia tăng. Nhưng nhiều người chỉ tin một cách mơ hồ nào đó chứ không tin theo lối tin truyền thống của niềm tin Kitô Giáo. Là những Kitô Hữu đích thực, chúng ta cần xác tín một chân lý là đời sống trên thế gian này không phải là đích tối hậu, nhưng là thiên đàng mai sau. Dầu thế, thiên đàng bắt đầu ngay từ đời này. Do đó đời sống hiện tại của chúng ta sẽ quyết định đời sống mai sau.

Theo Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, con người là chiếc cầu nối liền thế giới thần linh (spiritual) và vật chất (material) vì trong con người có cả hai yếu tố: linh hồn và thể xác. Qua con người, thế giới vật chất được nâng lên biên giới của thế giới thần linh (xem God and the World, tr. 89). Như thế, ngay ở đời này, chúng ta cũng có thể bắt đầu “sống như thiên thần”, và nếu chúng ta muốn bắt đầu cuộc sống như thiên thần trên đời này, chúng ta cũng cần phải đặt lại thứ tự giá trị cuộc sống: giá trị tinh thần trên vật chất; đòi hỏi của Phúc Âm và Giáo Hội trên đòi hỏi của nhu cầu tự nhiên; hướng tất cả về đời sống mai sau. Có lẽ chúng ta còn nhớ lời Chúa Giêsu dạy: “Được lời lãi cả thế gian này mà mất linh hồn mai sau thì được ích gì” (Mt 16:26). Lời Chúa hôm nay, một lần nữa kêu gọi chúng ta lựa chọn: Đời này hay đời sau.

44. Thiên Đàng vĩnh phúc–Lm. Minh Vận, CRM

Trong một lớp giáo lý, bé Tâm thưa với thầy: “Thưa thầy, Thiên Đàng là gì cơ?” Thầy trả lời: “Thiên Đàng là nơi các Thần Thánh và các linh hồn tốt lành được cùng Chúa tận hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Ở đó, không còn có bệnh tật, không còn phải đi học khó khăn, làm lụng vất vả, cũng không còn phải khổ sở mồ hôi nước mắt, thức khuya dậy sớm hoặc phải chết chóc”. Bé Tâm rất chăm chú nghe lời thầy giảng, rồi bỗng nhiên em trố đôi mắt ngây thơ nhìn thầy và bỡ ngỡ hỏi: “Vậy trên Thiên Đàng không có kẹo à thầy?”

Sau khi nghe bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng có thể được nghe nhiều bạn trẻ thốt lên câu hỏi: “Vậy trên Thiên Đàng không còn cưới gả gì nữa à?” Và rồi còn nhiều câu hỏi khác tương tự như: “Cũng không có beer, rượu, whisky; không có nhậu, party, khiêu vũ, không có T.V., radio, video tape, phim chưởng kiếm hiệp, không xe hơi, nhà lầu… thế thì buồn chết?” Quả thực, tất cả những thứ đó nếu là tuyệt đối cần thiết cho hạnh phúc của chúng ta được hoàn hảo hơn, thì hẳn cũng sẽ có chứ.

I. HẠNH PHÚC THIÊN ĐÀNG ĐÍCH THỰC

Thực ra câu trả lời này cũng như những câu hỏi kia, tỏ ra người ta chưa am hiểu được cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu trên Thiên Đàng là gì?

Trên Thiên Đàng:

1. Chúng ta sẽ được chiêm ngắm Chúa nhãn tiền, “diện đối diện” (1 Cor 13:12) như Người “hiện hữu” (1 Jn 3:2). Chúng ta gọi đó là “Phúc Hưởng Kiến”. Đó là hạnh phúc được nhìn thấy Chúa. Khi được thấy Chúa rồi, chúng ta cũng được thấy những gì liên hệ với chúng ta, như những người thân yêu và bạn hữu của chúng ta còn nơi trần gian hay đã được cùng chung hưởng hạnh phúc với chúng ta nơi Thiên Quốc.

2. Chúng ta sẽ được yêu mến Chúa tha thiết, “lòng bên lòng” với tất cả sự hiểu biết, lòng sốt sắng và sùng mộ; khiến chúng ta say sưa không ngớt dâng lời ca ngợi chúc tụng Chúa.

3. Chúng ta sẽ được tận hưởng Chúa cách no thỏa tràn đầy, vì Chúa là Đấng gồm đủ mọi chân, thiện, mỹ; là Đấng toàn năng, toàn thiện, toàn ái, toàn mỹ… làm cho chúng ta được vui sướng, hạnh phúc khoái lạc vô cùng. Trái lại, những vui sướng hạnh phúc nơi trần gian sánh với những vui sướng hạnh phúc chân thật nơi Thiên Quốc, trở thành những cái tầm phào, phù ảo và mau qua.

II. MỘT BIẾN ĐỔI KỲ DIỆU CAO SIÊU

Theo giáo lý Thánh Phaolô, thân xác chúng ta trên Thiên Đàng sẽ là thân xác vinh hiển, khác hẳn với thân xác sống nơi trần gian; nó giống như cây đã mọc lên với cành lá xum xuê, hoa trái ngon ngọt; trái hẳn với hạt giống còn chôn vùi dưới lòng đất đang bị mục nát thối rữa; như lời Thánh Tông Đồ đã viết: “Gieo thể xác sinh vật, sống lại thân xác thần thiêng” (1 Cor 15:44).

Thân xác vinh hiển của chúng ta khi đó, được tận hưởng tràn đầy mọi vui sướng hạnh phúc cao siêu tuyệt diệu, nên không còn thiết gì những vui sướng hạnh phúc nơi trần gian nữa. Chính Thánh Phaolô đã được niếm hưởng đôi phút khi được Chúa cất lên tầng trời thứ ba qua phúc “Hưởng Kiến”, Ngài đã được tràn đầy hạnh phúc thỏa mãn sung sướng thuật lại: “Mắt chưa hề xem, tai chưa hề nghe, lòng chưa hề cảm nghiệm được những vui sướng hạnh phúc Chúa đã sắm sẵn cho những ai yêu mến phụng sự Người” (2 Cor 2:9).

Thánh Lễ chúng ta đang cử hành cũng cho chúng ta ý niệm về sự khác biệt lạ lùng giữa Thiên Đàng và trần gian. Một lát nữa, chúng ta hiến dâng bánh rượu lên Chúa Cha trên trời; rồi trong giây lát, qua tay Linh Mục, Cha trên trời sẽ ban cho chúng ta những sự dưới đất đã được biến thể nên Mình Máu Thánh chân thật của Con Một Người nơi Mầu Nhiệm Thánh Thể, mà chúng ta được diễm phúc lãnh nhận vào linh hồn chúng ta. Khác biệt biết bao, kỳ diệu dường nào, Báu Vật ban tặng khác biệt bánh rượu! Thân xác mê muội, đau yếu, bệnh tật, chết chóc của chúng ta, cũng sẽ được biến đổi thành thân xác vinh hiển, sáng láng, quyền năng và dũng mạnh tương tự! Chớ gì nhờ việc tham dự Thánh Lễ và lãnh nhận Chúa Giêsu Thánh Thể ngự vào linh hồn, Chúa cho chúng ta được xứng đáng lãnh nhận sự biến đổi kỳ diệu cao siêu này! Vì thân xác chúng ta khi đó cũng sẽ trở nên giống như thân xác vinh hiển của Chúa Giêsu sau khi Ngài phục sinh từ cõi chết, có tính cách thấu nhập như luồng sáng thâu qua thủy tinh, giống như Chúa đã xuất ra khỏi cung lòng trinh khiết của Mẹ Thánh Người, mà không làm thiệt hại nhưng còn thánh hiến sự trinh khiết vẹn toàn của Mẹ.

III. ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC VĨNH PHÚC THIÊN ĐÀNG

Để chiếm được sự sống đời đời và đạt được hạnh phúc Thiên Đàng vĩnh cửu cách chắc chắn bảo đảm, Chúa đã ban cho chúng ta một thứ Lương Thực Nhiệm Mầu, đó là Bánh Thánh Thể Chúa Kitô, vì theo lời Chúa quả quyết: “Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn Bánh này sẽ được sống đời đời; mà Bánh Ta sắp ban chính là Thịt Ta nuôi sống thế nhân” (Jn 6:51-52). Chúa còn xác quyết nếu chúng ta ăn Thịt và uống Máu Thánh Chúa cách xứng đáng, chúng ta sẽ được phục sinh vinh hiển trong ngày sau hết: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết” (Jn 6:54). Nhờ lãnh nhận Bánh Thánh Thể cách xứng đáng, chúng ta còn được Chúa sống trong chúng ta và chúng ta được sống trong Chúa: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. Như Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Ta và Ta sống bởi Cha thế nào thì kẻ ăn Ta cũng sẽ bởi Ta như vậy” (Jn 6:57-58).

Nếu chúng ta lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa cách xứng đáng, chắc chắn Chúa sẽ ban cho chúng ta được đúng như lời Chúa đã hứa, là cho chúng ta chiếm được sự sống đời đời, được phục sinh vinh hiển và được tận hưởng hạnh phúc Thiên Đàng vĩnh cửu… Trái lại, nếu chúng ta lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa cách bất xứng thì theo lời Thánh Phaolô: “Nếu anh chị em lãnh nhận Thánh Thể Chúa cách bất xứng, thì anh chị em ăn và uống án phạt cho mình” (1 Cor 11:29).

Kết Luận

Xin Mẹ giúp chúng con biết lãnh nhận Thánh Thể Chúa là Hoa Trái của lòng Mẹ cách xứng đáng, để chúng con cũng đáng lãnh nhận sự sống muôn đời trong hạnh phúc vĩnh cửu Chúa đã hứa ban cho các con cái trung thành.

45. Khi sống lại, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa–Lm. Nguyễn Công Minh, OFM

Cách đây ít lâu, trong giờ giáo lý về đề tài “Tứ chung, những sự cuối cùng,” dành cho các anh chị sắp theo Đạo… Tôi giật mình khi có một chị giơ tay phát biểu: “Em không tin.” Chả là hôm đó đang nói về đề tài: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”… nên phát biểu “Em không tin” tức là “Em không tin có sự sống lại”.

Không phải chỉ có cô học viên đó mà cả tỉ người hiện nay cũng chẳng tin. Mà không chỉ thời nay, thời đại khoa học kỹ thuật, mà thời xưa, thời Đức Giêsu, cũng đã có không ít người chẳng tin, trong đó có phái Sađốc mà hôm nay Luca ghi lại cho chúng ta hay. Tin xác loài người ngày sau sống lại là một niềm tin khó nuốt nhất của Kitô giáo, của Đạo chúng ta.

Bởi vì nếu tin xác loài người sẽ sống lại, thì cả nghìn câu hỏi sẽ đặt ra mà không giải đáp: Sống lại tất cả chỗ đâu mà ở? Lấy gì mà sống? Lấy xác nào mà sống lại: xác ông già nếu mình chết lúc già, xác trẻ thơ nếu mình chết khi còn măng sữa, xác xồn xồn nếu mình tắt thở tuổi trung niên, hay là xác nào? Hoặc xác không còn một tí gì nữa: hoả thiêu rồi, trở thành bụi mùn theo thiên niên kỷ, hoặc vung vãi tứ tung không thu được thì lấy xác nào mà sống lại? Và khi sống lại rồi như vậy chuyện vợ chồng xưa sẽ ra làm sao? Đúng là cả trăm câu hỏi. Chỉ xin dừng lại ở câu hỏi cuối phù hợp với bài Tin Mừng hôm nay: khi sống lại chuyện cưới vợ gả chồng sẽ thế nào – nếu như người Sađốc đặt vấn nạn cho Chúa: một bà kia lần lượt lấy 7 anh em ruột. Khi sống lại, bà là vợ của ai, vợ anh cả hay vợ của em út?

Cũng phải cám ơn phái Sadoc vì nhờ một hạch hỏi có vẻ không tưởng của họ: 7 anh em ruột phải lấy một vợ, mà ta có được câu trả lời là bài dạy duy nhất của Chúa Giêsu về sự sống lại sẽ thế nào.

Một vài lần Đức Giêsu có nói về sống lại: Ta là sự Sống lại. Nhưng sống lại sẽ thế nào, thì đây là bài dạy duy nhất của Chúa Giêsu trả lời cho bè Sadoc: khi sống lại không còn dựng vợ gả chồng nữa.

Câu trả lời đầy đủ của Chúa Giêsu là: Con cái đời này mới cưới vợ lấy chồng, chứ những ai xét là xứng đáng hưởng hạnh phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ lấy chồng nữa, vì họ giống như các thiên thần. Họ là con cái của sự sống lại.

Từ câu trả lời của Chúa, ta thử đặt thành 2 vế:

1. Tại sao khi sống lại, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa? Chúa Giêsu đưa ra 2 lý do:

a) Vì họ không chết nữa. Tai sao không chết lại liên quan tới chuyện hôn nhân? Vì hôn nhân là nhằm sinh con đẻ cái, một hành động kéo dài cuộc sống của mình. Khi mình chết đi thì sự sống của mình sẽ nằm nơi con cái. Nói cách khác, sinh con đẻ cái, cha truyền con nối là muốn mình được sống mãi trong con cái. Bố họ Nguyễn con họ Nguyễn cháu nội họ Nguyễn chắt nội họ Nguyễn, Bố là Ken-nơ-đy, con là Kennedy, cháu cũng Kennedy…. Có con cái thì chết mà vẫn sống.

Vậy khi sống lại, không còn chết nữa thì chẳng cần gì phải kéo dài sự sống nơi con cái, do đó chẳng có chuyện hôn nhân nữa. Nhưng lý lẽ này ít thuyết phục được ai, nên Chúa Giêsu đưa thêm một lý lẽ nữa, đó là:

b) Khi sống lại người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa, vì người ta sống như các thiên thần. Chúng ta giải thích thêm: Chúa nói: khi sống lại, người ta sống tựa như các thiên thần.

Chữ “như” ở đây không phải là giống hệt đâu. Bởi vì thiên thần là loài thiêng liêng – và chỉ thiêng liêng mà thôi. Còn con người là thiêng liêng và cả xác thể nữa, dù cho xác đó là xác phục sinh. Con người sống lại vẫn khác thiên thần. Vì thế chữ NHƯ mà Chúa Giêsu nói nhằm đến công việc: như các thiên thần, nghĩa là chẳng còn mải lo chuyện gì khác ngoài việc phụng sự tán dương yêu mến Chúa. Do đó cũng chẳng còn lo chi đến chuyện cưới gả chồng con vợ cái. Để hoá giải những thắc mắc mà trong phần đầu chúng ta đề ra: nào là chỗ đâu mà ở, lấy gì mà sống, hồn nhập xác nào đây, xác Mỹ hay xác Việt, xác già hay trẻ, xác gãy chân cụt tay hay xác lành lặn tươi tốt hay đã tiêu tán ra ma, lấy gì mà nhập lại, thì chữ “như” các thiên thần trong câu trả lời của Chúa giúp ta thảnh thơi.

“Như” có nghĩa là tựa tựa, hao hao. Thiên thần là loài thiêng liêng, sáng láng. Ta sống lại cũng hao hao sáng láng như vậy. Đến đây ta nghe các nhà khoa học – mà là khoa học cao cấp: khoa học nguyên tử lên tiếng về xác sống lại: Họ nói: chuyện xác sống lại không phải là chuyện khó tin vì vật chất và ánh sang có họ gần với nhau.

Khi đạt đến một điều kiện nào đó thì vật chất biến thành ánh sáng (đây là khởi điểm của bom nguyên tử và ánh sáng kết tinh lại là vật chất).

Vậy tại sao chúng ta lại ngạc nhiên, lại khó tin khi theo chương trình của Tạo Hoá: thân xác vật chất của chúng ta sẽ biến thành ánh sáng. Nếu uranium, plutonium huỷ đi, phải vỡ nguyên tử nó ra thì mới biến thành sức nóng năng lượng ánh sáng chói loà được, thì thân xác của chúng ta cũng phải chết đi, huỷ ra, tan ra, mới trở thành thân xác sáng láng vinh quang được. Chúa Giêsu và thánh Phaolô đã lấy hình ảnh hạt lúa để so sánh với sự sống lại. Hạt lúa có chết đi có huỷ tan mới nảy sinh cây lúa.

Vậy chẳng có gì khó tin khi đến một ngày nào đó thân xác tan rã của chúng ta biến thành thân xác sáng láng tựa như thiên thần.

Ta đã bước vào tín điều khó nuốt nhất: xác loài người sống lại. Nếu xác sống lại cũng giống như xác bây giờ, cũng ăn cũng ngủ cũng lập gia đình… thì quả khó tin; nhưng nếu là xác sáng láng thì lại được, khả tín, có thể tin.

2. Vế thứ hai là vế ngược lại. Từ câu trả lời của Chúa ta mở ra một góc cạnh khác. Nếu khi sống lại trên thiên quốc, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa, thì khi đang sống tại trần gian, những người không lấy vợ lấy chồng, họ là ai? Thưa họ là những người sống trước, những người tiên báo cuộc sống phục sinh mai sau. Đó chính là các tu sĩ với lời khấn khiết tịnh, các linh mục với lời hứa độc thân. Cuộc sống của họ minh chứng và tiên báo cho sự sống lại mai sau. Nhưng ngoài họ ra, tất cả những ai đang sống độc thân, tự nguyện hay do cảnh ngộ, những người không lấy ai, hay chẳng ai lấy, những người ở vậy nuôi con và những người không đi bước nữa, họ cũng cách này cách khác sống trước mầu nhiệm phục sinh. Tất cả đều có thể là dấu chỉ cho sự phục sinh mai sau. Vì khi thân xác sống lại, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa. Amen.

Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM

46. Mất hết cả đời người!–Lm Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc

Lc 20: 27. 34-38: Còn sống trên trần gian, chúng ta hãy tín thác vào Thiên Chúa hằng sống. Ngài luôn yêu thương chúng ta và muốn cho tất cả chúng ta, ngày sau sẽ được sống với Ngài mãi mãi.

Chiều hôm ấy, một nhà bác học đứng trên bãi biển thấy nước phẳng lặng, trời trong veo, ông liền gọi một ngư phủ lấy thuyền chèo đưa ông ra khơi. Hai người cùng trò chuyện: Nhà bác học hỏi người chèo thuyền có biết đọc không? Người chèo thuyền trả lời: “Không”.

Nhà bác học nói: “Vậy thì anh mất hết nửa đời người rồi, uổng quá! Vì biết đọc sách, người ta sẽ tiếp thu được biết bao điều hay, học thêm được bao nhiêu điều mới lạ”.

Rồi ông bắt đầu kể cho người ngư phủ: nào là lòng sâu của biển cả, nào là tuổi đời cũng như độ bơi của bao nhiêu loài cá. Người ngư phủ thích thú lắng tai nghe. Nhưng kìa, trên vòm trời xanh thấy điểm nhiều mây đen từ đâu bay đến, rồi từng cơn gió mạnh quấy động mặt nước, biển nổi sóng. Gió càng thổi mạnh, mây càng hạ thấp. Người ngư phủ đâm ra lo sợ và báo cho nhà bác học hay một cơn giông tố sắp xảy đến. Nói chưa dứt thì một làn sóng mạnh đã lật úp chiếc thuyền nan của hai người. Người ngư phủ lớn tiếng hỏi nhà bác học: – “Thưa ông, ông có biết bơi không?” – “Tôi không biết bơi”, nhà bác học trả lời.

– “Thưa ông, thế thì ông mất hết cả đời người rồi!”

Người ngư phủ lại hỏi thêm: – “Thưa ông, ông có tin đời sau không?”

Nhà bác học vừa lặn hụp chóng chọi dưới làn sóng vừa trả lời: – “Đời sau là cái gì. Im đi! Để ta chết!”

Nhưng người ngư phủ lại nói thêm: “Thưa ông, thế thì ông chẳng những mất cả đời nầy mà còn mất cả đời sau nữa. Thật vô phúc cho ông!” Một cơn sóng lớn đã cuốn hút nhà bác học vào lòng sâu biển cả.

Thưa anh chị em,

Đời như ví như cuộc vượt biển trùng khơi: có khi phẳng lặng, có khi đầy sóng gió. Trong cuộc đời ấy, có người tin rằng: sau cuộc đời dương thế còn có cuộc đời mai sau. Nhà bác học trong câu chuyện trên đây cũng như những người theo pháo Sađốc trong Tin Mừng hôm nay đại diện cho hạng người không tin có cuộc sống đời sau. Còn người ngư phủ đại diện cho hạng người tin có cuộc sống bên kia cái chết, trong đó có chúng ta.

Chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”. Đó là tột đỉnh của niềmhy vọng mà Chúa Kitô đem lại cho chúng ta. Vì nếu không có sự sống lại và cuộc sống đời sau thì tất cả đời người đều vô nghĩa.

Hầu hết các tôn giáo đều nghĩ rằng: chết chưa phải là hết. Con người sau khi chết sẽ được đưa sang một thế giới khác, hoặc được dẫn đến một nơi khác để tiếp tục sống. Nhưng đời sau, đối với họ, là đêm tối, buồn thảm và không có gì hấp dẫn cả. Lý do là vì đó là thế giới của sự chết, của âm phủ.

Các tôn giáo khác có thể tin có sự sống đời sau, nhưng không có tôn giáo nào nói đến sự phục sinh của người chết như kitô giáo. Ngay cả Do Thái giáo, niềm tin vào sự phục sinh của người chết cũng không dứt khoát rõ ràng. Bài đọc I hôm nay trích sách Maccabêô đã nói lên niềm tin nầy: Anh em Maccabêô đã thưa với nhà vua đang định giết hại họ: “Vua chỉ cất mạng sống chúng tôi ở đời nầy, nhưng Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi là những kẻ đã chết vì lề luật của Ngài, được sống lại trong cuộc sống đời đời ”. Vào thời Chúa Giêsu, người Biệt phái cũng tin như vậy. Nhưng những người thuộc phái Sađốc lại không tin có sự sống lại. Chẳng những không tin mà họ còn chế nhạo những ai tin thân xác con người ngày sau sẽ sống lại. Vì vậy, hôm nay họ kéo đến chất vấn Chúa Giêsu để “chọc quê” Ngài. Vì nếu có sự sống lại của kẻ chết thì sau này một người đàn bàn đã lần lượt lấy bảy anh em làm chồng theo luật pháp, sẽ là vợ của ai? Chúa Giêsu đã giải đáp bằng cách cho họ biết rằng cuộc sống sau phục sinh không phải là một sự tái diễn của cuộc sống trên trần gian. Thân xác phục sinh sẽ là một thân xác được biến đổi, không còn đau ốm bệnh tật, không còn già cả và chết chóc nữa. Những người phục sinh sẽ giống như các thiên thần, không còn cần phải cưới vợ lấy chồng để có con cái nối dõi tông đường nữa.

Chúa Giêsu còn dựa vào Ngũ Thư để chứng minh rằng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là Chúa của kẻ sống. Nếu Thiên Chúa đã là Thiên Chúa của các Tổ phụ Abraham, Isaac và Giacop thì các Tổ phục là những người đang sống với Chúa, đang có sự sống lại. Ở đây, Chúa Giêsu đã không tả rõ sự sống lại như thế nào. Điều ngài muốn khẳng định ở đây, đó là “Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống”. Và trong suốt cuộc đời của Chúa Giêsu qua những lời giảng dạy và nhất là qua thái độ của Ngài, Chúa Giêsu đã muốn cho người ta hiểu rằng Thiên Chúa là Đấng ban sự sống, Đấng làm cho sống. Và ngay cả những người tội lỗi, Ngài cũng không muốn họ phải hư mất, trái lại, muốn họ hối cải để được sống và sốn một cách dồi dào. Những phép lạ chữa bênh hay làm cho kẻ chết sống lại của Chúa Giêsu là những dấu chỉ về một Thiên Chúa yêu chuộng sự sống. Và khi Chúa Giêsu đón nhận cái chết trên thập giá, đó cũng là để toàn thắng cái chết, và để trả lại cho loài người sự sống đời đời. Chỉ có căn cứ vào những gì chúng ta biết về Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta mới thấy rõ về cuộc sống của chúng ta sau khi chết. Chúng ta sẽ được sống lại với Ngài.

Chính vì Chúa Kitô đã sống lại mà chúng ta xác tín vào sự phục sinh của những người đã chết. “Thiên Chúa của các Tổ phụ Abraham, Isaac và Giacop là Thiên Chúa của kẻ sống”. Những người mà chúng ta gọi là đã chết là những người đang sống và sẽ sống đời đời với Thiên Chúa hằng sống. Chối bỏ sự sống lại của những người đã chết là chối bỏ Thiên Chúa hằng sống và chân thật.

Anh chị em thân mến,

Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Một lời đầy an ủi cho tất cả chúng ta. Đừng thất vọng trước cái chết của một người Kitô hữu, của những người thân yêu chúng ta. Sự chia ly chỉ có trong một thời gian và tất cả sẽ gặp lại nhau. Lúc đó, chúng ta sẽ thấy một tình trạng mới của những người con Chúa là được giống như các thiên thần và nhất là nên giống Chúa Kitô trong vinh quang phục sinh.

Còn sống trên trần gian, chúng ta hãy tín thác vào Thiên Chúa hằng sống. Ngài luôn yêu thương chúng ta và muốn cho tất cả chúng ta, ngày sau sẽ được sống với Ngài mãi mãi. Ngay bây giờ, hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa bằng một đời sống tốt đẹp hơn, tin tưởng và hy vọng vào Đấng sẽ phục sinh chúng ta trong cuộc sống hạnh phúc đời đời.

“Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”. Amen.

47. Can đảm–McCarthy

Có hai loại can đảm. Loại thứ nhất ồn ào, giận dữ và quyết đoán và liên kết với những nơi như bãi chiến trường. Loại thứ hai im lặng, trong sáng và không quyết đoán. Tuy nhiên, nó hoàn toàn không khuất phục và không để nghiêng ngả theo những lời mua chuộc nào cũng như những lời đe dọa khủng khiếp nhất.

Chúng ta thấy một gương sáng của loại can đảm thứ hai trong câu chuyện người mẹ và bảy người con trai. Nhưng có những ví dụ gần với thời đại của chúng ta. Biến cố sau đây đã xảy ra trong một khu Do thái ở Đông Âu trong thế chiến thứ hai.

Nhà cầm quyền Đức chỉ định một người có tên là Ephraim vào chức vụ chủ tịch Hội đồng Do thái. Một ngày kia, họ yêu cầu Ephraim ra đi và suy nghĩ về điều ấy. Cuối cùng, ông trở lại và trình một danh sách cho nhà cầm quyền Đức. Khi họ xem xét danh sách, thay vì thấy ba mươi tên người, họ thấy một tên người nhưng viết làm ba mươi lần. Đó chính là cái tên Ephraim.

Ephraim biết rằng khi làm điều đó, ông đã ký án tử hình cho mình. Tuy nhiên ông đã từ chối phản bội bất kỳ anh chị em nào của mình, trước sự can đảm như thế người ta cảm thấy nghèo nàn.

Chúng ta thường có khuynh hướng nghĩ rằng sợ hãi và can đảm loại trừ nhau. Nhưng không phải thế. Lòng can đảm không phải là luôn luôn không sợ hãi. Nó sợ hãi và vượt qua sợ hãi, hoặc tiến hành bất chấp sợ hãi. Nelson Mandella nói: “Tôi học được ý nghĩa của lòng can đảm từ các bạn của tôi trong chiến đấu. Nhiều lần, tôi đã thấy những người đàn ông và đàn bà chứng tỏ một sức mạnh và sự hồi phục thách thức trí tưởng tượng. Tôi đã hiểu rằng lòng can đảm không phải là sự vắng mặt nỗi sợ hãi mà là chiến thắng nó. Người can đảm không phải là người không cảm thấy sợ hãi, nhưng là người thắng nỗi sợ hãi ấy”.

Xác tín mình đang làm điều phải sẽ cho chúng ta một sức mạnh to lớn. Chúng ta hành động vì điều thiện hảo sâu xa nhất ở trong chúng ta – vì hình ảnh của Thiên Chúa trong lòng chúng ta.

Như thế, lòng can đảm là một nhân đức quan trọng bởi vì không có nó, bạn không thể kiên trì thực hành một nhân đức nào khác. Tuy nhiên, thế giới không cần có quá nhiều điều này trong đời sống mỗi ngày của nhiều người khi chúng ta nghĩ đến những nỗi đau khổ mà họ chịu đựng và những nhọc nhằn mà họ gánh vác. Lòng can đảm không to tát như khi leo núi cho bằng khi chấp nhận thất bại mà không mất tinh thần.

Mỗi Chúa nhật, chúng ta kết thúc kinh tin kính với những lời: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”. Tin vào đời sau là một trong những niềm tin quan trọng nhất của Kitô chúng ta. Không có đời sau, đời sống chúng ta trên trần gian này là một cuộc hành trình không dẫn đến một nơi nào cả. Với đời sau, đời sống chúng ta trên trần gian là một cuộc hành trình đến miền đất hứa của đời sống vĩnh cửu.

Hy vọng là một phần quan trọng của đời sống. Nếu cơ thể cần có lương thực, thì tinh thần cần có hy vọng. Chúng ta dành phần lớn cuộc đời mình để chờ mong, hy vọng và khát khao một điều này hoặc điều khác. Nhưng chúng ta biết rằng thế gian này không bao giờ có thể làm đầy những hy vọng và khát khao sâu thẳm nhất của chúng ta. Chỉ Thiên Chúa mới có thể làm được điều ấy.

Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta không phải để chết mà để sống đời đời: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.

Viễn cảnh rực rỡ của sự sống vĩnh cửu phải làm cho chúng ta có thể sống vui vẻ mầu nhiệm thân phận mỏng giòn của con người vì nó nằm lơ lửng giữa đất và trời, giữa thời gian và vĩnh cửu, giữa hư vô và vô tận.

48. Vĩnh cửu–McCarthy

Chúng ta có thể dùng lý trí để biện luận rằng có đời sau. Nhưng những người đã làm chứng không phải bằng lời mà bằng công nghiệp và một đôi khi bằng cuộc sống của họ là những luận cứ tốt nhất. Đó là những vị tử đạo, bằng việc làm cho Thần Khí các ngài đã chứng tỏ rằng sự sống mạnh mẽ hơn sức mạnh của cái chết. Chúng ta nghĩ đến bà mẹ và bảy con trai của bà (Bài đọc 1). Nhưng có những tấm gương gần với thời đại chúng ta hơn.

Vào tháng 5 năm 1992, báo Observer đăng lại câu chuyện sau đây. Ba mươi nữ tu của Giáo Hội chính thống Nga bị Stalin giam giữ năm 1929 trong một nơi trước kia là tu viện của đảo Solovetsky trên bờ biển bắc của nước Nga. Như mọi tù nhân của các trại giam, người ta buộc các nữ tu phải lao động. Nhưng các nữ tu ấy cương quyết từ chối làm lao động và giải thích rằng họ không thể đồng ý “lao động cho những nhân viên của tên chống Kitô” (Antichrist).

Ban quản lý trại giam đã phản ứng nghiêm khắc. Nếu người ta không được y tế xác nhận không có khả năng lao động thì người từ chối lao động sẽ bị đánh đập và bị đưa đến một hòn đảo trừng trị mà không một ai còn sống để trở về.

Tuy nhiên, thật lạ lùng chính quyền trại giam dường như không muốn áp dụng sự trừng phạt ấy cho các nữ tu. Người đứng đầu bệnh xá của trại giam bối rối trước thái độ của các nữ tu. Dưới mắt ông, họ là những “tù nhân khó khăn”. Tuy nhiên thái độ của họ không giống những “tù nhân khó khăn” mà ông vẫn gặp. Thay vì kêu gào, la hét, các nữ tu chỉ bày tỏ sự đơn sơ, khiêm tốn và nhân từ.

Cảm thấy tiếc xót cho các chị ông yêu cầu một bác sĩ xác nhận các nữ tu không có khả năng lao động. Bác sĩ cũng là một tù nhân rất cảm kích trước các nữ tu, các chị bình tĩnh và tự chủ, ăn mặc chỉnh tề sạch sẽ. Khuôn mặt các chị tỏa ra một sự thanh khiết của tinh thần khiến người ta ngạc nhiên và sinh ra lòng tôn trọng sâu xa.

Bác sĩ cố thuyết phục các chị lao động, ông kể ra những gương lao động của các Kitô hữu khác. Khi thấy các chị không bị lay chuyển, ông nói ông sẽ nghĩ ra một bệnh nào đó cho các chị và tuyên bố các chị không có khả năng lao động. “Chúng tôi xin lỗi,”một nữ tu ngắt lời, “điều đó không đúng, chúng tôi mạnh khỏe. Chúng tôi có thể lao động. Nhưng chúng tôi không muốn lao động cho kẻ chống Kitô “.

Bác sĩ đã giải thích rằng các chị sẽ bị tra tấn và giết chết. “Thiên Chúa cũng sẽ giúp đỡ chúng tôi chịu đựng sự tra tấn,” một chị nữ tu bình thản đáp lại. Nhiều năm về sau, người bác sĩ ấy viết: “Nước mắt tôi trào ra. Tôi cúi đầu nhượng bộ các chị trong sự im lặng. Tôi đã muốn hôn bàn chân các chị”.

Ít lâu sau, các chị đồng ý may mền bông cho bệnh xá vì người ta cho phép các chị hát thánh thi nho nhỏ trong lúc làm việc. Tuy nhiên, một linh mục đến trại và nói với các chị rằng làm bất cứ việc gì cho các “nhân viên của kẻ chống Chúa” là sai lầm. Vì thế các chị từ chối lao động. Người ta lôi vị linh mục ra ngoài và bắn chết. Không bao lâu sau, các nữ tu cũng chịu chung một số phận.

Các nữ tu tỏ ra không lưỡng lự hoặc hoài nghi hoặc dao động. Nhưng điều đó không có nghĩa việc các chị làm là dễ. Mọi người đều thích sống. Các chị cũng thích sống nhưng không có nghĩa là bám lấy nó bằng mọi giá. Đối với họ, sự sống thật là sự sống muôn đời. Đức tin vào sự sống vĩnh cửu làm cho họ có thể hy sinh đời sống trần gian vì Đức Kitô.

Các nữ tu ấy, tín thác vào Thiên Chúa. Bà mẹ và bảy người con trai cũng đã làm thế. Chúng ta không làm gì hơn là noi gương tín thác Thiên Chúa của họ. Phaolô nói rằng chúng ta có niềm hy vọng chắc chắn. Niềm hy vọng này không bởi chính chúng ta mà bởi Thiên Chúa. Người là Thiên Chúa hằng sống. Chúng ta là con cái Người. Người tạo dựng chúng ta để sống ở đây và sau này. Viễn cảnh rực rỡ ấy làm chúng ta có thể trân trọng sự sống mà không bám lấy nó. Và nó khuyến khích chúng ta sống một đời sống ngay lành.

49. Vấn đề đời sau–R. Gutzwiller

Sau vấn đề quyền bính và luân lý, đối phương tấn công vào mặt giáo lý.

Cần nói ngay, đặt vấn đề như vậy có phần hợp lý. Mỗi lần bắt bẻ, đối phương đều đưa ra một vấn đề có căn cơ. Sự sống lại là một trong những điểm dị biệt quan trọng giữa nhóm Biệt phái và Sađốc. Nhóm Sađốc không tin có sự sống lại. đối với họ, chết là hết. Các tư tế phái Sađốc không đặt lại vấn đề tìm hiểu lập trường của Đức Giêsu về giáo thuyết này. Họ thừa biết Đức Giêsu nói nhiều về đời sau và nhất là về chung cuộc thế giới. Nhưng phải chăng Người là một vị Cứu thế không có sứ mạng gì ở đời này? Niềm hy vọng vào thế giới bên kia, đối với họ, đã chứng tỏ Đức Giêsu không phải là Đấng Xức Dầu của Thiên Chúa.

Vấn đề đời sau có một tầm quan yếu sinh tử đối với toàn thể nhân loại. Thực vậy, nếu không có đời sau, thì con người chỉ có một đường lối duy nhất là tự tạo một cuộc đời trần thế cho thực đẹp, thực hoàn mỹ, sống cho trường thọ và hưởng thụ hết mình. Mọi hy vọng về đời sau sẽ chỉ là ảo mộng và cuối cùng sẽ chuốc lấy thất vọng ê chề. Nhưng nếu có đời sau, thì sự việc sẽ đảo ngược lại, cuộc đời hiện tại chỉ là tạm bợ, là giai đoạn chuẩn bị. Mọi cái đều trông vào lá bài quyết định: tất cả phải quy hướng về đời sau. Tóm lại thái độ của chúng ta tuỳ thuộc vào niềm tin có đời sau hay không. Vấn đề đặt ra không những chính đáng mà còn là vấn đề cơ bản. Tuy nhiên, người Sađốc đặt vấn nạn dưới một điển tích thật buồn cười. Họ tìm được một điểm phi lý, nhưng quá chi li trong niềm tin về sự sống lại. Theo luật Môsê, một người đàn bà goá mà không có con phải kết hôn với em chồng để duy trì giòng dõi cho anh quá cố. Cho nên nhóm Sađốc bèn nghĩ ra một vụ có người đàn bà kết hôn tới 7 lần và sau cùng chính nàng cũng chết. Ở thế giới bên kia, nàng sẽ chung sống với ai? Đặt vấn đề như thế là chưa nói lên đúng trọng tâm của vấn đề ấy là chưa kể vấn đề đó không tưởng. Giải-nghi-học (casuitique) cũng là chuyện hợp lý thôi vì lẽ các nguyên tắc luân lý tổng quát luôn phải được ứng dụng để giải quyết những vấn đề trong hoàn cảnh cụ thể và cuộc sống lúc thế này lúc thế khác. Đó là một chuyện tốt. Nhưng cũng có những nguy cơ: có thể làm mất sự trọng kính chân thực tinh thần của Thiên Chúa. Điều gì cũng đem ra suy tư với lý luận. Người ta tìm những kẽ hở kín đáo và lợi dụng sự tinh tế của luật mà đưa ra những giải pháp không những không phù hợp với chủ đích của lời Chúa mà còn dễ sinh ra sự khinh mạn Lề Luật. Học hỏi lề luật là điều tốt, nhưng nó có thể giảm bớt lòng khiêm nhu tuân phục thánh ý Thiên Chúa.

Ở đây chúng ta thấy Đức Giêsu tin có đời sau hay không, đối với nhóm Sađốc, đó là điều không quan hệ. Điều họ muốn ấy là lấy một trường hợp lắt léo để làm đầu đề chế nhạo giáo lý về đời sau, và chính Người giảng dạy giáo lý đó nữa: Đức Giêsu.

Đức Giêsu trả lời. Trước tiên Người cho họ biết trường hợp họ đặt ra đó và thái độ của họ chỉ hoàn toàn là chuyện bên lề. Đời sau là một thực tại, nhưng lại rất khác đời này. Nơi cao xanh, tất cả đều biến đổi: không còn cưới hỏi gì nữa. Chúng ta chẳng thể biết liên hệ ra sao giữa vợ với chồng nữa. Không nên lấy tiêu chuẩn thế trần mà xét đoán đời sau. Vốn liếng tư tưởng của con người không có đủ năng lực để diễn tả Thiên Chúa và thế giới siêu nhiên, dù chỉ là tối thiểu. Mọi sự đều khác, lý do dễ hiểu: khi đó Thiên Chúa vô biên sẽ hiển hiện trong vinh quang và vạn sự đều mờ khuất trước ánh quang sán lạn của Người. Ở đời này con người còn có một chút giá trị vì Thiên Chúa chưa hiển hiện. Nhưng ở đời sau Thiên Chúa là vấn đề duy nhất và mọi sự khác hoàn toàn chỉ phụ thuộc. Vấn nạn của nhóm Sađốc bắt nguồn từ cách trình bày sai lầm tự căn bản quan niệm thấp hèn. Nó không dính dáng gì đến niềm tin tưởng ở cuộc đời mai hậu, nhưng là do ý niệm quá ấu trĩ và trần tục của họ. Lần này, Đức Giêsu cũng lại phá tan mưu mô xảo quyệt của đối phương và còn cho họ thấy sự cao cả và vô biên của Thiên Chúa. Sau đó Người xác nhận rằng đời sau có thực với lý chứng của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng sống động, Người đã tác tạo sự sống và không nỡ để sự sống biến dần thành hư vô nhưng Người duy trì sự sống qua việc hồi kẻ chết và ban phát sự sống trường cửu. Khi nói Thiên Chúa của Ápraham, của Isaác và của Giacóp, Kinh Thánh không chỉ có ý gợi lại các biến cố thời quá khứ và những nhân vật đã qua rồi: Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết. Vì đó Ápraham, Isaac và Giacóp hiện nay đang sống. Các Ngài sống ở thế giới bên kia vì Thiên Chúa, Đấng sáng tạo, đã ban sự sống cho các Ngài tồn tại. Niềm tin chân chính vào Thiên Chúa đi đôi với niềm tin bất tử và sự khác biệt giữa cõi đời hiện tại với thế giới mai sau. Chỉ có ở trước nhan Thiên Chúa hằng sống mới tìm được giải đáp đúng đắn cho vấn đề này: giải đáp không phải của phàm nhân mà là của Thiên Chúa. Như vậy là hai lần bắt bẻ của đối phương đều bị phá vỡ cùng một kiểu cách: chính Thiên Chúa làm họ phải bẽ mặt.

50. Kẻ chết sống lại–Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

1. Trong đoạn trước, Chúa Giêsu đã làm bẽ mặt người biệt phái cố ý giăng bẫy Ngài khi đề cập đến vấn đề nộp thuế cho hoàng đế César. Sau những người biệt phái, là những người không dám chất vấn Ngài nữa, các nhân vật khác bắt đầu nhập cuộc. Họ thuộc về một trong ba phái Do thái đồng thời với Chúa Giêsu. Đó là những người Sađđuceô, nghĩa là “con cáo của Sađoc”, thuộc chi họ Lêvi (Ez 40,46). Họ thuộc giai cấp tư tế, nhưng từ lâu họ không còn giữ đạo Do thái cách thuần túy. Nếu trung thành làm các việc phụng tự bên ngoài, họ lại rất ít quan tâm đến các giáo điều nói về niềm tin tôn giáo: vì phụng vụ đã làm họ thỏa mãn. Hoài nghi kiên quan đến tín điều, họ quả quyết “không có sự sống lại, không có thiên thần” (Cvsđ 23,8), cũng như phủ nhận bất tử tính của linh hồn (theo Josèphe Ant.jud., XVIII,1,4). Điều sau này không đúng. Trong các điều họ phủ nhận, ở đây Lc chỉ nói điều phủ nhận về sự sống lại, bởi vì họ tranh luận với Chúa Giêsu về điểm này.

Sự sống lại là điểm giáo lý khiến họ ly khai với người biệt phái và khi phủ nhận điều đó, họ cho mình là người giữ lại niềm tin cổ truyền của Israel. Họ công nhận sau khi chết, linh hồn vẫn còn sống trong Shéol. Niềm tin vào sự sống lại xuất hiện vào thời các sách Macabêô hoặc vào thời đại trước đó, dưới ảnh hưởng của một đời sống sâu xa hơn, của ước muốn thông hiệp chặt chẽ hơn với Thiên Chúa trong một thế giới tốt đẹp hơn. Sự hiện diện của những hồn ma trong Shéol không thể lấp đầy những khát vọng đó. Chỉ có sự nối kết giữa linh hồn và thể xác bên cạnh Thiên Chúa mới có thể làm họ thỏa mãn. Niềm hy vọng về sự sống lại được củng cố trong suốt các cuộc chiến tranh tôn giáo. Thế nhưng đối với người Sâđđucêô, đó lại là một tín điều mới và họ phủ nhận điều đó, in tuồng họ đã đồng hóa với triết lý Hy lạp.

2. Chúa Giêsu chia sẻ niềm xác tín của người biệt phái và dẫn chứng: thực sự có việc người chết sống lại. Đó là lý do khiến một vài người Sâđđucêô tìm cách chế diễu Ngài.

Họ bắt đầu bằng cách nại đến thế giá của Môisen mà Chúa Giêsu không thể nhìn nhận. Trong sách Đnl (25,5tt), luật Môisen buộc người nào đó, có anh đã cưới vợ nhưng đã chết mà không có con, phải cưới bà góa đó và sinh con thừa tự cho anh mình; đứa con đầu tiên sinh ra do sự phối ngẫu này được xem như là con đẻ của người đã quá cố, được phép nhân danh người quá cố để tiếp tục sống trong Israel. Luật này trở nên khe khắt trong trường hợp cả hai anh em cùng sống chung với nhau, những người Sâđđucêô bỏ qua chi tiết này. Vả lại, chi tiết này không nhập gì đến lập luận mà họ muốn dựa vào để bác bỏ sự sống lại.

Theo họ, việc áp dụng luật này nhất thiết chứng minh rằng: không thể có sự sống lại. Họ đưa ra trường hợp một người chết không con, sáu anh em của người này tuần tự lấy chị dâu mình rồi cũng chẳng ai có con, người thứ bảy cũng thế. Cho quá đáng trong con số 7 có mục đích cho ta thấy việc sống lại là chuyện không thể tin được.

Đến lượt người đàn bà cũng thế. Nếu có việc sống lại bà sẽ ra sao? Ai trong 7 anh em sẽ là chồng bà Bởi vì không ai trong bảy người có con và tất cả đã chấp hành đúng luật Môisen, nên tất cả đều có quyền lợi đồng đều đối với bà. Quả vậy, tình cảnh thật đáng buồn cười khi người ta có một quan niệm vật chất về sự sống lại, có lẽ đó cũng là quan niệm của người biệt phái.

3. Chúa Giêsu bắt đầu cách bác bỏ chính ý kiến sai lầm về sự sống lại. Thật thế, người Do thái tin rằng khi sống lại người ta sẽ tiếp tục cuộc sống ở trần gian này. Tuy nhiên, họ nghĩ rằng cuộc sống này xem ra có thể làm cho họ vui thích. Một tiến sĩ luật danh tiếng đã nói: “trong ngày đó (sau khi sống lại) người đàn bà sẽ sinh con trong mọi ngày”; càng nhiều con, niềm vui của kẻ có con càng lớn lao. Điều mà người Sâđđucêô minh chứng, nhắm đến chính kiểu tin tưởng này về sự sống lại. Thế nhưng Chúa Giêsu lại không tin vào sự sống lại theo kiểu này. kẻ sống lại từ cõi chết không dựng vợ gả chồng và không đính hôn. Đời sống của những người sống lại không phải là sự tiếp nối đơn thuần đời sống trên trần gian.

Người sống lại không thuộc về thế giới trần thế này nữa, nhưng thuộc về một thế giới mai hậu, một thế giới mới. Viễn ảnh lịch sử trong sấm ngữ Do thái nói đến hai thời kỳ, hai thế giới, hai thời đại của thế giới: thế giới này và thế giới khác. Tiếp theo sau thời kỳ hiện tại là thời kỳ của bất công, phiền não, chết chóc, bại hoại tội lỗi, sẽ đến thời kỳ mới vô cùng tận, mọi sự độc dữ sẽ bị tiêu diệt, sự bại hoại luân lý sẽ bị xua trừ, sự vô tín sẽ bị loại bỏ, nơi đó sự công chính sẽ được biểu dương và chân lý sẽ là điều duy nhất được mến chuộng. Tân ước lấy lại hình ảnh này. Con cái của thời này, của thế giới này, phải tùng phục tội lỗi và cái chết; nhưng những người được Thiên Chúa tuyển chọn và ban ân sủng, thuộc về thời kỳ mới này sẽ lãnh nhận đời sống vĩnh cửu và được thông phần vào sự sống lại từ cõi chết (x.Mt 12,2; Lc 16,8; 20,34; “thời kỳ này”; Lc 20,35: “thời kỳ đó”; Mc 10,30; Lc 18,30: “thời sẽ đến”; Mt 12,32: “thời tương lai”).

Hôn nhân được sử dụng trong thế giới hiện tại, bây giờ. Nhưng sẽ không cần thiết trong thời kỳ sẽ đến, vì thời đó người ta không còn phải chết nữa. Đó là sự tiếp tục truyền sinh nhân loại được hiểu ngầm như là ý nghĩa của hôn nhân (Stk 1,28). Khi đạt tới bất tử, con người không còn cần hôn nhân nữa. Người Sađđucêo đã chứng minh sai. Hôn nhân chỉ có trong một thời.

Những người của kỷ nguyên sẽ đến được bất tử vì họ giống như thiên thần. Họ hiện hữu với cách thế thiên thần. Họ được sống như vậy vì là con cái Thiên Chúa. Kinh thánh thường ám chỉ các thiên thần dưới danh hiệu “con Thiên Chúa” (x. chẳng hạn Giop 1,6; 2,1). Họ thông phần vào vinh quang của Thiên Chúa, vào sức mạnh và ánh sáng của Ngài (Cvsđ 12,7). Những người sống lại được dự phần vào dòng dõi Thiên Chúa (1Gio 3,2; Rm 8,21), vinh quang (Rm 8,18), một “thân xác thần thiêng” (1Cor 15,44). “Cũng vậy, về sự kiện kẻ chết sống lại: gieo xuống trong ô nhục, người ta sống lại trong vinh quang; gieo xuống trong yếu đuối, người ta sống lại trong quyền năng; gieo xuống là xác khí huyết, sống lại, sống lại là xác thần thiêng” (1Cor 15,44tt). Những người sống lại không còn phải chết nữa. Những người đạo hạnh của thế giới ngoại giáo, Hy lạp, đương thời ước ao được sống hạnh phúc trong một thứ tình trạng được thần linh hóa, một đời sống không còn bị cái chết đe dọa; họ hy vọng đạt được nhờ cử hành các bí nhiệm hoặc nhờ trực quan, “tri thức”. Nhưng họ không quan niệm được một cái gì thích thú trong sự sống lại thể lý, bởi vì thân xác được coi như là một gánh nặng, một nhà tù và như vậy là mồ chôn của linh hồn. Sự sống lại có giá trị nhiều hơn sự bất tử; người chết sẽ sống lại với tư cách là hữu thể không thể bị hủy diệt và “chúng ta sẽ được biến đổi” (1Cor 15,52): không phải chỉ có linh hồn sẽ sống, chính con người toàn diện với cả xác lẫn hồn sẽ có đời sống vô cùng tận.

Người sống lại đã được xét là xứng đáng với thời kỳ sẽ đến. Sự sống lại là một tặng phẩm của Thiên Chúa, một tặng phẩm hoàn toàn nhưng không, cũng như nước trời (2Th 1,5). Thế nhưng không phải chỉ có những người Thiên Chúa tuyển chọn và xét xứng đáng mới sống lại mà là tất cả mọi người, tội lỗi cũng như người công chính. Lc nhận biết niềm hy vọng này, rằng sẽ có một sự sống lại của những người công chính và bất chính (Cvsđ 24,15). Nhưng đối với những người công chính, sự sống mới là vinh quang (14,14). Chúa Giêsu ở đây nghĩ đến chính sự sống lại của người công chính khi Ngài nói với họ được xem như là xứng đáng với thời kỳ sẽ đến.

Các câu 37-38 mang lại, nếu không phải là bằng chứng mới, ít nhất cũng một giai đoạn mới người lời minh chứng của Chúa Giêsu. Đó là câu Chúa Giêsu trích dẫn Kinh thánh dựa trên thế giới của Môisen, mà người Sađđucêô vừa viện dẫn. Trong bộ ngũ thư, trong đoạn nói về bụi cây đang cháy (Xac 3,1tt), Thiên Chúa tự xưng là Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và của Giacop. Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống. Từ hai tiền đề đó, hình như phải kết luận về sự bất tử của linh hồn hơn là sự sống lại. Có một khó khăn về nghĩa từng chữ của sách Xac, trong đó Thiên Chúa tự xưng là Thiên Chúa mà tổ phụ dân Israel đã thờ lạy. Thật là thích đáng khi nghĩ Thiên Chúa đã cho đoạn này một nghĩa sâu xa hơn: Thiên Chúa vẫn còn là Thiên Chúa của những ai phụng sự Ngài và hằng tiếp tục sống cho Ngài. Vậy các tổ phụ vẫn còn sống. Để từ một sự bất tử của linh hồn đến sự sống lại mà Chúa Giêsu chắc chắn muốn dựa vào đoạn văn này để chứng minh. Phải nại đến lòng tin tưởng của người Do thái về đời sống ở thế giới bên kia. Người công chính đi vào Shéol, ở đó họ chưa được hạnh phúc đời sống họ vì thế chưa được hoàn toàn. Đời sống của họ, nhờ vâng theo thánh ý Thiên Chúa, đáng được thưởng công, linh hồn họ đáng được Thiên Chúa đưa ra khỏi Shéol để sống đời sống mới hoàn hảo hơn. Đời sống này sẽ được ban cho họ khi sống lại; và chỉ đời sống mới này mà họ sống lại từ cõi chết. Nếu đã chết đối với loài người, thì nay họ vẫn còn sống đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã sáng tạo con người bất tử, chính vì sự đố kỵ của ma quỉ mà cái chết đi vào thế gian (Kn 2,23-24). Ý định của Thiên Chúa không thể mãi mãi bị ngăn chận do sự can thiệp của ma quỉ: con người sẽ tìm lại được quyền bất tử của mình, được diễn tả cách đẹp đẽ trong sự sống lại.

4. Người Sâđđucêô ngượng ngùng vì lập luận của Chúa Giêsu. Ngài được các ký lục hiện diện ở đó hoan nghênh, dù họ là đối thủ của Ngài. Sự hoan nghênh đó vì hai lý do: họ thán phục cách Chúa Giêsu lập luận chống lại người Sađđucêô và minh chứng được niềm tin vào sự sống lại mà họ vẫn có; đàng khác sự thất bại mà họ vừa chịu (về vấn đề nộp thuế cho vua César) cho họ một bằng chứng mới về nguy hiểm họ gặp khi muốn bắt bẻ Chúa Giêsu; trong trường hợp đặc biệt này, họ muốn hoan nghênh Ngài hơn là liên minh vào một cuộc tranh luận mới sẽ làm họ bẽ mặt như những cuộc tranh luận trước.

KẾT LUẬN

Qua lời tuyên bố long trọng của Chúa Giêsu về sự sống lại, qua tất cả các đoạn phúc âm nói về vương quốc Thiên Chúa, một lần nữa tỏ ra cho ta thấy một thứ phúc âm của sự sống. Tuy nhiên, ai xác tín về sự bất tử dành cho những vị thánh sẽ được sống lại trong Chúa (Gio 11,25-26) cũng cảm thấy mình đang sở hữu trong chính mình cái bí mật của đời sống vĩnh cửu đó.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Người Sâđđucêô đến chất vấn Chúa Giêsu về việc người chết sống lại. Ít khi chúng ta gặp phải những người Sađđucêô này, chúng ta thường thấy các cuộc đối chất giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái hơn. Thật ra nhóm Sađđucêô, một chi tộc Do thái khác, ít hơn nhóm Biệt phái, họ kết thành giai cấp tư tế của đền thờ Giêrusalem và là một phe phái chính trị hơn là tôn giáo. Tuy nhiên họ đối lập với các người biệt phái, bởi lẽ với khuynh hướng rất bảo thủ về Israel, họ giới hạn mạc khải vào 5 cuốn sách đầu tiên trong toàn bộ Kinh thánh và phủ nhận sự sống lại của thân xác. Vậy họ đến hỏi Chúa Giêsu một vấn nạn liên quan đến mạc khải về sự sống lại để làm cho Ngài lúng túng.

2. Chính vì thế, họ phịa ra một câu chuyện khá kỳ lạ. Đi từ một lời khuyên luân lý hoàn toàn xác đáng của luật, đòi buộc bà góa không con phải được em chồng lấy làm vợ. Họ tưởng tượng ra một trường hợp một người đàn bà đã lần lượt lấy 7 anh em và sau đó thắc mắc làm sao sự sống lại có thể có được, vì người đàn bà này không có thể là vợ của 7 anh em trong một lượt, khi cả bảy anh em sẽ được sống trong cuộc sống sau khi chết này. Từ đó, họ kết luận sự sống lại sau khi chết là phi lý, vì như vậy, sự sống lại gây nên những tình cảm vô nghĩa.

3. Vấn nạn, hay đúng hơn thể thức của vấn nạn xem ra đáng buồn cười; thật ra không đáng buồn cười lắm đâu, nó khiến chúng ta nghĩ đến vấn nạn mà hiện nay người ta có thể đặt ra. Bàn về cuộc sống sau khi chết, nhiều người hoặc sẽ phủ nhận hoặc sẽ chế giễu theo quan niệm của họ.

Đối với một số người, cuộc sống sau khi chết là chính cuộc sống hiện tại một khi được hoàn toàn thành công; và tùy theo hoàn cảnh và tính tình, cuộc sống đó đối với mỗi người sẽ là việc nối tiếp tình yêu hôn nhân sâu sắc, tiếp tục được một gia đình hạnh phúc, được hoan lạc bình an trong công bình và chính trực; đối với người khác, cuộc sống sau khi chết là một thế giới nhiệm mầu, đầy quyến rũ nhưng mù mờ, tương ứng với các hoài vọng về một thiên đàng trần thế.

Đối với một số người khác, thiên đàng trần thế không phải là cái gì xa vời nhưng đạt được ngay từ bây giờ, đó là chủ trương của người Mac-xít và tất cả những ai ngây thơ tin vào sự tiến bộ vô hạn định của nhân loại. Sự sống lại từ cõi chết có hay không và sẽ xảy đến thế nào? Có nên tin điều đó không và làm cách nào để xác tín? Đó là những vấn nạn chúng ta đang đặt ra cho Ngài.

4. Ngay lúc đó, Chúa Giêsu lấy lại một ví dụ của các người đối thoại với Ngài; họ nói về sự hôn nhân và sự vĩnh tồn của hôn nhân sau khi chết. Chúa Giêsu nói chỉ có người đời này mới dựng vợ gả chồng; đó là chuyện hợp tình hợp lý trên trái đất, nhưng không thích hợp với những người sống ở thế giới bên kia. Trong thế giới khác, khi sống lại từ cõi chết, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa.

Khi bàn về sự sống lại và đời sau, những người này đã dựa trên kinh nghiệm trần thế của họ. Đó là một sai lầm. Hai thế giới khác biệt nhau, không thể có chuyện so sánh. Để giải thích, Chúa Giêsu nói: “Họ giống như thiên thần”. Điều này không có nghĩa họ không còn là người, nhưng là người đã thoát khỏi điều kịn trần thế; và sự hiện hữu mới của họ cũng khác với sự hiện hữu lúc còn tại thế.

Sau đó Ngài minh xác hai trong số đặc điểm rõ ràng nhất của đời sống sau khi chết. Trước hết Ngài nói: “Họ không còn phải chết nữa”, họ thoát khỏi những định luật của sinh vật học, thoát khỏi luật phát triển được quan niệm bằng những hạn từ: biến đổi, đào thải, mỏng dòn và lão yếu. Và “họ là con cái của Thiên Chúa”; một cuộc sống mới đến thay thế cuộc sống cũ, một cuộc khai sinh mới đã được thực hiện.

5. Câu trả lời của Chúa Giêsu thật quan trọng, vì giải đáp những vấn nạn của người Sađđucêô và của chúng ta. Không thể dựa trên cuộc sống trần thế nàỵ để bàn về cuộc sống đời sau. Phải dựa trên chỗ khác. Nếu đi từ kinh nghiệm bản thân, anh chị em sẽ quan niệm sai lầm, đó là câu trả lời thứ nhất của Chúa Giêsu.

6. Trả lời như thế xem ra tiêu cực, nên Ngài tiếp tục (trả lời) để chứng minh cho người Sađđucêô, việc kẻ chết sống lại, Ngài nại đến Môisen và dùng luận chứng xác tín nhất của họ, vì đối với họ ngoài Môisen không còn vị đại diện tiên tri nào nữa. Chúa Giêsu nói với họ: “Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và của Giacop, không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là của kẻ sống; quả vậy mọi người đều sống với Ngài”. Chúa Giêsu khuyên đừng quan niệm về một Thiên Chúa chỉ có thể yêu thương cách bất toàn, tạm thời. Quan niệm như thế là lộng ngôn phạm thượng. Nếu yêu thương ai, Ngài yêu thương mãi mãi, không thể để họ chết mà không cho sống lại. Quả thật, Chúa Giêsu không chứng minh gì cả. Dựa vào kinh thánh, Ngài khẳng định rằng chối bỏ sự sống lại sẽ làm mất đi tầm vóc, mật độ và lòng kính yêu trong niềm tin vào Thiên Chúa hằng sống và chân thật. Nếu tin vào Thiên Chúa của kẻ sống, anh chị em phải tín nhiệm và tin cậy vào Ngài về một đời sau không thể không hiện hữu. Chối bỏ sự sống lại, chính là xếp Thiên Chúa hằng sống và chân thật ngang hàng với các ngẫu tượng câm nín và vô dụng.

7. Câu trả lời của Chúa Giêsu là lời mời gọi tín thác vào Thiên Chúa hằng sống, Đấng luôn yêu thương chúng ta và hết lòng ước ao một ngày nào đó chúng ta sẽ được sống với Ngài mãi mãi. Ngay bây giờ, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi này bằng một đời sống đầy tin tưởng và hy vọng vào đấng sẽ phục sinh chúng ta.

51. Diễn từ về Giêrusalem đổ nát–Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

1. Diễn từ này bắt đầu bằng một lời khuyến cáo (cc. 8-9). Chủ đề chỉ được đề cập với các câu 10-11: mô tả các tai họa trong vũ trụ. Diễn từ này bị gián đoạn vì lời khai triển dài dòng về các biến cố sẽ phải đến “trước tất cả các điều đó”, là các biến cố không có giá trị dấu chỉ tiên báo ngày chung cục sắp đến: một đàng là các cuộc bách hại người Kitô hữu sẽ phải chịu (cc.12-19), đàng khác là hình phạt sắp giáng xuống Giêrusalem (cc.20-24). Lúc đó bài diễn từ mới bàn tiếp các tai họa vũ trụ sẽ phải xảy ra khi đến ngày thế mạt (cc.25-33). Diễn từ kết thúc bằng một lời khuyến cáo mới (cc.34-36). Đây là lược đồ qui tâm (expose concentrique) của diễn từ.

A. Lời khuyến cáo đầu tiên (cc. 5-9)

B. Các tai họa vũ trụ (cc. 10-11)

C. Điều xảy ra trước:

a) bách hại người Kitô hữu (12-19)

b) hình phạt Giêrusalem (20-24)

B’. Các tai họa vũ trụ ngày thế mạt (25-33)

A’. Lời khuyến cáo cuối cùng (34-36)

Như vậy đoản văn chúng ta chú giải dừng lại ở giữa bài diễn từ. Tuy nhiên đừng quên rằng mỗi một thành tố đều có ý nghĩa trong toàn thể.

2. Câu người ta hỏi Chúa Giêsu ở câu 7 có hai phần: trước hết hỏi về thời gian (“khi nào?”), đoạn hỏi rõ ràng hơn về dấu chỉ để nhận ra biến cố thực sự đang xảy ra. Cách đặt câu hỏi như thế giống với hai phúc âm nhất lãm kia. Nhưng biến cố Lc nhắm đến là việc phá hủy đền thờ, còn Mt và Mc đi từ việc phá hủy đền thờ sang ngày thế mạt. Rõ ràng hơn Mc 13,4, Mt đặt câu hỏi như sau: “Khi nào các điều đó xảy ra và đâu là dấu chỉ điềm báo ngày Ngài quang lâm và ngày thế mạt đến?” (Mt 24,5). Việc phá hủy Giêrusalem, việc Con Người đến và ngày thế mạt liên hệ mật thiết với nhau. Lc hủy bỏ mối liên hệ đó. Việc phá hủy đền thờ không là thành tố của các biến cố đó. Trong suốt bài diễn từ, Lc cố ý tách rời việc phá hủy đền thờ khỏi biến cố thế mạt, loại bỏ mọi tương quan giữa hai sự kiện đó. Ngay từ đầu, ông đã muốn tránh mọi lầm lẫn giữa hai biến cố. Ông tạm thời lưu tâm đến số phận đền thờ và chỉ đề cập đến ngày thế mạt khi ông có thể minh chứng thế mạt không liên hệ gì đến biến cố năm 70. Câu hỏi trong câu 7 rõ ràng nhắm đến số phận đền thờ, và toàn bộ bố cục diễn từ cũng xác quyết điểm đó.

3. Chúa Giêsu nói lời cứng rắn mạnh mẽ chống lại đền thờ và nói đó được xem như là thời điểm cao nhất trong việc rao giảng phúc âm, vì lời đó tiên báo Israel sẽ bị kết án và loại bỏ. Theo Lc, Chúa Giêsu nói lời đó ngay chính trong đền thờ, sau khi đã thanh tẩy đền thờ, điều đó cho thấy Ngài thực sự quản lý vật sở hữu của Ngài. Đền thờ là dấu chỉ cụ thể Thiên Chúa đang hiện diện giữa dân Người; Israel thấy đền thờ là lý do tồn tại của mình trong tư thế là dân được tuyển chọn. Việc phá hủy từ đây ám chỉ họ đã bị bỏ rơi và cùng khổ, nhục nhã, là những điều mà tiên tri Malakia đã tiên báo (3,21). Trong lúc mọi người hết lời ca tụng, ngưỡng mộ vẻ đẹp đền thờ, Chúa Giêsu chỉ thấy đổ nát thiêu hủy. Qua sự kiện này, Ngài tiếp nối sự nghiệp các tiên tri liên tục tiên báo các sự đổ nát đã xảy ra (Mi 3,9-12; Giêr 7,14; 26,18; Ez 2,21). Đến lượt mình, Chúa Giêsu nói tiên tri và hoàn tất sự đổ nát, vì từ đây Ngài là dấu chỉ duy nhất về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại.

4. Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi về ngày giờ và dấu chỉ cuộc phá hủy Giêrusalem. Thay vì trả lời như thế, c.8 đề phòng các Kitô hữu coi thường các kẻ gian manh sẽ tìm cách đánh lừa họ. Lc trước hết lấy lại phương cách mà Lc đã gán cho họ: họ là những kẻ tự xưng là đến “nhân danh” Chúa Giêsu, họ nói: “chính ta đây”, và tìm cách làm thiên hạ kính trọng họ như là Đấng Kitô. Mc chú tâm nhiều đến hiểm họa Kitô giả, đến nỗi đã nhắc lại trong phần cuối bài diễn từ (Mc 13,21-23); họ sẽ làm nhiều dấu chỉ và phép lạ, và lừa gạt được nhiều người. Lc loại bỏ lời khuyến cáo thứ hai, và việc đề phòng của ông, ở c.8 không xác quyết là họ sẽ thành công trong việc lừa gạt thiên hạ.

Ngược lại Lc thấy trước một hiểm họa khác, đối với ông xem ra khẩn trương hơn: hiểm họa các người gian manh loan báo “thời giờ đã đến gần đến”. Theo Lc, đó là “thời giờ” nào? Dựa vào câu hỏi ở c.7, người ta có thể nghĩ đó là thời gian tàn phá đền thờ. Nhưng chắc chắn Lc không nghĩ đến điều đó. Ta thấy được điểm này nhờ câu thiếp theo, là câu nói đến tai ương mà người ta chỉ có thể kết luận là “ngày tàn” của các tai ương đó sắp chấm dứt. Diễn từ tiếp tục đề cập đến các dấu chỉ, theo đó có thể biết là “sự cứu thoát các con đã gần kề” (c.28), và “Nước Thiên Chúa đã gần đến” (c.31). Sai lầm mà Lc muốn người Kitô hữu đề phòng là sai lầm trong ông lưu ý trong 19,11: “Chúa Giêsu lại nói thêm một dụ ngôn nữa, vì Ngài đã đến Giêrusalem, và người ta tưởng rằng liền ngay đó nước Thiên Chúa sẽ xuất hiện”. Đây là hiểm họa làm Lc lo lắng: là các Kitô hữu háo hức nghe theo ảo giác của những kẻ tưởng giờ thế mạt đã gần kề, rằng Nước Thiên Chúa sắp tỏ hiện trong vinh quang, rằng Con Người sẽ ngự xuống trên đám mây. Các lời loan báo như thế tạo nên một cơn sốt tạm bợ và sẽ gây thất vọng và khủng hoảng đức tin: người ta sẽ thôi chờ đợi, không sống trong hy vọng nữa. Chính vì thế Lc nhấn mạnh: “Các con chớ nghe theo chúng”.

Câu 9 cũng cản giác một nguy hiểm tương tự: nguy hiểm giải thích các biến cố (không chút liên hệ đến thế mạt) như là dấu chỉ ngày thế mạt đã gần kề. Theo Mc, người ta sẽ nghe nói về chiến tranh giặc giã; Lc xác định rõ hơn: “Có chiến tranh và hoan lạc”, là chữ chỉ các cuộc nổi dậy, phản động, và người ta nghĩ ngay đến cuộc nổi dậy của dân Do thái. Lúc bấy giờ chớ sợ hãi. Mc giải thích: “các điều đó sẽ phải xảy ra, nhưng chưa phải là tận thế”. Ở đây Lc cũng xác định và nhấn mạnh rõ: “Các điều đó phải đến trước, nhưng chưa phải là tận cùng ngay đâu”. Đối với Mc, chiến tranh giặc giã chỉ là dấu chỉ xa của ngày tận thế thì ra chúng biểu hiện “giờ đau khổ đã điểm” (Mc 13,8). Trong Lc, chiến tranh, nổi loạn không có giá trị dấu chỉ tiền phong, dù là dấu chỉ xa; chúng không liên hệ gì với ngày tận thế. Chúng phải xảy ra trước, nhưng không phải là lời loan báo về ngày tận thế.

Lc biết ngày tận thế không thể đến ngay. Ông sợ các ảo giác về vấn đề này sẽ làm lung lạc đức tin của Kitô hữu, khiến họ phải thất vọng. Lời khai mào diễn từ cánh chung đã bị ảnh hưởng bởi mối ưu tư về nguy hiểm trên.

Vì chính vì biết ngày tận thế không đến ngay, nên Lc đã không mô tả các dấu chỉ tiền phong của ngày tận thế: chỉ cần hai câu để mô tả là đủ (cc.10-11). Vả lại, các dấu chỉ đó không cho biết thêm điều gì. Các đối thoại viên của Chúa Giêsu đã xin một dấu chỉ, nhưng không phải dấu chỉ về ngày thế mạt, nhưng là dấu chỉ về việc tàn phá Giêrusalem. Chúa Giêsu không cho một dấu chỉ, nhưng nhiều dấu chỉ và các dấu chỉ này không liên hệ tới việc tàn phá Giêrusalem, nhưng liên hệ tới ngày thế mạt. Hơn nữa, các dấu chỉ này mơ hồ đến nỗi bất cứ thời nào cũng cảm thấy bị chúng ảnh hưởng. Nhưng ngoài bối cảnh lu mờ đó, có một điều rõ ràng: ngày tận thế sẽ không đến ngay.

5. Càng nói phớt qua và không minh xác các dấu chỉ tiền phong đó, Lc càng nhấn mạnh đến thái độ người Kitô hữu phải có cho đến ngày thế mạt. Vì thế ngày thế mạt xa dần trong một tương lai bất định, người Kitô hữu càng cần phải sống trong thời gian, đương đầu với lịch sử. Đặc biệt họ phải anh dũng đối đầu với các cuộc bách hại. Và trong lúc Lc ghi lại diễn từ này, các lời Chúa Giêsu tiên báo về việc bách hại trong tương lai đã thực sự thể hiện trong lịch sử; sách Cvsđ đã minh chứng điều đó (Cvsđ 8 và 12).

Lc đã lưu tâm đến đoản văn liên hệ đến các cuộc bách hại đó. Người ta có cảm tưởng ông muốn khích lệ các người bị bách hại khi nhấn mạnh đến các lý do nhằm làm họ tin tưởng cậy trông trong các cuộc thử thách đó. Như thế lòi tiên báo đã biến thành lời mời gọi tin tưởng phó thác. Và Lc làm nổi bật tất cả những gì đem lại lợi ích cho người bị bách hại.

“Điều đó sẽ giúp các con làm chứng” (c.13). Cách dịch này chẳng để ý gì đến việc thay đổi nhãn quan. Ông đặt mình về phe người bị bách hại, để cho thấy lợi ích của các cuộc thử thách họ phải chịu: đây là bằng chứng chắc chắn cho thấy họ sẽ được cứu rỗi. Do đó đúng hơn phải dịch là: “Điều đó sẽ là dịp để các con làm chứng”. Đây là một lời khuyến khích chịu đựng các đau khổ, chúng là chiến tích hùng hồn biện hộ cho họ trước tòa án Thiên Chúa.

Phải đặt lời khuyên đừng lo lắng phải biện hộ thế nào trước mặt vua chúa quan quyền trong chiều hướng khuyến khích đó, vì lời khuyến khích là sứ điệp thiết yếu của diễn từ. Không những Thiên Chúa sẽ lo liệu bằng cách ban khôn ngoan và miệng lưỡi, nhưng còn lo liệu cho lời nói đó đừng trở nên cớ vấp phạm. Không gì có thể thắng nổi lời nói đó. “Ta sẽ cho các con miệng lưỡi và khôn ngoan, làm kẻ nghịch các con hết thảy đều vô phương chống lại hay bắt bẻ các con” (c.15). Cuối cùng Lc thêm lời hứa: “Dù một sợi tóc trên đầu các con cũng chẳng hư mất” (c.17). Câu này được gặp lại ở chỗ khác, trong một bối cảnh khác hẳn (x. Lc 12,7; Mt 10,30) được đặt ở đây, trong cuối đoản văn mô tả các cuộc bách hại, câu đó đưa ra một viễn ảnh đen tối và nặng nề; nó nhắc lại sự che chở đã được hứa trước. Đây cũng là lời mời gọi mới để tín hữu thêm can đảm và tín thác ngay khi gặp phải cảnh bắt bớ gian truân.

6. “Các con sẽ giữ mạng sống nhờ biết bền đỗ” (c.19). Đây là một câu ngắn của Lc, có một nghĩa tổng quát: nó không còn liên hệ với hoàn cảnh lịch sử của những người sống ngay trước ngày thế mạt. Nó có giá trị trong mọi thời. Thực ra, Lc đã không ám chỉ đến ngày sau hết có trong Mc: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu thoát” (Mc 13,13). Lc biết ngày sau hết không phải là gần đến; ông kết án là gian manh những kẻ chủ trương như thế (c.8). Đó là tất cả ý nghĩa việc Lc đọc lại viễn ảnh cánh chung học của Mc: các cuộc bách hại không liên hệ với thời sau hết. Đúng hơn chúng biểu thị thân phận người Kitô hữu trong thế giới, trong lịch sử nhân loại đang còn tiếp diễn.

Sự bền đỗ đó là sự kiên tâm bền chí giúp người Kitô hữu can đảm tin tưởng đương đầu với những vô vị của cuộc sống thường nhật cũng như các hoàn cảnh đặc biệt của thời bách hại. Đó là quộc thử thách đức tính kiên nhẫn mà Giêremia đã nói, ông là người đã hết lòng tin tưởng vào Chúa, nhưng rồi cũng đã thất vọng vì đó: “Lạy Giavê, Ngài đã dụ dỗ tôi, và quả thật tôi đã bị dụ dỗ, Ngài đã bắt tôi và đã thắng tôi. Mỗi ngày tôi biến thành trò cười, nọi người ai cũng chế nhạo tôi” (Giêr 20,7). Sự bền đỗ theo phúc âm biểu thị “những người nghe lời với thái độ tốt, đã đào sâu lời đó và mang lại nhiều hoa quả nhờ kiên tâm bền chí” (Lc 8,15); sự bền đỗ đó chắc chắn giúp ta được sống cũng như được vào vương quốc (x. Cvsđ 14,22). Nó được Thiên Chúa hứa và minh chứng lòng tín thác vào đấng hoàn tất lời hứa.

KẾT LUẬN

Thời của giáo hội là thời bách hại. Thời gian này đang tiếp tục. Việc giải phóng và ơn cứu độ hoàn toàn chỉ bắt đầu với việc Con Người đến nhưng Ngài chưa đến gấp. Do đó phải kiên nhẫn và bền chí đứng vững.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Đứng bên Chúa Giêsu, có nhiều người trầm trồ khen ngợi Đền thờ và lấy làm hãnh diện sung sướng về các viên đá tốt và các lễ vật quí người ta dâng cúng. Thật thỏa mãn và vui mừng biết bao khi thấy ở chính Giêrusalem có một dấu chỉ minh nhiên sự hiện diện của Chúa. Nhất là hãnh diện biết bao, vì đền thờ nguy nga lộng lẫy là công trình của toàn dân, đồng thời nói lên lòng trung tín của các tín hữu cũng như sự che chở của Đấng toàn năng. Tất cả điều đó khiến họ hài lòng thỏa mãn.

Trước sự ngưỡng mộ chính đáng và quan yếu đó, Chúa Giêsu phán: “những gì các ngươi nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào, tất cả sẽ bị tàn phá”. Nghe vậy chắc các thính giả xôn xao lo lắng lắm. Đền thờ bị phá hủy thì còn đâu sự che chở của đấng Tối Cao, đâu còn chứng tích của lòng trung tín?

Chính vì thế, họ tò mò và quan ngại: “Thưa thày, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?”

Qua câu hỏi này, thính giả Chúa Giêsu cho thấy họ đã nhận thức tầm quan trọng của việc chuẩn bị sống các biến cố đó. Phải khắc phục các tai ương đó, chứ đừng bị chúng bắt chợt. Niềm tin vào đền thờ, nơi Đấng tối cao đang hiện diện, càng sống động. Đền thờ càng trở nên quan trọng vì là dấu chỉ hữu hình của sự hiện diện này, do đó người ta càng khó chịu khi thấy đền thờ bị tàn phá.

Ngày nay phải chăng người ta cũng có một tâm tưởng như thế, khi nghĩ là giáo hội đang trên đường diệt vong? Trước những biến đổi sâu xa do công đồng đem đến, nhiều người tức tối, nuối tiếc phụng vụ cổ xưa, các bài giảng ngày trước, việc bình thản nhàn hạ đã có từ lâu. Niềm tin của các bạn trẻ hôm nay, được biểu lộ một cách khác xưa, có còn là niềm tin nữa không? Các linh mục liên hệ với cộng sản là vô thần, có còn là linh mục nữa không? các nữ tu đến sống với các những nghèo trong các ổ chuột tồi tàn có còn là nữ tu nữa không? Cuối cùng, dù với những ý tưởng ngay lành của thế giới, người ta sẽ chẳng phá hủy giáo hội sao? Cũng như dân Do thái ngày xưa muốn bảo trì đền thờ Giêrusalem của họ, ngày nay người ta cũng muốn giữ gìn giáo hội và những cái gọi là truyền thống của giáo hội, nhưng giáo hội mới cứu người tín hữu.

2. Sau các câu hỏi mà giờ đây chúng ta đã hiểu rõ, Chúa Giêsu mới bắt đầu lên tiếng. Ngài không cho biết khi nào sẽ xảy ra cuộc tàn phá Giêrusalem, cũng như các dấu chỉ tiên báo cuộc tàn phá đó. Ngài không bao giờ trả lời để thỏa mãn tính tò mò hay xoa dịu nỗi ưu tư xao xuyến. Ngài giúp ta can đảm và bình thản đón nhận biến cố. Chính vì thế, Ngài nói trước các nguy hiểm, các sai lệch hoặc các cuộc đào tẩu bội phản có thể xảy ra; đoạn cho biết phải sử dụng năng lực của mình như thế nào cho hợp lý.

Trước tiên là các nguy hiểm và ảo tưởng. Chúa Giêsu canh chừng thính giả khỏi mắc mưu các Messia giả. Vào thời hoan lạc, con người quá xao xuyến đến nỗi phải tìm đến người có thể trấn an và hướng dẫn họ cách quyền uy. Chúa Giêsu cảnh giác họ đừng vội tin những người bịa đặt những phép lạ dễ dãi và những thày phù thủy chữa bệnh tâm tư phiền muộn; đừng vội theo những ai đơn giản hóa sự việc bằng cách đồng hóa đức tin với các hệ thống kinh tế hoặc chính trị của họ.

Chúa Giêsu đề phòng chống lại các ngày thế mạt giả mà chúng ta thường tin cách dễ dàng: chiến tranh, động đất, ôn dịch, đói kém… đó là những lệnh báo động giả, nhiều khi rất đánh động, nhưng chúng ta đừng vì đó mà xao lãng hoặc quên mất điều cốt yếu.

Điều cốt yếu là sống đức cậy trông Kitô giáo trong thế giới, là giữ vững đức tin. Niềm tin luôn làm thế giới chống đối: Chúa Giêsu nói đó là điều không thể tránh được. Môn đệ không hơn thày. Người Kitô hữu có thể bị cám dỗ hoảng sợ và kinh hãi những tội phạm vì lòng yếu đuối của mình. Chúa Giêsu cho họ biết là trong họ có một sự hiện diện siêu phàm đang ngự trị. Khi đến giờ làm chứng tá, người Kitô hữu không phải chuẩn bị đối phó, tự vệ: chính Chúa Giêsu sẽ linh ứng cho họ điều phải nói. Do đó ngay bây giờ phải sống hiện tại cách tin tưởng hoàn toàn phó thác vào Chúa: không một sợi tóc trên đầu chúng ta rụng đi mà không có sự thỏa thuận đồng ý của Ngài. Điều quan hệ là hôm nay hãy sống đời môn đệ Chúa Kitô cách trung tín ngày qua ngày, luôn kiên trì trong đời Kitô hữu. Đó là đường duy nhất đưa đến cứu rỗi.

52. Chú giải của Fiches Dominicales

ĐỜI SỐNG CỦA NHỮNG KẺ SỐNG LẠI:

MỘT THỰC TẠI MỚI LẠ TUYỆT VỜI

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Gài bẫy từ một trường hợp không thực:

Khi những kinh sư và thượng tế phái các “tay sai” đến hỏi Đức Giêsu về việc nộp thuế cho hoàng đế Rôma, người đã trả lời họ một cách quá khôn khéo đến độ họ “phải ngạc nhiên và làm thinh luôn”.

Bấy giờ là chính những người thuộc nhóm Sađốc tới thay phiên. Những người này làm thành một “phe” thân với thượng tế (Cv 5,l7). Có nguồn gốc là quý tộc, thuộc giai cấp tư tế, và là những người bảo thủ trong vấn đề tôn giáo, họ rất quý chuộng bộ Ngũ Thư của Kinh Thánh, nhưng lại không đếm xỉa đến sách các ngôn sứ; còn về các trước tác gần đây hơn, họ chối bỏ uy tín của những sách ấy. Nếu nhóm này “chủ trương không có sự sống lại”, là vì họ không tìm thấy dấu vết nào trong bộ Ngũ Thư mà họ thường tham khảo: Họ coi niềm tin vào sự sống lại như một sự canh tân và lệch lạc, mà thực ra chỉ xuất hiện trong bối cảnh cuộc nổi dậy của anh em nhà Macabê khi những người Israel trung thành với luật Chúa đã can đảm chịu chết vì đạo (cf. Bài đọc 1 Chúa nhật này).

Vì thế, khi biết Đức Giêsu cũng như tất cả nhóm biệt phái và phần đông dân chúng đều tin có sự sống lại, thì những người thuộc nhóm Sađốc liền nêu ra cho Người một trường hợp không có thực chứng tỏ sự phi lý của niềm tin này, dựa vào câu chuyện kỳ cục mà họ đưa ra. Đó là câu chuyện hoang đường về một người phụ nữ hiếm muộn nọ, mà theo luật Lêvi (một luật đã bị huỷ bỏ ở thế kỷ I) đã lần lượt kết hôn với sáu người em chồng chết mà không có con. Họ hỏi Chúa: “Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?”.

2. Câu trả lời khiến đối phương phải rút lui:

Câu trả lời Chúa đưa ra hôm nay thật không ai ngờ, khiến đối phương phải rút lui, tuy nó vẫn thích nghi phần nào với não trạng của những người đôi thoại, những người Pharisêu, và nhóm Sađốc. Với những người biệt phái, Chúa đả phá cái quan niệm quá duy vật mà họ đưa ra về vấn đề kẻ chết sống lại, quan niệm mà những người thuộc nhóm Sađốc hẳn cũng chế giễu: họ mường tượng sự sống lại như chuyện thân xác được hồi sinh để có một nếp sống sau này đại khái như nếp sống hiện nay ở trần gian: cũng sinh con đẻ cái, cũng làm công việc kia nọ vậy.

Đời sống của các kẻ sống lại được hiệp thông với Thiên Chúa hấng sống, Đức Giêsu khẳng định, là đời sống hoàn toàn mới lạ so với đời sống trần gian này. Đời sống đó không có một kiểu mẫu nào ở đời này cả. Đó là một cuộc sống không thể nào tưởng tượng ra nổi, một cuộc sống hoàn toàn được biến đổi, một cuộc sống của những người “Con Thiên Chúa”, những “người được hưởng ơn phục sinh”: “Họ giống như các thiên thần”.

Với những người thuộc nhóm sađốc dựa vào Lề Luật Môsê để chối bỏ niềm tin kẻ chết sống lại, thì Đức Giêsu không trưng dẫn những sách gần đây hẳn, như sách Đanien. Người dựa vào Luật Chúa mà khẳng định rằng: “Mọi kẻ chết đều phải sống lại”.

Trong bụi gai cháy sáng (Xh 3,6) Thiên Chúa tự xưng mình là “Thiên Chúa của tổ phụ Ápraham, Thiên Chúa của tổ phụ Isaac, Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp”. Nếu Thiên Chúa làm bạn hữu với các tổ phụ, thì không phải chỉ trong thời gian của một đời người mà thôi. Giao ước người đã ký kết với các tổ phụ không thể chết, mà phải tồn tại đến muôn đời, vì Thiên Chúa đời đời trung tín.

Tất cả “những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết” đều là những người sống mãi, sống muôn đời, họ hiện diện trước tôn nhan Thiên Chúa vì “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Chúa của kẻ sống”.

H. Cousin chú giải: “Ý tưởng nền tảng là lòng trung tín của Đức Chúa đối với những kẻ Người tuyển chọn, thì ngay cả Thần chết, kẻ thù của Thiên Chúa cũng không làm gì nổi. Do lòng trung tín của Thiên Chúa đối với Giao ước chính là động cơ thúc đẩy niềm tin vào sự sống lại của kẻ đã chết”

BÀI ĐỌC THÊM:

1. Thiên Chúa hằng sống

Đức Giêsu lợi đụng những vấn đề lắt léo người ta đưa ra chống đối Người để tiếp tục mạc khải của Đức Chúa Cha cho đến những ngày cuối cùng. Những người thuộc nhóm Sađốc vốn chủ trương không có sự sống lại đến đặt cho người một trường hợp giả trang, mà theo họ nghĩ thì việc sống lại là điều phi lý không thể có được. Để tuân theo luật Môsê, bảy anh em lần lượt cưới cùng một người phụ nữ, và sau mỗi lần người phụ nữ ấy lại trở thành kẻ góa bụa. Sự sống lại hẳn sẽ đặt họ vào tình cảnh éo le: “Khi sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đều lấy bà làm vợ? “. Đức Giêsu dùng thời giờ trả lời đầy đủ cho vấn đề phục sinh, vì đó là điều rất hệ trọng. Không có sống lại, như thánh Phaolô nói, đức tin của chúng ta hóa ra “hão huyền”. Cũng đáng công cho chúng ta chăm chú lắng nghe lời Chúa phán về điều này. Thí dụ người ta đưa ra để chống đối Người, tạo cho Người cơ hội để giải thích tình trạng mới lạ của “những ai được xét là đáng hưởng phúc đòi sau và sống lại từ cõi chết”. Đây không phải là vấn đề trở lại với cuộc sống đời này, để mà dựng vợ gả chồng, mà là một sự tham dự vào thế giới mai sau, ở đó người ta không còn chết nữa, không còn lấy vợ lấy chồng, người ta giống như thiên thần. Đó là một dạng sinh ra mới, làm cho người ta trở thành con cái của sự sống lại. Và do đó, hoàn toàn là con cái Thiên Chúa.

Sự sống lại là hành động của một Thiên Chúa hằng sống, Đấng ban sự sống ngay cả bên kia cái chết; Thiên Chúa của bụi gai cháy sáng, tự giới thiệu mình là Thiên Chúa của tổ phụ Apraham, Thiên Chúa của tổ phụ Isaac và là Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Người đâu có giới thiệu mình là Thiên Chúa của kẻ chết?” Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của các kẻ chết mà là của kẻ sống”. Suốt cả cuộc đời Đức Giêsu luôn quy hướng về Đức Chúa Cha; chính Người là cội nguồn, là sự sống mà ngay cả thần chết cũng không có được tiếng nói cuối tùng. Vì có mấy vị kinh sư dám ngả về lập trường của Chúa – họ vui mừng thấy những ngươi thuộc nhóm Sađốc phải bẽ mặt – nên chúng ta chỉ có thể ngợi khen Đức Giêsu vì đã loan báo cho chúng ta một vị Thiên Chúa như thế: ” Thưa Thầy chúng tôi biết Thầy nói và dạy cách thắng thắn!”. Chẳng bao lâu nữa, sự phục sinh của chính Đức Giêsu sẽ tỏ cho thấy một tương lai mà chẳng bao giờ chúng ta dám mơ ước? “.

2. “Sự sống lại đã bắt đầu rồi”

“Đối với những người thuộc nhóm sa-đốc, đây là cơ hội tốt để chế giễu có pha chút hài hước, những ai tin rằng sự sống lại là chuyển đổi nếp sống ở trần gian này lên thiên đàng.

Câu hỏi mà cũng là cái bẫy cho Đức Giêsu khiến Người phải nói rõ “giáo lý” của Người về sự sống lại từ cõi chết và thỏa mãn tính tò mò của đám thính giả? “Nếu các vị tin vào sự sống lại, thì cụ thể điều đó sẽ xảy ra như thế nào?”.

Đức Giêsu hẳn làm cho đối phương của Người phải rút lui bẽ mặt và bỏ đi những điều tưởng tượng quá trớn cùng những câu chuyện trẻ con chỉ làm cho ngủ gật thôi. Thiết tưởng là vô ích, vả lại cũng không thể có được một ý niệm nào về “Thế giới mai sau” dựa vào những thực tại trần gian này. Những “người được hưởng sự sống lại” sẽ được tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa. Họ sẽ “giống thư các thiên thần”, và sẽ không có thể chết nữa. Thế nhưng với một điều kiện là “được xét là xứng đáng”.

Đức Giêsu cũng hướng thính giả của mình về tận cội nguồn Kinh Thánh. Chắc chắn là những người Pharisêu và những người thuộc nhóm Sađốc đều biết Kinh Thánh, nhưng còn phải giải thích cho đúng những dữ kiện của Mạc khải nữa. Phải quy chiếu về Môsê, nhưng để tìm ra những điều mà người khác đã không tìm thấy. Nếu Đức Chúa tự giới thiệu với Môsê là “Thiên Chúa của tổ phụ Ápraham, Isaác và Giacóp”, thì rõ ràng người là Thiên Chúa của những kẻ “còn đang sống” chứ không phải của những “kẻ đã chết rồi”. Bởi lẽ, mọi người đều sống với Người, nhờ Ngươi và vì Người. Và điều đó thiết tưởng phải đủ để ta hân hoan cùng với lòng tin tưởng mà hiểu biết rằng mầu nhiệm này thật khôn lường, trí con người không thể vươn tới được. Đời sống của kẻ sống lại là đời sống sung mãn tràn đầy, là kinh nghiệm về tình yêu trọn vẹn, là sự nối dài và phát triển mối tương quan đã được thiết lập và phát triển ngay ở đời này. Phần còn lại đều là tò mò hão huyền vô ích. Trang sử vĩ đại của tình yêu không thể “bị kết thúc và vùi sâu dưới nấm mồ”.

Còn hôm nay, mặc dầu Đức Kitô đã phục sinh, mặc dầu truyền thống Kitô giáo đã trải qua hai ngàn năm, mặc dầu trong kinh Tin Kính chúng ta vẫn tuyên xưng rằng xác loài người ngày sau sẽ sống lại, thế mà nhiều Kitô hữu vẫn lo lắng, và bối rối; có những người còn để mình lạc lõng trong những chi tiết vụn vặt và những điều ấu trĩ. Lại còn có những người bày tỏ bất mãn hoặc tìm ánh sáng và ủi an bên ngoài nguồn ánh sáng và an ủi. Người thì đòi hỏi những chứng cớ lịch sử hoặc cho đó là những chuyện huyền thoại; người khác lại bám víu vào thế giới bên kia để tìm an ủi mình một cách rẻ tiền.

Hôm nay cũng như hôm qua, chúng ta không ngừng sẵn sàng lắng nghe Đức Kitô và đặt niềm tin tưởng nơi Người để luôn tin vào sự sống lại và sống như người đã sống lại rồi “.

3. “Một điều bất ngờ hoàn toàn”.

“Người chết sống lại làm sao? Họ trở về với thân thể nào?”

Chẳng ai có thể đưa ra câu trả lời thỏa đáng. Đã hẳn, trong Tân Ước, có vài chỗ đề cập đến chủ đề này nhưng luôn luôn với chừng mực và giản dị hết sức. Một sự giản dị đến độ cuối cùng người ta chẳng biết được gì khá hơn! Thực ra những đoạn văn ấy chỉ muốn cảnh giác tin tưởng tượng của ta thôi. Bởi lẽ người ta luôn luôn có nguy cơ, đặc biệt trong những lãnh vực này, là thích phản ánh những điều ta mơ ước vào thế giới bên kia và mường tượng rà một thực tại, mà đứng ra, chúng ta tuyệt đối không thể nào hình dung ra được, bởi vì không ai trong chúng ta đã có lần nào được nhìn thấy thực tại ấy cả? Làm sao ta có thể mô tả một cây sồi mà suốt đời ta chưa bao giờ được nhìn thấy cây ấy hoặc có được trong tay chỉ một trái cây sồi thôi? Đó là lý do tại sao các tác giả Tân ước, những người cũng chẳng biết gì hơn ta, mời gọi ta phải có sự khôn ngoan hết sức và dẫu sao cũng phải từ bỏ mọi cách trình bày duy vật.

Vì thế chúng ta hoàn toàn bất lực để nói về cái thực tại mà chúng ta hoàn toàn chẳng biết gì cả. Những điểm mốc ta quen dùng, rõ ràng là không đủ khả năng giúp ta tưởng tượng ra cái thế giới khác ấy, cái tình trạng “thân xác vinh hiển” mà thánh Phaolô nói đến ấy, những “trời mới, đất mới” mà sách Khải Huyền (21,l) hứa hẹn cho ta thấy. Thực tại đó chẳng có gì để so sánh với cái ta biết ở trên mặt đất này. Sẽ là một bất ngờ lạ lùng theo nghĩa mạnh nhất của từ ngữ này.

Và là một bất ngờ vui sướng? Một thế giới tuyệt vời diễn ra không ngừng những điều mới lạ, một cái gì đó không thể tưởng tượng nổi?”.

53. Thân xác sống lại

Trong Kinh Tin Kính, chúng ta đã tuyên xưng: Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau. Niềm tin tưởng này trước hết là dựa vào Lời Chúa.

Thực vậy, ngày hôm nay Chúa Giêsu đã trả lời cho bọn Sađucêo, là những người không tin việc sống lại như sau: Các ngươi đã lầm và chẳng hiểu gì về Kinh Thánh cũng như về quyền năng của Thiên Chúa. Vào ngày sống lại, người ta sẽ chẳng lấy vợ lấy chồng nữa, mà nên giống như các thiên thần ở trên trời. Về việc kẻ chết sống lại, há các ngươi chẳng đọc thấy lời Chúa phán: Ta là Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và của Giacob. Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của người sống.

Trong bài giảng về bánh ban sự sống Ngài cũng bảo: ý của Cha Ta là hễ ai thấy Chúa Con và tin ở Ngài thì có sự sống đời đời và Ta Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết.

Rồi bên nấm mồ của Lagiarô Chúa Giêsu cũng đã nói với Martha: Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống và ai sống mà tin Ta thì sẽ không phải chết bao giờ.

Hơn nữa chúng ta cũng có thể dùng sự suy luận thường tình để xác quyết về việc thân xác chúng ta sẽ sống lại. Trước hết Thiên Chúa đã từ không mà dựng nên mọi vật, thì chẳng lẽ quyền năng của Ngài lại không đủ để thực hiện việc sống lại hay sao? Chúng ta nên nhớ đối với Thiên Chúa không có gì mà Ngài chẳng làm được.

Vậy thì dựng nên cho có hay hồi phục lại cái đã có đằng nào dễ hơn. Thiên Chúa đã làm được cái khó, lẽ nào Ngài lại chẳng làm được cái dễ hơn sao? Chính vì thế mà ngay từ những thế kỷ đầu, Tertuliano đã nói: Đấng đã kéo chúng ta lên từ hư vô, lẽ nào lại chẳng có thể kéo chúng ta lên từ một nấm mồ.

Trong thiên nhiên đông qua rồi xuân lại đến, tất cả như một sợi xích liên tục giữa chết và sống. Như thế, Thiên Chúa đã công bố sự sống lại trong những công trình của Ngài trước khi công bố nó bằng lời nói.

Sau cùng, việc sống lại còn là một việc hợp tình và hợp lý. Con người gồm có hồn và xác. Thân xác là một người bạn của linh hồn. Và sự xa cách chia lìa giữa hồn và xác chỉ là tạm thời mà thôi. Thân xác là dụng cụ của linh hồn để làm điều tốt cũng như để làm điều xấu. Với thân xác, linh hồn đã thực hiện được những việc tốt lành. Thân xác ấy được thánh hóa nhờ các bí tích, trở nên đền thờ Thiên Chúa, qua việc rước lễ. Chính vì thế mà thân xác phải được sống lại để hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu với linh hồn. Nhưng đồng thời, với thân xác linh hồn cũng đã làm những việc xấu xa. Vì thế thân xác cũng phải được sống lại để bị trừng phạt cùng với linh hồn. Thân xác có thể là dụng cụ của nhân đức, có thể là dụng cụ của tội lỗi. Tùy theo đó mà sẽ cùng với linh hồn được hạnh phúc hay phải đau khổ trong cuộc sống bên kia.

Trong cuộc sống nơi trần gian toàn diện con người chúng ta đã đi đến với Chúa hay đã quay lưng chống lại Ngài, thì trong cuộc sống bên kia, toàn diện con người chúng ta sẽ được hạnh phúc hay đau khổ mãi mãi. Bởi đó, hãy làm chủ lấy thân xác, biến nó trở thành người bạn tốt của linh hồn, nhờ đó mà trong ngày sau hết nó sẽ được sống lại, cùng với linh hồn hưởng niềm hạnh phúc trong vinh quang bất tận.

54. Vấn đề kẻ chết sống lại

Ai trong chúng ta hãy tự hỏi mình xem có can đảm để sống không? Bởi vì phần đông trong chúng ta ai cũng sợ chết và nhất là cái chết ấy lại đến một cách bất ngờ. Quả thực, chết là một thực tại đáng sợ nhất trong cuộc đời. Chết là một hành động phản tự nhiên, nhất là ta phải trải qua trong cuộc sống. Chính vì thế về mặt luân lý người ta không ngừng đi tìm đủ mọi cách để tránh nghĩ về sự chết hay phủ nhận cái chết sẽ không đến với chúng ta.

Trong ngôn ngữ thông thường dường như chúng ta cũng tránh nói đến cái chết. Bởi đó, người chết được gọi là người quá cố, người khuất núi, người đã yên giấc nghìn thu hay người đã ra đi trước chúng ta, nhưng muốn hay không cái chết vẫn là người bạn đồng hành mỗi ngày với chúng ta. Thật thế, trong cuộc sống chúng ta đã chứng kiến không biết bao nhiêu người thân thương ruột thịt của chúng ta phải chết, đồng thời chúng ta cũng đã chứng kiến nhiều cái chết qua các phương tiện truyền thông mỗi ngày. Đối với những người không có niềm tin, cái chết quả là một cái gì phi lý nhất trong cuộc sống. Nhưng đối với những ai có niềm tin thì chính cái chết mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, đó là thái độ mà mỗi Kitô hữu vẫn thể hiện khi đứng trước cái chết. Cái chết mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, bởi chúng ta vẫn tin rằng, bên kia cái chết thì cuộc sống vẫn tiếp tục, đó là cuộc sống trong cõi phúc trường sinh. Đây là niềm tin, niềm hy vọng mà chúng ta được mời gọi để nuôi dưỡng mỗi ngày.

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta củng cố niềm tin và hy vọng. Chúa Giêsu không những rao giảng về sự sống lại, mà chính Ngài còn là sự sống lại. Sự Phục Sinh của Ngài là bảo chứng của cuộc sống và làm chứng cho lời rao giảng của Ngài. Chính sự Phục Sinh của Ngài mà niềm tin của chúng ta được xây dựng.

Quả thật, như lời thánh Phaolô khẳng định trong thư gởi giáo đoàn Côrintô: “Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì đức tin của chúng ta thật là hão huyền”. Niềm tin vào sự Phục Sinh của Chúa Kitô mang lại ý nghĩa cho cuộc sống chúng ta. Với niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta tìm được ơn can đảm để sống, mặc dù có trải qua bao nghịch cảnh thử thách, khổ đau. Với niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta vẫn tiếp tục tìm thấy ý nghĩa cuộc sống, đó là cuộc sống hạnh phúc bất diệt trên Nước Trời. Cũng qua đoạn Tin Mừng trên, thánh sử Luca kể lại cho chúng ta nghe về việc chối từ của những người trí thức thuộc phe Saducê. Họ không tin có sự sống lại, họ đặt ra một vấn nạn về việc một người đàn bà có bảy đời chồng: “Nếu có sự sống lại thì người đàn bà này sẽ thuộc về ai trong số bảy người chồng đã chết?”. Họ thách thức Chúa như vậy, nhưng họ thắc mắc và ngụy biện như vậy là vì họ có một quan niệm sai lầm về sự sống đời sau và về sự sống lại.

Sự sống sau cái chết không còn giống như sự sống ở hiện tại, và sự sống lại không phải là sự phục hồi để trở về đời sống trần tục bình thường mà là một sự sống đã được thăng hoa, đã được biến đổi, đã được nâng cao trong ân sủng Chúa, được thăng cấp như sự sống các thiên thần.

Không có kinh nghiệm trần tục nào, không có một ngôn ngữ con người nào có thể diễn tả một cách tích cực sự thật thiêng liêng này. Chúa Giêsu đã trả lời cho những kẻ chất vấn Ngài như sau: “Con cái đời này cưới vợ gả chồng, song những ai được dự phần đời sau, được sống lại từ cõi chết thì sẽ không cưới vợ lấy chồng nữa. Họ sẽ không chết nữa vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa và là con cái của sự sống lại”.

Sức mạnh cuối cùng về lý luận của Chúa Giêsu, đó là điều mà chính Con Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta. Vì không ai có thể nói cho chúng ta biết những chuyện trên trời nếu không phải là Đấng ngự trên trời xuống. Là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Chúa Giêsu có đầy đủ uy tín để quả quyết: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống”. “Con có tin không?”, Chúa Giêsu đã nói với Martha và đã hỏi thánh nữ như vậy. Và ngày hôm nay, Ngài cũng hỏi mỗi người chúng ta: “Con có tin không? Con có tin Ta, có tin vào sự sống, tin vào sự sống lại hay không?”.

Tháng Mười Một chúng ta không khỏi ngậm ngùi nhớ lại người thân thương đã chết, chia ly cách biệt vẫn là nỗi đau nhất trong cuộc sống. Nhưng với niềm tin Phục sinh, chết như được dẹp bỏ, người chết như vẫn hiện diện gần gũi với chúng ta và đây chính là nguồn diễm phúc của những ai có niềm tin vào sự sống lại.

Ước gì mỗi người chúng ta, với ơn Chúa soi sáng chúng ta sẵn sàng đáp trả: “Lạy Chúa con tin, con tin Chúa, con tin Lời Chúa dạy, con tin vào sự sống đời đời và sự sống lại”.

55. Thân xác sống lại

Tất cả chúng ta đều phải chết, vì cái chết là một cái gì gắn liền với thân phận con người, là án phạt của tội lỗi kể từ khi hai ông bà nguyên tổ vấp phạm. Thế nhưng, chúng ta lại chẳng biết gì về cái chết.

Thực vậy, bao lâu nữa tôi sẽ chết? Tôi sẽ chết ở trong nhà hay ở ngoài ngõ? Tôi sẽ chết mà có kịp lãnh nhận những bí tích cuối cùng hay không? Tôi hoàn toàn không biết. Phải, tôi hoàn toàn không biết.

Cái chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết lại bấp bênh vô định. Chính vì thế, chúng ta phải luôn sẵn sàng. Cái chết không phân biệt tuổi tác. Nó ở trước mặt người già và ở sau lưng người trẻ.

Tôi có thể chết giữa những vui thú của một ngày hội lớn. Tôi có thể chết trên một bãi chiến trường xa xôi và hẻo lánh. Tôi hoàn toàn không biết. Điều tôi có thể nắm chắc, đó là lời cảnh cáo của Chúa:

– Cái chết sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết. Nó như một kẻ trộm viếng thăm một cách âm thầm và kín đáo, không kèn không trống và cũng chẳng báo trước. Bởi vậy, phải sẵn sàng vì đó là giây phút thật quan trọng, ấn định số phận đời đời cho mỗi người chúng ta. Vậy chết là gì?

Sách giáo lý đã trả lời:

– Chết là linh hồn lìa khỏi xác.

Có lẽ hơn một lần chúng ta được nhìn thấy những người đã chết. Mắt họ mở mà chẳng thấy được. Tai họ mở mà chẳng nghe được. Miệng họ mở mà chẳng nói được. Tay chân họ giang rộng mà chẳng hề động đậy. Một khoảng thời gian sau, thân xác ấy bắt đầu rữa thối, làm mồi cho giòi bọ, để rồi sẽ bị chôn cho chặt và vui cho sâu dưới lòng đất lạnh.

Thế nhưng, chúng ta hãy vui lên, bởi vì Chúa Giêsu đã chịu chết để chuộc tội cho chúng ta. Ngài cũng sẽ làm cho chúng ta một ngày kia được sống lại như Ngài và với Ngài.

Đúng thế, vào ngày cuối cùng, thân xác chúng ta sẽ sống lại, sẽ được kết hiệp với linh hồn cho cuộc sống vĩnh cửu. Đây là một chân lý đã được Kinh Thánh nói đến nhiều lần. Chúng ta hãy nghe lời than thở của ông Gióp, khi số phận bẽ bàng đổ xuống trên ông: con cái thì bị chết chóc, tài sản thì bị tiêu tan, thân xác thì bị ghẻ chốc. Ngồi trên đống phân, ông đã tâm sự như sau:

– Tôi biết rằng Đấng cứu độ tôi, Ngài hằng sống và trong ngày sau hết Ngài sẽ làm cho tôi từ bụi đất sống lại. Tôi sẽ mặc lại thân xác tôi và sẽ nhìn thấy Thiên Chúa trong thân xác của tôi.

Tiên tri Đanien cũng nói:

– Đám đông những người đã ngủ yên trong lòng đất sẽ trỗi dậy để được sống vĩnh cửu hay phải đau khổ muôn đời.

Trong Phúc âm, Chúa Giêsu cũng bảo:

– Khi thời gian đến, những người ở trong mồ sẽ nghe thấy tiếng Con Thiên Chúa. Những người đã làm lành sẽ sống lại để được sống đời đời, còn những kẻ đã làm dữ sẽ sống lại để chịu trừng phạt.

Và sau cùng, thánh Phaolô đã xác quyết:

– Tất cả chúng ta đã chết trong Adong thế nào, thì cũng sẽ được sống lại trong Đức Kitô như vậy.

Tất cả những lời Kinh thánh ấy đã đủ để trả lời cho những ai nói rằng chết là hết. Điều đó chỉ đúng với con vật, chứ không thể đúng với con người. Bởi vì cái chết sẽ là thời khắc ấn định số phận đời đời dựa trên những việc lành dữ chúng ta đã làm khi còn sống ở trần gian.

Việc sống lại, nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy đó là một việc vừa hợp tình lại vừa hợp lý: Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ bởi không, liệu Ngài lại chẳng thể làm cho thân xác chúng ta được sống lại hay sao? Chúa Giêsu đã cho Lagiarô, cho con trai bà góa thành Naim, cũng như cho con gái ông Giairô sống lại, thì lẽ nào Ngài lại chẳng thể làm cho chúng ta được sống lại hay sao?

Hơn thế nữa, trong cuộc sống trần gian thân xác đã tích cực cộng tác với linh hồn để làm điều tốt cũng như làm điều ác, cho nên nó cũng phải được sống lại để cùng với linh hồn hưởng hạnh phúc hay bị đau khổ.

Hãy làm chủ thân xác và bắt nó đi trên đường nẻo của Chúa, để trong ngày sau hết nó cũng sẽ được chia sẻ phần vinh quang phục sinh với linh hồn.

56. Cách chữa cháy kỳ diệu

Một người dân thuộc một bộ lạc miền núi, cả đời chưa hề thấy ánh sáng văn minh. Ngày kia ông ta được đưa xuống thăm một đô thị. Ngay đêm đầu tiên, ông phải giật mình thức giấc vì tiếng trống vang cùng khắp đô thị. Sau khi được những người xung quanh cho biết đó là tiếng trống báo động thị dân về một cuộc hỏa hoạn vừa xảy ra tại một khu phố nào đó, người dân miền núi nhìn về ngọn lửa đang bốc cao ở một góc trời rồi trở lại giường ngủ tiếp. Khi trở về làng, ông ta báo cáo với các vị chức sắc trong bộ lạc: Người dân thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ diệu. Khi có hỏa hoạn, người ta chỉ cần đánh trống và ngọn lửa được dập tắt ngay tức khắc. Nghe thế, các chức sắc liền hồ hởi sai người đi mua đủ loại trống về phát cho dân chúng trong bộ lạc. Chẳng bao lâu sau đó, hỏa hoạn xảy đến trong làng. Tin chắc sự hiệu nghiệm của những chiếc trống, tất cả mọi người dân làng đều đem trống ra khua inh ỏi. Họ tin chắc rằng tiếng trống sẽ xua đuổi được thần lửa. Thế nhưng ngọn lửa cứ vô tình thiêu rụi từ căn nhà này đến căn nhà khác, trước cái nhìn ngỡ ngàng và bất lực của mọi người. Tình cờ ghé thăm bộ lạc, nghe kể lại diễn tiến của cơn hỏa hoạn, một người dân thành thị mới giải thích cho dân làng rằng: Các ngươi thật là ngây ngô. Các người tưởng tiếng trống có thể dập tắt được ngọn lửa ư? Không phải thế đâu. Tại thành phố người ta đánh trống là để đánh thức dân chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia vào cuộc chữa cháy, chứ không phải ngồi đó mà chờ ngọn lửa tự tắt đi đâu.

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu không ngừng gọi con người tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó, khoanh tay mà chờ đợi. Sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu kêu mời là một sự tỉnh thức tích cực, đòi hỏi lao tác và đấu tranh. Tỉnh thức là thái độ cơ bản của con người tín hữu Kitô. Toàn bộ Kinh Thánh là một lời mời gọi tỉnh thức. Tỉnh thức, vì Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa đang đến. Ngài đến trong từng phút giây của cuộc sống. Ngài đến qua từng biến cố. Ngài đến nơi mỗi con người. Tỉnh thức để nhận ra Ngài, và nhất là để đáp trả cách tích cực tiếng gọi của Ngài. Tiếng gọi ấy không chỉ vang lên trong những lúc cầu kinh ở nhà thờ, mà còn vọng lên giữa chợ đời, giữa những tiếng ồn ào của cuộc sống.. Mong sao cuộc sống đức tin của chúng ta không chỉ là những tiếng trống khua inh ỏi trong bốn bức tường của nhà thờ, mà phải được thể hiện bằng những gặp gỡ Thiên Chúa qua lòng tín thác Ngài và qua những hành động cụ thể của yêu thương đối với mọi người anh em.

57. Sống lại

Gần hết năm phụng vụ, nên Giáo Hội đề cập đến những vấn đề trọng đại hơn. Chúa nhật này Giáo Hội nhắc lại giáo lý về mầu nhiệm xác con người sống lại và sự sống đời sau. Chúa nhật sau sẽ đề cập tới việc Chúa Kitô lại đến, tức là Chúa Kitô tái giáng để phán xét chung nhân loại. Như vậy, đề tài chúng ta cần tìm hiểu hôm nay đã rõ ràng, đó là sự sống lại và sự sống đời sau.

Bài Tin Mừng thuật lại một cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và những người phái Sađuxêô. Phái này chỉ nhận có Ngũ Kinh, tức là năm cuốn sách đầu của bộ Cựu ước, nên những gì không chép trong đó thì họ không tin. Họ không tin Thiên Chúa quan phòng, không tin có đời sau, không tin linh hồn bất tử. Họ cho rằng linh hồn chết luôn cùng với thân xác. Họ càng không tin kẻ chết sống lại, vì linh hồn là điều kiện cho sự sống lại thì họ đã chối rồi. Cho nên họ dựa vào một khoản luật về thừa kế ghi trong sách Đệ Nhị Luật để chất vấn Chúa Giêsu về vấn đề sống lại.

Trước hết họ tóm tắt khoản luật: trong anh em một nhà, nếu người anh có vợ rồi chết mà chưa có con, thì người em phải cưới người vợ góa kia để sinh con nối dõi cho anh mình. Rồi họ phịa ra một câu chuyện giả tưởng để hỏi Chúa: có một phụ nữ khi sống ở trần gian đã lần lượt lấy cả bảy anh em làm chồng. Vậy thì khi sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai?

Chúa Giêsu trả lời: “Khi sống lại, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa mà sẽ sống như các thiên thần trên trời”. Qua đó Chúa bảo cho mọi người biết một chân lý: chắc chắn kẻ chết sẽ sống lại; và đời sống mới ấy ở trên thiên đàng khác hẳn đời sống hiện tại nơi dương thế.

Tất cả những ai, dù là Công giáo hay không, nếu đã tin linh hồn bất tử, thì đều tin có một kiếp sống khác. Tuy nhiên, ngoài Công giáo ra, những người tin vào luân hồi thì cho rằng: sau khi chết, linh hồn còn phải phiêu lưu trong nhiều số kiếp nữa, có thể là súc vật, cây cỏ hay con người. Nhưng tư tưởng luân hồi chỉ để an ủi những kẻ tội lỗi, hy vọng làm lại cuộc đời, chứ thực ra là vô lý. Bởi vì trước khi đi vào bước đường luân hồi, linh hồn ở đâu mà ra? Lại nữa, nếu có một số linh hồn nhất định, rồi khi chết đám thì xuống hỏa ngục, đám thì đầu thai kiếp khác, đám nữa thì được hoàn toàn giải thoát, được “tiêu diêu nơi miền cực lạc” rồi, thì tại sao dân số hoàn cầu mỗi ngày cứ gia tăng mau lẹ, thử hỏi những linh hồn mới này, chưa có luân hồi lần nào thì do đâu mà xuất hiện?

Hơn nữa, có ai biết kiếp trước mình làm gì không? Kiếp đang sống là phần thưởng hay là hình phạt? Mà tại sao không ai hay biết? Kinh Thánh và Chúa Giêsu dạy rằng: người ta chỉ có hai kiếp phải sống và được sống: một kiếp sống tạm bợ và một kiếp sống vĩnh cửu. Một kiếp sống hiện tại và một kiếp sống tương lai. Một kiếp sống hành hương và một kiếp sống ở quê thật. Một kiếp sống ở trần gian và một kiếp sống thiên đàng hay hỏa ngục. Có vậy thôi, từ kiếp sống này qua kiếp sống bên kia thế giới, mỗi người phải qua sự chết duy có một lần, vì kiếp sống tạm bợ ở trần gian chỉ diễn ra có một lần. Vì sống ở trần gian có một lần, một kiếp, cho nên, con người cũng chỉ có một linh hồn và một thể xác, chứ linh hồn không di chuyển từ thể xác này qua thể xác nọ.

Những người chấp nhận thuyết luân hồi đều không tin rằng thể xác con người ta sẽ sống lại, vì linh hồn đã du nhập biết bao thể xác, không biết thể xác nào sẽ sống lại với linh hồn? Trái lại, người Công giáo tin chỉ có một linh hồn với thể xác, và một ngày kia, thân xác sẽ sống lại để cùng với linh hồn hưởng hạnh phúc bất diệt hay bị trầm luân muôn kiếp. Do đó, sự sống, sự chết và sự sống lại đối với người Công giáo thực là quan trọng. Bởi vì đối với chúng ta: được là được tất cả muôn đời, mà mất thì cũng mất tất cả đến vô tận. Còn theo thuyết luân hồi, thì rủi có sa đọa kiếp này, vẫn còn có thể gỡ gạc ở kiếp khác nơi trần gian, nên không lo. Tuy nhiên, điều quan trọng là thực sự có kiếp khác ở trần gian để gỡ gạc hay không? Nếu không thì sao? Mà chắc chắn là không có rồi.

Vấn đề sống, chết và sống lại còn quan trọng hơn nữa khi biết rằng đời sống trần gian là giá mua đời sống mai sau. Nói cách khác, kiếp sống mai sau có được hạnh phúc hay phải bất hạnh là tùy ở kiếp sống hôm nay thánh thiện hay tội lỗi. Nếu muốn sống hạnh phúc muôn đời thì phải làm những điều lành, còn nếu muốn bị xét xử và luận phạt, thì cứ làm những điều ác, điều xấu, điều dữ. Dĩ nhiên là Thiên Chúa trợ giúp, nhưng sự quyết định cuối cùng là ở con người tự do. Chúa không ép buộc ai vào thiên đàng, và cũng không xô đẩy ai xuống hỏa ngục bao giờ.

Tóm lại, chắc chắn thân xác sẽ sống lại. Đây là một chân lý chúng ta tuyên xưng trong kinh tin kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Nghĩa là tới ngày Chúa quang lâm, ngày tận thế, ngày cánh chung, mọi người sẽ sống lại. Nhưng sống lại để sống như thiên thần hay quỉ dữ, sống hạnh phúc muôn đời hay bất hạnh ngàn thu lại là chuyện khác. Bởi vì kẻ lành cũng sống lại và kẻ dữ cũng sống lại. Nhưng sống lại để được thưởng hay chịu phạt. Đó là điều khác biệt. Thiên Chúa sẽ căn cứ vào đời sống hiện nay của chúng ta để thưởng phạt chúng ta. Đời này quyết định số phận đời sau của chúng ta, như Chúa đã quả quyết: “Ai sống làm sao Ta sẽ trả cho như vậy”. Đúng như một bài hát: “Thiên đàng hỏa ngục hai quê. Ai khôn thì về ai dại thì xa”. Chúng ta vào số những người khôn hay những người dại? Hoàn toàn do chúng ta quyết định bằng chính đời sống chúng ta sống hôm nay.

58. Sống lại

Trên thế giới hiện nay người sống thọ nhất có thể được khoảng 130 tuổi. Như vậy cho dù sống thọ nhất là hơn một thế kỷ, con người cũng đến lúc phải chết. Đó là qui luật của muôn loài, qui luật sinh tử. Thế nhưng, chết rồi người ta đi đâu? Những người không có đạo Công giáo hoặc đạo khác thì nghĩ rằng chết là hết hoặc sau khi chết sẽ đầu thai vào một kiếp khác.

Còn chúng ta, những người Công giáo chúng ta không như vậy. Giáo Hội dạy chúng ta rằng chết không phải là hết. Chúng ta đã được học giáo lý và mỗi Chúa nhật, chúng ta tuyên xưng trong kinh tin kính: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”.

Chúng ta tin có một cuộc sống sau cuộc sống đời này. Thế cuộc sống đời sau như thế nào? Loài người chúng ta thì chưa có ai có kinh nghiệm về cuộc sống đời đời khi còn đang sống cả. Nhưng chúng ta được chính Chúa Giêsu, Đấng đã từ trời xuống, chính Ngài đã sống, đã biết đời sống đó nói cho chúng ta biết, nhân dịp những người thuộc phái Sađốc là những người không tin linh hồn bất tử, không tin có sự sống đời sau đến hỏi Chúa trong Tin Mừng hôm nay. Những người Sađốc đã hỏi Chúa Giêsu về chuyện gì? Đúng rồi, chuyện về bảy anh em cùng cưới một người phụ nữ theo luật Do thái. Họ thắc mắc với Chúa Giêsu là nếu sống lại thì ai sẽ là chồng của cô ta?

Rõ ràng, vì không tin nên họ nghĩ rằng nếu có cuộc sống đời sau thì cũng như ở đời này, mà như thế thì sẽ xảy ra nhiều điều phức tạp khi sống lại. Chúa Giêsu nói: người ta ở đời này mới cưới vợ gả chồng chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ, cũng chẳng lấy chồng. Họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, bởi đã được sống lại.

Vậy Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết cuộc sống đời sau, cuộc sống đời đời thì khác hẳn cuộc sống ở đời này. Thân xác phục sinh không còn là vật chất nên không còn phải lo ăn uống, ngủ nghỉ, đi lại, làm việc. Lúc đó, không còn chết nữa nên không cần phải có người nối dõi tông đường và vì thế không ai phải lo lấy vợ gả chồng nữa. Tất cả đều sống cuộc sống thiêng liêng như các thiên thần.

Mọi người được sống lại sẽ như nhau vì đều là con cái Thiên Chúa và họ sẽ sống một đời sống mới. Tôi xin kể câu chuyện sau đây: Dưới đáy một hồ sâu, giữa vũng nước đục và bùn đen có mấy con ấu trùng bàn bạc với nhau. Chúng băn khoăn tự hỏi tại sao trong bọn chúng, tất cả những ai leo dọc thân cây sen lên trên mặt nước đều không bao giờ trở lại nữa, và tất cả chúng đều đồng ý với nhau là rồi đây ai trong bọn chúng trèo lên trên mặt nước trước, sẽ trở lại để kể cho những ai còn ở lại biết được trên mặt nước có gì.

Ít hôm sau, một con ấu trùng cảm thấy như có một động lực nào thúc đẩy từ bên trong và bị thu hút bởi hơi ấm từ phía trên, nó bắt đầu trèo lên cây sen với hy vọng cuộc mạo hiểm ly kỳ trên mặt nước. Nó nghĩ bụng phen này nó sẽ giữ lời hứa, là sẽ trở lại kể cho chúng bạn nghe những gì nó trông thấy, những gì sẽ xảy ra đến với nó trên mặt nước.

Vừa ló đầu khỏi mặt nước, mắt nó liền hoa lên vì những sự ngạc nhiên mới lạ, trước hết là ánh sáng của mặt trời và hơi ấm của làn khí, trong khi ở dưới bị chìm ngập trong cảnh đen tối thất vọng vì không bao giờ trông thấy ánh sáng. Chẳng mấy chốc, nó thấy có cái gì lạ đang chuyển vận trong cơ thể, hình như nó đang thay hình đổi dáng, và từ trên thân thể mềm nhũn của con ấu trùng, nó bắt đầu trở nên cứng cáp hơn. Chỉ một lúc sau, từ cái vỏ của con ấu trùng nó đã bay ra thành một con chuồn chuồn có đôi cánh màu sắc rực rỡ. Thật chưa bao giờ nó nghĩ nó sẽ trở thành con chuồn chuồn với bộ cánh màu đẹp như thế, nó cứ yên trí nghĩ rằng, suốt đời nó mãi mãi sẽ là con ấu trùng như tất cả những con ấu trùng khác. Kế đó nó bắt đầu vươn vai giang cánh với chuyến bay đầu tiên, nó bay qua lượn lại trong không gian với tất cả niềm ao ước sẽ trở xuống đáy hồ để kể cho chúng bạn nghe bao nhiêu điều kỳ lạ.

Từ trên mặt nước trong suốt, nó nhìn rõ dưới đáy hồ và trông thấy chúng bạn, nhưng chúng bạn lại không nhìn thấy nó. Một lúc sau nó hiểu ra rằng, tìm cách trở lại dưới đáy hồ là công dã tràng, vì cho dù nó có trở xuống, nhưng với đôi cánh của nó thì chúng bạn sẽ không thể nào nhận ra nó vì nó đã được hoàn toàn biến đổi, hoàn toàn thay hình đổi dạng, nó đã trở thành một tạo vật mới như chưa từng nghĩ ra trước đó.

Qua câu chuyện chúng ta thấy rằng cuộc sống đời sau giống như hình ảnh con chuồn chuồn, khi đã lên khỏi mặt nước, một cuộc sống hoàn toàn biến đổi, hoàn toàn khác biệt so với cuộc sống ở dưới nước của những con ấu trùng, mà chúng ta có thể so sánh với cuộc đời hiện tại của chúng ta.

Người Kitô hữu chúng ta may mắn là được Chúa Giêsu cho biết trước là có cuộc sống đời sau thật. Chúa Giêsu còn cho chúng ta biết là không phải tất cả đều được hưởng, nhưng chỉ những ai được xét là xứng đáng thì mới được hưởng phúc đời sau. Chính vì thế mà Giáo Hội đã dành cả tháng 11 trong năm để cầu nguyện cho những người đã qua đời nhưng chưa được hưởng cuộc sống đó. Vậy những người được coi là xứng đáng là những người nào? Đó là những người đạo đức, thánh thiện, công chính và luôn sống theo ý Chúa trong cuộc đời mình.

Phần chúng ta, chúng ta còn nhỏ, chúng ta sẽ có những việc làm cụ thể để đáng được hưởng cuộc sống đời đời với Chúa đó là:

. Kính mến Chúa qua việc học hỏi giáo lý, siêng năng tham dự thánh lễ và lãnh nhận các bí tích.

. Yêu thương cha mẹ, thầy cô, bạn bè, ngoan ngoãn, trung thực và đặc biệt tránh xa mọi dịp tội bằng cách trước mỗi việc làm ta hãy tự đặt câu hỏi: việc làm này có giúp ta đáng được hưởng cuộc sống đời đời không?

59. Sống lại

Ông Cao Bá Quát là một nhà thơ nổi tiếng trong lịch sử văn học Việt Nam. Ông có mấy câu thơ như sau:

“Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy,

Cảnh phù du trông thấy những nực cười.

Thôi công đâu chuốc lấy sự đời

Tiêu khiển một vài chung lếu láo”.

Qua đó chúng ta thấy Cao Bá Quát chủ trương còn sống bao lâu thì hãy ăn chơi, hưởng thụ cho tối đa, kẻo chết rồi sẽ không còn được hưởng thụ nữa. Đây là quan niệm của những người không tin có sống lại. Vì quan niệm như vậy, cho nên nếu họ có sống buông thả, chạy theo hưởng thụ thì cũng là hợp lý thôi. Thế nhưng có những người có đạo mà cũng sống theo kiểu đó, quan tâm duy nhất của họ là chỉ lo ăn, lo mặc, lo xài, lo mua sắm, lo chơi, lo thỏa mãn những nhu cầu vật chất. Sống kiểu đó là mâu thuẫn với niềm tin của mình.

Hạng người thứ hai không quá duy vật như số người vừa kể trên. Tuy họ mải mê kiếm tiền và rất coi trọng cuộc sống vật chất, nhưng họ vẫn không quên đời sau. Họ ít đến nhà thờ, ít đọc kinh cầu nguyện, nhưng họ chịu khó bỏ tiền ra để xin lễ, chịu khó bỏ tiền ra để góp phần xây sửa nhà thờ, đóng góp tiền bạc khi có những cuộc quyên góp… Bỏ tiền ra như vậy là họ yên tâm, cho rằng mình đã có bỏ vốn để đầu tư cho đời sau. Có phải đó là niềm tin vào sự sống lại không? Có lẽ cũng là niềm tin, nhưng là tin lệch lạc: hạnh phúc đời sau không phải mua được bằng tiền bạc đâu. Đời này thì có tiền mua tiên cũng được, nhưng đời sau không phải vậy!

Thiết nghĩ nếu chúng ta tin rằng có sống lại, thì chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy bằng cách sống của mình. Thể hiện thế nào?

. Trước hết ta phải biết đánh giá những biến cố xảy ra ở đời này bằng cặp mắt đức tin: người không tin thì rất sợ chết, rất sợ bệnh tật, rất sợ mất mát, rất sợ đau khổ. Họ sợ như vậy là phải, bởi vì họ không biết có đời sau. Chỉ có mỗi đời này mà đời này lại bệnh tật, mất mát, khổ sở và chết nữa thì không sợ sao được. Nhưng người có đạo như chúng ta đã tin có đời sau, đã tin rằng đời này chỉ là tạm, đời sau mới vĩnh viễn, mà cũng sợ như thế tức là mâu thuẫn với niềm tin của mình.

. Điểm thứ hai để thể hiện niềm tin của mình vào sự sống lại là chúng ta phải biết phân chia thời giờ của ta để quan tâm chăm lo mọi mặt:

Dành một phần thời giờ để lo làm ăn sinh sống.

Dành thêm một phần thời giờ khác để gần gũi với con cái, giáo dục gia đình.

Thêm một phần thời giờ nữa để xây dựng những tương quan xã hội.

Và chắc chắn cũng phải dành một phần thời giờ để lo việc đạo, đời sau.

Chúng ta phải nhớ nguyên tắc “Gieo gì thì gặt nấy”: nếu chúng ta dành hết thời giờ ở đời này để chỉ lo tiền bạc vật chất thì chúng ta chỉ gặt được tiền bạc vật chất mà thôi; nếu ta không dành thời giờ để xây dựng hạnh phúc gia đình thì sẽ không có gì lạ nếu gia đình ta chẳng hạnh phúc; nếu ta không đầu tư thời giờ và công khó để lo cho đời sau thì mong gì đời sau ta sẽ được hạnh phúc.

Dưới đây là một câu ngạn ngữ phương Tây cho chúng ta suy nghĩ:

Nếu bạn muốn hạnh phúc một ngày, hãy mua một cái áo mới.

Nếu bạn muốn hạnh phúc một tuần, hãy làm thịt một con heo.

Nếu bạn muốn hạnh phúc một năm, hãy cưới vợ lấy chồng.

Nếu bạn muốn hạnh phúc một đời, hãy làm người sống tử tế.

Nếu bạn muốn hạnh phúc một muôn đời, hãy làm người có đạo tốt.

60. Kinh nghiệm

Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:

– Cảm nghiệm thứ nhất của những người ấy là thấy mình rời khỏi thân xác của mình, đồng thời cảm thấy nhẹ nhàng dễ chịu sau khi rời khỏi thân xác.

– Cảm nghiệm thứ hai là thấy mình đi trong một đường hầm rất dài. Sau khi đi hết đường hầm thì tới một vùng ánh sáng và gặp một Đấng tỏa ra ánh sáng. Thứ ánh sáng này sáng hơn mọi thứ ánh sáng họ đã từng thấy ở trần gian nhưng không chói mắt mà lại rất dễ chịu, đến nỗi họ muốn được ở mãi trong ánh sáng đó và bên cạnh Đấng tỏa ánh sáng đó.

– Cảm nghiệm thứ ba là được Đấng sáng láng ấy cho thấy lại cuộc đời của họ, giống như xem một cuốn phim quay tất cả những lời nói việc làm và suy nghĩ của họ từ hồi có trí khôn cho đến lúc chết. Lúc xem lại cuốn phim cuộc đời ấy, khi thấy một việc xấu thì tự nhiên lòng họ cảm thấy buồn và bứt rứt khó chịu, đồng thời Đấng sáng láng ấy đánh giá cho họ biết đó là một việc làm không tốt. Ngược lại khi thấy một việc tốt thì họ cảm thấy vui, dễ chịu và hạnh phúc, đồng thời Đấng sáng láng ấy khen thưởng. Những việc tốt là những việc đã làm vì lòng yêu thương, những việc xấu là những việc họ đã làm do động cơ không yêu thương.

– Được ở trong ánh sáng huyền diệu ấy và ở gần Đấng sáng láng ấy, ai cũng cảm thấy vô cùng hạnh phúc nên muốn ở lại mãi, nhưng Đấng ấy bảo: “Bây giờ con chưa được ở lại, vì con còn nhiều việc bổn phận phải làm ở trần gian. Vậy con phải về”. Và khi đó là lúc họ tỉnh lại.

– Tất cả những người sống lại ấy đều thay đổi cách sống: từ đó trở đi họ không sợ chết nữa; họ không coi trọng việc tìm kiếm danh lợi thú nữa mà chỉ lo chu toàn bổn phận và đối xử với mọi người bằng tình thương.

61. Sống lại từ cõi chết–Lm. John Nguyễn Tươi

“Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời”

Theo quy luật của kiếp nhân sinh, con người được sinh ra, lớn lên, già yếu, bệnh tật và chết đi. Không ai có thể thoát khỏi quy luật này. Tuy nhiên, người ta vẫn đặt câu hỏi. Sau khi chết, con người sẽ đi về đâu?

Trong trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ nghe câu trả lời của Chúa Giêsu về sự sống lại từ cõi chết. Khi nhóm Xa-đốc đến gặp Chúa Giêsu, nhóm này chủ chương không tin có sự sống lại, và họ đặt câu hỏi cho Chúa Giêsu: “Có bảy người anh em lấy một phụ nữ. Sau đó, tất cả điều phải chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết đi. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?” Câu hỏi này không chỉ nhóm Xa-đốc đặt ra cho Chúa Giêsu về sự sống lại mà ngay cả thời đại này, con người vẫn đang đi tìm câu giải đáp sự sống đời sau.

Tất cả các tôn giáo đều tin có sự sống đời sau. Thuyết luân hồi của đạo Phật, người ta tin vong hồn sẽ đầu thai vào một thân xác nào đó, và trở thành một kiếp khác theo quy luật nhân quả quy định. Giáo lý nhà Phật gọi là vòng luân hồi. Nó cứ mãi chuyển xoay đến khi nào linh hồn rũ sạch hết bụi trần. Giáo thuyết nhấn mạnh đến cái nghiệp quả của người kiếp trước. Vì vậy, họ tin rằng, cái nghiệp đó sẽ được diệt sạch bằng việc tu tâm và lòng từ bi thì sẽ được siêu thoát.

Dưới ánh sáng Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu giải đáp rõ về sự sống đời sau: Khi con người sống lại, những ai được xét và hưởng phúc đời sau, họ sẽ được sống lại từ cõi chết, thì họ không còn cưới vợ gã chồng nữa và không thể chết nữa vì họ được ngang hàng với các thiên thần. Tất cả là con cái của Thiên Chúa và được hưởng viễn mãn trên thiên đàng. Tất nhiên, người phụ nữa đó cũng chẳng thuộc về ai.

Với cái nhìn của con người, chúng ta thường bị giới hạn bởi không gian và thời gian, hay lệ thuộc về một người nào đó, khi chúng ta sở hữu những thứ chúng ta có. Chẳng hạn, cái nhà chiếc xe, hay ngay cả chuyện vợ chồng. Chết rồi còn hỏi Chúa cô ta thì thuộc về ai. Con nguời luôn tự ràng buộc mình vào những thứ thuộc về thế gian, nên họ cố bám víu vào nó như là thước đo cho những giá trị hạnh phúc ở đời. Nhóm người Xa-đốc, họ vẫn còn mang nặng mùi theo kiểu trần tục trong việc vợ chồng, rồi họ đặt ra vấn đề cô ta sẽ thuộc về ai.?

Ngẫm nghĩ sự đời, người ta vẫn thường nói: “Chết rồi cũng không buông tha”. Đời người thật mong manh, chóng qua.

Dựa trên các quan niệm về đời sau, chúng ta có thể nhận thấy rằng, con người luôn khao khát tìm kiếm chân lý, để làm cứu cánh và định hướng đi cho cuộc đời. Lòng khát khao đó giúp cho con người sống mỗi ngày để hoàn thiện bản thân mình, thì Thiên Chúa là con đường cho ta bước theo, là ánh sáng dẫn bước chúng ta. Ngài là ánh, là chân lý vĩnh cửu và trường tồn. Ánh sáng Phục sinh của Chúa Kitô thắp lên niềm tin và hy vọng cho tất cả nhân loại nhân, để nhận biết sự sống chiết suất từ Thiên Chúa. “Ai tin vào Ta sẽ được sống đời đời.” Giáo hội mời gọi chúng ta hãy luôn nhớ cầu nguyện cho các linh hồn trong tháng 11 này.

Chúa cho Lazarô sống lại thì Ngài cũng cho kẻ chết sống lại. Niềm tin và hy vọng của chúng ta là nơi Chúa Phục Sinh, Ngài sẽ chúng ta cũng được sống lại trong ngày sau hết, để hưởng phúc trên thiên đàng. Sự sống này chỉ thay đổi, chứ không mất đi. Với niềm xác tín vào sự sống đời đời, chúng ta sẽ biết chọn cho mình cách sống và hướng đi thích hợp ở đời này và cho đời sau. Đó là cách chọn lựa của mỗi người khi chúng ta sống trên trần gian này. Chúa Giêsu phán: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được gì?.”

Lạy Chúa:

– Con vẫn nghe Lời Chúa dặn, con người sẽ được sống lại, nhưng tâm hồn con vẫn còn xa lìa Chúa.

– Con biết một ngày nào đó, con sẽ từ giã cõi đời này, nhưng nơi cõi lòng con vẫn còn tham lam của cải, danh vọng và lạc thú.

– Con vẫn biết trần gian là quán trọ để dừng chân, nhưng chân con vẫn chạy theo những thứ vui giả trá để giết chết thể xác và linh hồn.

– Con biết sự dữ và tội ác đang vây bủa thân con bởi kiêu ngạo, hận thù và gian ác nhưng con vẫn làm ngơ trước sự cám dỗ của ma quỷ.

Xin Ngài thương xót và cứu chữa linh hồn con cả đời này và đời sau. Amen.

62. Sự sống

Bằng những cách khác nhau, tất cả ba bài đọc của thánh lễ hôm nay đề cập đến đề tài sự sống đời đời.

Một ông già ốm yếu sống trong một túp lều ở bìa rừng. Một buổi sáng mùa đông, ông thức dậy tìm được một chén cháo còn sót lại, lò sưởi trống không, và tuyết rơi đầy mặt đất. Ông cảm thấy muốn cầu xin Thiên Chúa đem ông đi ra khỏi cuộc đời này cho xong. Tuy nhiên, ông thu hết chút ít can đảm để đi vào rừng tìm củi.

Ông kiếm được một bó củi to, rồi ông lấy dây cột lại và làm thành một cái nút. Tuy nhiên, khi ông cố gắng nâng bó củi để đặt lên vai, ông mới thấy rằng ông không thể nào nâng nó lên nổi. Một nỗi thất vọng tràn ngập tâm hồn ông. Ông nhìn lên trời và nói: “Lạy Chúa, Chúa cất con đi cho rồi, con không còn gì để thiết sống nữa”.

Bỗng chốc, một thanh niên vạm vỡ xuất hiện bên cạnh ông tự giới thiệu mình là Tử Thần và nói: “Ông gọi tôi đến phải không. Nào, bây giờ tôi ở đây rồi, tôi có thể làm gì cho ông?” Nhanh như chớp, ông già đáp: “Này cậu, cậu giúp cho tôi một tay để nâng cái bó củi này lên”.

Khi chúng ta càng sống, chúng ta càng thấy cuộc đời phù du ngắn ngủi. Và việc chúng ta níu kéo nó quả là bấp bênh không chắc chắn. Mặc dù tư tưởng chúng ta quen dần với cái chết thì điều đó không có gì là tiêu cực và bệnh hoạn. Thật vậy, nó có thể là một điều tích cực. Suy nghĩ về sự chết có thể dẫn đến tình yêu chân thực về sự sống. Khi chúng ta quen thân với sự chết, chúng ta chấp nhận mỗi ngày sống như một ơn huệ. Và khi chúng ta chấp nhận đời sống tuần tự như thế, nó trở nên rất quí giá.

Khi đối diện với tính chất phải chết, chúng ta tiếp cận với một đời sống khác, đời sống vĩnh cửu mà hạt giống đã được gieo trồng trong lòng và trong linh hồn chúng ta. Cái chết là sự vượt qua một đời sống mới, đời sống này (Như Đức Giêsu nói trong Tin Mừng) hoàn toàn vượt quá đời sống mà chúng ta biết hiện nay. Điều này xem ra rất đẹp, nhưng để hiểu ý nghĩa của nó không phải là chuyện dễ.

Chúng ta vượt qua đời sống mới ấy bằng nhiều giai đoạn nhỏ hơn trước đó. Khi chúng ta mới sinh ra đời, chúng ta đã thực hiện cuộc vượt qua từ đời sống bên trong bụng mẹ đến đời sống bên ngoài bụng mẹ. Khi chúng ta đi học, chúng ta đã thực hiện cuộc vượt qua từ đời sống trong gia đình đến đời sống trong một cộng đồng lớn hơn. Những người đã lập gia đình vượt qua từ đời sống với nhiều chọn lựa đến đời sống gắn bó với một người. Những người đã về hưu vượt qua từ đời sống có công việc như thế. Mỗi một giai đoạn dẫn đến một thứ chết đi nhưng cũng đưa lại một đời sống mới. Khi chúng ta sống những giai đoạn này cho tốt, chúng ta chuẩn bị chính mình cho sự vượt qua sau cùng của chúng ta.

Điều tốt nhất giúp chúng ta đối đầu với thực tế của sự chết là đức tin Kitô giáo của chúng ta. Đức tin làm chúng ta có thể đương đầu cái chết với lòng can đảm và hy vọng bởi vì chúng ta biết chúng ta có thể vượt qua nó trong Đức Kitô. Nhưng lòng can đảm và đức tin của những người như người phụ nữ và bảy người con trai của bà (Bài đọc 1) cũng được dùng làm gương sáng mạnh mẽ cho chúng ta bước đi theo họ trong đức tin. Các vị tử đạo khi làm chứng cho Thần Khí, cho chúng ta thấy rằng đời sống ấy mạnh mẽ hơn những sức mạnh của sự chết.

“Những chứng cứ dựa trên tính bất tử của linh hồn không ích lợi lắm. Đối với người Kitô hữu, nền tảng thật sự của tính bất tử là tình bạn với Chúa Phục sinh và với Thiên Chúa hằng sống. Như thánh Phaolô đã nói: “Thiên Chúa yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp” (Bài đọc 2)

Thiên Chúa đã hứa với chúng ta trong Đức Kitô và những lời hứa ấy là chắc chắn, không thể sai sót, cả cái chết cũng không thể hủy bỏ. Niềm hy vọng sống lại của chúng ta nằm trong quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Cái chết không là một kẻ thù đặt một dấu chấm hết cho mọi chuyện nhưng là một người bạn nắm tay và đưa chúng ta vào vương quốc của tình yêu vĩnh cửu.

63. Con người sẽ sống lại

Sống lại, là điều rất khó dung hợp được với khoa học, và rất khó giải thích cho con người ngày nay. Tuy vậy, nhiều người tin có sự sống mai hậu.

Niềm tin có sự sống mai hậu

Bài đọc trong sách Maccabêô cho thấy niềm tin sống lại nơi bảy anh em và người mẹ tuyệt vời. Con người có thể cướp mạng sống “chóng qua” của nhau, nhưng không thể cướp được sự sống đời đời.

Có người mẹ nào mà không thương con? Có người mẹ nào mà không muốn con mình sống? Người mẹ của bảy người con này thật tuyệt vời. Bà thương con và nuôi dạy con rất tốt. Bằng chứng là những người con vâng lời và kính trọng bà. Bà không chỉ muốn con mình sống, nhưng bà còn muốn con mình sống hạnh phúc vĩnh cửu. Bà biết ông vua độc ác có thể cướp mạng sống quý giá của những người con yêu của bà, nhưng Thiên Chúa sẽ trả lại cho chúng đời sống vĩnh cửu. Và bà đã can đảm khuyên con mình trung thành với lề luật Chúa, để được sống đời đời. Niềm tin sống lại nơi bảy người con, và đặc biệt nơi người mẹ, thật tuyệt vời.

Qua thái độ sống của người mẹ và bảy người con này, người ta nhận ra sự sống mai hậu tồn tại. Nếu không có sự sống lại, làm sao những người công chính dám chết? Làm sao các vị tử đạo dám chấp nhận cái chết?

Con người sống lại vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của người sống

Những người thuộc phái Sađốc là những người quý phái và học thức thời Đức Giêsu. Họ không tin con người sẽ sống lại sau khi chết. Không chỉ thế, họ còn tìm được lý chứng để cho thấy tin kẻ chết sống lại là phi lý, và không hợp với luật Môsê nữa. Trường hợp họ hỏi Đức Giêsu hôm nay cho thấy điều đó: nếu tin kẻ chết sống lại, thì người đàn bà đã ăn ở với bảy anh em trong một nhà đó, sẽ là vợ của người nào?! Điểm tới của câu hỏi không là người đàn bà đó là vợ của ai trong bảy người, nhưng là “tin kẻ chết sống lại là phi lý”.

Đức Giêsu cho họ thấy họ không hiểu sự sống đời sau. Đời sau không dựng vợ gả chồng, nên không có sự “phi lý” như họ tưởng. Và như vậy, việc kẻ chết sống lại, không phải là chuyện phi lý. Hơn nữa, lý luận của Đức Giêsu cũng rõ ràng. “Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống, chứ không phải là Thiên Chúa của kẻ chết”. Nếu người chết không sống lại, Thiên Chúa có hay không có, Ngài như thế nào con người đâu cần bận tâm vì đâu có ích lợi gì cho con người! Nếu con người tin có Thiên Chúa, và tin rằng Ngài yêu thương con người, hàm chứa con người sẽ sống lại.

Con người sống lại, vì Đức Giêsu đã sống lại

Có một số người thời thánh Phaolô cũng không tin có sự sống lại. Họ cũng lý luận: làm sao người chết sống lại được, với thân xác nào người chết sống lại? Và thánh Phaolô đã trả lời: “chỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cor.15, 44).

Lý luận chính yếu của thánh Phaolô về việc người chết sống lại: “Đức Giêsu đã sống lại”. Với Phaolô, Đức Giêsu đã sống lại nên kẻ chết sẽ sống lại (1Cor.15, 12). Nếu người chết không sống lại, thì Đức Giêsu sống lại để làm gì? Nếu người chết không sống lại, thì Kitô hữu là kẻ ngu dại nhất, vì không biết tận hưởng những lạc thú đời này.

Con người sống lại, là hậu quả của tình yêu và công bằng. Vì yêu, mà Thiên Chúa cho con người sống lại để chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Vì công bằng, mà những người sống công chính được bù đắp những gì họ đã hy sinh trong cuộc đời tại thế này. Thực sự, những người công chính đã được bình an và hạnh phúc ngay trong đời này, thậm chí cả những lúc như thể họ tuyệt vọng. Tuy vậy, hạnh phúc vĩnh cửu còn vượt xa điều họ đã nhận được tại cuộc đời chóng qua này.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Đâu là điều lợi và điều hại khi tin con người sẽ sống lại?

2. Bạn có muốn: con người sẽ sống lại không? Tại sao?

3. Theo bạn, làm sao để giúp người khác tin vào sự sống đời đời?

64. Một cơ hội mới

Charles Raven, một nhà học giả Thánh Kinh nổi tiếng đã viết về điều xảy đến cho ông khi người vợ yêu dấu của ông qua đời. Ông nói: “Tôi cho rằng giây phút tuyệt vời nhất xảy đến cho tôi đó là vào buổi sáng sau khi người vợ yêu quý của tôi mất đi. Tôi đã ở bên cạnh vợ tôi suốt đêm, và rồi một người bạn đã đến và dẫn tôi ra khỏi căn phòng chết chóc đó để bước vào một buổi mai của vàng kim và ngọc thạch trong một nơi dễ thương nhất mà tôi chưa từng thấy. Bất thình lình, như vần thơ mà Shelley gọi là “vòm kính muôn màu,” thế giới thần tiên rực rỡ, dương quang, và biển cả này, nổ tung và tan biến. Và tôi biết rằng thế giới này với tất cả diệu kỳ của nó, những chim chóc và muôn hoa mà tôi yêu thích ngay từ bé, và vẻ đẹp, vẻ đẹp của những người đã hướng dẫn tôi cách đại lượng và bất vị kỷ đối với nhu cầu của tôi, tất cả bề mặt của thế giới này chỉ là trung gian và qua nó mà chúng ta là con cái Thiên Chúa nghiệm ra để tiếp xúc với thế giới vĩnh cửu, trao đổi với nhau về những cảm nghiệm thoáng qua về thế giới đó, và tiến vào một đời sống không ở trái đất này.”

Charles Raven đã nhận ra Thiên Chúa đã ban cho ông một cuộc đời mới. Dĩ nhiên, ông ta mang theo tất cả tình yêu và mọi điều kỳ diệu trong quá khứ, nhưng nó đã được trở nên mới! Điều mà ông ta cho là mang đến cho ông sự hoạn nạn ở cuối đường hầm đen tối lại trở nên một sự mới mẻ bắt đầu cho ông, trong một ngày mai tươi mới. Thiên Chúa luôn luôn làm điều ấy. Và rất có thể một trong các bạn đây cần phải nên nghe biết điều này và cảm nghiệm nó. Trên phương diện khác, sự thay đổi hỗn độn trong lúc này đối với chúng ta rất là quan trọng để nhận ra rằng Thiên Chúa thật sự hiện diện trong mọi biến cố này. Thiên Chúa luôn luôn hiện diện bên cạnh những vết cắt của đời chúng ta, trong Giáo Hội cũng như trong xã hội. Đặc biệt quan trọng cho chúng ta khi nhận ra rằng ngay khi trong những sóng gió và căng thẳng đó, Thiên Chúa bằng cách nào đó Ngài đang mở ra cho chúng ta một ngày mai đổi mới. Cũng luôn quan trọng cho chúng ta khi nhận ra rằng, thường thường trong những sôi động nhất chúng ta đã được ban những cơ hội tốt nhất để bước những bước thật dài vào một tương lai mới.

Một ngày mai tươi đẹp đang chờ chúng ta vì Tình Yêu đã tìm thấy lối. Có nghĩa là đang bắt đầu, ngay lúc này, các bạn có thể bắt đầu tích cực ra sức làm việc trong sự phát triển cá nhân và thăng tiến, biết rằng nó thật xứng đáng, biết rằng các bạn đang thật sự cất bước tiến lên, hiểu rằng các bạn đang được ở trong những chương trình Thiên Chúa đời đời. Điều tuyệt vời là các bạn có thể mang theo sự tin tưởng vào một ngày mai tươi mới trong mọi mối liên hệ, với gia đình và tha nhân. Các bạn có thể tiến vào mọi ngóc ngách của đời sống hoan lạc cá nhân mình với sự tuyệt đối chắc chắn rằng Thiên Chúa luôn luôn ở với bạn, sẵn sàng ban cho bạn một sự bắt đầu mới, một cơ hội mới, một đời sống mới, thắng vượt ngay cả chính cái chết! Hơn nữa, chúng ta trong Giáo Hội và cộng đồng này có thể làm những điều gì đó giúp ích cho những vấn đề trong cộng đồng và thế giới vì chúng ta biết rằng Thiên Chúa đang thật sự làm việc trong những biến cố đó.

Thế giới ngoài kia đang bị đen tối. Có quá nhiều vô vọng trong thế giới. Nó đang giẫy chết. Các bạn có nghe thấy tiếng rên la quanh chúng ta không? Họ đang kêu cầu mọi ngày, “Có Tin Mừng gì từ Giáo Hội không? Có Tin Mừng gì từ Lời Chúa không? Có dấu hiệu hy vọng gì mà bạn có thể chỉ cho thấy không? Có mục đích gì đối với cuộc sống chúng ta không?” Thì chúng ta ở đây trả lời, “Có, trong mỗi tin buồn đều có tin mừng hiện diện. Đức Kitô đã sống lại.” Đức Kitô mang đến cho chúng ta sự sống mới và một ngày mai mới. Chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa mãi mãi trong Đức Kitô. Hay như Chúa Giêsu nói với chúng ta trong Lời Chúa hôm nay, trong sự vĩnh cửu của Thiên Chúa không có sự phân biệt giữa những điều mà chúng ta gọi là kẻ đang sống và đã chết. “Vì đối với Ngài,” Chúa Giêsu nói, “tất cả đều đang sống” (Lk 20:38).

Chúng ta đang sống trong một thế giới rất bấp bênh về tương lai. Nhưng chúng ta nguyện rằng, “Nước Cha trị đến,” bởi vì chúng ta biết rằng Tình Yêu đã tìm thấy lối và sẽ có một ngày mai! “Thiên Chúa không phải là Chúa của kẻ chết; nhưng là của kẻ sống. Tất cả đều sống cho Ngài.”

65. Chúa Nhật 32 TN–Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Đức

Kính thưa quý ông bà và anh chị em,

Phải chăng là con người sinh ra để chết? Và phải chăng cái chết là điểm chấm dứt cho cuộc đời con người? Nói chung thì cái chết là số phận của mỗi người, nhưng ai ai cũng đều muốn sống chứ không vội chết. Mỗi người có một nhãn quan riêng. Mỗi người có một lối suy tư riêng. Mỗi người có cách cảm nhận riêng. Muôn người muôn vẻ, nhưng tất cả vẫn là suy tư về thân phận con người, nhất là cái chết, tại sao không ai tránh khỏi? Để rồi người ta phải thốt lên: “Đời người dài, ngắn, sang, hèn. Trăm năm gom đủ một lần đưa tang”. Và lại nữa, một số tôn giáo tin rằng đời người có nhiều kiếp. Nhưng Kitô giáo chỉ nhận có một cuộc đời ta đang sống. Chính cuộc đời duy nhất này, sẽ định đoạt số phận vĩnh cửu của ta. Con người sinh ra là để sống mãi, và cái chết chỉ là cánh cửa mở vào cõi sống đời sau. Đời sau mãi mãi là một mầu nhiệm vì chẳng ai chụp được hình ảnh của thiên đàng hay hỏa ngục. Người đã khuất cũng không trở lại để kể ta nghe hay vẽ ra cho ta thấy. Bởi thế, người ta không tin có đời sau. Người ta bị cuốn hút và sống như thể chỉ có đời này, còn đời sau là chuyện ở đâu đó. Nó hoàn toàn xa lạ. Và đó chính là lối sống không phải chỉ riêng người thời nay, mà những người thời Chúa Giêsu cũng đã như vậy.

Thật vậy, qua Lời Chúa hôm nay cho thấy một cuộc tranh luận, liệu rằng có sự sống đời sau hay không. Những người thuộc phái Xa-đốc tin rằng, sau cái chết thì linh hồn con người vất vưởng như cái bóng nơi âm phủ. Âm phủ là nơi tối tăm, buồn chán, thiếu sự sống. Người Pharisêu lạc quan hơn, cho rằng đời sau là sự kéo dài của đời này. Người ta sống như trước, nhưng tràn trề hạnh phúc. Nhưng Chúa Giêsu đã vén mở bức màn đời sau rằng: đời sau khác hẳn đời này. Người ta không cưới vợ lấy chồng, không cần con nối dõi, nhưng sống như các thiên thần, nghĩa là chỉ lo phụng sự và ca ngợi Thiên Chúa. Đời sau không còn bóng dáng của thần chết, không còn quy luật của lẽ tử sinh. Toàn bộ con người được sống lại cả hồn và xác. Thân xác tuy đã mục nát theo thời gian, nhưng sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu để chung hưởng hạnh phúc với linh hồn. Và đó mới chính là sự sống đích thật của con người. Đó chính là cái cõi mà con người phải đi về. Đó mới chính là niềm hy vọng mà con người luôn vươn tới.

Kính thưa quý ông bà và anh chị em,

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, trong Chúa Nhật gần kết thúc năm phụng vụ, tất cả đều gợi lên trong ta những suy nghĩ và sự sống đích thật của đời ta. Sự sống đích thật ấy là chính sự sống vĩnh cửu đời sau. Đời người rồi ai cũng phải chết. Chính cái chết của đời người lại dạy cho ta biết cách sống. Chết để đựơc sống. Chính sự sống đời sau sẽ kéo ta ra khỏi những hạnh phúc giả tạo và những khổ đau do mê lầm. Chính có sự sống đời sau mà ta thấy cần phải bước đi vững vàng trong sự sống đời này. Không kéo lê. Không buông xuôi. Nhưng cũng có đôi khi để gục đầu ăn năn và nhìn lại những đoạn đưòng đã đi qua, như cố nhạc sĩ họ Trịnh đã suy tư trong bài hát: Im Lặng Thở Dài “Im lặng của đêm, tôi đã lắng nghe. Im lặng của ngày, tôi đã lắng nghe. Im lặng của đời, tôi đã lắng nghe. Tôi đã lắng nghe trái tim lạc loài, bao đêm đã qua, im lặng mặt người, tôi đã lắng nghe im lặng của tôi”. Chính khi im lặng lắng nghe tiếng đời, ta mới hy vọng và hăng say tiến tới sự sống đời sau. Và nơi ấy, ta sẽ gặp chính Đấng mà ta đã tin yêu và tôn thờ. Để chỉ biết chiêm ngắm, ca ngợi và phụng sự Chúa mà thôi. Amen.

66. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin

Cuộc tấn công tiếp theo là do một vài người thuộc nhóm Sađôc (cc. 27-33). Đó là lần duy nhất các thành viên của “đảng” nay xuất hiện trong Luca; trong sách Công vụ họ sẽ can thiệp nhiều lần; cũng như ở đây việc họ phủ nhận sự sống lại được nhấn mạnh (trên hết là Cv 23,6-9; x. 4,1); và Luca nói về họ như về một nhóm gần gũi với vị đại tư tế (Cv 5,17). Rất bảo thủ, họ hiểu sát chữ luật Môsê mà họ quý trọng ngũ thư hơn các sách ngôn sứ và các sách khác. Nghĩ rằng niềm tin vào việc kẻ chết sống lại không có nền tảng trong Luật nên họ từ chối tin –niềm tin này xuất hiện vào khoảng những năm 165 trước Công nguyên; trong bối cảnh nổi dậy của nhà Macabê, khi những người Israel trung thành với Chúa chịu chết vì đạo.

Những người thuộc phải Sađôc biết rằng Chúa Giêsu, cùng với các người Pharisêu và đại đa số quần chúng, tin vào sự sống lại. Để làm sáng tỏ tính cách vô lý của niềm tin này, một vài kẻ trong họ đặt ra một vấn nạn thuộc kinh viện nhằm chứng tỏ những sai lạc mà niềm tin này dẫn tới. Luật nối dõi tông đường –bị khủng hoảng vào thế kỷ thứ nhất- cho phép người ta cưới chị dâu khi người này bị goá và không con, để người anh quá cố có kẻ nối dòng; đứa con đầu lòng chị ta sinh ra sẽ lấy tên người anh quá cố, và sẽ được luật pháp nhìn nhận là con của người anh (x. Đnl 25,5-10). Đây là trường hợp: một người đàn bà son sẻ lần lượt trở thành vợ của bảy anh em lần lượt chế mà không có con. Rồi chị này cũng chết.”Khi chị này sống lại –theo những người Pharisêu và cả Thầy cũng tin như vậy- chị sẽ có con, nhưng bởi người nào trong họ mà chị ta sẽ mang thai?” (c. 33).

Vấn nạn ngây thờ một cách giả tạo, cho thấy hình ảnh về sự sống lại mà những người Sađôc chế giễu: một quan niệm duy vật thường được đặt việc kẻ chết sống lại trước việc Triều Đại Mêsia đến và trước cuộc phán xét cuối cùng. Khi đó sự trở về với cuộc sống trần thế sẽ cho phép những người chết trong các thế hệ trước đây tham dự vào triều đại này, và tất cả sẽ bị xét xử. Trong chiều hướng này, một số người Pharisêu khẳng định rằng nhân loại khi sống lại sẽ sinh con đẻ cái (đó là ý tưởng tiềm ẩn trong câu hỏi của các người Sađôc ở câu 33). Kinh sư Gamaliel, vào khoảng năm 90, sẽ khẳng định: “Sẽ đến thời mà người nữ sẽ sinh con mỗi ngày một lần”, khi ông nêu bằng chứng là các con gà mái đẻ trứng mỗi ngày (Talmud, Shabat 20b). Một kinh sư khác, vào khoảng năm 150, sẽ đi tới chỗ cho rằng mỗi người Israel sẽ có nhiều con bằng số những người Israel khi ra khỏi Ai Cập, nghĩa là 600.000… Tóm lại, việc sống lại được quan niệm như sự hoàn sinh của thân xác, mà thân xác này sẽ có được khả năng sinh sản cách kỳ diệu và sẽ trở lại với các sinh hoạt trần thế. Như các người Sađôc và như Chúa Giêsu cta sẽ mỉm cười loại bỏ một cách trình bày như thế. Tuy nhiên, một số Kitô hữu ít hiểu biết vẫn nghĩ tưởng như thế; nhất là giống như các ông Sađôc thuở xưa, ngày nay nhiều người vô tín ngưỡng từ chối tin vào sự sống lại, bởi vì họ nghĩ đó là niềm tin Kitô.

Câu trả lời của Chúa Giêsu (cc. 34-38) gồm hai đợt. Phản bác lại các trình bày bình dân và theo các kinh sư, quá thô kệch, về tình trạng của các kẻ sống lại, Ngài bắt đầu giới thiệu quan niệm của riêng Ngài về sự sống lại (cc. 34-36). Theo Ngài, có một khác biệt tận căn giữa cuộc sống trần gian và cuộc sống mới mà người ta được hưởng khi sống lại. Ở đời này con người sinh ra rồi chết; tính dục bảo đảm việc duy trì nòi giống. Còn những kẻ, vào ngày phán xét, mà Chúa xét là đáng hưởng phúc đời sau, và khi họ sống lại, họ sẽ không chết nữa; như vậy sự bất tử sẽ loại bỏ sự sinh sản.

Kiểu nói”ngang hàng với các thiên thần” rất có ý nghĩa. Người ta gặp thấy kiểu nói này trong nhiều bản văn khải huyền của Do Thái để khẳng định rằng việc kẻ chết sống lại không phải là trở lại đời sống trần thế, nhưng là một sự tái tạo dựng không thể tưởng tượng được, một biến đổi tận căn của hữu thể nhân linh, khi đó sẽ có được mọi hình dáng theo ý mình, đi từ vẻ đẹp đến sự rực rỡ, từ ánh sáng đến chiếu rang vinh quang chói ngời (Baruch syriaque 51). Giáo huấn rất phong phú này về tình trạng của những kẻ sống lại kết thúc bằng khẳng định”họ là con cái Thiên Chúa, vì con cái sự sống lại”: điều này làm cho họ sinh ra trong tình trạng thiên quốc, là tình trạng của các thiên thần (x. St 6,2), và đặt họ trước nhan Thiên Chúa hằng sống. Trong quan niệm mà Chúa Giêsu trình bày ở đây –sẽ quan niệm của Phaolô ở 1Cr 15,35-44, sự sống lại đến liền theo cuộc thẩm phán, nó liên hệ tới các người công chính và là sự sống lại phúc lộc. Không hề thấy nói gì tới số phận của các kẻ”vô đạo”; tất cả xảy ra dường như là Chúa xét họ không xứng đáng để được kéo ra khỏi cái hư vô của sự chết, để được tái tạo.

Trong đợt thứ hai, Chúa Giêsu xác nhận chính sự kêịn các kẻ chết sống lại (cc. 37-38), khi đặt cơ sở, như các ông Pharisêu trên một bản văn của Luật: “Về việc kẻ chết sống lại thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy…”, dường như y hệt, trong giới kinh sư: lời hứa phải được thực hiện cho chính những kẻ đã được hứa, -điều đó đòi hỏi là họ phải sống lại. Quan hệ mà Thiên Chúa thiết lập với các thành viên của dân Ngài không thể bị gián đoạn mãi mãi. Chúa Giêsu trích dẫn Xh 3,6, trong đó Đức Chúa được gọi là”Thiên Chúa của tổ phụ Abraham, Thiên Chúa của tổ phụ Isaac và Thiên Chúa của tổ phụ Giacop” –trong một thời điểm mà Kinh Thánh chưa được chia ra thành chương (điều đó sẽ được làm vào thế kỷ XIII), câu này như thuộc về đoạn nói về Bụi gai. Công thức đó quy chiếu về một sự kiện quyết định của Giao Ước mà qua đó Thiên Chúa đã cam kết làm việc không ngừng để ban ơn cứu độ cho Israel. Ý tưởng nền tảng là ý tưởng về lòng trung thành của Thiên Chúa đối với các kẻ được Ngài tuyển chọn; và ngay cả thần chết, địch thủ của Thiên Chúa, cũng không thể làm gì được để chống lại lòng trung thành này. Như vậy niềm tin vào việc kẻ chết sống lại được khơi dậy bởi lòng trung thành của Thiên Chúa đối với Giao Ước. Câu cuối cùng”Tất cả các tổ phụ và các người công chính đều sống cho Ngài” ám chỉ về niềm tin sống động của các vị tử đạo Do Thái: “Họ xác tín rằng khi chết vì Chúa, là người ta sống cho Chúa, như Abraham, Isaac, Giacop và các tổ phụ sống” (Mcb 16,25).

67. Chú giải của Noel Quesson

Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giêsu. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Mấy người ấy hỏi Đức Giêsu.

Vấn đề sự chết là một vấn đề nghiêm trọng, không thể tránh khỏi và phổ biến nhất mà con Người có thể đặt ra. Những căn bệnh đến bất ngờ như sét đánh, như các tai nạn trên đường hoặc lúc đi làm việc… không ngừng đặt ra câu hỏi này: Có cái gì sau đó không? Mọi nền văn minh không ngoại lệ đã khẳng định sự “trướng tồn” của con người, đã cử hành việc “thờ cúng người chết” và đã nhận định rằng “ông bà” vẫn còn có ảnh hưởng đến đời sống của con cháu còn sống.

Ngày nay, ở phương Tây, một thứ chủ nghĩa duy vật dường như lôi kéo đầu óc người ta theo một cuộc điều tra mới đây, 50% nghiêng người Pháp không còn tin vào bất cứ hình thức tồn tại nào sau cái chết. Những hoài nghi của những người hiện đại có thể chờ đợi chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta khám phá rằng vào thời Đức Giêsu đã có những người tu hành như nhóm Xa-đốc không tin vào sự sống lại, bởi “chủ nghĩa bảo thủ lý thuyết” vì họ chỉ thừa nhận những sách của Ngũ Kinh.

Ba sách Tin Mừng nhất lãm đều thuật lại cho chúng ta giai thoại này, và trong cùng một khung cảnh, nghĩa là những ngày sau cùng của Đức Giêsu trong cuộc sống trần gian. Thật cảm động khi nghĩ rằng Đức Giêsu đã thấy cái chết của Người đến gần và người ta đã cho Người cơ hội để bày tỏ quan điểm cá nhân của Người về đời sau; không phải như một cuộc tranh luận lý thuyết mà như một câu trả lời hiện sinh đem lại cho câu hói ấy: “Thầy Giêsu, Thầy tin điều gì sắp xảy ra khi Thầy sắp chết?”

“Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình.

Phải, ước muốn say mê được trường tồn trong lòng mọi người đã dẫn các nền văn minh Hít-tít, Át-xy-ri và Do Thái đến tập tục “hôn nhân với anh em chồng”. Thật ra Người ta nghĩ rằng con người chỉ thật sự trường tồn trong con cái của mình.

Vậy bằng bất cứ giá nào phải gầy dựng dòng giống cho người anh em mình đã quá cố. Và đứa bé sinh ra từ cuộc hôn nhân đó được luật pháp coi như đứa con của người quá cố.

Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?

Để chế giễu niềm tin vào sự sống lại, những người Xa-đốc đã đặt cho Đức Giêsu một “Pipoul” tức một cuộc bàn luận tinh tế mà các trường của các kinh sư rất thích. Nố lương tâm này xem ra rất lố bịch đối với chúng ta. Tuy nhiên bỏ qua khía cạnh kỳ cục huyền hoặc, cuộc bàn luận rất giống với sự tò mò của chúng ta về đời sau: chẳng phải chúng ta luôn luôn ngây thơ tưởng rằng đời sau như sự kéo dài đơn giản của đời sống trần gian này mà chúng ta từng biết đó sao? Đức Giêsu sẽ trả lời gì?

Đức Giêsu đáp: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa”.

Như vậy, Đức Giêsu thiết lập một sự tương phản hoàn toàn giữa “thế giới này” và “thế giới sẽ đến” mà Người tin chắc là có. Và Người khẳng định rõ ràng chỉ những người được xét là đáng hưởng mới được vào.

Vậy đây là một sự thật đầu tiên, hết sức sáng tỏ: người ta không vào cuộc sống đời đời “như thế đấy”, để vui đùa; cần phải được xét là xứng đáng! Đời sau không phải là một miền đất mơ hồ, hoặc một căn phòng của những bước đi hụt hẫng mở ra cho bất cứ ai, ở đó người nào cũng có thể đủng đỉnh bước vào; có một thứ gì giống như một kỳ thi để nhập học… phải làm các bài trắc nghiệm để phụ trách một số công việc hoặc một số nghề nghiệp nào đó. Và đương nhiên là bài thi để vào “thế giới mai sau” không thể chỉ liên quan về cách sống của chúng ta “trong thế gian này”. Chúng ta đã được cảnh báo về điều chủ yếu nào đó.

Vì được ngang hàng với các thiên thần.

Phải hiểu rõ khẳng định thứ hai này của Đức Giêsu.

Người nói với chúng ta phải từ bỏ sự tưởng tượng về đời sau. So sánh những người được tuyển chọn với các “thiên thần” có nghĩa là cách sống của những người quá cố nằm ngoài sự tìm hiểu của khoa học và tri thức. Sự sống của đời sau không theo kiểu mẫu của sự sống chúng ta. Không thể hình dung dù bằng cách nào thế giới sẽ đến cũng như người ta không thể hình dung các thiên thần. Có còn tiếp tục hoạt động tính dục hay không là một câu hỏi cũng hạ cấp như cuộc tranh luận về giới tính của các thiên thần! Họ không là đàn ông cũng không là đàn bà. Họ là gì? Họ “hoàn toàn” khác với chúng ta. Và Đức Giêsu trả lời cho những người Xađốc duy vật rằng không cần phải sinh con đẻ cái nữa, bởi vì người ta không thể chết nữa.

Tại sao, một số người sẽ tự hỏi, Thiên Chúa không giải thích thêm chút gì về đời sau khác thường đó? Rõ ràng là Người không thể, bởi vì chúng ta không có chút kinh nghiệm nào về nó. Người ta có thể nói gì về đứa bé sắp sinh ra và còn trong bụng mẹ để chỉ cho nó biết về đời sống trần gian đang chờ đợi nó? Giả sử nó biết ngôn ngữ mà bạn nói với nó thì những từ ngữ của bạn không nói được gì cho nó chừng nào mà nó chưa có kinh nghiệm gì về thế giới chúng ta. Nó chỉ có thể bắt đầu khám phá thế giới này khi nó “đã đến thế gian”… Con bướm là một sinh vật hoàn toàn khác với sâu róm sẽ trở thành bướm. Cây lúa mì còn non hoàn toàn khác với hạt lúa mì… Bà cụ già 90 tuổi hoàn toàn khác với cô bé gái lúc cô mới bắt đầu cuộc sống của mình. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, vừa có tính liên tục vừa có sự khác nhau hoàn toàn. Con sâu róm sống bằng cách bò sát mặt đất, gắn chặt vào đất: một ngày kia nó ngủ yên trong cái kén mà nó dùng như cái quan tài nhỏ, và rồi, một ngày kia nó thức dậy thành con bướm xinh đẹp có cánh, bay lượn trong bầu trời. Nếu con sâu róm biết được sụ biến đổi hoàn toàn đang chờ nó, hẳn nó sẽ mong mà một ngày kia nó phải trở thành.. Đó là hình ảnh sự sống lại đang chờ đới chúng ta cũng như thế.

Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.

Đó là điều mạc khải thứ ba, tích cực, của Đức Giêsu, về những Người quá cố: Người nói, họ được đưa vào sự thân thiết với Chúa Cha. “Còn đẹp hơn điều mà anh em muốn tưởng tượng ra! Giá như Đức Giêsu nói như thế, anh em sẽ thật sự sống như con cái của Thiên Chúa. Và, anh em hãy tin Thầy, Thầy biết mình đang sống trong hạnh phúc được làm “con” Người?” Ở đây, người ta nhận ra một chủ đề thường gặp nơi Thánh Phaolô: “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô” (Ep 1,5). Chúng ta không còn nằm trong vấn đề khôi hài của những người Xa-đốc: Chúng ta đang ở tâm điểm của đức tin đích thực nhất.” Những đau khổ chúng ta phịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nới chúng ta. Muốn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa: mạc khải “vinh quang của con cái Người” (Rm 8,18-19). Sự sống đời sau không thể tưởng tượng ra được, hoàn toàn khác hẳn đời sống trần gian bởi vì đó là sự tham dự vào sự sống của Đấng Hoàn Toàn Khác (Đấng Siêu Việt) của Thiên Chúa! Cũng như mọi sự liên quan đến Thiên Chúa, chúng ta không có phương tiện nào để khái niệm hóa một cách duy lý về những thực tại như thế vì chúng hoàn toàn vượt quá trí tuệ của chúng ta. Khả năng đuy nhất của chúng ta là tín hoặc không tin sự sống đời sau đó.

Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.”

Vậy Đức Giêsu khẳng định rõ ràng sự sống lại của những người chết, khi rút sự sống lại từ những quan điểm đơn giản vẫn cho rằng sự sống vĩnh cửu chỉ là sự kéo dài của đời sống trần gian.

Sự tin chắc của Đức Giêsu dựa trên hai thực tại đức tin chủ yếu: 1. Tình yêu mà Thiên Chúa yêu thương chúng ta vượt quạ sư chết: đối với Thiên Chúa, Ápraham, Isaác, Gia-cóp không chết. Giao ước của Thiên Chúa với con người là một trong những trực giác sâu xa của Kinh Thánh. “Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ”. (Tv 16,10). Nếu những người Thiên Chúa đã tạo dựng và yêu thương như Apraham, Isaác, hay chị Nguyệt, anh Minh sau cùng bị hóa thành hư vô thì tình yêu của Thiên Chúa phải chịu thất bại. Nói về Thiên Chúa của những người chết khác nào nói về “cái khiên của người chết”, nếu một Người đã chết thì cái khiên của người ấy phỏng có ích gì?. Nhưng trong bản văn của Luca, Đức Giêsu đưa ra thêm một lý lẽ thứ hai của sự trường sinh của chúng ta: tình yêu của chính chúng ta đối với Thiên Chúa: “Thật vậy mọi sự sống vì Người”. Như thế người ta nói: “Lạy Chúa, chúng con yêu mến Chúa quá đến nỗi còn phải yêu mến Chúa sau cuộc đời này”: Đó là kinh nghiệm của tử đạo phải chấp nhận nguy cơ tận hiến hoàn toàn sinh mạng mình vì Chúa, cho đến chết, để sáu cùng được sống tình yêu của mình. Đó là mầu nhiệm Vượt qua; phải “đi qua” cái chết để “yêu mến” cho đến tận cùng. Vậy trong niềm tin của Người Kitô hữu vào đời sau không có gì là huyện thoái hoặc ấu trĩ: niềm tin vào sự sống lại không phải là một niềm tin ở bên lề, không bắt buộc. Đó là đức tin vào chính Thiên Chúa!

68. Suy niệm của William Barclay

Chúa Giêsu đã đánh bại các kinh sư và các thầy tư tế khi họ tìm cách gài bẫy Ngài về chuyện nộp thuế, bây giờ đến lượt một nhóm người Xa đốc, một đảng thế lực trong hàng các thượng tế tấn công Ngài. Họ không tin sự bất tử của linh hồn, không tin sự sống lại của người chết, không tin có các thiên sứ và các thần linh. Về Kinh Thánh họ chỉ công nhận bộ luật thành văn của Cựu ước, và trong Cựu ước họ chỉ coi trọng luật Môsê.

Dựa vào luật hôn nhân kế tục Lêvi (Đnl 25,5): Khi một người đàn ông chết không con nối dõi, em trai (hay anh trai) người này phải cưới người vợ góa đó và sinh con để nối dòng cho người thân quá cố. Có lẽ vào thời Chúa Giêsu, luật đó không còn thi hành nữa, nhưng nó đã có trong bộ luật Môsê, vì thế người Xa đốc coi luật đó còn hiệu lực. Vậy người Xa đốc đã đến vớ câu hỏi rằng ai sẽ là chồng trên trời của người vợ đã gả cho bảy người đàn ông khác nhau. Họ cho đó là một câu hỏi làm cho niềm tin vào sự sống lại thành ra lố bịch. Họ hy vọng Chúa Giêsu sẽ chối tín lý cổ truyền về sự sống lại hay sẽ nói một câu chống lại luật pháp Môsê quy định về luật hôn phối kế tục. Nhưng Chúa Giêsu đã đưa ra một câu trả lời hàm chứa một chân lý vĩnh cửu. Ngài nói chúng ta không nên hiểu về trời theo cách hiểu dưới đất này. Sự sống ở đó sẽ hoàn toàn khác bởi chúng ta sẽ hoàn toàn khác. Cuộc sống phục sinh sẽ được điều hành bởi những quy luật khác hơn những quy luật hiện nay. Những kẻ dự phần vinh hiển trong thời đại đó, từng kinh nghiệm các phước hạnh của sự sống lại từ kẻ chết sẽ trở nên bất diệt về linh hồn cũng như về thân thể. Hôn nhân cần thiết cho sự lan truyền dòng giống ngày nay, lúc ấy sẽ không còn tồn tại nữa. Những tương quan trong cuộc sống ấy sẽ cao hơn, cả những tương quan thiêng liêng nhất của cuộc sống hiện tại. Những kẻ có phần trong sự sống lại này “sẽ giống như các thiên thần”, không phải về mọi phương diện mà về trạng thái bất tử của họ. Trong một ý nghĩa rộng rãi hơn, họ sẽ là “con cái Thiên Chúa” và là “con cái của sự sống lại, vì sự chết đã mất uy lực trên họ.”

Chúng ta cần lưu ý, nhiều tín lý ngày nay có vẻ khôi hài và mâu thuẫn với những quy luật chính xác của khoa học thực nghiệm một ngày kia sẽ trở nên sáng tỏ nhờ khám phá ra những quy luật cao hơn những quy luật hiện nay. Chúng ta sẽ tránh được nhiều sai lầm nếu ta đừng tiếp tục tưởng tượng một cõi trời như thế nào (theo ý chúng ta) cứ trao trọn vẹn mọi sự cho tình yêu của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa. Như chúng ta đã biết, người Xa đốc không tin sự sống lại của cơ thể. Họ tuyên bố rằng, họ không thể tin điều đó vì không có lời nào, càng không có chứng cớ nào về điều đó được tìm thấy trong các sách luật mà Môsê là tác giả. Vả lại không có rabi nào có thể giải đáp thỏa mãn cho họ, nhưng việc này Chúa Giêsu đã làm. Ngài chỉ cho họ biết chính Môsê đã được nghe Thiên Chúa phán: “Ta là Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Gia cóp.” (Xh 3,1-6) và không thể nào Thiên Chúa lại là Thiên Chúa của kẻ chết, cho nên Ápraham, Isaac, Giacop vẫn đang sống. Ý Ngài muốn xác định sự trường tồn của kẻ chết, nhưng chẳng phải chỉ có bấy nhiêu đó, Ngài còn chứng minh được sự sống lại của kẻ chết. Đó chính là vấn đề đang bàn cãi. Chữ “kẻ sống” của Chúa dùng, là chỉ những kẻ sống một cuộc sống thường, không phải của những sinh linh không có thân thể, mà của những linh hồn bất tử được khoác bằng một thân thể bất tử. Do đó, Chúa thêm rằng: “Vì đối với Chúa tất cả đều đang sống”. Ý muốn và mục đích của Thiên Chúa là đem mọi người ra từ kẻ chết để hưởng đầy đủ những phước hạnh của sự sống lại.

Căn cứ vào tương quan của ta hiện nay mà ta biết mình sẽ đến tương lai đó hay không. Nếu Ngài thật là Thiên Chúa của chúng ta vì ta là dân Ngài, thì sự chết sẽ không làm hại ta, một ngày kia ta sẽ đạt đến sự bất tử vinh quang thân thể lẫn linh hồn.

“Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời” (Đnl 12,2) “Ai đã làm điều lành, thì sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án”.

Qua việc sống lại, Thiên Chúa hoàn tất việc cứu độ chúng ta, không phải với thân xác được chắp vá lại, nhưng thân xác mới, thích ứng với con người mới. Qua việc tái sinh và nên một thân thể mới để thích ứng. Thân thể mới liên kết nhưng khác biệt với thân xác cũ giống như cây liên kết với hạt (nhưng khác biệt) từ đó chúng đã mọc lên (Cf 1 Cr 15,35-44). Thân xác hiện tại của tôi mà Phanxicô Assisi muốn gọi bằng “anh lừa” cũng giống như chiếc xe cọc cạch của chàng sinh viên dù tôi chăm sóc mấy đi nữa vẫn chạy tạm thời không khi nào suôn sẻ, lại thường khiến tôi và ông chủ của tôi thất vọng não nề. Nhưng thân thể mới của tôi sẽ cảm thấy và hoạt động như một chiếc Rolls Royce, và khi ấy công tác phục vụ của tôi không còn bị hỏng hóc nữa.

Chắc chắn, ai trong chúng ta, cũng yêu quý thân thể của mình vì nó là một phần của chúng ta nhiều lúc cũng khó chịu vì nó hạn chế ta. Thật rất tốt khi biết Thiên Chúa ban cho chúng ta một bộ khung hạng nhì giúp ta chuẩn bị quản lý thân thể tốt hơn. Sau này: có người đã nói rằng: “Người ta giao cho bạn một con ngựa tầm thường là để bạn tập cưỡi, và chỉ khi nào bạn sẵn sàng rồi, bạn mới được giao cưỡi con ngựa biết phi nước đại và phóng qua chướng ngại vật. Một người lùn đã khóc vì vui sướng khi nghĩ đến cái thân thể Chúa dành sẵn cho mình trong ngày sống lại. Khi nghĩ đến những người ta quen thân mà về mặt này mặt khác, thân thể không được toàn vẹn, vì tật bệnh, suy nhược… Thật vui khi nghĩ đến hạnh phúc của họ. Muốn được thế, ta phải nên giống Chúa Giêsu.

69. Sống–Như Hạ

Càng bị đe dọa, sự sống càng vùng dậy mãnh liệt. Cái chết là một đe dọa lớn nhất và ghê sợ nhất. Muốn vươn đạt tới sự sống vĩnh hằng, con người phải có một sức mạnh hơn tử thần. Hôm nay, Đức Giêsu dẫn ta tới một cuộc sống trên cõi thiên thần.

HAI CUỘC SỐNG.

Cuộc sống rất tương đối. Sự sống thật hữu hạn. Thế nhưng niềm tin mở ra một chân trời mới. Thế giới đang tiến về một đỉnh cao dành cho “những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết” (Lc 20:35) Sống trong thế giới đó, con người không còn bị lệ thuộc vào những điều kiện vật chất hữu hạn nữa. Tất cả đều “là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.” (Lc 20:36) Một cuộc lột xác hoàn toàn sẽ đem lại cho nhân loại một sự sống mới chưa từng thấy.

Sự sống bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Bởi vậy, sự sống không thể thua sự chết, không thể bị tắc nghẽn vì những giới hạn tử thần. “Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? Tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (1 Cr 15:56-57) Nếu không có Đức Giêsu, chắc chắn tất cả nhân loại sẽ bị tử thần khuất phục. Đó là điều sỉ nhục đối với Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu đã phục sinh để chứng minh Thiên Chúa “không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống” (Lc 20:38) nhờ máu Đức Giêsu đổ ra trên thập giá. Chính niềm xác tín vào sự sống như thế đã cho ta có quyền hi vọng vào chiến thắng cuối cùng của Thiên Chúa, Đấng “đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp.” (2 Tx 2:16)

Nếu chỉ nhìn theo nhãn quan trần thế, không thể nào có được niềm an ủi và cậy trông đó. Nhóm Xađốc đã dựa trên hiện tại để củng cố “chủ trương không có sự sống lại.” (Lc 20:27) Họ hoàn toàn căn cứ vào tương quan hôn nhân để phi bác cả một thế giới thiêng liêng, nơi con người “không thể chết nữa, vì được ngang hàng với thiên thần.” (Lc 20:35) Chỉ trong cuộc sinh tồn đắp đổi này, con người mới cần đến hôn nhân để duy trì cuộc sống. Còn trong cõi vĩnh hằng, tại sao cần phải duy trì sự sống bằng những phương tiện của thế giới vật chất nữa? Hai thế giới khác nhau không thể dựa trên cùng một nền tảng. Lập luận của nhóm Xađốc hoàn toàn nằm ngoài qui luật thiên giới. Họ không thể vượt ra ngoài cõi tục để thấy được cuộc sống của con cái Thiên Chúa, vì họ không phải là con cái sự sống lại. Cuộc sống đó thật là mầu nhiệm và siêu việt, nhưng lại rất thực tiễn vì đáp ứng được niềm ước vọng bất tử của nhân loại và vào chính sự phục sinh của Đức Giêsu. Thật vậy, “nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Kitô đã không chỗi dậy. Mà nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em.” (1 Cr 15:13.16) Nếu niềm tin chúng ta hoàn toàn hão huyền, làm sao Kitô giáo lại có thể đem lại cho nhân loại một nền văn minh tốt đẹp như vậy? Thực tế, nhân loại đã được giải thoát khỏi xích xiềng tội lỗi nhờ cuộc phục sinh của Đức Giêsu. Bởi thế, không thể không có sự sống lại. Đó là niềm tin căn bản nhất và vững chắc nhất, chi phối toàn thể cuộc sống Kitô hữu.

Niềm tin đó đã bắt nguồn rất sâu xa trong Kinh thánh. Quả thế, “hồi ấy, có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ” (2 Mcb 7:1) dưới thời vua Antiôkhô. Họ đã có tất cả sức mạnh chiến thắng tử thần nhờ “dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hi vọng sẽ được Người cho sống lại.” (2 Mcb 7:14) Bao nhiêu cực hình đã không chiến thắng nổi niềm tin vững chắc và đầy quả cảm đó. Nếu “luật pháp của cha ông” (2 Mcb 7:8) đã khiến cho họ có sức mạnh lớn lao đến thế, thì “Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.” (Rm 8:11) Thế nên, niềm tin vào sự sống lại được chính Ba Ngôi bảo đảm. Niềm tin đó đang trổ sinh những mùa màng tươi tốt trên toàn thế giới.

Như vậy Đức Giêsu đã dùng một lập luận vững chắc để phi bác niềm tin của phai Xađốc. Lập luận đó căn cứ trên thực tế cuộc sống thiên thần và qui chiếu vào Kinh thánh. Chính thực tại lớn lao là “Thiên Chúa của kẻ sống” đã đủ mạnh để áp đảo tất cả những lập luận bênh vực cho sự chết. Đối với Thiên Chúa, không có vấn đề chết. Vì tất cả đã được Đức Kitô trả lại sự sống mới bắt nguồn từ Thiên Chúa.

MỞ RỘNG TẦM NHÌN.

Không có sự sống mới đó, cuộc sống hiện tại sẽ trở thành nhàm chán và vô nghĩa. Nói khác sự sống lại không phải là sự nối tiếp cuộc sống hiện tại. Bởi vậy vấn đề các người Xađốc đặt ra hoàn toàn “trật dơ”. Sự sống lại khác tự bản chất, vì con người sẽ “ngang hàng với các thiên thần.” (Lc 20:36) Không có niềm hi vọng sống lại, không thể đủ nghị lực và phấn khởi vượt qua những thách đố phi lý của cuộc sống hiện tại. Trái lại, sự sống lại là động cơ thúc đẩy con người vươn tới những mục tiêu siêu việt.

Không mở rộng tầm nhìn, không thể thấy được tất cả ý nghĩa sự sống lại đem lại cho sự sống hôm nay. Sự sống hôm nay đang dẫn tới cái chết. Đó là một sự phi lý hoàn toàn. Nhưng sự sống lại giúp con người hiểu được tại sao mình sống và đang đi về đâu. Sự sống lại sẽ dẫn con người tới một sự thật: Thiên Chúa là “Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” (Lc 20:38) Nghĩa là, đối với các tín hữu, không gì, kể cả cái chết, có thể làm họ thất vọng. Những người không có niềm tin vào “Thiên Chúa của kẻ sống”, chỉ thích chọn giải pháp dễ dãi của tử thần. Chẳng hạn, những người chủ trương cho chết êm dịu, phá thai, triệt sản, khủng bố v.v hoàn toàn đóng khung tầm nhìn vào những giới hạn trần giới.

Bởi đấy, cần phải mở rộng tầm nhìn vào cõi sống của “con cái sự sống lại” để tìm một giải pháp toàn diện cho những bế tắc hôm nay. Nhưng đừng để bị những kẻ mơ mộng đánh lừa. Họ có thể nhân danh sự sống đời sau để đẩy con người vào cõi chết. Những kẻ khủng bố 11/9/2001 vừa qua cũng tin vào sự sống bất diệt nơi Thiên Chúa. Nhưng họ đã tạo ra bao đau thương cho chính mình và nhân loại. Có một sự mâu thuẫn giữa cuộc sống hiện tại và tương lai trong niềm tin của họ. Mặc dù có sự khác biệt sâu xa, nhưng niềm tin vào cõi bất tử không thể là một lối thoát cho những người tuyệt vọng như vậy.

Bởi đấy niềm tin vào sự sống lại chỉ chính đáng khi đem lại cho con người sức mạnh xây dựng cuộc sống hiện tại tốt đẹp hơn. Niềm tin đó đang là điểm tựa cho nhiều người trong cuộc chiến chống lại tử thần. Đó là lý do tại sao Kitô hữu không ngừng vận dụng mọi nỗ lực xây dựng nền văn minh sự sống, chống lại nền văn minh sự chết. Từ nay nhờ Đức Giêsu, trong văn minh sự sống Kitô hữu có thể đem lại niềm hi vọng lớn lao cho nhân loại.

Tất cả đều “dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại.” (2 Mcb 7:14) Lời hứa đó thực sự đã được thực hiện trên thập giá Đức Giêsu. Chính Người “là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11:25) của chúng ta. Không có Người, tất cả sẽ trở thành vô nghĩa và vô giá trị, vì tất cả bị thần chết tiêu diệt. Nhưng nếu muốn thoát ách tử thần, Kitô hữu phải “đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hi vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” (Pl 3:10) Thập giá là con đường dẫn tới sự sống và sự sống lại trong Đức Giêsu Kitô.

70. Tôi tin xác loài nguời ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy–Lm Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang

1. Bài Tin Mừng hôm nay (Luca 20,27-38) đề cập đến hai tín điều cuối cùng của Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”, Tôi tin có “sự sống đời đời” sau khi chết.

Đây là dịp thuận tiện để chúng ta suy nghĩ về lời tuyên xưng cuối cùng trong kinh Tin Kính về sự sống lại và sự sống đời sau. Vì chúng ta tin có sự sống lại và có sự sống đời sau, nên chết không phải là hết, nhưng chết là bắt đầu sống cuộc đời mới, như lời tuyên xưng của Kinh Tiền Tụng Thứ Nhất trong Thánh Lễ cầu cho kẻ qua đời: “Nơi Người, niềm hy vọng sống lại vinh phúc đã chiếu toả trên chúng con, để những ai buồn sầu vì số phận phải chết, cũng được an ủi vì Chúa dã hứa ban phúc trường sinh bất diệt sau này. Vì lạy Chúa, đối với các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chớ không mất đi, và khi nơi nương náu ở trần gian này bị huỷ diệt tiêu tan, thì lại được một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trên trời”.

2. Chúa Giêsu trả lời vấn nạn của Nhóm Xa-Đốc

– Đức Giêsu đáp: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.” (Lc 20,34-36).

– “Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham,Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” (Lc 20,37-38).

3. Chúa Giêsu đối với sự sống lại

– Ngài bác bỏ bè Sađuxêô là bè không tin có sự sống lại, như trong bài Tin Mừng hôm nay.

– Ngài nói đến sự sống lại của kẻ lành để được thưởng, của kẻ dữ để bị phạt trong Ngày Phán Xét Chung…

– Ngài hứa ban sự sống lại cho kẻ nào ăn Thịt Chúa và uống Máu Chúa…

– Ngài quả quyết Ngài là sự sống lại…

– Ngài làm nhiều phép lạ để chứng minh về sự sống lại…

4. Tín điều “Thân Xác sống lại” đối với người công giáo

– Một tín điều đặc biệt của Đạo Công Giáo chúng ta: chỉ có người Công Giáo có niềm tin này. Đây là tín điều mà từ xưa đến nay, nơi người ngoại giáo, không ai nói tới. Đây là tín điều mà người vô thần, người vật chất, không thể nào nghĩ đến được vì họ chỉ cho rằng chỉ có thiên đàng trên mặt đất nầy mà thôi

– Một tín điều có liên quan mật thiết đến đời sống của con người chúng ta, là con người có hồn có xác.

– Tín điều nầy làm cho người công giáo chúng ta được vui mừng vì hai lý do:

– vì sự cao trọng của thân xác (vì những đau khổ nơi thân xác, những hy sinh trong thân xác có một ý nghĩa rạng rỡ cho ngày mai khi sống lại);

– vì chúng ta vẫn gặp lại thân xác của những người thân yêu của chúng ta sau nầy khi sống lại.

5. Thân xác của con người rất cao trọng

Sự cao trọng của thân xác con người có ba lý do sau đây:

– thứ nhất, vì Con Thiên Chúa xuống thế làm người, mặc lấy thân xác loài người của chúng ta;

– thứ hai, vì thân xác chúng ta được phước ăn Thịt và uống Máu của Chúa Giêsu để được sống đời đời;

– thứ ba, Giáo Hội Công Giáo hết sức kính trọng thân xác của người chết.

6. Giáo Hội Công Giáo kính trọng thân xác của người chết

Đạo Công Giáo là Đạo kính trọng thân xác của người chết.

Khi biết được trái tim người chết vừa thôi đập, Giáo Hội Công Giáo dạy đánh chuông nhà thờ để tiếng chuông vang lên báo tin cho mọi người biết linh hồn người nầy đã được Chúa gọi về.

Khi nghe tiếng chuông báo tin nầy, mọi thành phần Dân Chúa trong giáo xứ tìm cách đến nhà người chết, đọc kinh, cầu nguyện, tẩm liệm cung kính theo nghi thức của Giáo Hội.

Xác người chết được rước đên Nhà Thờ, được đăt ngay trước Nhà Chầu của Chúa Giêsu, được đặt gần quả tim của Người. Cây nến Phục Sinh, tượng trưng cho sự sống lại của Chúa Giêsu và của những ai tin theo Ngài, được thắp sáng lên, đặt cạnh quan tài người chết. Rồi thánh lễ đươc cử hành để cầu nguyện cho người chết, nói lên việc Giáo Hội cung kính xác người chết, như thánh nữ Mađalêna cung kính Xác Thánh của Chúa Giêsu.

Sau Thánh lễ, linh mục chủ tế, đại diện cho Giáo Hội, lên đường đi tống táng, từ Nhà Thờ ra đến Đất Thánh, cùng với anh chị em trong cộng đoàn gia đình giáo xứ.

Tại Đất Thánh, linh mục làm phép huyệt để thánh hóa nơi người chết an nghỉ, và nói lên cho mọi người nghe những lời hy vọng tuyệt vời: chúng ta hãy gởi xác người thân yêu ở lại đây, đợi ngày sống lại, sẽ gặp nhau trên nước thiên đàng.

7. Tín điều Sự sống đời đời

– Chúa Giêsu nói Ngài ban sự sống đời đời cho những ai tin Ngài: “ Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời” (Ga 6,47).

– Chúa Giêsu ban sự sống đời đời cho chúng ta: “Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17,2).

– Chúa Giêsu hứa ban sự sống đời đời cho những tin nghe lời Ngài: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14).

– Chúa Giêsu hứa ban sự sống đời đời cho những ai sống đời yêu Chúa và yêu người: “Có người thông luật kia đứng lên hỏi Chúa Giêsu để thử Chúa: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Chúa đáp: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” Ông ấy thưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” Chúa Giêsu bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống” (Lc 10,25-28).

– Chúa Giêsu hứa ban sự sống đời đời cho những ai tuân giữ các điều răn: Bấy giờ có một người đến thưa Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?” Chúa Giêsu đáp: “… Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19,16-17).

– Chúa Giêsu nói rằng ai đã làm điều lành khi còn sống, thì khi sống lại, sẽ được sự sống đời đời: “Ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,29).

8. Về sự sống đời đời, Chúa Giêsu khuyên chúng ta những điều quan trọng sau đây:

– Một: “Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời.9 Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục” (Mt 18,8-9).

– Hai: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,13-14).

– Ba: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51)

9. Đời sống sau khi sống lại

– Sống lại thế nào, chúng ta không cần để cho trí tưởng tượng bày vẽ (!)…vì đây là một cuộc sống khác (không cưới vợ, không lấy chồng, nhưng sống như thiên thần,…

– Khi được sống lại, thân xác chúng ta vẫn là chính thân xác của chúng ta, nhưng lúc đó, thân xác chúng ta giống như thân xác của Chúa Giêsu Phục Sinh: sáng đẹp, nhanh nhẹn, tinh vi, không còn đau đớn,…

71. Tôi tin sự sống đời sau–Jos. Vinc. Ngọc Biển

Lc 20: 27. 34-38: Bài Tin Mừng hôm nay được đặt vào trong bối cảnh sau khi Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn lần thứ ba, và cũng là một trong những bài giáo huấn quan trọng của Ngài tại Giêrusalem.

Có ngày sinh ắt có ngày chết. Đó là chân lý. Nếu ngày sinh, chúng ta cất tiếng khóc trong niềm vui mừng của mọi người, thì ngày chết, mọi người sẽ khóc cho kiếp người của ta đến đây kết thúc. Vậy, chết là lẽ thường tình của một kiếp nhân sinh. Tuy nhiên, điều mà chúng ta cần đặt ra, đó là: chết rồi sẽ đi về đâu? Bên kia cái chết là gì?

Những câu hỏi như thế, nhóm Sa đốc trong bài Tin Mừng hôm nay cũng đã đặt ra cho Đức Giêsu. Nhân cơ hội, Đức Giêsu đã mạc khải cho họ biết về cuộc sống mai hậu. Và đây cũng chính là câu trả lời cho mỗi chúng ta về thắc mắc trên.

1. Tại sao nhóm Sa đốc không tin sự sống lại

Bài Tin Mừng hôm nay được đặt vào trong bối cảnh sau khi Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn lần thứ ba, và cũng là một trong những bài giáo huấn quan trọng của Ngài tại Giêrusalem. Đức Giêsu lên Giêrusalem lần này là để chuẩn bị cho cuộc thương khó mà Ngài sẽ chịu: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất” (Lc18,31). Vì thế, khi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài ở đây, nhóm Pharisêu và Biệt Phái luôn tìm cách gài bẫy để bắt Đức Giêsu nhằm loại trừ Ngài và xóa bỏ giáo lý mà Ngài đang loan báo. Hôm nay, thêm một nhóm nữa cũng với ý đồ như hai nhóm trên, họ chính là nhóm Sa đốc.

Nhóm này là một trong ba nhóm quyền lực nhất trong dân thời bấy giờ, đó là: Pharisêu, Biệt Phái và Sa đốc. Hai nhóm đầu họ chỉ chú trọng đến việc đạo đức và giữ luật cách tỉ mỉ, hình thức bên ngoài. Còn nhóm Sa đốc thì lại chú tâm đến vấn đề chính trị và tiền bạc. Thái độ và cách thức khác nhau, nhưng họ đều là những người chống đối Đức Giêsu. Chủ trương của nhóm Sa đốc này là không tin có sự sống lại. Họ hoàn toàn phủ nhận tất cả những gì không nằm trong bộ Ngũ Thư, bởi vì họ chỉ tin năm cuốn sách đầu của Cựu Ước, và họ bác bỏ hết tất cả các sách còn lại. Trong bộ Ngũ Thư của Mô sê không có nói trực tiếp đến vấn đề sống lại. Có chăng chỉ là những hình ảnh. Vì thế, họ không tin. Mặt khác, giả thiết của nhóm này là: nếu có tin thì sự sống đời sau chẳng khác gì cuộc sống hiện tại trên trần gian và, quyền năng của Thiên Chúa không xa hơn khả năng của con người là bao.

Khởi đi từ quan điểm, lựa chọn trên của nhóm này, nên họ đã đặt ra cho Đức Giêsu một tình huống hết sức ly kỳ. Họ trưng ra một câu chuyện theo kiểu trào phúng: khi có hai người lấy nhau, người chồng chết mà không con, theo luật, người vợ đó sẽ được lấy tiếp người anh em còn sống để có con nối dõi, và lần lượt như thế tới 7 đời chồng mà vẫn không có con, vấn nạn đặt ra là sau khi sống lại, người đàn bà này sẽ là vợ của ai? (x. Lc 20, 27-38)

Khi đặt ra cho Đức Giêsu câu hỏi như vậy, họ đã dùng biện pháp “nhất tiễn diệt song điêu” một mũi tên bắn hai đích. Một phần họ muốn gài bẫy Đức Giêsu để kiếm cớ tố cáo Ngài; mặt khác, họ muốn so tài với nhóm Biệt Phái và Pharisêu, vì hai nhóm này đã bị thất bại nhiều lần và chịu sự khiển trách nặng nề của Đức Giêsu công khai trước mặt toàn dân.

Khi nhóm Sa đốc đặt ra cho Đức Giêsu câu hỏi về sự sống lại như thế, nhân cơ hội này, Ngài đã mạc khải cho họ về sự sống lại và cuộc sống của con người sau cái chết.

2. Mạc khải của Đức Giêsu về sự sống lại

Ngay sau khi nghe họ đặt câu hỏi, Đức Giêsu đã đi thẳng vào vấn đề: “Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần” (Lc 20, 35).

Thật vậy, ở đời này có lấy vợ gả chồng chỉ là chuyện sinh, lão, bệnh, tử, nên cần phải có người giúp đỡ, phục vụ và nối dõi. Khi con người đã trở thành bất tử, họ không còn sống phụ thuộc vào không gian và thời gian nữa, vì thế, họ cũng không cần phải lấy vợ gả chồng. Họ sẽ bước vào cuộc sống thần thiêng như các thiên thần, cuộc sống của họ lúc này là trường sinh bất tử, sung mãn, trọn vẹn và tồn tại muôn đời với Đấng Hằng Hữu. Công việc của họ chính là ca ngợi Chúa trong vinh quang Nước Trời như các thiên thần, bởi vì: Thiên Chúa vẫn là Đấng Hằng Hữu, là Thiên Chúa của kẻ sống chứ không phải là một vị Thiên Chúa của kẻ chết.

Tuy nhiên, không phải ai cũng được vào dự phần vinh phúc đó, chỉ những người được chọn và gọi mà thôi: “những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết” (Lc 20, 35) thì sẽ được dự phần phúc ấy. Họ là những con chiên được tuyển chọn và được tách ra khỏi dê, là lúa tốt được phân rẽ ra khỏi cỏ lồng vực, là cá tốt được lọc ra khỏi cá xấu… Họ là con cái Thiên Chúa, khi chết, họ trở về ngôi nhà vĩnh cửu của Cha mình để hưởng niềm hạnh phúc tuyệt đối: “Điều mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người là điều mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ được” (1Cr 2,9).

Nhưng được hạnh phúc, được dự phần hay không, còn do thái độ của chính đương sự, chứ Chúa không ép buộc: “Đây Ta đưa ra cho các ngươi chọn: hoặc con đường đưa tới sự sống, hoặc con đường đưa tới sự chết” (Gr 21,8) hay: “Ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,29). Quả thật, ân sủng của Chúa vẫn có đó, con người được ơn cứu độ hay không là tùy vào thái độ đón nhận hay không đón nhận.

3. Niềm tin vào sự sống lại của chúng ta

Như vậy, qua mạc khải của Đức Giêsu về sự sống lại, nên chúng ta tin: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26); “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51); “Ai ăn thịt và uống máu Ta sẽ được sống đời đời” (Ga 6,59). Niềm tin ấy đạt đến đỉnh cao khi chính Đức Giêsu, Đấng đã chết, được mai táng trong mồ ba ngày, và ngày thứ ba đã trỗi dậy từ cõi chết. Niềm tin này đã được các tông đồ loan báo và làm chứng: “Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng” (Cv 3, 15; x. Cv 2,32; 10,41). Thật vậy: “Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại” (1 Cr 6,14). Niềm tin này đã được Giáo Hội tuyên tín trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”.

Khi tin như thế, cái chết chỉ là một sự chuyển hóa, là cánh cửa ta cần bước qua để tiến vào sự sống viên mãn, vĩnh cửu hơn mà thôi. Quả thật, nếu không có sự sống lại sau cõi chết, thì niềm tin của chúng ta trở nên mù quáng, điều này cũng đã được chính thánh Phaolô diễn tả khi nói: “Nếu chết là hết, thì quả thực chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ” (x. Cr 15,19).

Tuy nhiên, sống hay chết là một sự chọn lựa. Cuộc sống đời sau là có thật, nhưng để đạt được hạnh phúc hay không lại tùy vào thái độ và sự lựa chọn của mỗi chúng ta. Chọn lựa tốt thì sẽ được hạnh phúc, chọn lựa sai thì sẽ bị đau khổ.

Như vậy, muốn cho cuộc sống của mình được hạnh phúc trường sinh với Chúa thì: hãy sống như những người tỉnh thức để đợi chủ về. Hãy sống như các cô trinh nữ khôn ngoan. Và, hãy sống như đây là giây phút cuối cùng của cuộc đời.

Lạy Chúa Giêsu, chính mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa là bảo chứng tuyệt đối của chúng con vào cuộc sống mai hậu. Xin cho chúng con ý thức rằng một ngày nào đó chúng con sẽ phải từ giã cuộc sống tạm bợ này để về với Chúa là nguồn bình an, hạnh phúc thực sự. Vì thế, xin cho chúng con ngay từ giây phút này, biết chuẩn bị cho xứng đáng ngày trở về với Chúa. Amen.

72. Họ là con cái Thiên Chúa, con cái Sự Sống Lại–Giuse Vũ An Tôn

Bạn làm người được mấy năm?

Chết hết làm người, bạn định làm gì?

Sống và chết, có lẽ là điều mà ai trong chúng ta cũng đã từng, đang và sẽ còn nghĩ tới. Ngay cả những người vô thần, dù không tin có đời sau, vẫn băn khoăn về ý nghĩa của cuộc đời. Chúng ta lo lắng mình phải sống làm sao, và chết rồi chúng ta sẽ đi về đâu? Chúng ta thường tìm cách tưởng tượng xem nếu một mai được sống lại thì chúng ta sẽ như thế nào? Sự tò mò này chính đáng nhưng không đem lại câu trả lời thoả mãn.

Giữa nỗi tuyệt vọng ấy, quan điểm của Chúa Giêsu qua cuộc đối thoại giữa Người và nhóm Xađốc hôm nay, là cơ sở vững chắc cho chúng ta mạnh dạn tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”.

Chúng ta tin tưởng vững vàng và hy vọng chắc chắn rằng: cũng như Đức Kitô đã thực sự phục sinh từ cõi chết và sống mãi, thì sau khi chết người công chính cũng sống mãi với Đức Kitô Phục sinh và Người sẽ cho họ sống lại ngày sau hết. (GLHTCG, số 989)

Viễn tượng này giúp chúng ta biết nên đầu tư tiền tài, sức lực, trí khôn vào đâu cho hợp lý và bảo đảm tương lai vững bền. Chúng ta chỉ đi qua cuộc đời một lần mà thôi. Nếu đầu tư sai, ắt tất cả sẽ “xôi hỏng bỏng không”, tương lai kể như không có, còn cuộc sống hiện tại trở nên vô nghĩa. Do đó, sự sống đời đời đã bắt đầu ngay từ cuộc sống hiện tại. Chính mỗi người đã chọn cho mình số phận vĩnh cửu qua cách sống của mình.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, dù tuyên xưng lòng tin của mình, nhưng thực chất thái độ và suy nghĩ của chúng con: chạy theo tiền tài, danh vọng, địa vị, chức quyền, những tiện nghi sung sướng thoải mái mà thế gian có thể cung cấp,… cũng chẳng khác gì nhóm Xađốc xưa, những người “chủ trương không có sự sống lại”. Chúng con loay hoay thu vén và vội vã thưởng thức những thiên đàng giả tạo, chóng qua nơi trần thế mà quên đi còn một điều cần thiết và cao quý hơn cả là sự sống đời đời trong cung lòng Thiên Chúa. Trào lưu tục hoá và hưởng thụ của xã hội ngày càng phổ biến là một thách đố lớn cho niềm tin vào sự sống đời sau của chúng con. Chúng con luôn bị cám dỗ buông xuôi, vì quanh mình bao người khác đang vui chơi, hưởng thụ mà có ai bị làm sao đâu; dẫn đến chúng con ngại phải “chiến đấu để qua được cửa hẹp” (Lc 13,24), vì sợ bị thiệt thòi, sợ bị coi là khác người.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, qua bí tích thánh tẩy chúng con đã được tháp nhập vào trong thân thể Chúa là Hội Thánh. Tuy nhiên, bấy nhiêu đó thôi thì chưa đủ bảo đảm một chỗ trên nước Chúa. Chúng con chỉ thực sự có được cuộc sống mới, được “ngang hàng với các thiên thần” và được gọi là con Thiên Chúa, khi ngay còn sống ở đời này, chúng con biết tín thác trọn vẹn vào Thiên Chúa và không ngừng vâng giữ những lời Người dạy, mà cụ thể là giới răn mến Chúa – yêu người.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, “ngoài Chúa ra đâu là hạnh phúc?”(Tv 16,2) Chúa chính “là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25). Lời Chúa hứa: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,54) là cứu cánh cho cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con ý thức được mình đang sở hữu một món quà cao quý là Thánh Thể Chúa, và biết tận dụng những ngày tháng nơi trần thế sống kết hiệp mật thiết với Chúa qua việc siêng năng tham dự Thánh lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa.

Lạy Chúa, xin cho niềm tin vào sự sống lại luôn là động lực để chúng con sống một cuộc sống tốt đạo đẹp đời. Và xin cho tất cả mọi công việc, hành động, lời nói, suy nghĩ của chúng con đều quy hướng về mục đích cuối cùng ấy. Amen.

73. Tin vào sự sống đời sau–Huệ Minh

Đã bước vào cuộc đời này ắt có ngày chết. Đó là chân lý, đó là định luật của đời sống con người. Và như vậy, chết là lẽ thường tình của một kiếp nhân sinh. Tuy nhiên, điều mà chúng ta cần đặt ra, đó là: chết rồi sẽ đi về đâu? Bên kia cái chết là gì?

Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại một cuộc tranh luận về giáo lý giữa phái Sađốc và Chúa Giêsu. Phái Sađốc mỉa mai việc kẻ chết sống lại, còn Chúa Giêsu thì khẳng định tín điều ấy. Chúng ta chẳng cần đi sâu vào chi tiết cuộc tranh luận đó làm chi. Điều cần chúng ta quan tâm hơn là hãy suy nghĩ về niềm tin của mình. Vấn đề thực tế đối với chúng ta là chúng ta tin có sự sống lại.

Những câu hỏi như thế, nhóm Xa đốc trong trang Tin Mừng hôm nay đã đặt ra cho Chúac Giêsu. Nhân cơ hội, Chúa Giêsu đã mạc khải cho họ biết về cuộc sống mai hậu. Và đây cũng chính là câu trả lời cho mỗi chúng ta về vấn nạn về cuộc sống mai hậu.

Những người Xađốc đến gặp Chúa Giêsu để điều tra về giáo huấn của Người. Họ đặt câu hỏi dựa trên luật thế huynh để xem Chúa Giêsu nghĩ gì về việc kẻ chết sống lại. Như trong giai thoại trước (Lc 20,20-26), Chúa Giêsu giải quyết vấn nạn kiểu giải nghi theo cách bất ngờ khiến các kinh sư cũng phải thán phục. Gọi là “giải nghi”, vì ở đây câu hỏi được đặt ra không nhắm đến bản thân Đức Giêsu hoặc quan hệ của Người với giới chức Giêrusalem. Câu hỏi mang tính lý thuyết, mà rất có thể thường được người Xađốc đặt ra cho người Pharisêu.

Họ đến gặp Chúa Giêsu và hỏi Ngài một câu hỏi xem ra không thể trả lời được. Căn cứ theo luật Lêvi ( Đnl 25, 5tt.), nếu một người qua đời mà không có người nối dõi tông đường, thì người em phải cưới chị dâu ấy để cho anh mình có người con nối dõi tông đường. Dựa trên luật này, họ hư cấu một câu chuyện bảy người anh em lần lượt lấy một người vợ để có người con nối dõi tông đường, nhưng đều chết mà không có con; vậy nếu có sự sống lại thì ai sẽ là chồng của người phụ nữ này. Như vậy, niềm tin vào sự sống lại thật là lố bịch.

Những người này không những tin ở Ngũ thư mà còn tin ở các sách Tiên tri và các sách khác nữa. Ðó là những sách đã khởi sự với phong trào Ðệ nhị luật, tức là suy nghĩ về luật pháp. Biệt phái là các thần học gia không ngừng học hỏi và dạy dỗ luật pháp. Họ quý những sách viết sau như những sách viết trước vì họ quan niệm Lời Chúa và mạc khải sống động và triển khai không ngừng. Thế nên họ tin lời sách Ðaniel cũng như lời sách Maccabê về việc phục sinh sau này.

Họ dựa vào một khoản luật của Môsê để đặt ra một câu chuyện lố bịch chế diễu Chúa Giêsu. Khoản luật đó là: Nếu một người đàn ông có vợ nhưng chưa có con mà bị chết, thì một trong các anh em trai của người chết ấy phải cưới lấy người vợ góa. Khi sinh ra đứa con đầu tiên thì phải coi đứa con đó là con của người đàn ông quá cố. Mục đích của luật này là để cho người quá cố không bị tuyệt tự, nhưng vẫn có con lưu truyền nòi giống cho mình. Phái Sađốc đã căn cứ vào khoản luật này và đặt ra một thí dụ: gia đình kia có 7 anh em trai, người thứ nhất lấy vợ rồi chết mà không có con, người thứ hai lấy người vợ góa đó nhưng cũng chết không con, tới người thứ 3, thứ tư, năm, sáu bảy đều lần lượt lấy người vợ góa đó và cũng đều chết mà không có con. Vậy khi sống lại thì người đàn bà này sẽ là vợ của ai? Ta thấy mục đích của phái Sađốc là mỉa mai cho rằng sống lại là việc phi lý, vì nếu có sống lại thì chẳng lẽ người đàn bà ấy có thể là vợ chung của tập thể 7 anh em kia sao?

Câu trả lời của Chúa Giêsu khẳng định rằng sẽ có sự phục sinh, đồng thời cũng giải thích những đặc tính của sự phục sinh mà biện luận của bè Xađốc đơn giản là loại bỏ.

Căn cứ trên bộ Ngũ Thư, bè Xađốc bài bác niềm tin vào sự sống lại. Vì thế, Chúa Giêsu viện dẫn sách Xuất Hành (Xh 3, 2-6), một trong sách thuộc về bộ Ngũ Thư, để cho thấy cách hiểu sai lầm trầm trọng của bè Xađốc. Từ Xh 3, 2-6 trong đó Thiên Chúa tự bày tỏ mình cho ông Môsê: “Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp”, Chúa Giêsu rút ra câu kết luận: “Thiên Chúa không là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”, có nghĩa rằng Thiên Chúa vẫn thường hằng có mối quan hệ với Ápraham, Ixaác và Giacóp, dù các vị tổ phụ này đã chết từ lâu rồi. Vì thế, dù những người công chính này đã chết trên bình diện thể lý, họ vẫn đang sống, thật sự sống trong Thiên Chúa và mong chờ cuộc phục sinh.

Chúa Giêsu vạch cho họ thấy sự sai lầm này, Người nói: Con cái đời này thì cưới vợ lấy chồng; còn những ai đáng hưởng đời sau và sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng… bởi họ được như thiên thần và nên con cái Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đã bắt lẽ các người Xađốc ngay trong chính lý luận của họ, khiến họ phải đuối lý không thể nào trả lời được. Vì thế, không lạ gì mà các kinh sư khi chứng kiến cuộc tranh luận đã phải thốt lên lời khen ngợi: “Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm” (20, 39).

Bề ngoài, người Xa đốc và Đức Giêsu nói về cùng mộtvì Thiên Chúa. Trong thực tế, họ quan niệm Thiên Chúa là một Đấng Tạo hóa và Nhà lập pháp lạnh lùng, đã nói tiếng nói cuối cùng khi bố trí thế giới hiện tại và khi ban Luật Môsê. Đối với Đức Giêsu, Thiên Chúa không kéo con người ra từ hư vô để rồi lại đẩy nó rơi vào hư vô. Ai đã được Thiên Chúa gọi đi tới sự sống, thì được Ngài nhắm cho đạt tới sự sống đời đời. Đối với chúng ta, mọi sự tùy thuộc Thiên Chúa. Số phận chúng ta tùy thuộc Ngài là ai, và là ai đối với loài người.

Đối với người Xađốc, Thiên Chúa là một vì Thiên Chúa của những quy định pháp lý và là một vì Thiên Chúa có quyền năng đã bị cạn kiệt khi tạo dựng thực tại trần gian như hiện có. Đấy là những tiền giả định mà Đức Giêsu không chấp nhận. Họ coi Thiên Chúa như là Đấng đã ban cho dân Israel một loạt những giới luật nhằm bảo đảm cho họ một cuộc sống tốt lành và trật tự trên mặt đất này. Ngược lại, đối với Đức Giêsu, Thiên Chúa trước khi là Thiên Chúa của các quy định, là Thiên Chúa của lòng nhân lành luôn chiếu cố đến từng con người, hướng dẫn, săn sóc từng con người. Thiên Chúa không liên hệ với con người trước tiên bằng luật lệ, nhưng bằng lòng nhân ái tỏ ra với các tổ phụ. Thiên Chúa không chỉ săn sóc các ngài trong một thời gian ngắn để rồi sau đó bỏ mặc cái ngài trong cái chết. Đã được Thiên Chúa cúi mình xuống trên mình với lòng nhân ái, con người mãi mãi được nhắm cho sống, bởi vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống.

Chúa Giêsu phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26). Thiên Chúa làm chủ sự sống. Thiên Chúa là “Thiên Chúa của kẻ sống”. Chúa là Thiên Chúa của tôi nếu tôi đang sống, nghĩa là nếu tôi còn đang ở trong tương quan mật thiết với Ngài. “Thiên Chúa của kẻ sống” có nghĩa là “đối với Người, tất cả đều đang sống”. Vậy nếu tôi cắt đứt tương quan với Người tức là tôi đã chết và như thế Thiên Chúa không thể là Thiên Chúa của tôi nữa.

Muốn được sống đời sống ấy trong ngày sau hết, mỗi kitô hữu cần phải đặt trọn niềm tin tưởng phó thác nơi Thiên Chúa. Sống tương quan mật thiết với Chúa, thực thi lời Chúa dạy, sống công bình bác ái và hãy loại bỏ những hành vi gian ác, lối sống sa hoa, những lời nói gian tà, những tình cảm bất chính, những đam mê trần tục, không chiều theo cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt.

Thật vậy, Chúa là sự sống lại và là sự sống, xin Chúa cho ta biết đi trên đường lối của Chúa, biết tin tưởng phó thác nơi lòng thương xót của Chúa để ta cũng được sống lại ngày sau hết, được nên giống các thiên thần và là con cái của Thiên Chúa.

74. Tin vào đời sau–Huệ Minh

Ðời sau mãi mãi là một mầu nhiệm. Chẳng ai chụp hình được thiên đàng hay hỏa ngục. Người đã khuất cũng không trở lại để kể ta nghe. Bởi thế, nhiều người không tin có đời sau.

Ðời sau mãi mãi là một mầu nhiệm. Chẳng ai chụp hình được thiên đàng hay hỏa ngục. Người đã khuất cũng không trở lại để kể ta nghe. Bởi thế, nhiều người không tin có đời sau. Cả những tín hữu cũng bị cuốn hút bởi vật chất, và sống như thể chỉ có đời này. Ðời sau là chuyện ở đâu đó, hoàn toàn xa lạ.

Thánh Luca đặt câu chuyện những người phái Sađốc đến chất vấn Chúa Giêsu vào những ngày cuối cùng trước khi Người bị nộp. Vì thế nó có ý nghĩa bắt bẻ, gây hấn. Nhưng dùng những ngày cuối đời của Người để xin Chúa Giêsu nói về đời sau, tác giả Luca lại thấy đó là điều hợp tình hợp lý.

Thời Chúa Giêsu, các người Biệt phái (Pharisêu) tin rằng: ngoài cuộc sống đời này còn một cuộc sống vĩnh hằng ở đời sau. Còn phái Sađốc gồm các tư tế Đền thờ đã không tin có cuộc sống ở đời sau như vậy.

Ta thấy: nhóm Sađốc hiểu sai về việc sống lại, cũng như về cuộc sống mai sau. Với họ sống lại là phục hồi những điều kiện vật chất của người quá cố. Trong khi đó Chúa Giêsu lại bảo: Người sống lại sẽ giống như các thiên thần, nên không còn dựng vợ gả chồng nữa. Đối với chúng ta, vấn đề chỉ được thực sự giải quyết qua cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô, để rồi chúng ta luôn tuyên xưng: Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau.

Do đó khi nghe Chúa Giêsu giảng về sự kẻ chết sống lại, họ đã phi bác bằng việc đặt ra một câu chuyện giả tưởng như sau: Nhà kia có bảy anh em trai, người thứ nhất lấy vợ rồi chết mà không có con. Theo luật “Thế huynh” của Môsê, người thứ hai phải lấy người vợ góa đó, nhưng rồi người này cũng chết không con. Tới người thứ ba, tư, năm, sáu, bảy đều lần lượt lấy người vợ góa đó và cũng đều chết mà không để lại một người con nào. Vậy nếu có sự sống lại thì người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy anh em? Mục đích của phái Sađốc khi đưa ra câu chuyện này là để chứng minh niềm tin vào sự sống lại là vô lý. Vì nếu còn có một cuộc sống ở đời sau như vậy thì chẳng lẽ người đàn bà ấy lại là vợ của cả bảy anh em nhà đó hay sao?

Để trả lời, trước hết Chúa Giêsu cho biết tình trạng người ta sau khi sống lại sẽ không cưới vợ lấy chồng. Cuộc sống của họ sẽ hoàn toàn thanh khiết như “các thiên thần”. Họ sẽ trở thành “con cái của Thiên Chúa” (Lc 20, 34-36). Tiếp đến Chúa Giêsu xác nhận sự kẻ chết sống lại là điều chắc chắn vì dựa trên Lời Chúa trong Thánh Kinh: Khi hiện ra với ông Môsê trong bụi gai cháy mãi không tàn, Đức Chúa đã tự xưng mình như sau: “Ta là Chúa của tổ phụ Ápraham, Isaác và Giacóp” (Xh 3, 6). Câu này hàm ý Thiên Chúa là Đấng hằng sống và điều khiển thế giới người sống. Các tổ phụ dân Do Thái dù đã chết nhưng linh hồn các ngài vẫn đang sống bên Đức Chúa.

Những người phái Sađốc không tin có sự sống lại sau này, nên khi nghe Đức Giêsu giảng về mầu nhiệm kẻ chết sống lại, họ đã tìm cách phi bác giáo lý ấy qua một câu chuyện giả tưởng về bảy anh em nhà kia theo luật Thế Huynh của Môsê đã tiếp nối nhau lấy cùng một người đàn bà và đều chết mà không có con. Từ đó họ đặt vấn đề: Nếu có chuyện kẻ chết sống lại thì người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy anh em? Chúa Giêsu đã dùng Kinh Thánh để chứng minh có cuộc sống vĩnh hằng sau đời tạm này, và còn cho biết cuộc sống ấy như thế nào.

Có mấy người thuộc phái Sađốc đến. Họ phủ nhận việc sống lại mặc dầu đã có bài sách Maccabê như chúng ta đã thấy trên. Hơn nữa Ðaniel cũng đã khẳng định: “Nhiều người sẽ thức dậy, kẻ thì dành cho sự hằng sống; kẻ sẽ chuốc lấy ô nhục”. Nhưng phái Sađốc không tin những loại sách này. Họ gồm phần lớn các người ở trong hàng tư tế. Họ bám lấy Ngũ thư là năm quyển đầu tiên trong bộ Kinh Thánh, đó là luật pháp Môsê, nền tảng của đạo giáo, cơ sở của hàng tư tế. Những sách khác đối với họ không có nhiều uy tín. Họ không giống như biệt phái.

Những người này không những tin ở Ngũ thư mà còn tin ở các sách Tiên tri và các sách khác nữa. Ðó là những sách đã khởi sự với phong trào Ðệ nhị luật, tức là suy nghĩ về luật pháp. Biệt phái là các thần học gia không ngừng học hỏi và dạy dỗ luật pháp. Họ quý những sách viết sau như những sách viết trước vì họ quan niệm Lời Chúa và mạc khải sống động và triển khai không ngừng. Thế nên họ tin lời sách Ðaniel cũng như lời sách Maccabê về việc phục sinh sau này.

Ðang khi ấy, phái Sađốc chú trọng đến tế tự và địa vị lãnh đạo của mình. Ngoài việc dâng lễ ra, họ chỉ quan tâm đến đời sống chính trị. Họ sợ biến động làm rối các cuộc lễ. Và vì thế họ không ngần ngại đi với chính quyền và sẵn sàng chế nhạo những việc khác.

Chúa Giêsu vén mở cho ta phần nào bức màn đời sau. Ðời sau khác hẳn đời này. Người ta không cưới vợ lấy chồng, không cần con nối dõi, nhưng sống như các thiên thần, nghĩa là chỉ lo phụng sự và ca ngợi Thiên Chúa.

Ðời sau là nơi không còn bóng dáng của thần chết. Người ta thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh. Toàn bộ con người được sống lại: cả hồn lẫn xác. Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian, nhưng sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu để chung hưởng hạnh phúc với linh hồn.

Trong tháng cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, ta nghĩ đến cái chết và đời sau. Cái chết dạy ta biết cách sống. Ðời sau kéo ta ra khỏi những hạnh phúc giả tạo, và những nỗi khổ đau do mê lầm. Ta đang đi về đời sau để gặp Ðấng mà ta đã tin yêu suốt đời. Tất cả cuộc hành trình đều phải hướng về nguồn cội. Ta đã được dựng nên cho Thiên Chúa, và ta còn khắc khoải mãi cho đến khi gặp được Ngài.

(Nguồn: gplongxuyen.org)