Thứ Năm, ngày 25 tháng 04 năm 2024

Nhập Đề Về Thánh Mẫu Học – Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP

Chuyên mục: Các bài nghiên cứu về Đức Maria - Ngày đăng: 30.04.2022
Chia sẻ:

NHẬP ĐỀ VỀ THÁNH MẪU HỌC

(Lm. Giuse Phan Tấn Thành)

Nếu muốn dịch cho sát từ ngữ latinh thì phải nói là “Maria-luận” (Mariologia: Maria – logos, khảo luận về Maria). Từ ngữ này mới xuất hiện từ thế kỷ XVII bên Ý (do Plaxiđô Nigrô đặt ra cho tựa đề quyển sách Summae sacrae mariologicae pars prima, xuất bản tại Palermo năm 1602). Thực ra đã có nhiều tác giả viết những thiên thần-học bàn về đức Maria từ lâu rồi, nhưng dưới những tựa đề khác. Mặt khác, không phải lúc nào các nhà thần học cũng viết một tác phẩm riêng biệt về đức Maria: thường những vấn đề thần học liên can đến đức Mẹ được bàn tới trong những khảo luận về đức Kitô. Plaxiđô Nigrô đánh dấu một giai đoạn mới, nghĩa là dành một thiên thần học biệt lập để bàn riêng về đức Maria dưới tựa đề “Mariologia”.
Trong bài nhập đề, chúng ta hãy điểm qua những đường lối trình bày về Đức Maria trải qua lịch sử Giáo hội. (Ở đây, chúng ta chỉ chú trọng đến các tác phẩm viết về đức Maria; trong một chương khác, chúng tôi sẽ trình bày sự tiến triển về các tín điều về Đức Maria cũng như những hình thức tôn kính Người trong truyền thống của Hội thánh).

I. Tân ước.
Trong Kinh thánh chúng ta không thấy có một chương nào dành riêng để nói về đức Maria. Người được nhắc đến trong mối liên hệ với Chúa Giêsu và nhắm tới kế hoạch Cứu rỗi. Trong suốt 27 quyển sách Tân ước, người ta chỉ đếm được khoảng chừng 200 câu nói đến Người. Với chất liệu ít ỏi như vậy, không ai có thể viết một quyển tiểu sử về đức Maria được. Tuy vậy, chân dung của Người khá nổi bật ở vài đoạn, chẳng hạn như ở những chương đầu của Phúc âm thánh Luca, mô tả về cuộc đời thơ ấu của Chúa Cứu thế. Dĩ nhiên ở đây ta hiểu về chân dung tinh thần chứ không phải là vóc dáng hình thù của đức Maria: Người được mô tả như kẻ đầy ơn sủng, được quyền năng Chúa Thánh Thần bao phủ; Người được chúc phúc vì đã tin vào lời Chúa. Khi tả việc giáng trần của Chúa Giêsu, cả Matthêo lẫn Luca đều nhìn nhận rằng Người là mẹ trinh khiết của Chúa Giêsu. Gioan đã gọi Người bằng danh hiệu “Mẹ của Đức Giêsu” (Ga 2,1; 19,25); Gioan cũng gắn liền đức Maria với Chúa Giêsu khi đồng hóa “giờ” của Chúa với “giờ” của Bà (Ga 2,4; 13,1; 16,21; 17,21), đăc biệt khi từ trên thập giá Chúa đã trao phó môn đệ yêu dấu cho Người coi sóc làm mẹ.

II. Các giáo phụ.
Nói chung, các giáo phụ nói đến đức Maria khi chú giải Kinh thánh; do đó, không có tác phẩm biệt lập về đức Maria. Tuy nhiên, các giáo phụ cũng khai triển một vài đề tài mà Kinh thánh không nói tới hoặc chỉ thoảng qua, thí dụ: đức Maria là Eva mới (Ireneo, Giustinô); đức Maria được trình bày như mẫu gương trinh nữ tận hiến (Ambrôsiô).
Tuy nhiên vào thời này, đã bắt đầu xuất hiện những tác phẩm tường thuật cuộc đời của Đức Mẹ, bắt đầu là Phúc âm nguyên thủy của thánh Giacôbê (lúc đầu nó mang tên là: việc Đức Maria ra đời); tiếp theo là một dẫy những Phúc âm ngụy thư nói về việc Người qua đời (De dormitione, de transitu Mariae …, thế kỷ 2-7).
Cạnh những tác phẩm có tính cách tường thuật (kể chuyện), ta cũng nên thêm một loạt bài giảng về đức Maria, manh nha của những tác phẩm thần học trong tương lai. Mở đầu cho loạt này là tập “Bài giảng về thánh Trinh nữ” của thánh Atanasio Alexanđria (340), trong đó không những tác giả ca ngợi Đức Mẹ nhưng còn bênh vực chân lý về chức Thiên mẫu, đồng trinh (chống lại phái Ariô). Lần lần, nhiều giáo phụ khác, khi chú giải đoạn văn Phúc âm về việc truyền tin, cũng dừng lại để suy niệm hay ca tụng đức Maria thí dụ: Gergorio Nissa (+392), Basiliô Seleuxia, Esikiô Giêrusalem, Crisippô, Cirillo Alexandria (hai bài giảng đọc tại công đồng Ephêsô), Têođôtô Ancira: tất cả vào thế kỷ thứ 5. Cũng trong chiều hướng ấy, một số giáo phụ đã viết vài tiểu luận để bênh vực một đạo lý về đức Maria đang bị lạc giáo công kích, thí dụ thánh Hiêrônimô (Adversus Helvidium, khoảng năm 383) để bênh vực sự trinh khiết của đức Maria dựa theo kinh thánh, Cirillo Alexandria (Adversus Nestorii blaspemias), Lêontiô Giêrusalem (Adversus nestorianos) vân vân. Dĩ nhiên, bên lề các cuộc cử hành phụng vụ, chúng ta không thể bỏ qua những thánh ca thánh vịnh sáng tác để ca ngợi Đức Maria. Nổi tiếng nhất bên Đông phương là thánh Ephrem (306-373).

III. Thời Trung cổ.
Với sự phát triển của các học viện và đại học, các nhà thần học bắt đầu dùng những phương pháp suy luận để tìm hiểu thêm về đức Maria, không những là những chân lý đức tin cổ truyền (Mẹ Thiên Chúa, trọn đời đồng trinh), mà còn những vấn đề mới được đưa ra tranh luận (thí dụ vô nhiễm nguyên tội). Vì thế không lạ gì mà đã có những thiên khảo luận về những điểm thần học liên can tới đức Mẹ, thí dụ về sự đồng trinh: De partu virginis của Pascasiô Radbertô (+865); về sự thụ thai vô nhiễm: Tractatus de conceptione beatae Mariae Virginis của Eadmêrô (+ khoảng 1124); De conceptione beatae Maria Virginis của Đôminicô Bollanô (+1496). Tuy nhiên, nên biết rằng các nhà thần học thường viết về đức Maria như một chương trong bộ tổng luận thần học chứ không thành một tác phẩm riêng biệt, thí dụ thánh Tommasô Aquinô bàn tới đức Maria khi đề cập tới việc Chúa Nhập thể (Summa Theologiae III, qq.27-37).
Cạnh những câu hỏi có tính cách tín lý, vào thời Trung cổ ta còn thấy những hình thức đã bắt đầu từ thời giáo phụ, đó là tường thuật và giảng thuyết. 1) Trong loại tường thuật, phải kể đến những quyển nói về cuộc đời của đức Mẹ: Itinerarium Virginis Mariae và Historia seu providentia Virginis ex cantico canticorum (cả hai đều do tác giả vô danh). Thêm vào đó là những sách thuật lại các tích lạ (thí dụ Miracula beatae Virginis Mariae, tk 12) hoặc những mặc khải thị kiến. 2) Trong loại giảng thuyết, các tác giả thường gộp lại các bài giảng ca ngợi đức Maria thành các hợp tuyển gọi là “Mariale, quod est de laude Mariae”. Ta cũng có thể xếp các bài ca và kinh nguyện hướng về đức Maria trong loại này.

IV. Thời cận đại.
Cha Franciscô Suarez S.J. (1548-1617) có lẽ là tác giả đầu tiên đã nảy ra ý định là phải dành hẳn một ngành của thần học cho đức Maria vì có quá nhiều vấn đề cần phải bàn (Xem tác phẩm:Questiones de B.M. Virgine quattuor et viginti in summa contractae, viết năm 1584-85). Tuy riêng, phải chờ tới đầu thế kỷ sau mới thấy xuất hiện từ ngữ “Mariologia” đặt ở đầu tác phẩm của Placiđô Nigrô: Summae sacrae mariologiae pars prima (xuất bản ở Palermo năm 1602). Tuy nhiên, dù có nhiều tác giả đồng ý với Suarez về việc cần dành ra một ngành cho đức Maria, nhưng không phải tất cả đều đồng ý đặt tên cho nó là mariologia. Vào cuối thế kỷ 17, cha Vicent Contenson O.P. (1641-1674) đặt tên cho tiểu luận viết về đức Maria là “marialogia” (Marialogia, seu de incomparabilibus Deiparae Mariae Virginis dotibus, một chương của tác phẩm: Theologia Mentis et cordis, Lyon 1668-69). Từ đầu thế kỷ 20 trở đi, tiếng “mariologia” trở thành phổ thông hơn. Xét về phương pháp, thì các tác giả đi theo đường lối diễn dịch, đi từ thiên chức làm mẹ Chúa Cứu thế để rút ra những đặc ân tương xứng. Đừng kể các nhân đức mà Mẹ Maria cần có, các tác giả còn gán cho Người những chức vụ hầu như tương đương với đức Kitô. Nếu đức Kitô là “Chúa Cứu chuộc, trung gian, Vua”, thì Mẹ Maria là “Đấng đồng công cứu chuộc, trung gian các ơn, Nữ vương”.
Ngoài những tác phẩm có tính cách đạo lý, dĩ nhiên là trong thời cận đại, những tác phẩm viết về lòng tôn sùng Mẹ Maria không thiếu. Những quyển nổi tiếng hơn cả là “Lòng tôn kính thành thực đối với Mẹ Maria” (Traité de la vraie dévotion à Marie) của thánh Louis Maria Grignion de Montfort (xuất bản năm 1843, sau khi tác giả đã qua đời vào năm 1716), “Những vinh quang của đức Maria” của thánh Anphongsô Maria de Liguori (+1787) xuất bản ở Napoli năm 1750.
Vào những năm 1930-1960, đã nảy ra một luồng canh tân những tác phẩm thần học về đức Maria lẫn những sách viết về lòng sùng kính Người. Các tác giả nhận thấy cần phải trở về nguồn Kinh thánh, hơn là hoàn toàn dựa theo lối diễn dịch luận lý. Mặt khác, công cuộc đối thoại đại kết cũng đòi hỏi rằng không thể nào đặt đức Maria ngang hàng với Chúa Kitô được: Chúa Kitô là Thiên Chúa, còn đức Maria thuộc hàng thụ tạo, Người gần gũi với các tín hữu chứ không tách biệt khỏi Hội thánh vì những đặc ân siêu phàm. Thay vì trình bày đức Maria như song song với đức Kitô, cần với chú trọng hơn đến sự tương đồng giữa đức Maria với Hội thánh. Trong những tác giả có ảnh hưởng đến cuộc canh tân Thánh mẫu học, ta có thể kể: René Laurentin, Hugo Rahner, Otto Semmelroth, Henri de Lubac, Romano Guardini, Karl Rahner, Edward Schillebeeckx. Dù sao, phải nhìn nhận rằng nhờ việc trở về với nguồn Kinh thánh, người ta khám phá ra ít là ba đặc điểm sau đây nơi chân dung của đức Maria:
1) Kinh thánh cho ta thấy chân dung của một đức Maria sống tại Nadareth trong điều kiện của một người tín hữu, chứ ít đả động tới những đặc ân và vinh quang của Người.
2) Tuy đức Maria là mẹ của Chúa Giêsu, nhưng Kinh thánh không khen ngợi Người vì chức vụ cao trọng ấy cho bằng vì đã tin, vìa đã lắng nghe và thực hành lời Chúa.
3) Các tác giả Tân ước, đặc biệt là Luca và Gioan, thích trình bày đức Maria như điển hình của dân Chúa (thiếu nữ Sion): sự thánh thiện của đức Maria không hề tách rời Người khỏi dân Chúa, nhưng luôn gắn chặt Người với số phận của anh chị em đồng tộc của mình. Từ đó, đức Maria cần được xét không những trong mối tương quan với đức Kitô (Mẹ Thiên Chúa) mà cả trong mối tương quan với Hội thánh nữa. Thực ra, vào những năm kề sát công đồng Vaticano, các nhà thần học còn chia thành hai khuynh hướng.
1) Khuynh hướng cỏ điển đặt đức Maria trong tương quan với đức Kitô (christotypique): chức vụ Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc của tất cả các đặc ân vô song của Người.
2) Khuynh hướng mới thì đặt đức Maria trong lòng Hội thánh (ecclésiotypique): những đặc ân mà đức Maria lãnh được nhằm để phục vụ Dân Chúa. Dĩ nhiên, cũng có những tác giả cố gắng dung hợp cả hai chiều hướng, vì thấy chúng bổ khuyết cho nhau.

V. Từ công đồng Vaticano II
A. Vào lúc khai mạc công đồng Vaticano II, người ta thấy có hai khuynh hướng về Thánh-mẫu-học.
1) Một hướng muốn tiếp tục con đường từ thế kỷ thứ 19 với việc tuyên bố hai tín điều Vô nhiễm nguyên tội và Hồn xác lên trời. Tượng trưng cho khuynh hướng này là một nhóm 300 nghị phụ thỉnh nguyện yêu cầu tuyên bố tín điều về Đức Mẹ trung gian của mọi ơn phúc. Hậu nhiên các vị cũng muốn cho công đồng bàn đến đức Maria trong một văn kiện biệt lập.
2) Khuynh hướng thứ hai thì muốn trình bày Đức Mẹ trong tương quan với Hội thánh: thay vì đề cao Người như một vị siêu phàm, công đồng hãy đặt Người trong lòng Hội thánh; do đó cần bàn tới đức Maria trong hiến chế về Hội thánh chứ không phải trong văn kiện riêng. Công đồng đã chấp thuận khuynh hướng thứ hai với cuộc bỏ thăm ngày 29-10-1963 với 1114 phiếu thuận và 1074 phiếu chống! Có thể coi công đồng đã đặt ra một chiều hướng mới cho việc canh tân thần học về đức Maria ở chương VIII của hiến chế về Hội thánh. Dù sao cũng nên biết là công đồng đã muốn dung hòa cả hai khuynh hướng thần học về đức Maria: vừa trong mối tương quan với đức Kitô, vừa trong tương quan với Hội thánh; cả hai chiều hướng đó được lồng trong lịch sử cứu rỗi. Phương pháp trình bày dựa theo Kinh thánh và các giáo phụ hơn là suy diễn kinh viện.

Chương VIII mang tựa đề là: Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, trong mầu nhiệm của đức Kitô và của Hội thánh. Tuy là một chương của hiến chế, nhưng bố cục của chương khác hoàn bị (dường như một văn kiện biệt lập), gồm từ các số 52 cho đến 69, và được chia thành ba phần.
1) Nhập đề (số 52-54), phác họa những đề tài sẽ được trình bày, liên can chức vụ Mẹ Thiên Chúa và mẹ của các tín hữu. 2) Chức vụ của đức Maria trong kế hoạch cứu rỗi (số 55-59), dựa trên Kinh thánh, xét đến đức sự cộng tác của đức Maria vào công cuộc cứu rỗi của đức Kitô từ khi truyền tin, tới lúc sinh hạ Chúa, cũng như trong giai đoạn ẩn dật và công khai đưa tới thập giá; để kết thúc với chính việc Mẹ được cất về trời. Công đồng trình bày đức Maria như là Mẹ của Chúa Cứu thế (Mater salvatoris), kẻ đồng lao với Chúa Cứu chuộc (Socia Redemptoris), tôi tớ của Chúa (ancilla Domini).
3) Đức Maria với Hội thánh (số 60-68), xét tới hai khía cạnh chính:
a/ mối liên hệ giữa đức Maria với Giáo hội dưới khía cạnh thần học (Mẹ, hình ảnh, gương mẫu nhân đức);
b/ dưới khía cạnh phụng vụ và mục vụ, công đồng muốn đặt nền tảng của lòng sùng kính của Giáo hội với đức Maria dựa theo chức vụ Mẹ Thiên Chúa, Cộng tác viên chặt chẽ của Chúa, và gương mẫu thánh thiện tuyệt vời. Do đó, lòng tôn kính dành cho đức Maria dựa trên nền tảng đạo lý chắc chắn, đi sát với phụng vụ, cũng như cần được kéo dài ra việc thực hành các nhân đức Kitô giáo (tin, cậy, mến ..).

B. Sự canh tân về phương pháp của Thánh mẫu học (TMH) thực sự bắt đầu từ năm 1974, với Tông huấn Marialis cultus của đức Phaolo VI. ĐTC vạch ra bốn tiêu chuẩn để học hỏi về đức Maria:
+ dựa vào Kinh thánh;
+ hòa hợp với phụng vụ;
+ mở rộng đến chiều hướng đại kết;
+ lưu tâm đến văn hóa thời đại. Chúng ta thử rảo qua từng điểm một.

1) Cũng như đối với phần khác của thần học, khi nói rằng TMH cần dựa vào Kinh thánh thì không có nghĩa là trưng dẫn các câu Kinh thánh để chứng minh cho các tín điều; nhưng là khám phá ra thần học đàng sau các bản văn Thánh Kinh. Ta có thể nhận thấy Kinh thánh không trình bày đức Maria với những triều thiên chói ngời, nhưng như là một tín hữu luôn sẵn sàng lắng nghe lời Chúa và thực thi ý Chúa. Hơn thế nữa, trình bày TMH dựa theo Kinh thánh có nghĩa là cần phải lồng trong chương trình cứu rỗi, đặt nó trong tương quan với những mầu nhiệm cứu rỗi. Những mối tương quan chính có thể kể ra như sau:
a) tương quan với Hội thánh,
b) với đức Kitô,
c) với Chúa Thánh Thần.
– (a) Tương quan với Hội thánh. Điều này đã được trình bày trong chương VIII của Hiến chế về Hội thánh của công đồng Vaticano II: đức Maria là một thành phần ưu tuyển của Hội thánh; Người là mẫu gương cho đời sống đức tin của Hội thánh, và tiên báo đích điểm mà Hội thánh lữ hành đang tiến tới. Xét như là kiểu mẫu, Đức Maria dạy cho Hội thánh biết đường làm Mẹ (qua việc rao truyền Phúc âm để tăng trưởng thêm số con cái của Nước trời), làm Hiền thê (qua việc gìn giữ đức tin tinh tuyền, chung thủy với đức Kitô). Còn khi chiêm ngẵm Mẹ Vô nhiễm và Hồn xác trên trời, Hội thánh trông mong đến ngày cũng được chia sẻ vào sự toàn thắng tội lỗi và cái chết vào thời cánh chung. Một đề tài khác mới chỉ manh nha trong công đồng Vaticano II và đựơc đức Gioan Phaolo 2 khai thác trong thông điệp “Redemptoris mater” là con đường lữ hành đức tin của đức Maria. Người cũng đã trải qua những thử thách đức tin, kể cả đêm tối đức tin, trên con đường dương thế như chúng ta.
( b) Tương quan với Đức Kitô. Sau công đồng Vaticano II, một số nhà thần học đã im lặng về đức Maria vì coi Người thuộc về hàng thứ yếu trong các chân lý đức tin. Phải nhận rằng họ có lý một phần, xét vì trọng tâm của đức tin phải dành cho Ba ngôi Thiên Chúa. Tuy nhiên, mặt khác, người ta thấy rằng những chân lý về đức Maria và đức Kitô rất liên hệ mật thiết với nhau: chẳng hạn như việc chối bỏ sự thụ thai đồng trinh của đức Maria thường đi từ giả thiết rằng đức Giêsu cũng chỉ là một con người thường, chứ không phải là Thiên Chúa. Ngoài ra việc đức Maria là mẹ của Chúa Giêsu cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến mỗi người Kitô-hữu, xét vì hết thảy chúng ta đều là nhiệm thể của đức Kitô: vì thế phần nào Người trở thành mẹ của chúng ta trên đường cứu rỗi. Mặt khác, việc Thiên Chúa muốn cho đức Maria góp phần vào chương trình cứu rỗi của đức Kitô phản ánh đến cao độ việc Thiên Chúa muốn cho con người dự phần vào kế hoạch cứu rỗi, qua sự hợp tác và thuận nhận cách tự do.
( c) Tương quan với Chúa Thánh Thần. Đây là một điểm mà công đồng Vaticano II chưa đào sâu. Đức Maria thường được gọi là “Trạng sư, cầu bầu” (Advocata) của Dân Chúa. Thế nhưng, theo Tân ước, vai trò Trạng sư và Cầu bầu (Paraclitus) được gán cho Chúa Thánh Thần. Thế thì tương quan giữa đức Maria với Chúa Thánh Thần như thế nào? Đây là một điểm mới đã được một số nhà thần học nghiên cứu, tựa như: H. Muehlen, R. Laurentin, D. Bertetto, H.M. Manteau-Bonamy, X. Pikaza. Căn bản của mối tương quan là bản văn của Luca 1,35 (Thánh Thần Chúa sẽ xuống trên chị) và Tông đồ công vụ 2,1.13 (Thánh Thần xuống trên đức Maria và Hội thánh). Đức Maria được coi như cung điện của Thánh Thần để phân phát cho nhân loại; hoặc như là nơi gặp gỡ Thiên Chúa trong tự do, kết quả của ơn Chúa Thánh Thần, biểu lộ của quyền năng Thiên Chúa giữa loài người. Và có người gọi đức Maria là “bạn của Thánh Thần” (sponsa Spiritus Sancti), hoặc “người mang Thánh Thần” (Pneumatophora).

2) Tiêu chuẩn thứ hai: Hòa hợp với phụng vụ. Thoạt tiên xem ra tiêu chuẩn này có tính cách mục vụ, nghĩa là làm sao các việc tôn kính Mẹ Maria (tựa như việc đọc kinh Mân côi) không nên dựa trên tình cảm ướt át, nhưng cần họa theo kinh nguyện phụng vụ, và gắn với chu kỳ năm phụng vụ. Nhưng ta cũng có thể hiểu tiêu chuẩn này theo nghĩa là TMH không thể chỉ giới hạn vào những suy tư lý luận, nhưng cần được nuôi dưỡng bởi sự chiêm ngắm, cầu nguyện, ngợi khen. Sau cùng, có thể hiểu tiếng “phụng vụ” theo nghĩa rộng hơn nữa, tức là cả truyền thống của Giáo hội. Trên thực tế, TMH gần đây chú trọng rất nhiều đến các giáo phụ cả Đông lẫn Tây phương.

3) Mở rộng đến đại kết. Đừng kể các Giáo hội chính thống luôn có lòng tôn kính đức Maria dưới tước hiệu Theotokos (Thiên Mẫu), các Giáo hội ly khai ở Tây phương dần dần xét lại thái độ dè dặt của họ đối với đức Maria. Trong quá khứ, phần nào thái độ ấy là phản ứng của những lệch lạc của lòng đạo đức bình dân phía công giáo, đặt đức Maria gần như ngang hàng với Thiên Chúa. Những cuộc đối thoại đại kết dần dần phác họa lại chân dung của đức Maria sát với Kinh thánh (tựa như: người có lòng tin, người chịu đau khổ, người tôi tớ Chúa, người mẹ của Chúa Giêsu), cũng như vai trò gương mẫu về lòng tin, sự thánh thiện cho toàn thể các Kitô hữu. Sự khó khăn xảy đến khi đụng đến vai trò trung gian (hay môi giới) của đức Maria. Theo R. Laurentin, nguồn gốc của sự khó khăn này có lẽ thuộc lãnh vực triết học hơn là thần học, xét vì phía Tin lành chưa có triết lý về “loại suy” (analogia) và “thông dự” (participatio), khiến họ khó chấp nhận sự khác biệt về cấp độ môi giới (trung gian) của Chúa Giêsu và đức Maria. Đối lại, phía công giáo cũng phải xét lại việc tôn kính đức Maria: việc đọc kinh cầu khẩn đức Maria (là một thụ tạo) có hợp với thần học hay không? Cần nhấn mạnh rằng đức Maria dâng lời khẩn cầu lên Thiên Chúa cùng với chúng ta trong sư thông hiệp các thánh.

4) Lưu ý đến văn hóa thời đại. Sau cùng đức Phaolo VI muốn rằng đức Maria không phải chỉ là một nhân vật thuộc về quá khứ, nhưng còn mang một sứ điệp cho các vấn đề của con người hôm nay. Việc đưa TMH vào văn hóa thời đại được thực hiện qua những phương thức khác nhau. Tại Á Phi, sự hội nhập văn hóa có nghĩa là trình bày lại hình ảnh của Đức Maria theo những truyền thống văn hóa địa phương. Tại châu Mỹ latinh, đức Maria là biểu tượng cho linh đạo giải phóng: khi xướng lên kinh Magnificat, đức Maria hớn hở tạ ơn vì Thiên Chúa đã giải phóng những con người bị đàn áp, và quật ngã những tên cường hào; đức Maria tỏ ra là một người sống sát với những thảm cảnh của dân nghèo.- Còn đối với phong trào giải phóng phụ nữ, người ta muốn khám phá ra đức Maria như một phụ nữ đầy sáng kiến, năng động. Người biểu hiện những đặc tính của nữ giới: sự trực giác, thái độ đón tiếp, yêu thương, quý trọng mạng sống. Người là hình ảnh của bộ mặt hiền mẫu của Thiên Chúa. Cách riêng, đức Gioan Phaolo đã dành nhiều đoạn trong tông huấn “Phẩm giá phụ nữ” (Mulieris dignitatem, 15-8-1988) để nói lên giá trị của nữ tính mà đức Maria đã làm nêu bật:
a) Đức Maria đã cộng tác cách tích cực vào kế hoạch cứu rỗi (số 5), thậm chí có khả năng đại diện cho nhân loại để đối thoại với Thiên Chúa;
b) Đức Maria, Eva mới, đã làm nổi bật thiên chức làm mẹ, nguyên ủy của sức sống (số 11);
c) Đức Maria làm nổi bật đức tính cố hữu của phụ nữ: đón tiếp sự sống, ban sự sống, tới mức độ trao hiến chính bản thân cho tha nhân (số 18-20);
d) đức Maria cũng làm kiểu mẫu cho Hội thánh trong chức vụ làm mẹ các tín hữu và hôn thê trinh khiết của đức Kitô (số 22).

Dựa theo đường hướng ấy, trong tập này, chúng tôi sẽ bàn về đức Maria theo các đề mục sau đây.
I. Phần thứ nhất: đức Maria trong Kinh thánh.
II. Phần thứ hai. Lòng tin của Hội thánh về vai trò của đức Maria trong chương trình cứu chuộc của Chúa Kitô.
III. Phần thứ ba bàn về vai trò của đức Maria trong đời sống của Giáo hội. Chúng ta sẽ bàn tới thần học về mối liên hệ giữa đức Maria với Hội thánh, lẫn nền tảng thần học của lòng tôn kính mà Hội thánh dành cho đức Maria. Chúng ta sẽ phân tích lịch sử và ý nghĩa của các kinh nguyện (công hay tư) mà các tín hữu dâng lên Mẹ.
Hai chương cuối cùng phác họa vài những chiều hướng khảo luận về đức Maria trong thần học hiện đại, và trong sách Giáo Lý Hội thánh công giáo.

(Nguồn: dongnuvuonghoabinh.org)