Thứ Bảy, ngày 20 tháng 04 năm 2024

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN NĂM C – CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO (23/10)

Chuyên mục: Suy niệm Chúa Nhật - Ngày đăng: 22.10.2022
Chia sẻ:

23/10 – CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN NĂM C.

CẦU NGUYỆN CHO VIỆC LOAN BÁO TIN MỪNG.

“Các con hãy đi giảng dạy muôn dân”.

CẦU NGUYỆN CHO VIỆC LOAN BÁO TIN MỪNG.

Lời Chúa: Mt 28, 16-20

“Các con hãy đi giảng dạy muôn dân”.

Bài kết thúc Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mátthêu.

Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi.

Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thày. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thày đã truyền cho các con. Và đây Thày ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

Ảnh: Google

CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN năm C

Lời Chúa: Lc 18, 9-14

“Người thu thuế ra về được khỏi tội”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những ai hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác:

“Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế.

Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi’.

Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội’. Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên”.

Ảnh : Google

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN – C

Lời Chúa: Hc 35,15b-17.20-22a; 2Tm 4,6-8.16-18; Lc 18,9-14

1. Xin thương xót con–”Manna’

Suy Niệm

Khi Đức Giêsu đưa ra kết luận:

“người thu thuế được nên công chính, còn người pharisêu thì không’,

những người nghe Ngài hẳn đã ngỡ ngàng, chưng hửng.

Ông Pharisêu là mẫu mực trong việc giữ Luật.

Những điều xấu xa tiêu cực, ông không làm.

Những điều Luật đòi hỏi, ông còn làm hơn thế.

Lời cầu nguyện của ông hết sức tự phát và chân thành,

một lời nguyện mà nhiều người đạo đức thèm muốn.

Tại sao Thiên Chúa lại không nhìn đến ông?

Tại sao Thiên Chúa lại thương người thu thuế tội lỗi,

dù anh ta nào đã hứa bỏ cái nghề tồi tệ đó;

nào đã chịu đền bù bao nhũng lạm mình gây ra?

Tình thương của Thiên Chúa thì nghịch lý, nhưng không vô lý.

Chúng ta cần nhìn ông pharisêu cầu nguyện.

Ông đứng tách biệt với những người khác trong Đền Thờ.

Mắt ông vẫn thấy anh thu thuế đứng tuốt phía dưới.

Chúng ta cần nghe lời ông cầu nguyện.

Ông muốn dâng lên Thiên Chúa một lời tạ ơn,

nhưng tạ ơn lại trở thành so sánh mình với người khác,

và đầy ứ cái tôi tự mãn, tự hào:

tôi không như bao kẻ khác, tôi ăn chay, tôi nộp thuế…

Cái tôi của ông thật tuyệt vời, hơn hẳn người khác.

Cái tôi của ông quá ngon lành, bảo đảm,

nên ông không cần xin Chúa thêm điều gì.

Ông chỉ khoe Chúa những thành tích của ông,

hay đúng hơn ông đang ngắm mình độc thoại.

Đời sống của ông pharisêu đầy đặn quá, tròn trịa quá

đến nỗi Thiên Chúa trở nên thừa.

Ngài chẳng tìm ra một kẽ hở nào để vào đời ông

nên Ngài chịu đứng ngoài.

Ngược lại anh thu thuế thì run rẩy xấu hổ,

chẳng dám ngước nhìn Chúa, chẳng dám lại gần tha nhân.

Anh thấy rõ các tội của mình, và thấy mình bị kẹt cứng,

tự sức không sao tháo gỡ.

Anh chỉ còn biết cậy dựa và phó thác cho Tình thương.

Người thu thuế thật là con người tội lỗi,

nhưng tội của anh đã trở nên một kẽ hở

để Thiên Chúa có thể đi vào đời anh.

Chính sự trống rỗng của anh

đã thành khoảng trống cho Thiên Chúa.

Tội lỗi hay công đức đều có thể làm ta khép lại hay mở ra.

Điều quan trọng là thấy mình luôn luôn cần Chúa.

Tiếc là ông pharisêu chưa nhận ra khuyết điểm của mình.

Ông về nhà mà không biết mình chẳng được Chúa ưu ái.

Ông về nhà mà vẫn khép kín tự mãn như lúc lên đền.

Làm sao tôi có được sự trung tín của người pharisêu

và sự khiêm hạ của người thu thuế?

Làm sao tôi tận dụng mọi năng lực Chúa ban

mà vẫn hoàn toàn phó thác cho Chúa định liệu?

Ước gì đời tôi có nhiều kẽ hở để Chúa vào.

Gợi Ý Chia Sẻ

Càng thánh thiện thì càng thấy mình cần đến Thiên Chúa. Khi nào trong cuộc sống bạn thấy mình cần Chúa hơn cả?

Chúng ta vẫn thường ngấm ngầm so sánh mình với người khác như ông pharisêu. Chúng ta rất dễ rơi vào thái độ tự hào. Làm sao để thắng được tính xấu này?

Cầu Nguyện

Lạy Cha, những tội chúng con phạm

vừa mang dáng dấp của tội Ađam

vừa mang dáng dấp của tội Cain.

Tội nào cũng là khép lại trên chính mình,

khước từ Thiên Chúa và quay lưng trước anh em.

Tội nào cũng là lấy mình làm trung tâm và qui tất cả về mình.

Xin cho chúng con đừng nhìn ngắm công trạng của mình,

nhưng nhìn vào những nén bạc Cha giao

mà chúng con chưa đầu tư sinh lợi cho đủ.

Xin cho chúng con đừng tự mãn nhìn về quá khứ,

nhưng hướng đến tương lai với bao điều cần thực hiện.

Lạy Cha, xin cho chúng con đừng lấy đức hạnh của mình

làm thước đo người khác,

đừng cứng cỏi lạnh lùng khi đánh giá tha nhân.

Ước gì chúng con có quả tim

như Con Cha, hiền lành và khiêm nhượng,

để chúng con có thể mở ra đến vô cùng

trước những đòi hỏi của Cha và nhu cầu của anh em. Amen.

2. Tự hào–”Manna’

Suy Niệm

Đạo đức là một điều tốt,

nhưng tự hào về đạo đức của mình lại là một nguy cơ.

Làm việc lành là một điều tốt,

nhưng nếu việc lành khiến tôi khinh miệt tha nhân thì thật là nguy hiểm.

Dụ ngôn trên đây cho thấy hai khuôn mặt trái ngược:

người pharisêu công chính và người thu thuế tội lỗi.

Chúng ta cần hình dung cách đứng cầu nguyện của họ,

và cần suy nghĩ về lời họ thưa với Chúa.

Lời nguyện nào cũng phản ảnh tâm hồn.

Người pharisêu trước hết dâng lời tạ ơn Thiên Chúa,

vì ông thấy mình hơn kẻ khác nhiều.

Ông liệt kê những tội ông không hề phạm,

và những việc đạo đức ông quen làm,

vượt quá điều Lề luật đòi hỏi.

Ông vừa cầu nguyện,

vừa liếc mắt nhìn anh thu thuế đứng ở xa phía dưới.

Ông thấy mình hơn hẳn anh ta.

Đúng ông là một người giàu,

vì ông chẳng có gì phải nài xin Thiên Chúa.

Ngược lại, anh thu thuế lại là người nghèo.

Anh muốn làm lại cuộc đời, nhưng hầu như không sao làm nổi.

Nếu hoán cải, chắc anh phải bỏ nghề,

nhất là phải bồi thường mọi gian lận xưa nay.

Anh không dám ngước mắt lên trời,

chỉ biết đấm ngực nài xin lòng thương xót Chúa.

Thiên Chúa sẽ nghiêng về phía ai?

Ngài không nghiêng về người pharisêu,

kẻ tự hào mình công chính và khinh rẻ tha nhân,

nhưng Ngài cúi xuống người thu thuế

và đáp lại lời nài xin của anh,

vì anh không cậy dựa vào công đức của mình nhưng vào lòng thương xót Chúa.

Chúng ta không thể làm cho mình nên thánh thiện

chỉ nhờ thi hành những việc đạo đức nào đó.

Chúng ta cũng không thể mua được Nước Trời

chỉ nhờ những cố gắng của bản thân.

Trở nên thánh, nên công chính

là việc Chúa làm nơi tôi, là quà tặng Ngài ban cho tôi.

Tôi chỉ cần khiêm tốn mở ra,

để cho Ngài chiếm lấy mọi khoảng đời của mình,

chi phối mọi khoảnh khắc của ngày sống.

Nên thánh là để cho Chúa chinh phục và yêu thương.

Thánh nhân chẳng bao giờ là người tự hào,

nhưng là người càng lúc càng cần đến Thiên Chúa.

Gợi Ý Chia Sẻ

Bạn nghĩ gì với những lời cầu nguyện của bạn? Có khi nào nó giống với lời cầu của người pharisêu không?

Chúng ta thường xét đoán người khác theo cái nhìn bên ngoài. Có khi nào bạn thấy mình mắc phải sai lầm khi vội vã xét đoán người khác không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, khi đến với Chúa

con tháo bỏ đôi giày những tham vọng của con,

con cởi bỏ đồng hồ thời khóa biểu của con,

con đóng lại bút viết các quan điểm của con,

con bỏ xuống chìa khóa sự an toàn của con,

để con được ở một mình với Ngài.

Lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật,

sau khi được ở với Ngài, con sẽ xỏ giày vào

để đi theo con đường của Chúa

con sẽ đeo đồng hồ để sống trong thời gian của Chúa,

con sẽ đeo kính vào để nhìn thế giới của Chúa,

con sẽ mở bút ra để viết những tư tưởng của Chúa,

con sẽ cầm chìa khóa lên để mở những cánh cửa của Chúa. (Graham Kings).

3. Xin thương xót con–TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. Nhưng kết quả thật bất ngờ. Người mà ai cũng kính trọng thì lại không được nhận lời. Người mà ai cũng khinh miệt thì lại được Chúa nhận lời và được công chính hóa. Qua dụ ngôn này, Chúa cho thấy lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa phải là lời cầu nguyện khiêm nhường.

Khiêm nhường không tự mãn.

Người biệt phái tự mãn vì những việc tốt mình làm được. Làm được việc tốt thật đáng khen. Nhưng cần phải nhận biết nguồn gốc việc tốt của mình. Biết nguồn gốc việc tốt phải khởi đi từ nhận biết nguồn gốc bản thân mình. Tôi có mặt ở đời là ơn Chúa ban. Tôi thừa hưởng một sức khỏe, một gia đình, một nền giáo dục, một nề nếp đạo đức, đó là ơn Chúa ban. Vì thế tôi làm được việc tốt cũng là ơn lành Chúa ban. Nếu tôi rơi vào một hoàn cảnh xấu, tôi có làm được việc tốt không? Rất khó. Vì thế đừng tự mãn khi làm được việc tốt.

Khiêm nhường không khinh người.

Người khiêm nhường nhận biết thân phận mình sẽ không dám khinh người. Tôi làm được việc tốt vì tôi có hoàn cảnh tốt. Người kia làm việc xấu vì họ không có hoàn cảnh tốt như tôi. Vì thế không nên khinh người. Hơn nữa, trong tinh thần bác ái huynh đệ, thấy người hèn kém tôi càng phải yêu thương, nâng đỡ. Thấy người tội lỗi yếu đuối tôi càng phải tế nhị kính trọng. Chúa Giêsu vẫn làm gương trân trọng người tội lỗi như đối với người phụ nữ ngoại tình, đối với Giakêu và cả đối với Giuđa nữa.

Khiêm nhường nhận biết thân phận tội lỗi.

Con người đâu có ai hoàn hảo. Huống hồ có những nết xấu đeo đẳng ta mãi không thể dứt ra được. Ta đã ngã đi ngã lại nhiều lần. Biết bao quyết tâm. Biết bao ơn Chúa. Biết bao lời cầu nguyện. Nhưng “một cái dằm” cứ nằm mãi trong thịt khiến ta đau nhức khôn nguôi. Ta không thể nào thoát khỏi tội lỗi. Vì thế tâm tình xứng hợp là khiêm nhường nhận biết thân phận tội lỗi của mình. Khiêm nhường nhận trước mặt Chúa. Khiêm nhường nhận trước mặt anh em. Đó là thái độ trung thực và đúng đắn.

Khiêm nhường xin Chúa ban ơn cứu độ.

Vì không thể tự mình thoát khỏi tội lỗi, không thể đạt tới ơn cứu độ, nên ta cần ơn Chúa. Không thể tự giải thoát, nên ta cần Chúa giải thoát ta khỏi ách nô lệ tội lỗi. Thân phận ta thật khốn cùng. Sức lực ta thật yếu đuối. Nên lời cầu nguyện đúng nhất là: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Tương truyền đó là lời cầu nguyện liên lỉ suốt đời của thánh Phêrô, vị Tông đồ trưởng, vị Giáo Hoàng tiên khởi.

Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết mình không thể sống công chính tự sức riêng, nhưng chỉ được “công chính hóa” nhờ ơn Chúa. Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết ta được ơn Chúa không phải vì ta xứng đáng nhưng vì được Chúa thương yêu. Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết rằng lời cầu nguyện khiêm nhường là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa.

“Lạy Chúa, xin thương xót con”

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Tôi có hay tự mãn vì mình sống tốt hơn người khác không? Thái độ này có đúng không?

2) Tôi có hay khinh miệt, lên án người khác không? Thái độ này có đúng không?

3) Tại sao tôi phải khiêm nhường khi cầu nguyện?

4) Tôi có một nết xấu thường phạm. Tôi đã xưng tội nhiều lần và quyết tâm chừa cải. Nhưng chứng nào tật ấy. Bạn có cảm nghiệm được điều này nơi bản thân không?

4. Mũi nhọn xung kích–”Nút Vòng Xoay’–GM. Giuse Vũ Duy Thống

Phúc Âm hôm nay là một dụ ngôn sống động và mang tính khái quát. Rất gọn về số câu, số chữ nhưng lại rất rộng về hàm ý nội dung. Chỉ có hai nhân vật với vài nét chấp phá sơ sài nhưng cũng đủ khái quát cho mọi tầng lớp dân chúng. Chỉ là một thoáng lên Đền cầu nguyện nhưng lại biểu trưng cho mọi sinh hoạt tôn giáo. Chỉ quanh quẩn trong chu vi Đền Thánh nhưng lại điển hình đến nỗi có thể nới rộng ra cả cuộc đời.

Nhưng điều làm cho dụ ngôn sống động đến hôm nay thiết tưởng không những vì tính khái quát ấy mà đáng lưu ý hơn, theo ngôn từ báo chí, còn vì “tính xung kích” với những mũi nhọn không thể tránh né của nó.

Đẹp lắm nhưng cũng đau lắm. Khéo léo lắm nhưng cũng nhức nhối không kém. Xin chia sẻ về tính xung kích ấy.

1. Mũi nhọn thứ nhất: tố giác một não trạng tôn giáo đầy ảo tưởng

Đối với người Do Thái, luật Thiên Chúa là trên hết, đời sống của họ được khuôn đúc theo lề luật, xã hội của họ gắn liền với tôn giáo nên cũng được tổ chức theo lề luật. Đã có những thành phần ưu tuyển chuyên viên về lề luật được gọi là Luật sĩ và cũng có những thành phần khác chú tâm đến việc thi hành luật đến độ tỉ mỉ, đó là mấy ông biệt phái. Luật lệ là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống. Quan điểm ấy không có gì đáng phàn nàn nếu qua lề luật người ta nhận ra bàn tay và tấm lòng của Thiên Chúa luôn dẫn đưa và giáo hóa con người. Nhưng quan điểm ấy trong thực tế đã không giữ được vẻ tinh ròng của nó mà đã bị biến chất dần dà theo năm tháng để trở thành một thái độ tôn giáo kệch cỡm, di căn trong nếp nghĩ và đồng thời méo mó trong thực hành. Và đây là một thực trạng nguy hiểm mà Chúa Giêsu gọi là “men Biệt phái” cũng là điều dụ ngôn hôm nay tố giác.

Nguy hiểm nhất là tất cả đã bị đảo lộn: luật lệ thay vì là phương tiện đã được nâng lên hàng mục đích và Thiên Chúa thay vì là cùng đích lại bị xếp xuống hàng phương tiện.

Nguy hiểm thứ hai là tất cả đã trở thành máy móc: làm như cứ chu toàn một số khoản luật là tức khắc người ta trở thành công chính và có quyền đòi hỏi Thiên Chúa phải ký tên đóng dấu chứng thực cho sự công chính này, giống như kiểu chấm công và báo công trong các xí nghiệp trước đây đã bị báo chí phê bình gay gắt, chấm công thì rất nhiều nhưng việc chẳng chạy bao nhiêu, ấy là chưa nói tới việc công, việc tư, lẫn lộn và thế là vỡ nợ thất bại.

Và nguy hiểm hơn hết là tất cả đã làm thành một ảo tưởng đặc dầy về quá khứ công trạng để rồi thành chuẩn mực phủ định những người không thuộc về phe cánh mình, không giống như mình, không đúng ý mình, kể cả Thiên Chúa nữa.

Ông Biệt phái trong dụ ngôn đã rơi vào cái ảo tưởng mà Chúa Giêsu muốn tố giác này:

Lời kinh của ông khởi đầu bằng tâm tình tạ ơn rất đẹp, nhưng đã nhanh chóng trở nên xấu bởi có ý đồ níu kéo Thiên Chúa thỏa hiệp với lối sống vụ luật “trên mức bó buộc” của ông. Có biết đâu ông đã ảo tưởng. Thiên Chúa vì yêu thương tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, nhưng chính ông lại xây dựng một Thiên Chúa theo hình ảnh của ông.

Và lời kinh của ông còn tồi tệ hơn khi tự hào cho mình là công chính để so sánh mình với đời sống bên ngoài của những người khác. “Đứng thẳng nguyện thầm” có vẻ tốt đấy, nhưng kênh kiệu làm sao và cũng ảo tưởng biết bao. Khẳng định mình đúng cách là tốt, nhưng khẳng định mình bằng cách phủ định kẻ khác, bằng cách dèm pha nói xấu bôi nhọ khinh chê người ta thì quả thật là trơ trẽn.

Và nguy hiểm cuối cùng đến từ những mối nguy hiểm trên là chính mình không còn cảm thấy nỗi hiểm nguy nào nữa, thành ra khô đạo mà tưởng mình sống đạo, phá đạo mà tưởng mình xây đạo, bài tôn giáo ngay giữa lòng tôn giáo và bóp nghẹt Thiên Chúa trong khi tưởng như mình vẫn tôn thờ Ngài, làm lu mờ Danh Chúa mà tưởng như mình đang làm sáng danh Ngài.

2. Mũi nhọn thứ hai: xây dựng một thực chất tôn giáo.

Nếu qua hình tượng ông biệt phái, dụ ngôn muốn tố giác một thứ đạo đức ảo tưởng đầy nguy hiểm, thì ngược lại qua ông thu thuế, dụ ngôn lại nhắm một mục đích tích cực nhưng cũng không kém phân xung kích, đó là xây dựng một nền đạo đức đích thực tôn giáo.

Nền đạo đức đích thực ấy dựa trên những thái độ cơ bản là không phải chỉ tin có Thiên Chúa mà phải tới chỗ tin vào Ngài. “Tin có” và “tin vào” là hai động từ gói ghém những thái độ khác nhau lắm dẫu ở đó đều hiện diện chữ “tin”. Không ít người tin có Thiên Chúa, nhưng để gọi được là tin vào Thiên Chúa thì còn phải hạ hồi phân giải tùy theo chất lượng chứng minh của cuộc sống. Ông biệt phái tin có Thiên Chúa quá đi chứ, nhưng nếu hỏi “ông có tin vào Ngài chưa?” thì phải trả lời là chưa, mà ngược lại, thay vì tin vào Ngài, đời sống ông lại cho thấy chỉ tin vào mình, cậy dựa vào sức mình để kèn cựa sao cho người khác xem mình là công chính.

Còn ông thu thuế, dẫu không cầu nguyện dài lời cũng cho thấy ông là người đã tới mức tin vào Thiên Chúa và phó thác hoàn toàn cho Ngài. Bởi thấy mình quá lem luốc theo mắt nhìn thành kiến của người đương thời, nên ông chỉ có thể đợi chờ một sự gột rửa trong mắt nhìn của Thiên Chúa; bởi thấy mình đã bất chính trong vòng quay nghiệt ngã của nghề nghiệp, nên con người ông nếu có cái gì phải tiến dâng thì đó chính là cuộc đời tội lụy của tấm lòng tan nát khiêm cung cúi đầu đấm ngực xin ơn tha thứ. Và bởi thấy mình chỉ đáng tội nên Thiên Chúa lại thấy ông chỉ đáng thương, nên bằng tình thương, Ngài đã ban ơn cho ông theo như ông tin vào Ngài.

Rõ ràng là tình thương Thiên Chúa ban cho con người như nước chảy về chỗ trũng, chỉ khi gặp tâm hồn khiêm tốn khai hoang, tình thương ấy mới có thể đổ vào tràn đầy chan chứa. Hay nói cách khác, tình thương Thiên Chúa là một “tình cho không biếu không”, nhưng chỉ những ai đã gạt bỏ ảo tưởng về mình để nhìn nhận mình là không, người ấy mới có thể nhận được tình thương của Thiên Chúa.

Tin vào Thiên Chúa sẽ gặp được tình thương của Ngài, còn chỉ tin vào mình rốt cuộc lại gặp chính mình trong những ảo tưởng chất chồng. Nhưng cũng phải thưa ngay rằng: luôn luôn có một sự quân bình giữa một đàng là tình thương Thiên Chúa và đàng khác là cố gắng của con người. Chỉ ỷ lại vào tình thương Thiên chúa cũng sẽ rơi vào ảo tưởng như là chỉ ỷ y vào sức mình. Thế nên, đạo đức đích thực chính là dung hòa giữa nỗ lực và cậy trông. Xin mượn kiểu chơi chữ của thánh Augustinô để minh họa. Ngài bảo ai càng cảm nhận về sự khốn cùng của mình, người ấy càng gặp được sự khôn cùng của tình thương Thiên Chúa. Ai sống hết mình với cái miseria của mình, người ấy cũng biết cách để tiếp nhận cái misericordia của Thiên Chúa. Giống như người say rượu một khi biết tật của mình mới hết khướt say.

3. Mũi nhọn thứ ba: cật vấn hôm nay.

Với hai mũi nhọn trên, dụ ngôn đã trở thành sống động và sở dĩ còn sức sống đến hôm nay là vì mũi nhọn thứ ba: dụ ngôn là lời cật vấn gởi đến mọi kẻ tin, ngân vang tới mọi sinh hoạt tôn giáo và len lỏi vào mọi ngõ ngách của cuộc sống đời thường. Thế nên vấn đề được đặt ra ở đây trên bình diện cá nhân cũng như tập thể với những thích ứng cần thiết là hãy thử nhận diện cuộc sống của mình và của cộng đoàn mình.

Có thể ta không gặp sừng sững một ông Biệt phái lộ liễu ngất ngưỡng ở trong lối sống đạo của ta, nhưng biết đâu cái ảo tưởng an toàn khi chu toàn các bổn phận trong đạo như ông biệt phái lại chẳng lây lan len lỏi lập lòe trong tâm thức của mình? Biết đâu lúc này khác hơn một lần ta đã tự ru mình vào giấc ngủ “tự hào” khi bằng lòng với cách thể hiện đức tin hiện tại? Biết đâu đó đây trong ngày sống ta đã chiều theo ý nghĩ so sánh đời ta với đời người khác về phương diện đạo đức, theo kiểu “Trông lên mình chẳng bằng ai, nhưng khi trông xuống chẳng ai bằng mình”? Xưa Chúa Giêsu gọi đó là “men Biệt phái”, nay có lẽ nên gọi là “viris BP” xin tránh xa. Nếu “virus BP” mà giống “dầu nhớt BP liên tục phát triển” như quảng cáo trên tivi thì nguy quá! Trượt té dài dài.

Có thể ta thấy mình bỗng dưng gần gũi với ông thu thuế vì đời ta vương nhiều tội lụy, vì ta đi lễ thích đứng cuối nhả thờ, và vì ta cầu nguyện chỉ mong thật ngắn chẳng thích dài lời như như Phúc Âm kể: “Ông thu thuế đứng dàng xa, không dám ngước mặt, vừa đấm ngực vừa cầu nguyện: Lạy Chúa xin thương con là kẻ tội lỗi”. Nhưng chưa chắc đâu, bởi ông thu thuế khiêm tốn hết mình để được thứ tha hết tình, còn ta có khi chỉ là khiêm tốn nửa mùa tưởng bở, như thoáng thấy qua trang Nhật Ký của Đức Gioan XXIII ngày nào: “Tôi tưởng mình là cậu bé Séraphim nhưng nhìn kỹ tôi lại thấy mình là một chú Lucife nhỏ”.

Và vượt lên tất cả chính là lời thầm nhủ: hãy tin vào tình thương của Chúa mà sống tốt cuộc sống Ki-tô của mình. Với người này có thể trút bỏ những ảo tưởng tự hào, với người kia có thể là nhen lên lòng sám hối khiêm cung. Riêng cá nhân tôi nhân ngày tròn bảy năm linh mục, cùng với lời tạ ơn Thiên Chúa, lời cảm tạ cha sở và cộng đoàn, cũng sẽ là một lời kinh âm thầm xin được luôn tin vào tình thương Thiên Chúa.

Chiều qua khi đang sắp xếp lại sách vở, nghe cassette nhà ai mở bài “L’amour c’est pour rien” với lời hát “Tình cho không biếu không chớ nên mua bán tình yêu”, bất giác tôi nghĩ về tình thương Thiên Chúa: một tình thương luôn sẵn cho đi, một tình thương chẳng chờ đợi gì, một tình thương không mong đáp trả, một tình thương mãi mãi thứ tha.

Cầu chúc mọi người luôn tin vào tình thương Thiên Chúa để mãi vươn lên trong mọi cảnh ngộ cuộc đời, bởi xét cho cùng mỗi cảnh ngộ cũng là một dụ ngôn sống động ẩn chứa những mũi nhọn xung kích mời ta khám phá không ngừng.

5. Đừng xét đoán–TGM. Giuse Vũ Văn Thiên

Tâm lý thông thường, ai trong chúng ta cũng có khuynh hướng và thói quen xét đoán người khác khi người ta vắng mặt. Việc xét đoán và kết luận về một người nào thường mang tính chủ quan phiến diện và nhiều lúc gây ra những hậu quả khôn lường. Khi xét đoán người khác, chúng ta tự coi mình là chuẩn mực, và nếu ai không giống như chúng ta thì đều bị kết án và phê bình. Xét đoán là một thói quen xấu. Người tin Chúa cần loại bỏ thói xấu này.

“Hai người lên Đền thờ cầu nguyện” – Chúa Giêsu bắt đầu câu chuyện với mục đích cảnh báo chúng ta về thói quen xét đoán chỉ trích người khác. Người biệt phái tự coi mình là người công chính. Anh lên Đền thờ cầu nguyện, nhưng thực ra anh đã lợi dụng môi trường thiêng thánh này để khoe mình và để xét đoán người khác. Nội dung lời cầu nguyện của anh toàn là những lời khoe khoang. Không những khoe khoang những việc đạo đức mình làm, anh còn nặng lời kết án người khác. Nhận định của anh về người khác thể hiện rõ sự ghen tỵ, hằn học. Chúa Giêsu kết luận: lời cầu nguyện của người biệt phái không được nhận lời. Bởi lẽ anh không đến Đền thờ để cầu nguyện nhưng để phô trương.

Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng có quyền xét xử. Ngài là thẩm phán công minh – tác giả sách Huấn Ca khẳng định như thế. Truyền thống Kinh Thánh thường diễn tả Thiên Chúa bênh vực và bảo vệ những người nghèo khổ cô thế cô thân. Những ai lợi dụng quyền hành mà bắt nạt và chèn ép những người yếu thế, sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt. Cũng vậy, lời cầu nguyện của người nghèo được Chúa lắng nghe. Tác giả đã dùng hình ảnh “lời cầu nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm” để diễn tả mối quan tâm của Thiên Chúa. Ngài luôn nhận lời họ khi họ cầu nguyện. Lời cầu nguyện của người thu thuế trong câu chuyện là lời cầu nguyện chân thành. Nội dung lời cầu nguyện của anh là nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình để xin Chúa rù lòng thương. Anh không khoe khoang. Anh cũng không lôi người khác vào lời cầu nguyện của mình. Lời cầu nguyện của anh là những lời tâm sự chân thành giữa anh với Chúa, với xác tín Ngài sẽ nhận lời.

Người tín hữu tin Thiên Chúa là Đấng thẩm phán công minh. Họ phải sống thế nào để không bị kết án vào lúc cuối của cuộc đời. Quả vậy, tất cả những hành vi cử chỉ và lối sống của mỗi chúng ta đều được “ghi chép” và sẽ được phơi bày trong ngày phán xét. Ý thức mình sẽ bị phán xét sẽ giúp con người thận trọng hơn trong cách ứng xử và trong đời sống hằng ngày. Tin vào Chúa là Đấng thẩm phán công minh, người tín hữu không hoảng loạn trước đau khổ thử thách. Phaolô đang bị cầm tù và sắp bị đưa ra xét xử. Ông viết cho môn sinh của mình là Timôthê những dòng tâm sự đầy xác tín: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện”. Phaolô đón nhận đau khổ thử thách trong niềm hy vọng, vì ông biết Thiên Chúa sẽ thưởng công cho mình.

“Phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Đó là giáo huấn rút ra từ câu chuyện hai người lên Đền thờ cầu nguyện. Đó cũng là bài học Lời Chúa dạy chúng ta hôm nay. Cuộc sống đầy bạo lực, xung đột và chia rẽ do con người thiếu khiêm nhường, và sẵn sàng được thua mà không nghĩ đến đạo lý làm người. Trong những ngày cuối tháng Mười này, chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria, mẫu gương của sự khiêm nhường. Chính từ sự khiêm nhường mà Mẹ được tôn vinh: “Muôn thế hệ sẽ khen rằng tôi có phúc”. Xin Mẹ giúp chúng ta biết thưa “Xin vâng” như Mẹ. Đó là lời xin vâng có phó thác, cậy trông và khiêm tốn. Từ lời xin vâng tuyệt diệu ấy, đất trời được nối kết, Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.

6. Đấm ngực cầu nguyện–”Xây Nhà Trên Đá–Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

Một cô gái đang độ thanh xuân, lên đền thờ xưng tội, cô đã than thở với Linh mục rằng: Thưa Cha, con thường dự lễ không nên. Thế con làm gì mà không nên? Thưa Cha suốt buổi lễ, con chỉ biết khóc vì nghĩ đến tội con đã phạm: khi thì ăn bớt tiền chợ, khi thì thích nói chọc ghẹo người ta cho người ta chửi, khi thì liếc trộm mấy cậu con trai, khi thì thích phạm tội.

– Ồ thế thì con cứ tiếp tục dự lễ như vậy, để nước mắt con tẩy sạch tâm hồn con nên trong sáng (Thánh Thể tr. 42). Cô gái này giống với người thâu thuế lên đến thờ đấm ngực cầu nguyện đã được Đức Giêsu nâng lên, và khác với người Pharisiêu cầu nguyện đầy vẻ tự đắc đã bị Đức Giêsu hạ xuống.

Trong kinh nguyện của Giáo Hội, nhất là Thánh lễ, ta thấy: Cầu nguyện gồm bốn việc: Thống hối, thờ lạy, tạ ơn và xin ơn. Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến thống hối.

1- Người Pharisiêu cầu nguyện như đọc bản báo cáo đầy thành tích vẻ vang của mình. Những thành tích như ăn chay mỗi tuần hai lần, còn luật dậy một năm chỉ ăn chay có một lần thôi (Lv. 16, 19-31), nộp thuế tối đa là một phần mười mọi thứ lợi tức, còn luật chỉ buộc một phần mười lợi tức chính, và không bao giờ phạm những tiêu cực như tham lam, bất công, ngoại tình. Rồi Pharisiêu kết luận cho mình hơn hẳn bọn thu thuế và tất cả các người khác. Như vậy, Pharisiêu đã tự khen mình, tự nâng mình lên là người công chính, tự phong thánh, lại khinh chê người khác và coi Thiên Chúa chỉ là khán giả đến xem triển lãm những thành tích công đức của ông.

Đức Giêsu đã phê vào bản báo cáo này như thế nào? Người phê: Làm thì láo, báo cáo thì hay. Cho nên ông bị hạ xuống và tội ông không được tha, còn thêm tội kiêu ngạo. Bao nhiêu lần Đức Giêsu đã cảnh báo Pharisiêu như nấm mồ sơn phết bên ngoài, còn trong đầy ô uế thối tha. Họ xây mồ mả các tiên tri mà cha ông họ đã giết. Rồi đến lượt họ, họ lại giết Đấng Cứu thế trên thập giá (Mt. 23, 4. 27. 34)

2- Người thu thuế cầu nguyện theo lối tự phê, tự kiểm thảo. Ông đã tự xưng thú tội mình, nhận mình là kẻ tội lỗi. Không dám tới gần Thiên Chúa thánh thiện vô cùng, ông chỉ đứng xa xa. ông tự kết án mình trước mặt Thiên Chúa là vị quan tòa tối cao, công minh, nghiêm thẳng, ông không dám ngước mặt lên, ông đã đau đớn đấm ngực ăn năn, thống hối tội lỗi. Ông thâm tín sự khốn nạn của tội lỗi mình. Ông không thấy mình có thành tích nào có thể đền tội ông được, dù ông làm bao nhiêu việc ăn chay, hãm mình, bố thí dâng cúng, cũng chẳng đáng công gì. Ông không thể cậy trông vào đâu được, chỉ có lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa mới cứu ông được thôi, nên ông đã tha thiết van xin: “Lạy Chúa, xin thương xót con, con là kẻ tội lỗi khốn cùng”. Lời cầu hết lòng khiêm tốn đó có sức an ủi ông ngọt ngào biết bao. Ông cảm thấy đầy lòng tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, vì ông biết rằng: Dù tội lỗi như Aaron đúc bò vàng cho toàn dân thờ, như đại vương David giết chồng, cướp vợ, đã hết lòng ăn năn sám hối. Thiên Chúa vẫn sẵn lòng tha thứ. Dù cả toàn dân bỏ Chúa, và bị quân thù bắt lưu đầy ở Babilon, lại bị Thủ tướng Aman ra tay diệt trừ. Trong cơn khốn cùng như thế, Hoàng hậu Esthe cùng toàn dân đã biết ăn năn sám hối tội lỗi, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát họ. Tội lỗi như dân ngoại thành Ninivê, Chúa còn thương bắt buộc ngôn sứ Giona đến rao giảng cho họ để họ biết cải tà qui chính. Chúa liền thương tha thứ cho họ. Thấy tất cả những sự kiện lịch sử thống hối đó, người thu thuế càng thêm tin tưởng vào lòng thương xót khoan dung của Thiên Chúa, ông càng đấm ngực hết lòng sám hối.

Đức Giêsu đã phê cho ông: “Người này ra về thì được nên công chính. Trái lại, Pharisiêu thì không, vì phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”. Người ta thường nói: “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại”. Người phàm còn biết tha thứ cho kẻ hối lỗi. Huống chi Thiên Chúa tốt lành vô cùng. Nhiều lần, Đức Giêsu đã bày tỏ cho chúng ta biết: Thiên Chúa như Mục tử nhân lành, bỏ mọi sự đi tìm chiên lạc; như người Cha đầy lòng thương xót, vui mừng đón rước và long trọng mở tiệc ăn mừng đứa con đi hoang trở về, vì “Con ta đây đã chết, nay sống lại; đã mất, nay tìm thấy” (Mt. 18, 12-14; Lc. 15, 4-7. 11-32).

Tội nặng tầy trời như tông đồ của Phêrô: chối Thầy. Khi hết lòng ăn năn trở lại, Chúa đã lờ đi như không biết, không trách một lời, lại còn thân mật hỏi: “Này anh Simon, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em hay không?”

Thái độ của Chúa thật vô cùng bao dung quảng đại, không miệng lưỡi nào ca ngợi cho xiết.

Thời nay, người ta xa lánh tòa giải tội, không còn lo sám hối, hoặc vì không còn tin vào Thiên Chúa từ bi hay thương xót, nên thất vọng chết như Giuda, hoặc vì quá tự mãn với những tiến bộ khoa học, không cần Thiên Chúa nữa; hoặc vì khô khan lười biếng, thờ ơ lãnh đạm, lòng chai đá, không còn biết tội phúc nữa, đâu còn biết ăn năn sám hối.

Lạy Chúa, xin cho con biết khiêm tốn nhận ra con là kẻ tội lỗi, yếu hèn như kẻ nghèo khó, bị áp bức, sống mồ côi, góa bụa trong Bài đọc 1 để luôn luôn đấm ngực ăn năn, hết lòng chạy đến cầu khẩn Chúa mọi nơi, mọi lúc.

7. Hai người lên đền thờ cầu nguyện– Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

A. Hạt giống…

Hai người lên đền thờ cầu nguyện là hai hình ảnh minh họa cho câu nói trên của Hôsê:

  Người biệt phái: anh có rất nhiều lễ vật dâng lên Chúa nhưng thiếu tình yêu. Thứ nhất là anh không yêu người khác (“tôi không như các người khác, hay là như tên thu thuế kia”); thứ hai là anh cũng không yêu Chúa: anh giữ luật và làm nhiều việc lành chỉ để chứng tỏ cho Chúa biết anh là người đàng hoàng và do đó Chúa phải yêu thương anh, ban thưởng anh.

– Người thu thuế: anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Tình yêu của anh không nồng nàn thắm thiết mà chỉ là một tình yêu muộn màn của đứa con tội lỗi quay về với một tấm lòng tan nát, một trái tim đang kêu gọi tình thương xót của Chúa (“Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội”)

B…. nẩy mầm.

Lời Chúa hôm nay rất dịu dàng, kêu gọi chúng ta tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, kêu mời chúng ta dâng lên Ngài những tội lỗi và yếu đuối của chúng ta:

1. Lời của một bản thánh ca: con chẳng có gì dâng lên Chúa hôm nay…

2. Một đêm giáng sinh nọ, Thánh Giêrônimô đang quỳ bên máng cỏ để suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người thì bỗng Chúa Hài Đồng hiện ra trong vầng sáng chói loà. Ngài hỏi thánh nhân:

– Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không?

– Lạy Chúa Hài Đồng, thánh nhân đáp, con xin dâng Chúa trái tim của con.

– Được lắm, nhưng còn gì khác nữa không?

– Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể.

– Con còn điều gì khác nữa không?

– Con có điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu. Thánh nhân khẩn khoản thưa.

Chúa Hài Đồng bảo:

– Này Giêrônimô, hãy dâng cho ta cả những tội lỗi của con nữa.

– Ô lạy Chúa, Thánh nhân hốt hoảng hỏi lại, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con được?

– Được chứ! Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều Ta rất mong đợi.

Nghe thế, thánh nhân bật khóc vì sung sướng. (Trích ”Món quà giáng sinh”)

3. Người Hồi giáo có chuyện sau đây: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy. Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian.”

 Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm mang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn.”

 Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp 4 phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người ấy giải thích: “Tôi đã chìu theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu. (Trích ”Món quà giáng sinh”)

4. “Người pharisêu đứng riêng một mình cầu nguyện rằng: Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, bì con không giống như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia” (Lc 18,11)

Chẳng phải có những lúc tôi đã gân cổ tranh cãi với người khác: “Tôi đúng, anh sai” sao?

Chẳng phải có những lúc tôi bỉu môi, lên tiếng chê bai những người mà tôi cho là xấu xa sao?

Chẳng phải có những lúc tôi hài lòng khi thấy mình hơn người nào đó về nhiều mặt sao?

Như vậy tôi chính là người pharisêu đứng thẳng người trong đền thờ và khoe với Chúa công trạng của mình.

Chúa không cần những cái đấm ngực thình thịch “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”.

Chúa chằng cần công trạng nhưng cần tấm lòng khiêm cung của tôi.

Xin cho con biết khiêm cung để nhận ra mình cũng đầy những thói hư tật xấu, để hiểu và cảm thông với anh em, và để có thể cất lời ngợi khen Chúa là Đấng Thánh, ngàn trùng chí thánh (Epphata)

8. Chấp nhận sự thật về chính mình–Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.

Người khiêm nhường là người chấp nhận sự thật về chính mình. Họ không khinh thường ai. Người khiêm nhường chấp nhận và tôn trọng tha nhân, bởi đó tha nhân thoải mái khi sống với họ.

Nét đẹp của người thu thuế

Người biệt phái trong dụ ngôn nhận ra anh ta không tham lam, bất chính, ngoại tình. Tuy nhiên, anh ta lại đánh giá người khác thấp hơn mình. Anh ta khinh người thu thuế đang cầu nguyện dưới cuối hội đường. Thái độ coi khinh người khác, không đẹp lòng Thiên Chúa.

Nét đẹp của người thu thuế, là thái độ khiêm nhường, nhận ra sự thật về chính mình: “Tôi là người tội lỗi”. Anh ta không so sánh mình với người khác, không khinh người khác, nhưng nhận mình nhỏ bé thấp hèn. Thái độ của anh ta, được Thiên Chúa thương: anh ta ra về và được khỏi tội.

Trong cuộc sống, nhiều người bị coi là người xấu, nhưng chắc gì tôi tốt hơn những người đó? Khi tôi xét đoán người khác, coi thường người khác, khinh người khác, là tôi đã không sống giới răn yêu thương. Khi cho người khác dở hơn mình, tôi đã dành quyền xét đoán của Thiên Chúa. Khi khinh thường người khác, tôi không còn đẹp nữa. Lúc đó, tôi không tôn trọng họ, và như vậy tôi không sống hạnh phúc; và tôi cũng không để người đó hạnh phúc với tôi. Một người khiêm nhường, là người có thể sống với người khác, và để người khác sống thoải mái hạnh phúc với mình.

Khiêm nhường: tuyên dương những gì Thiên Chúa làm cho mình

Thánh Phaolô trong thư gởi Timôthê hôm nay, tin rằng Ngài sẽ được hưởng triều thiên công chính. Nhận sự thật về mình, ngay cả khi mình được những điều tốt, không phải là kiêu ngạo. Phaolô tin mình sẽ được thưởng công, và Ngài biết người khác cũng được vậy nếu họ mong chờ ngày Chúa xuất hiện. Hơn nữa, khi nhận rằng những gì mình được, là hồng ân của Thiên Chúa, đó cũng là hành vi khiêm nhường, vì đã trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Ngài.

Không đặt mình trên người khác, nhận rằng người khác có thể có những điều tốt hơn mình, đó là thái độ của những người khiêm nhường. Những gì mình có hay hơn người khác, không phải do mình, nhưng đó là hồng ân “nhưng không” Thiên Chúa ban cho mình, thế nên mình chẳng có gì để vênh vang hoặc khinh thường người khác khi họ không có điều đó.

Người khiêm nhường không xét đoán

Thiên Chúa là Đấng công bình, Ngài không thiên tư tây vị, Ngài không đứng về phía người giầu hoặc người thế lực; trái lại, Ngài ở bên người nghèo, Ngài nghe tiếng kêu xin của người nghèo. Một trong những cách nói Thiên Chúa nghe tiếng kêu xin của người nghèo, là “lời cầu nguyện của người nghèo không bị bỏ qua cho đến khi đạt được mục đích, nghĩa là, cho đến khi Thiên Chúa nhận lời”, “lời cầu nguyện của người nghèo vượt quá tầng mây”.

Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán. Không kết án người khác. Những điều người khác làm dở, có thể có những lý do mà mình không hiểu được. Thiên Chúa biết lòng người, mình không thể hiểu được những hoàn cảnh cụ thể, để mà phán xét kết tội họ. Người có lòng thương xót không sợ ngày phán xét, vì họ sẽ được thương xót và được phán xét như họ đã thương xót người khác. Không xét đoán người khác, không khinh người khác, là một hành vi vượt thắng chính mình.

Khiêm nhường không là nhu nhược, không là sợ hãi người khác, không là ngu dốt. Người khiêm nhường có thể rất thông minh, có thể đoán được những gì người khác sẽ làm, nhưng họ cũng nhận ra rằng, có thể có những lý do mà họ không hiểu được. Vì tôi không biết hết, nên tôi không phán đoán và kết án ai. Thiên Chúa là Đấng biết tất cả, Ngài sẽ phán xét con người. Có người muốn khẳng định Yuđa xuống hoả ngục! Nhưng, làm sao tôi biết được! Tại sao tôi đòi thay chỗ Thiên Chúa để đưa ra lời phán quyết. Tại sao tôi không nghĩ rằng Yuđa có thể hối hận vào giây phút cuối đời? Nếu muốn phán đoán, hãy có tình yêu của Thiên Chúa, để không phán đoán kết tội ai.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Khi phán đoán kết tội người khác, tôi được gì?

2. Nhận ra nét đẹp của người khác, có giúp tôi sống hạnh phúc hơn không? Tại sao?

3. Tại sao bạn thích sống với người khiêm nhường, hơn sống với người kiêu ngạo?

9. Khiêm nhường cầu nguyện–Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Mỗi khi cầu nguyện, chúng ta tin tưởng và mong ước dẫn tới hiệu quả tốt. Sự thường là như thế, nhưng thực sự nhiều khi lại không phải như thế, bằng chứng là có lần chúng ta cầu nguyện thì được như ý, nhưng cũng không thiếu những lần chúng ta cầu nguyện hoài mà chưa được hay không được. Cũng vậy, có người cầu nguyện thì được Chúa nhận lời, có người thì không. Tại sao vậy? Có phải chúng ta thiếu điều kiện nào chăng? Đúng vậy, một trong những yếu tố hay điều kiện quan trọng, đó là thái độ và tâm tình thích hợp. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết thái độ và tâm tình thích hợp cần có, đó là khiêm tốn, khiêm nhường.

Để hiểu biết sức mạnh của khiêm nhường, chúng ta hãy tưởng tượng hay hình dung hai cỗ xe: một cỗ xe được kéo bởi hai con ngựa là nhân đức và kiêu ngạo, còn cỗ xe kia được kéo bởi hai con ngựa là tội lỗi và khiêm nhường. Cả hai xe cùng chạy, nhưng chẳng bao lâu cỗ xe tội lỗi vượt trước cỗ xe nhân đức. Tại sao vậy? Chắc chắn không phải do khả năng của chính nó, tức là tội lỗi, nhưng bởi sức mạnh của đức khiêm nhường cùng đi chung với nó. Còn cỗ xe kia bị qua mặt, chẳng phải vì nhân đức yếu đuối mà vì sự kiêu ngạo quá nặng nề và to lớn. Điều ấy bảo cho chúng ta biết: đức khiêm nhường, nhờ cố gắng vươn lên, đã thắng được sức cản của tội lỗi, và lên đến trời trước nhất, còn kiêu ngạo, vì nặng nề và to lớn, nên át cả sự nhanh nhẹn của nhân đức, và dễ dàng kéo nó xuống sâu.

Về hai cỗ xe này, chúng ta đem áp dụng vào hai người Pha-ri-sêu và thu thuế lên đền thờ cầu nguyện chúng ta sẽ thấy rõ: người Pha-ri-sêu đã cột chung nhân đức với kiêu ngạo: ông đứng thẳng một cách hiên ngang, tự đắc, ngực ưỡn, đầu ngẩng cao, và mắt có lẽ liếc nhìn người thu thuế một cách khinh bỉ và hãnh diện trước mặt Thiên Chúa. Ông cầu nguyện gì? Ông không cầu gì cả, ông kể công với Chúa, ông tự mãn về những gì ông đã làm, ông lên đền thờ để khoe mình chứ không phải để cầu xin với Chúa, nên lời cầu nguyện của ông chẳng những không đưa ông tới gần Chúa mà còn làm cho ông xa Chúa hơn và làm cho Chúa buồn hơn.

Trái lại, người thu thuế đã cột chung tội lỗi với khiêm nhường: ông khép nép, khúm núm, đứng mãi đàng xa, không dám đến gần bàn thờ, cũng chẳng dám ngước mắt lên trời, tức là ông tự nhận mình bất xứng, chỉ biết cúi đầu, đấm ngực tỏ lòng ăn năn sám hối. Còn về lời cầu nguyện, ông nói với Chúa chứ không nói về mình, ông chẳng có gì hay để kể cho Chúa nghe, chẳng có công gì để khoe với Chúa và cũng chẳng dám xin gì khác ngoài lòng thương xót của Chúa.

Qua đó, chúng ta thấy tại sao cả hai người cùng cầu nguyện, nhưng chỉ có một người đẹp lòng Chúa, được Chúa tha thứ ban ơn, chỉ vì người ấy khiêm nhường, tin tưởng, cậy trông vào tình thương của Chúa, còn người kia tự mãn về những gì ông làm thì ông trở về với những gì ông đã làm, Chúa không ban gì cho ông. Nói rõ hơn, người thu thuế về nhà được công chính hóa, còn người Pha-ri-sêu thì không, đó là kết quả tất yếu: người Pha-ri-sêu đâu có cần đến Chúa, đâu cần Chúa công chính hóa, ông tưởng rằng tự ông có thể mua được sự công chính bằng công trạng của mình, ông đã lầm to, vì được trở nên công chính hay không là một quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho người biết khiêm nhường như người thu thuế đã làm, là ý thức rõ cái tôi tội lỗi, hèn kém, bất lực của mình, thái độ đó Thiên Chúa rất vui lòng, rất đẹp lòng Thiên Chúa.

Từ hai nhân vật tiêu biểu về khiêm nhường và kiêu ngạo, được xác định bằng thái độ của họ trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh em, Chúa Giêsu đưa ra một nguyên tắc tổng quát: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ đựơc tôn lên”. Ai hạ xuống? ai tôn lên? Thưa chính Thiên Chúa. Kẻ tự tôn mình lên thì Thiên Chúa hạ xuống, kẻ tự hạ mình xuống thì Thiên Chúa tôn lên. Đó là lối hành động của Thiên Chúa, đó là cách Thiên Chúa trả lời cho kẻ tự đắc, kẻ cho mình là công chính và khinh chê những người khác. Bởi vì chẳng ai có thể tự đắc trước mặt Thiên Chúa, chẳng ai có gì để kể công với Người. Tình thương của Thiên Chúa là tình thương nhưng không, ai xin thì được, còn ai tự cho mình là có quyền đòi thì Thiên Chúa không cho. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, tất cả đều nghèo hèn, cần đến lòng thương xót của Người.

Chúng ta là người Pha-ri-sêu hay người thu thuế? Chắc chắn không ai nhận mình là người Pha-ri-sêu, nhưng chưa chắc đã nhận mình là người thu thuế. Đúng, chúng ta không tự nhận là người Pha-ri-sêu, dù có khi chúng ta còn tệ hơn người Pha-ri-sêu, nhưng chúng ta có dám bắt chước người thu thuế không?

Chúng ta có thể sánh ví việc cầu nguyện của chúng ta cũng giống như chiếc cầu mong manh dẫn chúng ta tới Chúa. Khi đi qua một chiếc cầu nhỏ, bắt ngang bằng những tấm ván hay những khúc cây mong manh, chúng ta phải hết sức cầm trí và ý tứ cẩn thận thế nào, thì khi cầu nguyện chúng ta cũng phải cầm trí và cẩn thận như vậy, tức là chúng ta phải có thái độ khiêm tốn, tin tưởng, cậy trông.

10. Một kiểu nhận thức tai hại—Lm JB. Lê Ngọc Dũng

Chúa Giêsu kể dụ ngôn hai người lên Đền Thờ cầu nguyện, một người biệt phái và một người thu thuế, có ý cho thấy cái tai hại của những người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê những người khác.

 Dụ ngôn khiến chúng ta phải nhìn lại chính mình và thấy rằng nhiều khi chúng ta cũng có thái độ giống như người biệt phái mà chính chúng ta cũng không ngờ, không hề hay biết.

Chẳng hạn chúng ta có thể có ý tưởng và cầu nguyện như những mẫu sau:

Nhìn về một người sống lang thang, lười biếng, một người cầu nguyện: Lạy Chúa, con cảm ơn Chúa, là vì con đã có được một việc làm tốt, con đã biết sống tiết kiệm. Con biết quý trọng những đồng bạc do mồ hôi nước mắt làm ra. Con không giống như những người không lo làm ăn, cứ lang thang, la cà hết chỗ này đến chỗ nọ, ăn xài phung phí.

Nhìn về một người rượu chè say sưa, đánh đập vợ con, một người khác cầu nguyện: Lạy Chúa, con có uống rượu, nhưng uống chừng mực, con biết lúc nào nên dừng lại. Con không như cái thằng cha kia. Hôm nào cũng say xỉn, ăn nói lè nhè, thật đáng xấu hổ, lại còn đánh đâp vợ con nữa chứ!

Nhìn về một người đạo đức cầu nguyện trong nhà thờ, một người dự lễ, nhưng đứng bên ngoài nhà thờ cầu nguyện và thấy mình khiêm tốn hơn. Ông cầu nguyện: Lạy Chúa, con không sốt sắng đạo đức mấy, con ngồi ở ngoài là để cho người ta thấy lòng khô đạo của con. Con không muốn người ta thấy con có vẻ đạo đức. Họ cho mình là xứng đáng để thờ phượng Chúa, nhưng ngoài nhà thờ họ lại sống như không có đức tin. Như cái bà kia sáng đi lễ chiều đi nhà thờ mà về nhà thì chưởi rủa um sùm, chưởi con cái, chưởi hàng xóm; chưởi không ai bằng!

Tất cả những người kể trên đều thành thật với chính mình. Họ không nói dối. Họ đã nói những gì họ làm. Người biệt phái trong dụ ngôn Chúa Giêsu cũng vậy. Ông ta rất thành thật, đã giữ luật Chúa rất kỹ lưỡng. Còn hơn thế nữa, ông muốn làm nhiều hơn luật dạy để đẹp lòng Chúa. Luật chỉ dạy ăn chay một năm một lần, nhưng ông ta ăn chay hai lần một năm. Quả là một tâm hồn nhiệt thành. Và nữa, thuế thập phân chỉ áp dụng cho một số sản phẩm. Còn ông ông áp dụng cho tất cả lợi tức của ông.

Vậy thì ông đã sai lầm, hay ngay chính chúng ta cũng đã sai lầm, đã xấu. Hãy xét thêm là sự sai lầm hay xấu xa đó là ở chỗ nào?

Thứ nhất, đó là thái độ của ông đối với Chúa. Ông muốn kể công với Chúa. Dường như ông ta muốn Thiên Chúa phải nhìn đến những điều xấu mà ông đã tránh được và nhìn vào những việc tốt lành mà ông đã làm được. Thiên Chúa như đang mắc nợ ông, phải thưởng công cho ông.

Thứ hai, thái độ của ông đối với người thu thuế. Ông đã nhìn xuống và đã có thái độ khinh dễ kẻ khác. Ông ta nghĩ rằng ông ta tốt, khi đem so sánh với cái xấu của người thu thuế.

Người biệt phái trong câu chuyện được Chúa Giêsu dùng như một cảnh giác cho chúng ta, những người được coi là đạo đức, lương thiện. Vì lẽ, ít ra chúng ta nhận thấy mình: tin có Chúa, dự lễ ngày Chúa Nhật, đi xưng tội rước lễ thường xuyên; mình tuy có lỗi phạm đó, nhưng mà nhè nhẹ thôi, vì mình đâu có gian dâm, đâu có dối gạt ai, đâu có giết người cướp của… Rồi nhìn ra chung quanh, ra xã hội, ra thế giới, chúng ta thấy quá nhiều, dối trá, lừa gạt, quá nhiều tội ác, tham nhũng hối lộ, trộm cắp … trong khi đó, chúng ta sống chân thật, không tham lam gì cả, còn làm việc từ thiện phước đức nữa chứ!

Chúng ta có thể không nói to, nói lớn ra hay cầu nguyện nho nhỏ rằng: “Con cảm ơn Chúa vì con không như họ…” nhưng mà trong thâm tâm, trong chính tư tưởng, chúng ta làm vẫn thường có cái tự hào, vì sự tin Chúa, vì sự giữ đạo tốt, vì những việc đạo đức, việc tốt chúng ta đã làm.

Chúng ta nghĩ rằng mình có công lao, có đạo đức, hay ít ra là người đàng hoàng, ngay chính, không làm điều gì thất đức.

Còn người thu thuế nói: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc, 18,13).

Anh ta nói lên một sự thật. Sự thật thứ nhất là anh tuyên xưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và anh tín thác vào Ngài. Sự thật thứ hai là anh tội lỗi. Anh không dám sánh mình với kẻ khác. Anh chỉ nhìn xuống, không dám ngẩng đầu lên.

Anh chân thành cầu khẩn Chúa. Trọng tâm của anh là không hướng về mình nhưng hướng về Chúa. Anh không tin tưởng vào sự tốt lành của mình nhưng tin tưởng vào sự tốt lành của Thiên Chúa.

Và Chúa Giêsu đã nói: “Người này, khi trở xuống và về nhà thì được công chính rồi, còn người kia thì không.” (Lc, 18,14).

Dụ ngôn của Chúa Giêsu về hai người lên đền thờ cầu nguyện cho chúng ta thấy có mối nguy hiểm phát sinh từ lối sống tự nhận mình là đạo đức và có ý phê bình người khác. Nó dễ làm cho mình kiêu ngạo, xa rời Thiên Chúa và anh em.

Cái gian tham, dối trá, cái xấu xa tội lỗi của xã hội của những người khác, ta dễ nhận ra, để rồi phê bình chỉ trích. Ngay trong họ hàng, gia đình, chúng ta cũng dễ thấy, dễ nhận ra cái tham lam, cộc cằn thô lỗ, cái ích kỷ, bất lịch sự, cái khô đạo… của người vợ người chồng, của người bà con chú bác, của ông bà xui gia. Chúng ta không thấy cái tốt, mà chỉ thấy cái xấu, cái sai của họ và thấy mình là tốt, là đúng!

Rõ ràng là cái kiểu nhận thức đó khiến gây xung đột trong gia đình, trong xã hội. Nếu mỗi người khiêm tốn hơn, chắc sẽ không có xung đột, không có làm khổ cho nhau, không có chiến tranh. Xin Chúa giúp con người chúng ta có lòng khiêm tốn thật sự, nhìn nhận cái yếu kém của mình để luôn tin cậy vào tình thương của Thiên Chúa.

11. Người Pharisêu và người thu thuế–Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chúa nhật tuần trước, hai nhân vật mang tính biểu tượng được Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta: một bên là vị thẩm phán bất công, đại diện kẻ áp bức, bên kia là bà góa đi kiện, điển hình của kẻ bị áp bức. Qua dụ ngôn đầy tính hài ước, Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải cầu nguyện luôn đừng ngã lòng và xác tín rằng, Thiên Chúa hằng nhận lời chúng ta (x. Lc 18,1-8).

Để xác định thái độ nội tâm và hình thức bề ngoài khi hướng về Thiên Chúa, Chúa nhật tuần này, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn gồm hai nhân vật đại diện cho con người hôm nay: một bên là người pharisiêu tự cho mình là công chính tuân giữ Luật Chúa cách hoàn hảo và bên kia là người thu thuế, tội lỗi, tay sai cho bọn đế quốc, vơ vét tiền bạc trên lưng của đồng bào (x.Lc 18, 9-14).

Khi đọc lý do tại sao người Pharisiêu lại tạ ơn Chúa, chúng ta chiêm ngưỡng sự hào phóng của ông thực sự là một người “tốt”, không chê trách được gì. Điều này dường như không phải là quan điểm của Đức Giêsu, Người không kể dụ ngôn này cho những người công chính, nhưng “cho những ai hay tự hào mình là người công chính.” (x. Lc 18,9-14)

Người Pharisêu

Người Pharisêu tiêu biểu cho người bảo thủ cảm thấy mình phù hợp với Thiên Chúa và tha nhân, khinh thường kẻ khác. Người thu thuế là kẻ đã phạm lầm lỗi, nhưng anh nhìn nhận lỗi lầm đó và khiêm tốn xin Chúa tha thứ. Anh nghĩ, mình không thể cứu được mình nhờ công nghiệp riêng mình, mà phải cậy nhờ vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Câu cuối cùng của dụ ngôn minh chứng: Người này, khi trở về nhà, thì được nên công chính, nghĩa là, được tha và hoà giải với Chúa; người Pharisêu trở về nhà trong tình trạng y như hồi ra đi vẫn giữ cảm giác về sự công chính của mình, đương nhiên mất sự công chính của Chúa (x. Lc 18,14).

Trong thực tế, người Pharisiêu đã đặt ra cho mình chỉ tiêu công chính. Ông không như người khác: ăn chay, nộp thuế… Ông tự xây dựng hình ảnh người công chính cho mình, quên mất điều quan trọng nhất của lề Luật là tình yêu tha nhân.

Tệ hơn nữa là thái độ của ông. Ông “tạ ơn Thiên Chúa”; nhưng không được, ông thích liệt kê những kẻ tội lỗi. Trong lời cầu nguyện, ông không cần đến Thiên Chúa. Như thế, ông không công chính với chính mình, sức mạnh nội tâm của ông cho phép ông vượt lên trên mức tầm thường, nhưng ông đã coi thường sự đáng kính của ông. Một người hài lòng với chính mình, làm sao có thể giao tiếp được với Thiên Chúa?

Người thu thuế

Người thu thuế biết mình không có gì để khoe, và cũng chẳng có ai thấp kém hơn mình để đạp. Anh chỉ biết mình được xếp loại ngang hàng với gái điếm, nên đứng xa xa, không dám ngước lên trời, đấm ngực và nói lên điều mà lòng anh đang khao khát: “Lạy Chúa, xin thương con là kẻ có tội.” (Lc 18,13). Anh khao khát tình thương nên anh được Chúa đoái thương và lời anh cầu xin được chấp nhận. Một kẻ tội lỗi như anh, có thể chứa đựng lòng thương xót, bởi vì không giống như các pharisiêu đóng cửa lòng mình và thỏa mãn với sự đầy đủ của mình, anh mở rộng tâm hồn, sẵn sàng đón lấy ơn tha thứ của Thiên Chúa, Đấng mà anh đã đặt tất cả niềm tin và hy vọng của mình.

Bài học từ hai người trên

Giống như hầu hết các dụ ngôn, Đức Giêsu cho thấy hai nhân vật trái ngược nhau. Những người thu thuế hôm qua là những người Pharisêu mới của ngày nay! Ngày nay người thu thuế, kẻ phạm tội, nói với Chúa: “Lạy Chúa con tạ ơn Chúa, vì con không phải như những người Pharisêu có lòng tin kia, giả hình và bất bao dung, lo lắng về sự ăn chay, nhưng trên thực tế sống còn xấu hơn chúng con.” Thật nghịch lý, xem ra dường như có những kẻ cầu nguyện như thế này: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, vì con là kẻ vô thần!”

Rochefoucauld nói rằng sự giả hình là đồ cống nạp nết xấu trả cho nhân đức. Ngày nay nó thường là đồ cống nạp nhân đức trả cho nết xấu. Đúng thế, điều này được bày tỏ ra, nhất là những kẻ tỏ ra mình xấu hơn và vô sỉ hơn mình, ngõ hầu không xuất hiện kém hơn những kẻ khác. Nhà triết học Tin Lành Soren Kierkegaard viết: “Ngược lại với tội lỗi không phải là nhân đức, nhưng đức tin.”

Một kết luận thực tế: Rất ít người vừa Pharisêu vừa là người thu thuế, tức là, công chính trong mọi sự hay là tội lỗi trong mọi sự. Phần đông chúng ta có một chút ít cả hai trong cuộc sống. Lúc tồi tệ nhất chúng ta ứng xử như quan thu thuế trong cuộc sống, kinh doanh vô đạo đức, và lúc khác chúng ta như người Pharisiêu trong đền thờ, được cho là hợp lý bởi hành vi tôn giáo của chúng ta. Điều tệ nhất có lẽ là hành động như người thu thuế trong đời sống thường ngày của chúng ta và như người Pharisêu trong nhà thờ. Những người thu thuế là những kẻ tội lỗi, không có áy náy lương tâm, coi tiền bạc và nghề nghiệp trên hết mọi sự. Những người Pharisêu, ngược lại, là rất khắc khe và chăm chú đến lề luật trong sự sống hằng ngày của mình.

Nếu chúng ta đành cam chịu nên một ít của cả hai, bấy giờ chúng ta hãy nên kẻ nghịch của điều chúng ta mới diễn tả: Pharisêu trong sự sống hằng ngày và thu thuế trong nhà thờ! Như người Pharisêu, chúng ta phải cố gắng trong sự sống hằng ngày không làm kẻ trộm và người bất chính, nhưng theo những điều răn của Chúa và trả những món nợ chúng ta mắc; như người thu thuế, khi chúng ta ra trước mặt Chúa, chúng ta phải công nhận rằng chút ít gì chúng ta đã làm là hoàn toàn ân huệ của Chúa, và chúng ta hãy cầu xin cho chính chúng ta và cho tất cả mọi người lòng thương xót Chúa. Amen.

12. Biết ngước mắt nhìn Trời–Lm. Giuse Lê Danh Tường

Giáo xứ kia là một giáo xứ gần như toàn tòng Công giáo. Có một người ngoại giáo từ làng khác tới giáo xứ để làm nghề. Vì thế mà anh ta quen biết nhiều người trong giáo xứ. Thấy anh sống tốt, có người gạn hỏi anh: Sao anh không theo đạo với chúng tôi luôn đi. Anh trả lời: Tôi ăn ngay ở lành, không trộm cắp, không giết người, không lừa lọc ai. Đạo nào mà chẳng thế. Tôi sống thế là được rồi.

Nếu sống đạo là chỉ giữ những luật lệ, tránh không phạm tội trọng thì quả thực đạo nào cũng như đạo nào. Bởi cái luân thường đạo lý ở đời đâu mà chẳng vậy. Theo Đạo của Chúa là không chỉ sống tốt ở đời mà còn sống thánh, sống vươn lên vượt ra khỏi cái hạn hẹp quẩn quanh ở đời này.

Trong bài Tin mừng Lc 18, 9-14, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn. Trong dụ ngôn này có hai nhân vật đứng trong cùng một nhà thờ nhưng với hai thái độ khác nhau.

Người biệt phái dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về những gì ông đang có. Ông không xin Chúa thêm điều gì. Ông hãnh diện về những gì ông đã làm được: ông không tham lam, không bất công, không ngoại tình như những người khác. Ông cảm tạ Chúa không về những gì Chúa đã làm cho ông nhưng là những gì chính ông đã làm được. Đi xa hơn nữa, ông biệt phái đã so sánh ông với người thu thuế đang đứng phía cuối nhà thờ: Tôi không như tên thu thuế kia, tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả những hoa lợi của tôi.

Ông dám kết án người thu thuế là kẻ gian tham vì người thu thuế đứng ra lấy thuế của dân mà nộp cho đế quốc Rôma. Nộp đủ chỉ tiêu thì được hưởng huê hồng số thu phụ trội!

Ông dám kết án người thu thuế là kẻ bất lương vì dân Do Thái đang có khát vọng độc lập, thoát ra khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, thì kẻ lấy thuế của dân mà nộp cho ngoại xâm là củng cố thế lực cho đế quốc, là hành động bất lương.

Ông dám kết án người thu thuế là kẻ ngoại tình vì người thu thuế đã đánh mất niềm tin và lòng trung thành với Chúa. Ông đã phản bội Thiên Chúa, đi ngoại tình với đế quốc Rôma.

Ông biệt phái đứng đó trước nhan Thiên Chúa nhưng ông không hướng nhìn lên Chúa. Ông đã nhìn xuống người thu thuế và suy xét lòng mình với những lề luật lẽ đời, ông thấy mình đạo đức. Ông ngẩng đầu cao ngạo và thấy mình xứng đáng được hưởng Nước Trời rồi.

Còn người thu thuế thì ngược lại với thái độ của ông biệt phái. Người thu thuế quả thực đã phạm nhiều điều đáng trách. Nhưng chắc chắn ông không phải là người tội lỗi nhất thế gian. Nếu ông nhìn xuống ông cũng sẽ thấy những người tội lỗi hơn ông nữa. Nhưng người thu thuế đã không nhìn xuống những người khác. Ông ngước nhìn lên Thiên Chúa. Ông suy xét lòng mình trước sự cao cả và tràn đầy tình thương của Thiên Chúa, ông thấy mình quá tội lỗi và thật xấu hổ. Ông không dám nhìn lên Chúa nữa mà chỉ biết cúi đầu ăn năn kêu xin: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 18,13).

Người biệt phái nhìn xuống người khác mà không biết nhìn lên Thiên Chúa nên ông dám đứng thẳng để cầu nguyện, để vênh váo. Người thu thuế không nhìn xuống người thấp hèn hơn mình nhưng nhìn lên Thiên Chúa nên ông không dám ngẩng đầu mà chỉ biết cúi mình kêu xin. Người biệt phái cậy dựa vào sức của riêng mình. Còn người thu thuế cậy dựa vào lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Người thu thuế chỉ lo giữ trọn lề luật, tự hào về những gì mình đã làm được mà không biết đến tình thương của Thiên Chúa. Người thu thuế ăn năn về những điều mình đã lỗi phạm, chạy đến với Chúa với tình con thảo nài xin Chúa xót thương.

Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã quả quyết: “người này ra về và được khỏi tội còn người kia thì không. Vì tất cả những ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 18,14).

Nếu tôi thường xuyên hướng nhìn lên Chúa, sống gắn bó với Thiên Chúa thì mọi sự tôi đã làm được chẳng đáng là gì trước những gì Chúa làm cho tôi. Nhìn lên Chúa tôi chỉ còn biết thờ lạy và cảm tạ Ngài. Tôi ý thức được sự yếu hèn của mình. Và như vậy tôi không còn dám chê trách ai vì tôi quá tội lỗi, tôi đâu có đáng gì. Tôi chỉ còn biết nài xin Chúa thương xót và cứu vớt lấy mình, cứu vớt lấy người anh chị em đang sống quanh tôi. Tôi hiểu được sự đau khổ của người khác và sẵn sàng cảm thông, chia sẻ với người khác trong cuộc sống hằng ngày.

Theo đạo là để sống với mọi người và luôn hướng lòng về với Chúa. Theo đạo là bước đi trên con đường tiến tới sự thánh thiện mà Thiên Chúa là đích điểm. Người tín hữu sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Tiêu chuẩn sống của người có đạo là tiêu chuẩn Nước Trời. Sống không chỉ để tránh làm điều bất trung bất nghĩa, nhưng còn phải yêu thương, phục vụ, và nên thánh. Người có đạo luôn bước đi với đôi mắt ngước nhìn Trời.

Lạy Chúa, giữa đêm tối mịt mùng xin Ngài cất tiếng, để con định hướng lòng con về với Ngài. Con chỉ là phận hèn tội lỗi, xin thánh hoá con và kéo con đi trên con đường nên thánh.

13. Khiêm nhường trong cầu nguyện và đời sống–Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Nhằm dạy bài học khiêm nhường, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn về hai người lên đền thờ cầu nguyện. Trong đó người Pha-ri-sêu đã kiêu ngạo khi cầu nguyện chỉ trích tha nhân và tự đề cao bản thân. Đang khi người thu thuế khiêm tốn xin Chúa tha tội và chỉ biết cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Cuối cùng Đức Giêsu kết luận: người Pha-ri-sêu kiêu căng sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống, còn người thu thuế khiêm hạ sẽ được Thiên Chúa tôn vinh.

CHÚ THÍCH:

– C 9-10: + Có hai người lên đền thờ cầu nguyện: Đền thờ là nơi người Do thái cầu nguyện. Người ta tụ tập ở Đền thờ vào các ngày Sa-bát, ngày Lễ, ngày Chay… để nghe đọc Thánh kinh, hát Thánh vịnh và cầu nguyện chung. Tuy nhiên mọi người đều có thể vào Đền Thờ cầu nguyện riêng khi mở cửa. +Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu: Đây là nhóm người tự tách mình ra khỏi quần chúng. Họ giữ Luật cặn kẽ chi tiết và thường tự hào cho mình là công chính. Tuy nhiên họ làm mọi điều tốt nhằm tìm tiếng khen hơn là vì lòng mến Chúa thực sự. Vì thế họ cố tình đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được chào hỏi ở nơi công cộng và muốn được dân chúng xưng hô là “Thầy” (Ráp-bi) (x. Mt 23,5-7). +Còn người kia làm nghề thu thuế: Đây là hạng người bị dân chúng đồng hóa với những kẻ tội lỗi và bị khinh dể xa lánh, vì đã cộng tác với chính quyền Rô-ma. Đồng thời còn tham lam, thường ăn chặn tiền thu thuế của người dân đóng góp để làm giàu cách bất chính.

– C 11-12: + Người Pha-ri-sêu đứng riêng một mình…: Pha-ri-sêu có nghĩa là tách biệt. Ở đây người Pha-ri-sêu đã tự tách ra khỏi những người Do thái khác khi đến cầu nguyện tại Đền thờ. + Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia…: Người Pha-ri-sêu này đã cầu nguyện phê phán người khác về các tội cụ thể như tham lam, bất công, ngoại tình hay tội làm đầy tớ cho ngoại bang như người thu thuế đang đứng cuối Đền thờ. + Con ăn chay mỗi tuần hai lần: Luật chỉ buộc người Do thái ăn chay vào lễ Xá Tội tức là ngày 10 tháng 7 hàng năm (x. Lv 16,29). Tuy nhiên, mỗi tuần những người Pha-ri-sêu còn tự nguyện ăn chay thêm hai ngày khác là thứ Hai và thứ Năm, và họ hãnh diện nghĩ mình đạo đức hơn người khác về việc này (x. Lc 5,33). + Con dâng cho Chúa một phần mưới thu nhập của con: Người Do thái công nhận Thiên Chúa đã ban lương thực cho mình, nên họ bày tỏ lòng biết ơn bằng việc dâng lên Chúa những hoa quả đầu mùa. Luật qui định phải nộp thuế “thập phân” (một phần mười), đánh trên các hoa màu như lúa mì, rượu mới, dầu tươi và cả những con vật đầu lòng trong đàn bò và chiên dê (x. Đnl 14,22-23). Ngoài ra họ còn tình nguyện nộp thêm phần thuế về các thứ rau quả khác nữa (x. Lc 11,42). Tóm lại, người Pha-ri-sêu này lên Đền thờ không phải để xin Chúa tha tội mà để khoe với Chúa về những điều tốt ông ta đã làm được hơn người khác để đòi Chúa phải trả công cho mình.

– C 13-14): + Còn người thu thuế thì đứng đàng xa…: Người thu thuế chỉ biết thú nhận những tội lỗi đã phạm. Ông cảm thấy xấu hổ nên không dám đến gần gian thánh, đứng cúi mình trước bàn thờ không dám đứng thẳng như người Pha-ri-sêu. + Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi: Ong ta chỉ biết đấm ngực ăn năn về các tội lỗi đã phạm và xin Chúa tha thứ tội lỗi như lời Thánh vịnh 50 của vua Đa-vít. Chính nhờ thái độ khiêm tốn ấy mà ông đã được Chúa ban ơn cứu độ. + Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên: Câu này đã có ở Lc 14,11 và được Lu-ca thêm vào đây để kêu gọi người ta sống khiêm tốn dựa vào ân sủng của Thiên Chúa. Vì trong lịch sử Ít-ra-en, Đức Chúa thường hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhu (x. Lc 1,25).

CÂU HỎI: 1) Phân biệt lối sống của người Pha-ri-sêu (Biệt phái) và người thu thuế thời Đức Giêsu giống và khác nhau thế nào? 2) Lời người Pha-ri-sêu cầu nguyện trong Tin Mừng hôm nay có đẹp lòng Chúa không? Tại sao? 3) Lý do khiến Đức Giêsu tỏ lòng khoan dung nhân hậu với người thu thuế tội lỗi, và nghiêm khắc với người Pha-ri-sêu là gì?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13).

2. CÂU CHUYỆN: TẠI SAO MA QUỶ KHÔNG ĐƯỢC CHÚA THỨ THA?

Một hôm có một tên quỷ kia chạy đến trước mặt Thiên Chúa mà thưa rằng: “Tôi thấy Chúa đối xử không công bằng chút nào!”. Chúa liền hỏi nó: “Tại sao ngươi lại dám bảo Ta đối xử không công bằng?” Bấy giờ tên quỷ kia mới đáp: “Chúa thấy đó, loài người phạm rất nhiều tội lỗi lớn lao, và chúng đều phạm đi phạm lại nhiều lần. Thế mà lần nào Chúa cũng tha thứ cho chúng và còn ban cho chúng hạnh phúc thiên đang đời đời. Còn chúng tôi chỉ phạm tội một lần duy nhất. Thế mà Chúa không những không tha mà còn phạt chúng tôi phải sa hỏa ngục muôn đời. Như vậy chẳng phải là Chúa đã thiên vị và bất công lắm sao?” Bấy giờ Chúa mới ôn tồn nói với tên quỷ rằng: “Loài người có phạm tội không vâng lời Ta thật, và vì yếu đuối mà chúng đã sai phạm nhiều lần thật. Nhưng sau mỗi lần phạm tội, chúng đều hồi tâm sám hối và khiêm tốn chạy đến xin Ta tha cho. Còn lũ quỷ các ngươi, có bao giờ các ngươi chịu hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội hay chưa?” Nghe thấy Chúa đòi hỏi phải ăn năn sám hối và cầu xin tha tội, tên quỷ liền thét lên rằng: “Lòai quỷ chúng ta không đời nào lại hèn hạ ăn năn sám hối và cũng không cần phải xin ai tha tội cả”. Nói thế rồi quỷ liền cong đuôi chạy mất.

3. SUY NIỆM:

Khi nghe Đức Giêsu kết luận người thu thuế tội lỗi ra về được nên công chính, còn người biệt phái nhiều công đức thì không, chắc hẳn nhiều người hiện diện phải ngạc nhiên. Vì người biệt phái xem ra là người mẫu mực trong việc tuân giữ Lề Luật và không phạm phải các tội xấu xa. Ông ta còn làm nhiều hơn Luật dạy khi tự nguyện ăn chay và bố thí. Vậy tại sao Đức Giêsu lại không chấp nhận lời cầu của ông ta? Tại sao Chúa lại ưu ái người thu thuế tội lỗi, ngay khi anh ta chưa từ bỏ cái nghề tồi tệ đó, và không đả động đến việc đền bù các thiệt hại đã gây ra cho tha nhân? Chúng ta cân làm gì để diệt trừ thói kiêu ngạo tự ái cao và thực tập khiêm nhường phục vụ?

1. Nguyên nhân lời cầu của người biệt phái không được chấp nhận:

– Chúng ta phải thừa nhận rằng: Người biệt phái đây là một người tốt, một tín hữu trung thành với Lề Luật. Chỉ tiếc một điều là do tính tự mãn mà bao nhiêu việc tốt anh làm đươc đã bị trôi ra sông ra biển hết. Do cái tôi quá to, nên anh chỉ thấy con người của mình mà không thấy Chúa. Anh coi thành quả đạt được là do tài đức cá nhân, chứ không do ơn Chúa giúp. Giá như anh biết đối chiếu với cuộc đời Đức Giêsu, thì có lẽ anh đã nhận ra sự thiếu sót lớn lao của mình, để không dam khinh thường người khác, và sẽ biết cầu xin lòng khoan dung tha thứ của Chúa.

– Lời cầu nguyện của người biệt phái không được chấp nhận là do anh ta đã “đứng riêng một mình” và cầu nguyện to tiếng với nội dung khinh thường người khác và đề cao bản thân để xin Thiên Chúa trả công cho anh: “Con xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần. Con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc, 8,11).

– Tuy nhiên, con người “nhân vô thập toàn”: Người biệt phái cũng có các tội như: tự mãn, kiêu căng, khinh thường người khác… Nhưng anh ta lại không ý thức về các tội đó. Anh ta không nhận ra mình cũng là tội nhân như người thu thuế mà anh khinh thường. Anh đã không nhận ra sự công chính là do ơn Chúa ban như thánh Phao-lô dạy: “Tôi được như vậy không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do Luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Ki-tô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Pl 3,9). Chính do tự mãn kiêu ngạo mà anh bị mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.

2. Nguyên nhân người thu thuế được Chúa xót thương:

– Người thu thuế cảm thấy xấu hổ về tội lỗi của mình, nên chỉ dám đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mặt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa với Chúa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Anh ta cảm thấy bất lực hoàn toàn, chỉ biết phó thác cho lòng Chúa thương xót. Chính nhờ tâm tình ấy mà Chúa đã đoái thương nhìn đến anh và ban ơn thánh giúp anh hoán cải nên công chính.

– Thái độ khiêm cung và lời cầu nguyện sám hối của anh thu thuế cho thấy anh đã mở cửa lòng đón Chúa. Chúa đã vào nhà linh hồn anh ban ơn tha thứ và biến đổi anh nên công chính đẹp lòng Thiên Chúa. Người thu thuế đã ý thức về tình trạng tội lỗi của mình, nên không dám ngước mắt nhìn lên Chúa, chỉ biết cúi đầu đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót của Chúa. Nhờ đó, anh đã nên công chính như lời Đức Giêsu: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi”.

3. Chúng ta phải làm gì?

– Cần tránh lối cầu nguyện biệt phái: Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng có thái độ tự mãn như người biệt phái xưa đã thưa với Chúa rằng: “Xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác”. Nhiều lần chúng ta đã đổ tội cho người khác hơn là khiêm tốn nhận tội như lời kinh cáo mình: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Nhiều lần trong tòa xá giải chúng ta đã dài dòng kể tội của người thân trong gia đình hay tội của người hàng xóm đã phạm đến mình, đang khi lẽ ra phải khiêm nhường xưng thú tội lỗi mình đã phạm để cầu xin Chúa tha thứ.

– Cần tập cầu nguyện khiêm hạ như người thu thuê: Người thu thuế trong Tin Mừng hôm nay đã bày tỏ thiện chí và muốn được ơn thứ tha bằng việc lên Đền thờ cầu nguyện. Tuy nhiên, anh cũng ý thức các tội lỗi của mình khó được Chúa tha, vì theo Luật Mô-sê: một người lỗi phép công bình muốn được tha thì trước hết phải thanh toán hết số nợ. Ngoài ra còn phải bồi thường thiệt hại cho chủ nợ thêm 1/5 nữa. Anh thu thuế này không có khả năng làm như thế. Dù vậy, anh đã không tuyệt vọng, mà đã biết cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Noi gương tác giả Thánh vịnh 50, anh đã nài xin Chúa như sau: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Vì vậy anh đã nhận được ơn tha thứ để nên công chính (x. Lc 18,14).

– Cần tránh thói kiêu căng tự mãn: Kiêu ngạo là thói xấu đứng đầu và hầu như mọi người chúng ta đều ít nhiều mắc phải. Đây là thói xấu nguy hiểm nhất và là mẹ phát sinh ra các thói hư khác. Người kiêu ngạo xem mình là trung tâm điểm thay thế Thiên Chúa. Anh muốn mọi người phải quan tâm phục vụ mình và luôn tạo ra hàng rào tách biệt với tha nhân… Kiêu ngạo phát sinh ra tự ái tự cao và dễ nổi giận khi có ai dám chê trách nói chạm đến mình. Đây cũng là thói xấu thâm căn khó chừa cải nhât. Tuy nhiên kinh “Cải tội bảy mối” cũng cho chúng ta một phương thế hữu hiệu để diệt trừ được thói hư này như sau: “thứ nhất khiêm nhường chớ kiêu ngạo”. Như vậy muốn loại trừ thói kiêu ngạo thì cần xin Chúa giúp thực tập đức khiêm nhường.

– Cần thực tập đức tính khiêm nhương phục vụ: Ai trong chúng ta cũng đều yêu thích người khiêm tốn, nhưng rất ít người có được nhân đức này. Thực ra khiêm nhường là can đảm nhìn thẳng vào con người thật của mình. Khổng Tử đã nói: “Cái gì biết thì nói biết, cái gì không biết thì nói không biết, đó mới thật là biết vậy”. Khiêm nhường tự hạ, quên mình phục vụ luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện. Tất cả những tài năng, nhân đức sẽ gia tăng giá trị lên gấp bội nếu kèm theo đức khiêm nhường. Cũng như những số 0 (số không) dù nhiều tới đâu cũng chẳng có giá trị gì. Nhưng nếu chúng được dẫn đầu bằng một con số như số 1 chẳng hạn, thì lập tức những số 0 kia sẽ tăng giá trị gấp 10 lần. Cần tập khiêm nhường băng cách tránh khoe khoang các ưu điểm thành tích của mình và rộng rãi nói lời động viên khen ngợi tha nhân. Cần luôn ý thức mình là người phục vụ và hay nói với người khác: “Tôi có thể giúp gì được cho bạn?” rồi sau đó phục vụ họ cách chân thành và vô vụ lợi.

4. THẢO LUẬN: 1) Khi được người khác khen một ưu điểm có thật, bạn thường phản ứng thế nào để thực hành nhân đức khiêm nhường noi gương Chúa Giêsu và Đức Ma-ri-a trong Tin Mừng (x. Lc 1,45-49)? 2) Bạn đã bao giờ khen người dưới khi thấy họ làm được việc tốt chưa? 3) Khi biết một người phạm một tội có hại cho tập thể, bạn sẽ làm gì: Giữ im lặng để tránh rắc rối hay lên tiếng để giúp họ sửa lỗi?

5. NGUYỆN CẦU

– LẠY CHÚA CHA TỪ ÁI. Trước Thánh Nhan Cha, chúng con chỉ còn biết noi gương người thu thuế mà thưa với Cha rằng: “Lạy Cha, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Thật vậy, đối với Cha, chúng con chỉ là hư không. Những việc tốt chúng con làm được cho Cha, xét cho cùng đều nhờ ơn Cha ban, và đòi chúng con phải dâng lời tạ ơn Cha.

– LẠY CHA. Xin giúp chúng con ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Xin giúp chúng con tránh thói kiêu căng tự mãn của người biệt phái. Xin cho chúng con biết tôn trọng mọi người và không bao giờ dám tự mãn khoe khoang thành tích đã làm. Xin cho chúng con biết luôn cảm tạ Cha về những ơn lành của Cha. Xin cho cuộc sống của chúng con trở thành bài ca tạ ơn: khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi khỏe mạnh cũng như lúc đau ốm… Vì chúng con biết rằng mọi sự Cha để xảy đến cho chúng con đều là hồng ân của Cha và đều đem lại ích lợi cho phần rỗi đời đời của chúng con.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

14. Khiêm tốn

Hai nhân vật được đặt đối diện nhau trong bài Tin Mừng sáng hôm nay là đại diện cho hai hạng người trong xã hội Do Thái, đồng thời cũng tượng trưng cho hai thái độ tôn giáo ở bất cứ thời điểm nào.

Trước hết là người biệt phái. Họ được nhìn nhận thuộc thành phần ưu tú và đạo đức. Họ có học thức, thông thạo lề luật, giữ các quy định và tập tục tôn giáo một cách nghiêm chỉnh từng li từng tí. Họ tự nhận mình là người công chính và đi tìm sự công chính trong việc giữ luật hình thức. Không phải mọi việc họ làm đều xấu. Thật ra họ cũng có nhiều đức tính tốt đẹp. Tuy nhiên nơi họ, những điều tự bản chất là tốt đã bị nhiễm độc bởi thứ vi khuẩn tinh tế là lòng tự mãn và tính kiêu căng. Họ tự thoả mãn với chính mình, tự coi mình là hơn kẻ khác và tự đặt mình làm khuôn mẫu cho mọi người noi theo.

Còn người thu thuế thì bị coi là hạng bất lương, bị đồng hoá với phường tội lỗi. Họ bị xã hội khinh chê và xa lánh bởi vì họ thường lạm thu quá mức, làm giàu nhờ gian lận, cộng tác với đế quốc Lamã mà bóc lột đồng bào của mình. Hơn ai hết người biệt phái khinh miệt giới thu thuế và bực tức vì Chúa Giêsu thường tiếp xúc với họ. Thế nhưng qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta thấy người thu thuế đã đem lại cho chúng ta những tình cảm tốt đẹp và lời cầu của anh thực sự có một giá trị to lớn.

Đó là một lời cầu chân thành của một người sáng suốt về mình, biết rõ thân phận mình, không ảo tưởng; trái lại ý thức được tình trạng nghèo nàn của mình. Vì thế, thay vì tin tưởng nơi mình, anh đã hướng tới Thiên Chúa, tìm ơn tha thứ và sự công chính nơi Ngài: Lạy Chúa xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi. Chỉ những ai thất vọng về mình mới có thể khát khao và cậy trông nơi Chúa. Và ai trông cậy nơi Chúa thì Ngài sẽ biến đổi nỗi thất vọng của người ấy thành niềm hy vọng. Ơn công chính chỉ được ban cho những tâm hồn khiêm tốn và chân thành nhận lỗi.

Trái lại lời cầu của người biệt phái không đáng được gọi là lời cầu. Đây là những lời ngạo mạn của một kẻ tự mãn. Và không thể có ơn tha thứ cho một kẻ tự mãn. Thiên Chúa chỉ có thể làm no đầy người đói khát, còn những người coi mình là no đầy thì vô phương cầu cứu. Thiên Chúa đuổi họ về tay không vì ơn tha thứ không có lối để vào một tâm hồn khép kín. Những ai biết mình không công chính thì Thiên Chúa sẽ làm cho họ nên công chính, còn những ai tự nhận mình là công chính thì họ không còn là công chính nữa. Thiên Chúa không phân chia nhân loại làm hai hạng người có tội và không có tội, bởi vì tất cả chúng ta đều là tội nhân. Nhưng Ngài phân chia cách khác thành người có tội biết hối cải và người có tội không nhận tội. Một bên thì được tha thứ còn một bên thì nặng tội thêm. Từ những điều vừa trình bày chúng ta rút ra hai kết luật:

1- Con người không thể tìm thấy sự công chính nơi bản thân. Phải tìm nơi Thiên Chúa, chính Ngài sẽ làm cho chúng ta được nên công chính.

2- Người tự mãn vốn thường tự ý khước ơn tha thứ, trong khi đó lòng khiêm tốn ăn năn sẽ xoá xạch tội lỗi vì luôn gặp được lòng thương xót của Chúa. Thiên Chúa thì ghét tội nhưng lại yêu thương tội nhân chính vì thế mà Chúa Giêsu đã đến trong thế gian.

15. Lạy Chúa, xin thương xót con–Dã Quỳ

Chúng ta đang sống giữa một thế giới mà con người đang cạnh tranh nhau về chỗ đứng và quyền lực. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Muốn mình giàu có hơn, tài giỏi hơn, quyền thế hơn và nổi nang hơn. Nhiều khi chẳng giỏi hay không giàu nhưng vẫn tỏ ra và tự cao tự đại cho mình hơn người, khoa trương, đánh bóng và thổi phồng sự thật. Đó là thói kiêu căng tự mãn ở đời! Dù thế, người ta chẳng ưa thích gì những kẻ kiêu ngạo nhưng lại dễ mến người khiêm nhường và dễ gần người hiền lành biết mình, như câu chuyện trong sách Trang Tử thuật cho chúng ta về hai nàng hầu:

Nhà kia nơi nước Tống có hai nàng hầu, một đẹp một xấu. Một hôm Dương Chu đến trọ, quan sát và nhận thấy trong nhà ai cũng quí yêu nàng hầu xấu mà khinh thường nàng hầu đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu gọi hỏi cậu bé trong nhà, cậu ta trả lời:

– Nàng hầu đẹp kia tự cho mình là đẹp và khinh chê nàng hầu xấu nên mất đẹp. Chẳng ai nhìn thấy nét đẹp của nàng nữa! Còn nàng hầu xấu tự biết mình là xấu mà khiêm nhu kính trọng mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng.

Dương Chu liền gọi môn sinh đến và dặn: Các con nhớ ghi lấy bài học này. Giỏi hay đẹp mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi và đẹp thì đi đâu mà chẳng được người ta yêu mến, tôn trọng.

Cũng vậy, trong Tin Mừng hôm nay, nhân việc Chúa Giêsu thấy “một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác”, Người đã dạy chúng ta bài học khiêm nhường qua dụ ngôn người Pharisiêu và người thu thuế.

Hai người cùng lên đền thờ và dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện cá nhân. Người Pharisiêu nhìn mình, nhìn những công trạng, những việc làm của mình và tự mãn. Anh ta chỉ thấy đó là công sức của mình và cho là đã đủ, đã tốt. Anh ta như chiếc bình đầy kiêu ngạo do thổi phồng mình lên! Còn người thu thuế nhìn mình, thấy mình tội lỗi, bất xứng! Anh không dám ngước mắt nhìn lên Thiên Chúa nhưng chỉ biết đấm ngực thống hối. Anh như chiếc bình rỗng, chỉ chờ mong ân huệ và lòng xót thương của Chúa tuôn đổ vào để tha thứ và thánh hóa anh nên công chính. Anh cầu nguyện với lòng thành khẩn “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”, như người khó nghèo cầu nguyện trong cơn quẫn bách “Lạy Chúa, xin lắng tai và đáp lời con, vì thân con nghèo hèn túng quẫn.”(Tv 85,1).

Thiên Chúa lắng tai nghe lời của kẻ nghèo hèn dâng lên Ngài với lòng khiêm nhượng, nhìn nhận, và xưng thú tội lỗi của mình, vì “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường.”(Gc 4,6) Thiên Chúa-Đấng giàu lòng thương xót chỉ lắng tai nghe lời kẻ cầu khẩn lòng thương xót. Ngài không nghe những lời của kẻ nâng mình lên, tự phụ, cậy sức mình, nghĩ mình chẳng còn thiếu những việc tốt lành nào mà không làm.

Người Pharisiêu đã thực hiện những việc đạo đức, ăn chay, dâng cúng vào nhà thờ hay không làm điều xấu. Điều đó thật tốt và đáng noi theo. Thế nhưng, anh ta tự cho mình là công chính nhờ những việc anh ta làm, kể lể trước Thiên Chúa và so sánh, khinh chê người khác không tốt như mình “Tạ ơn Chúa vì con không như tên thu thuế kia…” Người ta được nên công chính không phải do việc làm mà do lòng tin và ân sủng của Chúa, như lời thánh Phaolô nói “… Người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính.”(Rm 4,4-5)

Đứng trước Thiên Chúa, con người chúng ta chỉ là những tội nhân khốn khổ nghèo hèn. Ta phải biết chân nhận thân phận con người đầy bất toàn, giới hạn và yếu đuối. Ta làm được gì cũng là nhờ ân sủng và sức mạnh từ Chúa, như lời thánh Phaolô khẳng định: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” (1Cr 4,7) Vì thế, như anh thu thuế, chúng ta hãy biết nhìn nhận con người thật của mình, cầu nguyện với lòng khiêm nhường sám hối, cậy dựa vào lòng thương xót và kho tàng ân sủng của Thiên Chúa “Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây… cho đến khi Đấng Tối Cao đoái nhìn” (Hc 35,17-18) Chắc chắn lời cầu nguyện khiêm nhường của chúng ta sẽ được Chúa lắng nghe và nhậm lời, vì Người thấu suốt những đau khổ nơi tâm hồn ta.

Qua dụ ngôn này, chắc hẳn Chúa rất muốn nói với chính chúng ta, cả những mục tử và từng Kitô hữu trong Hội Thánh. Thiên Chúa, Đấng Cao Cả, Chí Thánh; đến trước Ngài, chúng ta trần trụi, ô nhơ nên thái độ khiêm nhường và đấm ngực xưng thú tội lỗi phải là thái độ của mỗi Kitô hữu. Trong cầu nguyện hay nơi cuộc sống, người công chính thật thì chẳng bao giờ khoe khoang, nâng mình lên và chê bai người khác. Người thánh thiện thật thì mọi cử chỉ, lời nói, hành động đều mang đậm nét khiêm tốn, tôn trọng và nâng người khác lên. Trái lại, trong đời sống cộng đoàn giáo xứ, chúng ta thường thấy có những người mãi không lọt tai lời khiển trách nặng nề của Chúa với người Pharisiêu. Họ phô trương ngay cả những thực hành đạo đức như dâng lễ, cầu nguyện, ăn chay, bố thí… trước mặt thiên hạ. Họ chê bai người khác như để đạp lên người cho mình cao hơn.

“Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” Ước mong sao Lời Chúa hôm nay thấm đẫm trong mỗi chúng ta. Xin Tình yêu và ân sủng Chúa biến đổi chúng ta trở nên khiêm nhường, giúp chúng ta thật lòng thống hối về tất cả những lỗi phạm, kiêu căng tự phụ trong đời sống đạo, để rồi ta biết sống khiêm hạ trước Chúa và anh chị em. Có như thế, ta mới trở nên con cái của Cha và ngày càng nên giống Cha chúng ta là Đấng hoàn thiện.

Lạy Thiên Chúa, chúng con đang ở trước nhan Ngài, xin giúp chúng con nhận biết những yếu hèn và tội lỗi của chúng con. Lạy Chúa Giêsu, Con Yêu Dấu của Chúa Cha, xin thương xót chúng con! Lạy Chúa Kitô, Chúa đã mặc lấy xác phàm để cảm thấu thân phận mỏng dòn của chúng con, xin thương xót chúng con! Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chiến thắng sự dữ và tử thần, xin thương xót chúng con!

16. Người tín hữu

Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đưa ra hai mẫu người, đó là ông biệt phái và người thu thuế. Còn người tín hữu chúng ta thì sao?

Chúng ta thường có khuynh hướng tự liệt mình vào hạng người khá nhất, chúng ta không phải là những kẻ bết bát như anh chàng thu thuế. Tuy nhiên, người thu thuế, không có công trạng gì nhưng biết quỳ gối trước mặt Thiên Chúa, biết tin tưởng vào lòng nhân từ của Ngài, thì đã được tha thứ và trở nên công chính. Còn lời cầu của ông biệt phái thì lại bị khước từ.

Tin vào Chúa là ơn huệ trọng đại, được làm người kitô hữu là một quà tặng quý giá. Sống như Đức Kitô là một lời mời gọi tha thiết. Tuy nhiên chúng ta cần phải lưu ý: Đức tin là hồng ân vô cùng lớn lao, nhưng lại không lệ thuộc vào công trạng của riêng mình. Thiên Chúa không dựa vào cấp bậc xã hội, vốn liếng văn hoá hay nòi giống chủng tộc mà đánh giá con người. Trái lại Ngài thường tỏ lộ cho những người hèn mọn, Ngài thường yêu thương những người khiêm nhu. Trong khi đó, Ngài lại thường hạ bệ những kẻ giàu có, quyền thế của trần gian.

Lòng khiêm nhường là dấu chứng trung thực nhất của đặc ân Kitô giáo như lời thánh Augustinô: Anh em có gì mà không phải là đã được lãnh nhận. Vậy tại sao chúng ta lại có thái độ như thể đức tin là một cái gì thuộc quyền sở hữu của chúng ta? Tại sao chúng ta chỉ biết xét đoán những người không nghĩ và không sống như chúng ta? Là người Kitô hữu, dù nghèo nàn, nhưng chúng ta đã trở nên giàu có nhờ Đấng đấng cho chúng ta được lãnh nhận tất cả. Vì thế chúng ta có bổn phận phải chuyển ơn Chúa đến với người khác. Đó là sứ mạng truyền giáo.

Truyền giáo theo tôi nghĩ không phải là một sự tuyên truyền rầm rộ về tôn giáo như người ta thường quảng cáo sản phẩm để kinh doanh, nhưng là làm chứng về Tin Mừng mà Thiên Chúa đã trao ban cho con người. Tin Mừng ấy chính là Đức Kitô. Chúng ta là những mảnh gương nhỏ phản chiếu trung thực ánh sáng mặt trời là Đức Kitô, cho dù những mảnh gương ấy thật giòn mỏng và dễ vỡ. Bao giờ chúng ta xác tín được như người thu thuế trong Tin Mừng rằng tình yêu của Thiên Chúa không phải là một cái gì chúng ta chiếm đoạt được, nhưng là một cái gì chúng ta lãnh nhận, lúc đó chúng ta sẽ hiểu vì sao Thiên Chúa ưu đãi kẻ nghèo túng là kẻ không có gì để kể công, để tự phụ mà chỉ tin vào tình thương của Ngài.

Là người kitô hữu chúng ta được ưu đãi không phải để cho mình nhưng để cho Thiên Chúa được vinh quang và người khác được cứu độ bằng sự cộng tác của chúng ta vào tình thương của Chúa.

17. Chúa Nhật 30 Thường Niên– Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 30 Thường Niên Năm C ca ngợi tấm lòng khiêm hạ trong cầu nguyện.

Hc 35: 15b-17, 20-22a

Bài Đọc I, trích từ sách Huấn Ca của hiền nhân Si-rác, ca ngợi lời cầu nguyện của những người khiêm hạ và những người nghèo; lời cầu nguyện của họ được Chúa lắng nghe và đón nhận.

2Tm 4: 6-8, 16-18

Những lời vĩnh biệt của thánh Phao-lô là bài ca khải hoàn và tâm tình cảm tạ tri ân. Lời cầu nguyện sau cùng của thánh nhân là chúc tụng Thiên Chúa.

Lc 18: 9-14

Tin Mừng Lu-ca thuật lại dụ ngôn nổi tiếng về người Pha-ri-sêu và người thu thuế. Người Pha-ri-sêu cầu nguyện với thái độ tự mãn; còn người thu thuế cầu nguyện với tấm lòng khiêm hạ, ông ta nhận ra mình là tội nhân: lời cầu nguyện này được Chúa đoái thương và ban ơn công chính hóa: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi”.

BÀI ĐỌC I (Hc 35: 15b-17, 20-22a)

Ông Si-rác là một hiền nhân Do thái sống vào khoảng năm 200 trước Công Nguyên. Vào thời kỳ này, kể từ sau cuộc chinh phục của đại đế A-lê-xan-đê, nền văn hóa Hy-lạp đã ảnh hưởng đến tận miền Pa-lét-tin. Giới quý tộc và tư tế Giê-ru-sa-lem đã mở rộng vòng tay đón nhận văn hóa Hy-lạp. Ông Si-rác không ác cảm với nền văn hóa này, nếu như Do thái giáo không đánh mất đi căn tính của mình. Chính vì để bảo vệ những giá trị truyền thống của cha ông mà ông đã soạn thảo tác phẩm của mình. Ông tỏ ra là người bênh vực nhiệt thành Lề Luật, nền tảng cốt yếu của Do thái giáo, nhưng là Lề Luật mà ở đó những yêu sách luân lý (công bình, đức hạnh, tình thương, vân vân) cũng phải đòi buộc tuân giữ. Tác phẩm của Si-rác bộc lộ tâm tình tôn giáo tinh tế và bày tỏ nỗi bận lòng đến đức hạnh cá nhân với những điểm nhấn mới.

1. Cách thức phụng tự làm đẹp lòng Thiên Chúa

Đoạn văn hôm nay được trích từ một trong những chương tiêu biểu nhất của sách Huấn Ca, chương 35, một trong những đỉnh cao của tác phẩm – ở đó tác giả định nghĩa phẩm chất của việc phụng tự chân thật được Thiên Chúa đoái thương chấp nhận:

“Từ bỏ gian tà thì đẹp lòng Đức Chúa,

chấm dứt bất công là dâng lễ đền tội” (35: 3)

hay:

 “Đừng hối lộ, Người chẳng nhận đâu.

Đừng ỷ vào hy lễ bất chính.

Vì Đức Chúa là Đấng xét xử,

Người chẳng thiên vị ai.

Người không vị nể mà làm hại kẻ nghèo hèn,

nhưng nghe lời kêu xin của người bị áp bức” (35: 11-13).

2. Lời cầu nguyện của những người khiêm hạ

Người nghèo hèn trong xứ, kẻ bị áp bức, cô nhi quả phụ đó là tất cả những người mà Cựu Ước gọi là “những người nghèo của Đức Chúa”, những người không có của cải nào khác ngoài một lòng tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa và gặp thấy ở nơi Ngài là Đấng bênh vực họ:

“Lời cầu nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm.

Lời nguyện chưa tới đích, họ chưa được an lòng.

Họ sẽ không rời đi bao lâu Đấng Tối Cao chưa đoái nhìn,

chưa xét xử cho người chính trực và thi hành công lý” (Hc 35: 17-18).

Lòng kính trọng mà ông Si-rác dành cho những người phận nhỏ này xem ra rập theo khuôn mẫu của truyền thống, như chúng ta đọc thấy trong các thánh vịnh, tại các ngôn sứ. Như chúng ta biết, lời cầu nguyện chiếm lấy một chỗ quan trọng trong tác phẩm của bậc hiền nhân này. Ông ca ngợi lời cầu nguyện hết lời. Ông dừng lại những luận bàn của mình để sáng tác lời cầu nguyện của riêng mình. Ông đã thích cầu nguyện từ thời thơ ấu; chính nhờ cầu nguyện mà ông đã gặp thấy sự khôn ngoan.

Ông Si-rác đưa những người nghèo và những kẻ bất hạnh ra làm mẫu gương, không vì cảm thương số phận của họ cho bằng ca ngợi giá trị lời cầu nguyện của họ. Lời cầu nguyện của họ chỉ là lời cầu nguyện đơn thuần, trơ trụi, không có hiến lễ ngoạn mục nào đi kèm theo. Vì thế, lời cầu nguyện của họ chạm đến tấm lòng của Thiên Chúa, động lòng trắc ẩn của Ngài.

BÀI ĐỌC II (2Tm 4: 6-9, 16-18)

Đoạn cuối thư thứ hai gửi ông Ti-mô-thê là bản văn cảm động nhất trong số các thư của thánh Phao-lô. Đây là những lời trăn trối sau cùng của người sắp chờ đợi nhận lãnh phúc tử đạo, ấy vậy, những lời vĩnh biệt này lại vang lên khúc ca khải hoàn.

Thánh Phao-lô khảo sát hiện tại một cách nghiêm túc: thánh nhân sắp đổ máu ra làm của lễ. Thánh nhân khảo sát quá khứ với sự sáng suốt: ngài đã kiên vững trong đức tin và đã hoàn thành sứ mạng mà Ngài đã chịu thương chịu khó cho đến cùng. Thánh nhân khảo sát tương lai với trọn niềm tin tưởng và phó thác vào sự công chính của Thiên Chúa và vào lời hứa vinh quang bất diệt của Nước Trời.

1. Hiến Lễ

Trong các hy lễ của người Do thái cũng như của dân ngoại, người ta đổ dầu hay rượu trên tế vật trước khi hiến tế, như trong Xh 29: 40 hay trong Ds 28: 7. Thánh Phao-lô dâng hiến đời mình thành hy lễ và máu của mình sẽ đổ ra làm rượu tế.

Trước đây, khi còn bị giam cầm có thể ở Ê-phê-xô, và không biết số phận dành cho ngài, thánh nhân gợi lên cho các tín hữu Phi-líp-phê, theo cùng những từ ngữ, tình huống là ngài có thể bị án tử: “Nhưng nếu tôi phải đổ máu ra hợp làm một với hy lễ mà anh em lấy đức tin dâng lên Chúa, thì tôi vui mừng và cùng chia sẻ niềm vui với tất cả anh em…” (Pl 2: 17).

Thánh Phao-lô sẽ đổ máu mình, nhưng từ lâu ngài đã dâng hiến đời mình làm hy lễ rồi, như ngài đã khuyên nhủ mọi người Ki-tô hữu: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Rm 12: 1).

2. Bài ca khải hoàn

Phúc tử đạo này thánh nhân chờ đợi một cách nghiêm túc sẽ là giờ ngài phải ra đi. Thánh nhân gợi ra cái chết của ngài với cung điệu khải hoàn, như người lính chiến đã chiến thắng quân thù, như vận động viên đã dành được vòng nguyệt quế, như người Ki-tô hữu vẫn một mực trung tín cho đến hơi thở cuối cùng: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính”.

Thánh Phao-lô nhắm đến việc Thiên Chúa sẽ trao phần thưởng cho ngài, vào Ngày Quanh Lâm, tức là vào ngày phán xét, và cùng với ngài, cho tất cả những ai đã hết lòng mong đợi Triều Đại Thiên Chúa. Ở phần cuối đoạn văn này, thánh nhân suy nghĩ thêm nữa đến số phận của chính ngài: “Chúa sẽ cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời”.

3. Tâm tình cảm tạ và tri ân

Phần thứ hai của đoạn trích hôm nay mang giọng điệu đượm buồn. Thánh Phao-lô chứng thực rằng các bạn đồng hành xưa kia đã bỏ mặc thánh nhân. Không ai trong họ, kể cả các Ki-tô hữu Rô-ma, đến bênh vực thánh nhân, vào lúc thánh nhân bị điệu ra trước tòa lần đầu tiên. Như Chúa Ki-tô trong cuộc khổ nạn của Ngài, thánh nhân bị bỏ mặc; cũng như Chúa Ki-tô, thánh nhân tha thứ: “Xin Chúa đừng chấp họ”. Hành vi cảm tạ tri ân theo liền sau những giọng điệu buồn phiền. Thánh nhân trông cậy mọi sự vào Chúa. Trong suốt sứ vụ tông đồ của ngài, thánh nhân đã nương tựa vào Chúa. Thánh nhân đã thoát khỏi mọi nanh vuốt sư tử nhờ Chúa bảo vệ che chở; ngài đặt trọn niềm tin tưởng vào ơn phù trợ của Chúa trong những giờ phút sắp đến. Và rồi thánh nhân xướng lên bài thánh thi của những người được tuyển chọn: “Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời”.

TIN MỪNG (Lc 18: 9-14)

Đây là dụ ngôn riêng của thánh Lu-ca, một hạt ngọc được đẽo gọt rất tinh xảo. Thánh Lu-ca họa nên chân dung người Pha-ri-sêu vênh vang tự đắc, còn thánh Mát-thêu thì đã kích kịch liệt hạng người này.

Người Pha-ri-sêu, theo nguyên ngữ Do thái có nghĩa “Biệt Phái”, là một bè phái của những người Do thái trí thức và chính thống. Họ tự tách biệt mình khỏi đám đông bởi kiến thức Kinh Thánh và việc tuân giữ Lề Luật nghiêm nhặt của họ. Tuy nhiên, họ biết kết hợp duy luật với tinh thần cởi mở, chấp nhận những sự phong phú của truyền khẩu (trái với nhóm Xa-đốc). Theo thánh Lu-ca, vài người Pha-ri-sêu, thậm chí những bậc vị vọng, đã mời Chúa Giê-su dùng bữa tại nhà họ. Sự kiện này phù hợp với thực tại lịch sử, được sách Công Vụ củng cố khi tường thuật việc một người Pha-ri-sêu tên là Ga-ma-li-ên, lên tiếng can thiệp cho các tông đồ trong phiên xử của Thượng Hội Đồng (Cv 5: 34-39).

1. Lời cầu nguyện của người Pha-ri-sêu

 “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác… Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Người Pha-ri-sêu này tiêu biểu những người Pha-ri-sêu tự cho mình là đạo đức bằng việc tuân giữ nghiêm nhặt chẳng những những đòi buộc của Lề Luật, thậm chí còn hơn thế nữa. Ví dụ như Lề Luật chỉ buộc mỗi năm ăn chay chỉ một ngày, vào ngày lễ Xá Tội, họ còn sốt sáng ăn chay một tuần hai ngày vào ngày thứ ba và thứ năm. Vì thế, họ tự xem mình là người công chính và coi thường những người khác.

Người Pha-ri-sêu mà dụ ngôn miêu tả chân dung của ông ở nơi lời cầu nguyện này rất tương xứng với những gì mà thánh Phao-lô nói về con người Pha-ri-sêu xưa kia của ngài và con người Ki-tô hữu ngày nay của thánh nhân: “Nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi. Nhưng những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa của tôi. Vì Người mà tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Ki-tô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Pl 3: 6-8).

2. Lời cầu nguyện của người thu thuế

Những người thu thuế là những viên chức nhà nước được chính quyền Rô-ma ủy nhiệm thu thuế dân Do thái ở miền Pa-lét-tin. Họ bị thù ghét vì họ cộng tác với chính quyền chiếm đóng và bị đối xử như kẻ trộm cướp vì người ta nghi ngờ rằng họ làm giàu nhờ lạm dụng chức vụ của mình.

Dụ ngôn đưa ra sân khấu một người trong bọn họ. Lời cầu nguyện của người thu thuế này thì trái ngược với lời cầu nguyện của người Pha-ri-sêu về dáng điệu bên ngoài lẫn tâm tình bên trong. Anh ta không dám tiến lại gần, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời. Và lời cầu nguyện của anh chỉ vỏn vẹn một câu, nhưng đầy lòng khiêm hạ: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Người thu thuế này, chắc hẳn là một người giàu có như bao người thu thuế khác, lại là một người có tâm hồn khó nghèo, những người mà Chúa lắng nghe những lời cầu nguyện của họ.

3. Lời kết

Lời kết đặt câu chuyện vào bối cảnh thuần túy của sách Tin Mừng, tức tôn vinh đức khiêm hạ, như Đức Ma-ri-a đã cất tiếng ca trong Bài Ca “Ngợi Khen” (Mangificat):

“Chúa hạ bệ những ai quyền thế,

Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1: 52).

Lời kết này cũng theo chiều hướng chủ đề của thánh Phao-lô về ơn công chính hóa nhờ Đức Tin chứ không nhờ Lề Luật. Tuy nhiên, ở đây, Chúa Giê-su không đối lập Lề Luật với Đức Tin (người Pha-ri-sêu là một người tin); nhưng Ngài đối lập tính tự mãn của kẻ lấy mình làm chuẩn mực đạo đức với đức khiêm hạ của người biết nhận ra những bất toàn của mình và cầu xin lòng xót thương của Chúa: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi”.

Lời cầu nguyện đích thật là một hành vi đầy khiêm hạ. Cầu nguyện, chính là nhận ra thân phận yếu đuối của con người và đức hạnh mỏng dòn của con người để mà đặt trọn niềm tin, cậy và mến vào Chúa.

18. Hai con người–Hai thái độ

Chúa Giêsu vẫn hết sức uyển chuyển, hết sức bình dị để gửi đến những bài học hết sức gần gũi cho những người Ngài gặp gỡ.

Hôm nay, chúng ta bắt gặp hình ảnh của hai con người và hai con người này ở hai hoàn cảnh khác nhau. Một người thuộc nhóm Pharisêu và nhóm kia là người thuế. Theo quan niệm và lập trường hết sức bình thường của người Do Thái thời bấy giờ thì người Pharisêu dù muốn dù không, dù nói gì nói thì họ vẫn đạo đức hơn những người khác bởi lối sống dù là bên ngoài của họ. Ngược lại, chẳng ai tôn trọng người thu thuế cả vì mãi mãi người thu thuế là người xấu, người tiếp tay với ngoại bang để lấy thuế của dân. Không phải người thua thuế thời đó bị người ta chê bai coi khinh nhưng ngày hôm nay người thu thuế cũng bị người ta coi thường và cho là người tội lỗi.

Pharisêu – thu thuế: hai hạng người nầy không khác biệt xét theo giai cấp xã hội hoặc tài sản. Lu ca đã nói rằng người Pha ri sêu thích tiền bạc (16,14) và chúng ta biết rằng người thu thuế thường làm giàu bằng nghề của mình (x. Lê vi 5,39; và ông Gia kêu: 19,2). Tự thân, người Pha ri sêu gần với Thiên Chúa hơn vì tuân giữ lề luật, còn người thu thuế làm việc dưới sự chỉ huy của giới cai trị; đó là tội theo lề luật. Trong thực tế, theo ý kiến chung, thì người Pharisêu được xếp vào loại công chính và thu thuế vào loại tội nhân.

Hai con người ngày hôm nay, theo như lời Chúa Giêsu, họ lên Đền Thờ cầu nguyện. Dĩ nhiên là lên trước mặt Thiên Chúa thì phải bày tỏ lòng mình để Thiên Chúa biết.

Người Pharisêu: lời cầu nguyện của người Pha ri sêu dưới dạng tạ ơn, không khác gì một lời nói tự cao tự đắc về chính mình. Ông ta hài lòng về chính mình và kể ra những công nghiệp mình đã đạt được. Ông đứng riêng ra để cầu nguyện; đó là điều phù hợp với lí tưởng của ông ta. Lời cầu nguyện của ông ta phân cách, tách biệt khỏi cộng đòan; trái lại lời cầu nguyện mà Chúa Giê su dạy tìm cách hòa giải, liên kết (11, 2-4).

Rất thật thà, rất minh bạch, rất rõ ràng, người Pharisêu không ngần ngại: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Anh ta còn hơn cả cái thật thà vốn có trong anh nữa mà anh còn tốt bụng nữa. Tốt bụng đến độ chỉ cho Chúa biết luôn cả cai tội của anh chàng thu thuế đứng đàng xa xa vì cảm thấy mình có tội. Nếu bình thường như người thường thì Thiên Chúa sẽ thích thú lắm bởi vì không đánh mà khai, không cần tìm hiểu nhưng có người tố tội người khác rồi.

Chúa Giêsu cho chúng ta thấy chân dung của người Pharisêu. Đó là một người có một lối sống hoàn toàn đúng với những gì người ta đồn thổi về họ. Ông trung thành với lề luật; ông ăn chay mỗi tuần hai lần. Ông làm việc bố thí. Tất cả những gì ông ta nói trong lời cầu nguyện, ông đã thực sự thi hành và ông hãnh diện về điều đó. Nhưng có một vấn đề nơi ông, đó là lời ông nói không thực sự là một lời cầu nguyện vì chứa đầy sự kiêu căng. Ông chỉ nhìn ngắm chính bản thân thay vì nhìn ngắm Thiên Chúa. Ông không cần gì cả, vì điều duy nhất mà ông quan tâm ấy là kể lể các công nghiệp của mình.

Tiếp đến, Chúa Giêsu vẽ nên hình ảnh của người thu thuế. Người thu thuế thuộc tầng lớp bị người đời căm ghét. Họ là “bọn người tiếp tay cho đế quốc La mã”. Họ phục vụ cho đế quốc thống trị trong một môi trường rất nhạy cảm là thu thuế. Những người lãnh đạo ấn định số tiền mà họ phải nộp. Họ phải ứng trước cho cấp trên rồi sau đó bóc lột của dân nghèo. Vì thế khi anh chàng thu thuế cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con là người tội lỗi”, ông bộc lộ đúng sự thật của đời mình. Và chính vì cái sự thật đó mà Thiên Chúa đã nâng ông lên.

Người thu thuế không ngần ngại đứng đàng xa bởi vì thấy mìn là người tội lỗi. Bi đát đến độ không dám ngước mắt nhìn lên trời nữa và chỉ biết đấm ngực thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.

Lời kinh của người thu thuế là lời kinh của người tự nhận mình là người tội lỗi. Anh ta ý thức mình không yêu thương đủ hoặc yêu thương không đúng. Anh ta nhớ một vài trang sách cuộc đời mình không được sáng sủa.

Anh ta nhìn thấy cái đà trong mắt mình lớn đến nỗi không thể thấy cái rác nhỏ xíu trong mắt anh em, vì anh biết rằng sự tha thứ chỉ đến từ Thiên Chúa mà thôi. Lời kinh ấy cho phép người tội lỗi tiếp nhận tình yêu Thiên Chúa. Bài Tin mừng nói với chúng ta rằng người thu thuế đã trở nên công chính. Trong Kinh Thánh, từ ấy không có nghĩa là “hoàn hảo”. Người công chính là người có thể khép mình theo Thiên Chúa trong một tương quan tin tưởng tuyệt đối, tiếp nhận thánh ý Chúa và dùng mọi phương tiện để sống thánh ý đó. Người công chính còn là người để cho Thiên Chúa công chính hóa thay vì tự công chính hóa bản thân mình.

Người thu thuế: anh ta đến đền thờ không mang theo công nghiệp nào cả, chỉ mang theo tội lỗi của mình mà thôi. Ông đặt mình trước mặt Thiên Chúa với tâm hồn sám hối (x.5,8;7,36-38; 15,19; 19,8; 23,41-42). Ông khẩn cầu ơn tha thứ, tin vào một Thiên Chúa cứu độ, sẽ đổ tràn ơn phúc của Người xuống nơi có nhiều tội lỗi (Rm 5, 20).

Quả thật, tội thật với cái anh chàng thu thế như thế này! Phải nói rằng anh ta khá can đảm vì cũng đã bước chân đến Đền Thờ nhưng có điều anh cảm thấy mình tội lỗi.

Căn cốt lời Chúa dạy hôm nay đó là được nên công chính. Được nên công chính: động từ này ở thể bị động và ở quá khứ có nghĩa là Thiên Chúa đã công chính hóa người thu thuế và đã cho thầy lòng thương xót của Ngài.

“Khi trở về nhà, ông là người được công chính hóa”. Đó chính là điều mà Tin Mừng mời gọi chúng ta hôm nay. Thành tâm nhận ra sự yếu kém của mình trước mặt Chúa đó là lời cầu nguyện đích thực được Thiên Chúa yêu thích.

Ai tôn mình lên: x. 14,11 (Ed 21,31). Sự đảo ngược tình thế nầy không phải là một sự thay đổi thất thường, hay là một cách trả thù của Thiên Chúa. Nhưng nó vạch rõ chân lý: người tự tôn thì luôn ảo tưởng về chính mình; trái lại, ai hạ mình xuống thì cảm nhận được sự nghèo hèn của mình và dám tin rằng Thiên Chúa có thể và muốn nâng mình lên.

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đứng về phía nào? Có lúc chúng ta là người Pha ri sêu mỗi khi chúng ta làm điều mà chúng ta thường chê trách người khác. Chỉ trích mà không bao giờ đề ra những giải quyết xây dựng thực tiễn thì luôn dễ. Người Pha ri sêu là người cho rằng mình được Thánh Thần soi sáng hơn người khác, nhưng điều trầm trọng hơn là sử dụng các câu Kinh thánh để tố cáo sự giả hình của kẻ khác. Thái độ ấy là một sỉ nhục Thiên Chúa và tình yêu của Người. Tất cả chúng ta đều phải cầu xin Ngài tha thứ sự kiêu căng cũng như thái độ tự phụ của chúng ta, cách chúng ta muốn dạy người khác bằng cách làm nhục họ.

Lý tưởng là hai người đối lập nhau ấy cùng hòa hợp với nhau để dâng lời kinh chung của họ lên Thiên Chúa: “Xin thương xót chúng con là những người tội lỗi. Xin thương xót chúng con vì chúng con đã làm điều sai trái cho người khác. Xin thương xót chúng con vì tưởng rằng mình hơn người khác. Xin thương xót chúng con khi chúng con giận nhau..”. Và Chúa sẽ trả lời: “Khi hai hay ba người hợp nhau vì danh Ta, có Ta ở giữa họ”. Chính lời kinh chung đó cho phép chúng ta thực sự đến gần Thiên Chúa và cũng đến gần người khác. Vì Chúa hiện diện để nói với chúng ta rằng Người được nhận diện nơi từng người trong họ. Và Người muốn dạy chúng ta nhìn họ và yêu mến họ như anh chị em chúng ta.

Ngày mỗi ngày chúng ta vẫn dâng lời cầu nguyện. Chúng ta được mời gọi kết hợp lời cầu nguyện của chúng ta với lời cầu nguyện của tất cả những người khác và của tất cả mọi người ki tô hữu trên thế giới cử hành ngày của Chúa. Ước mong sao sau khi cầu nguyện chúng ta trở được công chính hóa.

19. Lòng khiêm nhường sám hối–Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới ngập tràn những hàng giả, người giả. Cái giả và cái thực luôn tồn tại song hành bên nhau. Một thế giới “vàng thau lẫn lộn” khó mà phân biệt kẻ tốt người xấu. Có những người bề ngoài sang trọng: có nhà cao cửa rộng, có địa vị, có quyền lực nhưng lại lừa đảo, tham nhũng và tham lam ích kỷ. Có những con người bề ngoài thật bần cùng nhưng tấm lòng lại chân thành và vị tha. Có những người giả nhân giả nghĩa nhưng để hại ngừơi hại đời. Có những người bộc trực thẳng ngay nhưng luôn sẵn lòng giúp người giúp đời. Cuộc đời dường như luôn tồn tại hai loại người trái ngược nhau. Kẻ tốt người xấu. Người hiền kẻ dữ luôn song hành tạo nên một thế giới đầy những trái ngang, bất công và phi lý. Kẻ dữ luôn ngạo mạn khinh người còn người hiền đức luôn khiêm tốn hoà hợp. Kẻ ngay lành thường thua thiệt. Người ác đức lại phủ phê no đầy.

Lời Chúa hôm nay cũng diễn tả về hai cách sống của hai loại người. Người biệt phái và kẻ thu thuế. Người biệt phái thi huênh hoang tự đắc, người thu thuế thì khiêm tốn ăn năn. Người biệt phái luôn khoe khoang công đức của mình còn người thu thuế thì thống hối về qúa khứ lỗi lầm của mình. Người biệt phái tự cho mình đạo đức nên tự cho mình quyền dòm ngó kết án anh em. Người thu thuế cúi mình khiêm cung và sám hối. Xem ra kẻ kiêu căng tự mãn luôn cho mình là nhất và thường coi khinh anh em của mình. Còn người khiêm cung luôn sống hoà nhã và gần gũi với mọi người. Bởi lẽ họ không bao giờ kết án và coi thường anh em.

Để có một hành vi sám hối cần phải biết nhìn lại chính mình. Nhìn lại trong khiêm tốn để thấy con người bất toàn của mình. Nhìn lại với lòng chân thành để thấy những giới hạn của mình. Có nhìn lại chính mình mới thấy cái sai để sửa, cái tốt để thăng tiến. Có nhìn lại chính mình mới có cái nhìn đúng về mình để sống đúng với con người thật của mình.

Vào buổi tối nọ, có người đàn bà phải chờ đợi chuyến bay mất nhiều thời giờ tại một phi trường Hoa Kỳ.

Bà rảo qua các sạp báo trong phi trường, mua một cuốn sách và một gói bánh, rồi tìm chỗ yên tĩnh ngồi đọc sách.

Tuy cắm cúi đọc sách, người đàn bà cũng nhận ra người đàn ông đang ngồi bên cạnh, ngoài cái đầu hói ra chẳng có gì gây sự chú ý. Tuy nhiên, có một điều khiến bà khó chịu, là chốc chốc người đàn ông lại đưa tay vào gói bánh và kéo ra một hai cái. Tuy khó chịu thật, nhưng bà cố tình làm như không biết để tránh người đàn ông khỏi ngượng. Bà cố gắng quên sự hiện diện của người đàn ông không mấy biết điều ấy.

Thỉnh thoảng, bà đưa tay vào gói bánh lấy ra một hai cái, và người đàn ông cũng làm theo. Cuối cùng, gói bánh chỉ còn vỏn vẹn một cái, bà chờ xem người đàn ông mất dạy này sẽ làm gì. Người đàn ông liền mỉm cười và lấy chiếc bánh cuối cùng bẻ ra làm hai và trao cho bà một nửa, nửa kia ông cho vào miệng. Người đàn bà nghĩ đây quả là người vô liêm sỉ, đã không biết xấu hổ thì chớ lại cũng chẳng nói một lời cảm ơn.

Bà thở ra nhẹ nhõm khi chuyến bay được loan báo. Bà thu dọn hành lý và đi về phía cổng lên máy bay, nhưng bà thật sững sờ vì cuốn sách và gói bánh vẫn còn nguyên vẹn bên cạnh chỗ bà ngồi. Như vậy, cuốn sách bà đã đọc khi chờ máy bay là của người đàn ông, và gói bánh bà dùng cũng là của ông ta. Quá trễ để nói lời xin lỗi, bà thở ra tự nhận rằng: Kẻ ăn cắp bánh, người vô liêm sỉ chính là bà.

Sở dĩ con người có thái độ bất khoan nhượng và thiếu cảm thông với người khác là vì họ không biết nhìn vào bản thân. Có lục soát lại hành lý, nghĩa là có nhìn lại chính mình, người đàn bà trong câu chuyện trên đây mới nhận ra lỗi lầm của mình, và thay đổi cái nhìn về người đàn ông.

Một trong những sứ điệp nền tảng của Kitô giáo chứa đựng trong lời kêu gọi của Chúa Giêsu:”Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Sự sám hối đòi phải có thái độ khiêm nhường. Chính sự khiêm nhường sẽ giúp chúng ta sống đúng với con người thật của mình. Sự khiêm nhường cũng giúp chúng ta không cậy dựa vào sức mình quá đáng nhưng biết cậy dựa vào ơn Chúa và sự trợ giúp của đồng loại để hoàn thiện mình mỗi ngày một tốt hơn.

Thế nhưng, thật đáng tiếc, con người thường che dấu yếu đuối của mình bằng những hình thức giả tạo bên ngoài. Có người tham ô nhưng vẫn tỏ ra mình liêm khiết. Có người lừa đảo lại hay làm từ thiện. Có người đầy đam mê tật xấu lại hay dạy đời… Thực ra, giá trị của con người là ở chỗ sống đúng với phận mình. Sống đúng với khả năng của mình mới được người khác yêu mến. Kẻ sống giả hình, sống hai mặt luôn bị người đời coi khinh và xa lánh. Và có lẽ, người đời càng coi khinh đối với những người không biết nhìn lại mình nên chỉ nhìn thấy tật xấu, tội lỗi của anh em. Họ sẽ bị người đời cười chê vì:

“Chân mình còn lấm bê bê

Lại cầm bó đuốc mà rê chân người”

Xin Chúa cho chúng ta biết khiêm tốn để nhận ra mình cũng đầy những thói hư tật xấu, để hiểu và thông cảm với anh em và để có thể cất lời ngợi khen Chúa là Đấng thánh, ngàn trùng chí thánh. Xin đừng vì những thói tự cao tự đại mà trở thành kẻ lừa dối Chúa và anh em. Amen.

20. Đối với Đức Giêsu, ai mới thực là công chính?–Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đang vẽ lên hai diện mạo đối chọi nhau hoàn toàn: “một người thuộc nhóm Biệt Phái / người kia làm nghề thu thuế’. Cả hai diện mạo này đều rất gần gũi và điển hình trong xã hội Do Thái thời bấy giờ: một thật tích cực đáng trọng và một thật tiêu cực đáng khinh. Nhưng chính kết luận của Người mới thực sự gậy kinh ngạc vì nó ngược hẳn với lối suy nghĩ thông thường vẫn được mọi người chấp nhận; và nếu như thế thì bài học Người muốn chuyển tải chắc hẳn phải quan trọng lắm đối với Tin Mừng mà Người đang ra công quảng bá. Và quả đúng như thế, vì nó liên quan tới khái niệm “công chính’, một khái niệm nền tảng của tất cả mọi trật tự xã hội và tôn giáo mọi thời.

Tất cả mọi xã hội loài người, kể cả các xã hội bán khai hơn hếtđều đề ra các tiểu chuận “công chính’ cho mình, thường thì các tiêu chuẩn này dựa trên nền luân lý và luật pháp được xã hội đó chấp nhận. Bất cứ ai giữ luân lý và luật pháp, hay duy trì trật tự mà xã hội đó đề ra, đều được coi là công chính, là lương thiện, là mẫu mực; còn ngược lại thì bị coi là thành phần bất lương, phản động, gây gương mù gương xấu. Ngay cả trong các tập thể tôn giáo, các cộng đoàn tu trì thì định luật trên vẫn cứ được áp dụng cách triệt để! Bất cứ xã hội nào thì cũng phân chia các phần tử của mình thành hai hạng: “công chính’ và “bất chính’, dựa theo tiêu chuẩn luật pháp. Đây quả là một phân biệt rất cần thiết cho mọi trật tự, cũng như cho sự tồn vong của xã hội đó!

Theo tiêu chuẩn này, xã hội Do Thái thời Đức Giêsu cũng có sự phân định rõ: hai hạng người được nêu lên đúng là tiêu biểu: Biệt Phái là những người, theo tiêu chuẩn luân lý và luật pháp Mô-sê, phải được coi là công chính nhất; còn bọn “thu thuế’, dựa trên cùng một tiêu chuẩn đó, rõ ràng là bất lương nhất. Như vậy người Biệt Phái, trong cái xã hội ông đang sống, tự coi mình – hay được người khác suy tôn – là công chính thì cũng chẳng có gì sai; và nếu ông có cho mình là hơn kẻ kia thì cũng hoàn toàn hợp lý thôi; “Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác”. Ngay giữa các người có đạo hay tu sĩ cũng chẳng như thế là gì! Trong Giáo Hội người ta coi người này là đạo đức, kẻ kia là tội lỗi, tùy thuộc vào người đó có giữ các phép đạo hay không. Trong cộng đoàn tu sĩ cũng thế, người ta phân biệc: tu sĩ tốt và tu sĩ xấu, từ đó điều chỉnh cách cư xử khen / chê, giữ thái độ trên / dưới, phản ứng trọng / khinh, thì cũng là điều đương nhiên thôi.

Thế nhưng, trong câu chuyện được kể, Đức Giêsu đã không đặt hai hạng người này trên bình diện xã hội, mà là trên diện Tin Mừng, tức là trước lối nhìn của Thiên Chúa; “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện…’. Cái sai của người Biệt Phái là ở chỗ: đứng trước Thiên Chúa mà ông vẫn cứ tiếp tục giữ thái độ xã hội. Còn người thu thuế thì khác; chính địa vị xã hội hèn kém (“Người thu thuế thì đứng ở đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời’) đã là cơ sở để ông có được tư thế “công chính’ trước mặt Thiên Chúa. Tư thế “công chính’ đối với Tin Mừng chính là một người có thể kêu lên: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi!” Hình như Đức Giêsu muốn khảng định rằng: bất luận tình trạng công chính xã hội của một người có là thế nào đi nữa, thì người đó vẫn có thể trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa, một khi biết nhìn nhận sự yếu hèn của mình và khiêm tốn khẩn cầu (hay tin tưởng vào) lòng thương xót Chúa, còn ai cứ khư khư tự tôn tự mãn về sự công chính xã hội của mình, để không cầu khẩn – đón nhận lòng thương xót, thì sẽ trở thành bất chính trước mặt Thiên Chúa; “Tôi nói cho các ông biết, người này, khi trở xuống mà về nhà thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không.” Khi nói câu này Đức Giêsu hầu như muốn khảng định: sự công chính theo luật pháp của con người không có mấy giá trị trước mặt Thiên Chúa; nắm giữ một nền luân lý cao đẹp tới đâu đi nữa, sẽ không bao giờ có thể là mục tiêu tối hậu của niềm tin Ki-tô hữu. Công chính đích thực trước mặt Thiên Chúa nhân ái lại rất đơn giản: chỉ cần khiêm tốn đón nhận tình yêu cứu độ. Điều này là một đòi hỏi chung cho tất cả mọi người, cho bất kỳ ai, kể cả các bậc thánh hiền đạo đức nhất. Vì trước mặt Thiên Chúa ngay cả các thánh cũng có thể lỗi phạm tới bẩy lần một ngày! Bình đẳng tuyệt đối của con người trước Thiên Chúa chính là ở đây: sang / hèn, cao / thấp (về chức tước hay sự kính nể của người đời), tốt / xấu, lương thiện / bất lương (trước mặt xã hội) đều không mấy quan trọng. Phương thế tối cần để đạt được sự công chính của Nước Trời chỉ là: khiêm hạ (con là kẻ tội lỗi, xin dủ lòng thương xót con!). Ai khiêm hạ cầu khẩn lòng thương xót, người đó sẽ được tình yêu Thiên Chúa nâng lên cao, được nên công chính; ngược lại kẻ tự tôn tự đại, cho dẫu có đạo đức thánh thiện (trước mặt con người) tới mấy, cũng sẽ không bao giờ được coi là công chính trước mặt Thiên Chúa. Quả thế: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.

Trong tư cách linh mục, có thể tôi là: đáng kính đáng nể trước mặt xã hội, nhưng trong tư cách Ki-tô hữu, làm sao tôi trở thành “công chính’ trước mặt Chúa đây? Thật là thiếu yếu việc tôi phải tìm ra đáp án cho vấn nạn này và sống nó cách trung thực.

Lạy Chúa, con cảm tạ ơn Chúa đã cho một Phê-rô, một Ma-đa-lê-na, một Mát-thêu, một tên gian phi thống hối, được trở nên công chính! Con cũng hằng được Chúa mời gọi chiêm ngưỡng sự công chính cao cả của Đức Ma-ri-a nơi cõi lòng khiêm cung sâu thẳm của người; xin hãy giúp con để, mỗi khi vì bất hạnh rơi vào vòng tội lỗi, con vẫn biết như thánh Âu-tinh coi đó là dịp hồng phúc để con trở nên công chính hơn trước mặt Chúa; chính vì nhờ đó con mới có thể khám phá sâu hơn lòng thương xót vô biên của Chúa. Amen.

21. Được nên công chính–Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

Trong văn mạch chung bàn về việc lại đến của Con Người, dụ ngôn người Pharisêô và người thu thuế không bàn đến sự kiên trì cầu nguyện như đoạn trước nữa (18,1-8), mặc dù có nói đến sự cầu nguyện của người thu thuế (18,13), mà thái độ nội tâm phải có để có thể đến với Thiên Chúa khi Nước của Người đến. Điều nầy liên kết đoạn nầy với đoạn kế tiếp, nói đến việc Chúa Giêsu muốn các trẻ nhỏ đến gần Người (18,15-17). Đoạn nầy được phân chia như sau: – Dẫn vào dụ ngôn và mục đích (c. 9); – Câu chuyện của người Pharisêô và thu thuế (c. 10-13); – Kết luận (c. 14). Chủ đề chính của đoạn là bàn về sự công chính (c. 9.11.14). Chữ “dikaios” “dikaioō” đóng khung đoạn nầy. Dụ ngôn trình bày hình ảnh của người Pharisêô tự cho mình không thuộc hạng những người bất chính, và người thu thuế nhìn nhận mình là người tội lỗi. Tuy nhiên, cuối cùng Chúa Giêsu cho thấy ai sẽ được Người tuyên bố là công chính.

Dẫn vào dụ ngôn và mục đích (c. 9)

Chúa Giêsu tiếp tục kể dụ ngôn, và lý do của dụ ngôn được nêu ra ngay từ đầu (x. 18,1; 19,11) là “nhắm vào”, pros, (x. 20,19) những người “tự tin là mình công chính và khinh miệt những người còn lại”. Đối tượng của dụ ngôn, được xác định và hạn chế, ám chỉ những người Pharisêô (x. 16,14-15). Một đàng họ lấy sự công chính như là nền tảng cho họ để tin vào chính mình; “hoti” dịch là “bởi vì”, sự công chính được xem như là sự kiện. Sự “công chính” nầy sẽ được hiểu như thế nào, và sẽ được kể ra trong lời của người Pharisêô (18,11-12). Động từ peithō, từ gốc có nghĩa là “buộc vào”. Động từ nầy, có epi theo sau, có nghĩa là “lệ thuộc”. Những người được nói đây lệ thuộc hay buộc mình vào chính bản thân họ, dựa trên sự công chính của họ. Khác với người thu thuế, dựa vào Thiên Chúa. Đàng khác, họ “khinh miệt những người còn lại” (c. 9b). Động từ “exoutheneō”, có nghĩa rất mạnh là “khinh miệt”, là xem người khác không ra chi, chế nhạo họ (x. 23,11) và loại bỏ họ (x. Cv 4,11). “Loipos”, những người còn lại. Như thế, dựa trên sự công chính, những người nầy đặt mình tách ra khỏi “những người còn lại”, và khinh miệt họ.

Dụ ngôn người Pharisêô và người thu thuế

Các câu 10-13 trình bày câu chuyện, ngắn gọn, đối xứng mà không cân bằng. Sau ghi nhận sự kiện chung là cả hai người lên đền thờ cầu nguyện (c. 10), Luca dành hai câu trình bày thái độ và những gì người Pharisêô nói về chính mình (cc. 11-12); trong khi về người thu thuế chỉ trong một câu (c. 13). Trái lại, trong câu kết luận, Luca chú tâm nhiều hơn trên người thu thuế (c. 14). Mục đích lên đền thờ là để cầu nguyện (x. 1,10; 2,37; Cv 3,1). Hành trình ngược lại là về nhà (c. 14a). Đền thờ là nơi dành cho mọi người đến để cầu nguyện và thờ phượng Thiên Chúa (2,27); nên không có phân biệt nào cả giữa hai người “một người là… người kia là”; họ chỉ khác nhau ở cuối dụ ngôn (c. 14). Tuy nhiên, đền thờ là nơi có tính xã hội, người Pharisêô cũng muốn tỏ vai trò và quyền hành của họ (x. 20,1); ở đây sự công chính của họ.

Người Pharisêô (cc. 11-12)

Về mỗi người, Luca trình bày tư thế khi cầu nguyện, thái độ và nội dung lời cầu nguyện của họ. Người Pharisêô đứng, histēmi. Động từ nầy chắc hẳn ám chỉ tư thế đứng thẳng, hướng về người đang đối thoại (x. 19,8). Đứng cầu nguyện là tư thế thường thấy giữa người do thái (1 Sam 1,26; 1 V 8,14, 22; Mt 6,5; Mc 11,25). Vì người thu thuế “đứng đàng xa” trong đền thờ, có nghĩa là người Pharisêô đứng phía trước. Khi cầu nguyện, ông kể lể rất dài (động từ ở thể quá khứ chưa hoàn thành). Ở đây có một khó khăn về bản văn: nếu pros heauton (c. 11a) đi theo động từ “đứng”, nó nghĩa là người Pharisêô “đứng riêng”, so sánh với người thu thuế đứng “đàng xa”. Nếu pros heauton đi theo động từ “cầu nguyện”, có nghĩa là người Pharisêô “tự nói với chính mình”. Tuy nhiên, điểm chung trong cả hai trường hợp là người Pharisêô tách mình ra khỏi người khác và cả Thiên Chúa nữa.

Người Pharisêô nói về đời sống đạo đức của mình. Ho Theos, ở thể nominative được hiểu như vocative “Lạy Chúa!”. Ông tạ ơn về những điều đang diễn ra trong đời sống của ông (động từ “tạ ơn” ở thì hiện tại). Dẫn vào danh sách đầu tiên (c. 11b), ông đặt mình tách khỏi số “những người còn lại”, loipoi (cc. 9.11). Ông không “giống như” họ, hay không “như” người thu thuế. “Những người còn lại” nầy như thể đều bị xem là trộm cắp, bất chính, ngoại tình; người thu thuế là thí dụ điển hình cho những người như thế. Sự phân biệt của ông phản ánh suy nghĩ của người thời đó về những người nầy (5,29-30; 7,34; 15,1). Trong danh sách thứ hai (c. 12), ông liệt kê những việc đạo đức cá nhân đang làm để chứng minh ông “không giống như” những người khác. Cả hai động từ “ăn chay” và “đóng góp” đều ở thì hiện tại. Ông đưa ra hai việc tiêu biểu mà người Pharisêô thường làm và hãnh diện về những việc đó: ăn chay (x. 5,33; Mt 9,14); đóng góp cho đền thờ (11,42; Mt 23,23). Sabbaton, ở đây hiểu là một “tuần lễ”, chứ không phải là ngày sabbát, khó có thể hiểu là ăn chay hai lần trong một ngày sabbát. Những điều người Pharisêô kể ra đây thuộc về luật buộc chung. Người nầy hãnh diện vì ông chu toàn tất cả và xem đó như công nghiệp của ông.

Người thu thuế (c. 13)

Tư thế, thái độ và lời cầu nguyện của người nầy khác hẳn với người Pharisêô. “Đứng đàng xa” không chỉ xác định khoảng cách không gian, mà còn cho thấy nơi của người đang đứng đó không phải là chỗ chính và quan trọng. Người phú hộ trong âm phủ (16,23), Phêrô ngoài dinh thượng tế (22,54), những người biết Chúa và các phụ nữ xa nơi Chúa chịu treo trên thánh giá (23,49). Như thế, vị trí “đằng xa” của người thu thuế chắc chắn không phải là ở phần chính trong đền thờ như vị trí người Pharisêô đang đứng. Ông “không muốn ngay cả ngước mắt lên trời”. Luca dùng từ phủ định “ouk…oude” để nhấn mạnh ước muốn của ông. “Ngước mắt lên trời” là để nhìn thấy phúc lành (6,22); ơn cứu độ (16,23; 21,28) và vinh quang của Thiên Chúa (Cv 1,9). Người thu thuế từ chối cách quyết liệt điều nầy vì biết mình không xứng đáng chút nào trước mặt Thiên Chúa. Hành vi “đấm ngực” là dấu hiệu tang chế (x. 8,52), hay thống hối (23,48). Giống như người Pharisêô, người thu thuế kêu cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa! ”, nhưng nội dung khác hẳn “Xin tỏ lòng khoan nhân với tôi, một người tội lỗi”. Động từ “hilaskomai” có nghĩa là “nguôi giận” “giao hòa với ai”. Khi ở thể thụ động, động từ có nghĩa là “tỏ ra quảng đại”, “tỏ lòng thương xót”. Thiên Chúa thường là chủ ngữ của hành động nầy. Người thu thuế xin Thiên Chúa tỏ lòng khoan nhân đối với ông và tha thứ cho ông là người tội lỗi. Tiếng kêu cầu nầy vọng lại lời cầu xin của các hối nhân trong các Thánh vịnh (24,11; 79:9). Như thế, người thu thuế vừa nhận biết Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ, vừa nhận biết mình tội lỗi, nên ông đã có thái độ và hành động xứng hợp; đồng thời đã tìm kiếm lòng thương xót chữa lành và giao hoà từ nơi Người.

Kết luận (c. 14) mở đầu với lời “Tôi nói với các ông” (7,26.28; 11,8; 12,5, …) để nhấn mạnh uy quyền trong dạy dỗ và phán quyết của Chúa Giêsu. Người thu thuế bây giờ được đặt lên trước. Ông được Chúa Giêsu tuyên bố là “được nên ông chính”, trong khi người Pharisêô xem là người tiêu biểu cho hạng người bất chính (c. 11). Còn người Pharisêô tự xem mình là người “công chính” (c.1), không được kể là công chính trước mặt Thiên Chúa; họ có thể được xem là công chính trước mặt con người (x. 16,15). Phần thứ hai của câu kết luận (c. 14b), lập lại câu kết của trình thuật 14,8-11. Áp dụng của nó có khác đi. Luca xem người Pharisêô đã nâng mình lên trước mặt Thiên Chúa, khi ông kể ra những điều ông đã tuân giữ theo lề luật. Ông xem đó là sự công chính của riêng ông, và không cần gì đến Thiên Chúa cả! Trong khi người thu thuế được xem là người hạ mình trước mặt Thiên Chúa, vì ông đã thống hối và cầu xin Thiên Chúa làm cho ông nên công chính.

Điều Thiên Chúa cần nơi con người là lòng thống hối để được Người làm cho nên công chính. Việc tuân giữ lề luật không làm cho con người nên công chính khi không nhận biết Đấng Công Chính và nhận sự thánh hoá từ nơi Người. Không dừng lại ở lề luật và cho mình là công chính vì đã tuân giữ chúng.

22. Người thu thuế ra về được khỏi tội–”Suy Niệm Phúc Âm Hàng Ngày’–Radio Veritas Asia

Tác giả tập sách nổi tiếng có tựa đề: “Nơi Thiên Chúa khóc”. Do kinh nghiệm sống đức tin của một cộng đồng Kitô hữu bị bách hại tại Đông Âu trước đây, kể lại kinh nghiệm cảm động nhất của mình trong việc cầu nguyện như sau:

Tôi cùng với một số người Đức bị đưa đi đày xa quê hương từ giữa thế chiến thứ hai. Tất cả đều là người Công giáo và cùng lao động tại một nông trường. Nơi ấy không có nhà thờ cũng chẳng có linh mục, nhưng chúng tôi được tụ họp mỗi chiều Chúa Nhật tại một nghĩa địa cũ để cầu nguyện chung với nhau. Khi biết cách đó 1,000 km có linh mục, anh chị em Kitô bèn quyết định hàng tháng góp chung nhau ít tiền để mua vé xe cho một bà già đi về nơi ấy, để đem Mình Thánh đến cho cộng đoàn. Thế rồi, từ đó mỗi buổi chiều Chúa Nhật, cộng đoàn gặp nhau trong nghĩa địa với tâm hồn hân hoan vui sướng, vì biết rằng có Chúa Giêsu Thánh Thể hiện diện với mình. Chúng tôi sốt sắng cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa. Những ai yếu liệt đều được trao cho của ăn đàng quí giá trước khi qua đời. Nhờ vậy, trong suốt mấy chục năm trời, cộng đoàn Kitô hữu chúng tôi vẫn sống niềm tin kiên vững, đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu thương bác ái huynh đệ.

Tác giả của tập sách nói trên được sang sống bên thế giới tự do và cho biết chính mình là người điều khiển cộng đoàn Kitô hữu vào mỗi buổi chiều Chúa Nhật tại nghĩa địa như đã kể trong tập sách. Sống trong xã hội tự do, nhưng tâm hồn tác giả lúc nào cũng hướng về cộng đoàn huynh đệ vây quanh Chúa Giêsu Thánh Thể để cầu nguyện và nâng đỡ nhau.

Anh chị em thân mến!

Lời cầu nguyện thật lúc nào cũng là lời cầu nguyện của tình yêu thương và tha thứ, lời cầu nguyện liên kết mọi người với nhau, lời cầu nguyện của sự xây dựng cộng đoàn. Thật là khác với những lời cầu nguyện của những người Pharisiêu như được mô tả trong bài Tin Mừng hôm nay.

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta liền nhớ đến những lời nhắn nhủ sau đây của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận trong tập sách “Đường Hy Vọng”:

Dù con có tử đạo, nộp mình chịu thiêu, dù con có làm tông đồ, giảng dạy các thứ tiếng của nhân loại và thiên thần, dù con có hoạt động từ thiện, đem hết cả tài sản phân phát cho người nghèo khó mà con không có lòng mến thì cũng như không. Việc con làm không quan hệ, cách con làm mới quan hệ.

Người biệt phái cầu nguyện đứng thẳng, chi tiết này nói lên tinh thần tự kiêu, ỉ lại trước nhan Thiên Chúa, và nội dung lời cầu nguyện của ông chỉ là những lời khoe khoang với Chúa và gây chia rẽ: “Con không phải như người thu thuế, tôi lỗi kia, con không giống như những kẻ khác: tham lam, bất công, ngoại tình…” Đó là những lời kết tội anh em, lỗi đức ái, không có chút gì tích cực xây dựng cộng đoàn và tôn vinh lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ngược lại, người thu thuế đã ý thức được thân phận tội lỗi của mình, nên khiêm tốn cúi mình xin Chúa thương xót, hướng dẫn mình trở về với tình thương của Chúa, trở về với anh em mà mình đã xúc phạm.

Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách “Đường Hy Vọng” đã nhắn nhủ chúng ta về việc cầu nguyện như sau: Khi hai hay ba người hiệp nhau cầu nguyện thì có Chúa ở giữa họ. Lời Chúa Giêsu đã được ứng nghiệm, đặc biệt nơi nhiều cộng đoàn cầu nguyện. Họ sống xa linh mục từng ngàn cây số mà vẫn hướng dẫn nhau cầu nguyện cách kiên trì giữa những gian nan thử thách và cô đơn. Dầu miệng con không nói ra, Chúa đã hiểu thấu lòng con. Con hãy noi gương người đàn bà bị băng huyết động đến gấu áo Chúa được nhận lời ngay. Con tội lỗi không dám ra trước mắt Chúa, nhưng lời Hội Thánh khiến con vững tâm: “Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con”.

Vậy, tất cả sự thương khó của Chúa Giêsu và công nghiệp của Đức Mẹ và các thánh không đủ để bao bọc lời cầu nguyện nhỏ bé của con sao? Trong cuộc đời Chúa Giêsu, hình như Chúa yêu thương cách riêng những kẻ khiêm nhượng và Ngài quên hết tội lỗi của họ, không bao giờ nhắc lại: “Phêrô, Madalena, Simon phong cùi, Giakêu… Chúa đã tự đến nhà họ và đành chịu tiếng làm bạn với quân thu thuế và người tội lỗi”.

Quyền năng nơi Thiên Chúa phục vụ qua lòng nhân từ của Ngài. Quyền năng của một người Cha nhân từ đủ sức thanh tẩy và đổi mới cuộc đời tội lỗi, nếu chúng ta khiêm tốn để cho ơn Chúa được tự do tác động.

Lạy Chúa, như người thu thuế kia, con thành tâm kêu xin Chúa, xin Chúa thương xót con, hãy tha thứ mọi tội lỗi con và dẫn đưa con về với tình yêu: Yêu Chúa và yêu anh em như Chúa đã yêu. Amen.

23. Khiêm tốn trong cầu nguyện–Lm. GB. Trần Văn Hào

Ông Alexin Carnel, người lãnh giải Nobel về Y khoa năm 1978, đã chia sẻ kinh nghiệm về đức tin khi ông phát biểu: “Cầu nguyện là một hoạt động không thể thiếu để phát triển con người toàn diện. Càng cầu nguyện, chúng ta càng trở nên con người hơn”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu một lần nữa dạy chúng ta cầu nguyện với sự khiêm hạ chân thành. Càng khiêm tốn, chúng ta càng trở nên vĩ đại, vì được thông dự vào sự cao cả và quyền năng của Thiên Chúa. Điều đó cũng tương hợp với tư tưởng của Pascal khi ông nói: “Con người rất nhỏ bé và tầm thường, nhưng chúng ta sẽ trở nên vĩ đại và phi thường nếu biết cầu nguyện”.

Cầu nguyện: Từ thái độ kiên trì đến tâm tình khiêm tốn.

Tuần trước, lời Chúa khuyên mời chúng ta kiên trì trong việc cầu nguyện qua hình ảnh của Moise đứng giang tay trên núi cầu khẩn khi đoàn quân của ông giao chiến với đội quân Amalếch, hoặc qua thái độ kiên nhẫn của một bà góa đứng kiện cáo nơi cửa công. Tuần này, Chúa cũng vay mượn hình ảnh khiêm hạ của một người thu thuế, đối nghịch với thái độ cao ngạo của ông Pharisiêu khi lên đền thờ cầu nguyện, để dạy chúng ta phải có thái độ khiêm tốn mỗi lần đến với Chúa. Chúng ta đã nghe khá nhiều về việc cầu nguyện. Nhưng sự khiêm hạ Chúa nói hôm nay đòi hỏi nơi chúng ta điều gì và chúng ta đã thực hành như thế nào?

Trước hết, chúng ta nghe lại bài đọc 1 trong sách Huấn ca được đọc lên trong phụng vụ hôm nay. Tác giả viết: “Đức Chúa là Đấng xét xử, người chẳng thiên vị ai. Người không vị nể mà hại kẻ nghèo hèn, nhưng nghe lời kêu xin của người bị áp bức, lời khấn nguyện của kẻ mồ côi, hay tiếng than van của người góa bụa”. Ba hạn từ nêu trên, nói về những người nghèo khổ, cô thế cô thân trong xã hội Do thái thời xưa. Kẻ mồ côi, kẻ bị áp bức, người góa bụa, là những người thấp kém và bị mọi người coi khinh. Họ là đại biểu của giai tầng thấp nhất trong xã hội, nhưng lời cầu nguyện của họ luôn được Thiên Chúa lắng nghe. Trong bài giảng trên núi, Chúa công bố bản Hiến chương Nước Trời với 8 mối phúc dành cho những ai “nghèo khó, hiền lành, khóc lóc, bị áp bức..’, tức là những con người luôn biết sống khiêm hạ, không vênh váo và tự mãn về cái tôi của mình như những người quyền quý hay cao sang. Sự khiêm hạ đó một lần nữa được Chúa nói tới qua hình ảnh người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện, đối kháng với sự kiêu căng tự mãn của người Pharisiêu. Vào thời Chúa Giêsu, dân chúng luôn dị ứng và tẩy chay những người hành nghề thu thuế. Họ được xếp ngang với bọn đĩ điếm và phường tội lỗi. Dân chúng ghét họ vì 3 lý do. Thứ nhất, họ làm tay sai cho đế quốc Rôma. Thứ hai, họ phản bội tổ quốc và đồng bào ruột thịt. Thứ ba, khi đụng đến tiền bạc, chắc chắn họ dễ rơi vào tham nhũng hay hối lộ. Những người thu thuế thường hay thu quén tiền bạc cách bất chính trên xương máu và mồ hôi nước mắt của người khác. Đế quốc Rôma ra chỉ tiêu về tiền thuế phải nộp, còn họ sẽ bày ra phương cách để có thật nhiều tiền. Vì vậy, dân Do Thái luôn khinh ghét họ và xếp họ chung với phường tội lỗi.

Người thu thuế ra về được nên công chính, còn người kia thì không (c.14).

Sự công chính nơi người thu thuế khởi đầu từ việc ông nhận ra lỗi lầm của mình và thực tình sám hối. Sám hối, theo nguyên ngữ Hy Lạp “Metanoia’, có nghĩa là “trở về’. Sám hối không phải chỉ là đấm ngực mình cách máy móc như nhiều khi chúng ta vẫn hay làm khi đọc kinh “tôi thú nhận’. Hành vi đấm ngực, cúi gầm mặt xuống vì xấu hổ nơi người thu thuế là bước khởi đầu của cuộc hành trình trở về. Thánh Luca trong chương 15 kể dụ ngôn đứa con đi hoang để nói về cách sám hối chúng ta cần biểu tỏ. Chàng thanh niên can đảm đứng lên, giã từ quá khứ để trở về nhà trong vòng tay yêu thương của Cha. Sự công chính chúng ta có được không phải do nỗ lực cá nhân, nhưng trước hết là do ơn sủng nhưng không, đến từ Thiên Chúa. Trong thơ Rôma, Thánh Phaolô đã cắt nghĩa rất rõ: “Ân sủng Đức Kitô làm cho chúng ta nên công chính, vì ở đâu tội lỗi càng nhiều, ơn sủng càng chan chứa gấp bội (Rm 5, 20-21). Đức Giêsu đã khiêm nhường, tự hạ chấp nhận cái chết và máu của Ngài làm cho chúng ta được công chính hóa. Vì vậy điều kiện tiên quyết để được tha thứ và chữa lành, chính là thái độ khiêm tốn nội tâm.

Muốn sống khiêm tốn phải biết mình.

Người thu thuế biết rõ về chính mình, về những bất xứng và tội lỗi anh ta đã gây ra. Từ chỗ biết mình, anh đã can đảm đi ra khỏi cái tôi để quy hướng về Thiên Chúa. Ngược lại, người biệt phái quá kiêu ngạo, tưởng rằng biết rõ về bản thân, nhưng thực sự thì không. Ông chỉ biết quy về mình. Ông trưng ra những thành tích đạo đức để khoe mẽ mà không biết rằng những việc tốt mà ông có thể làm, tất cả là do ơn của Chúa chứ không phải do công lao của ông. Ông đến đền thờ cầu nguyện tựa như đi tham dự một hội nghị biểu dương “Người tốt việc tốt’, giống như xã hội hôm nay vẫn hay tổ chức. Một người đứng lên giữa đám đông kể ra những “thành tích xuất sắc’ của mình để nhận bằng khen hay giấy khen, nhiều khi rất lố bịch và giả tạo. Nhiều người đi tham dự hội nghị còn đeo đầy huy chương để khoe cho mọi người biết tôi là người có công với đất nước. Người Pharisiêu trong dụ ngôn hôm nay cũng thế. Ông ta trưng ra những thành tích đạo đức để mong Chúa ban cho ông một tấm bằng khen. Chúa biết rõ tâm hồn mỗi người, từ những gì sâu kín nhất tận bên trong. Điều Chúa mong muốn nhất, chính là sự khiêm hạ và thành tâm sám hối. Khi chúng ta đến trình diện trước mặt Chúa, Chúa không thích ngắm những bộ huy chương chúng ta đeo trên ngực hay nhìn những bằng khen chúng ta trưng ra để khoe khoang. Ngài chỉ thích mân mê sờ nắn những vết sẹo nơi tâm hồn chúng ta, là dấu chứng tội lỗi chúng ta phạm nhưng đã được Thiên Chúa yêu thương và chữa lành. Câu chuyện dụ ngôn trong bài Tin mừng hôm nay khẳng quyết điều ấy.

Kết luận

Bắt chước người thu thuế trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy đến với Chúa với tâm tình sám hối và khiêm hạ, đặc biệt khi chúng ta giơ tay đấm ngực mỗi lần dâng Thánh lễ. Nhiều khi chúng ta đấm ngực mình một cách rất máy móc để rồi khi về đến nhà, lại giơ tay đấm nhầm qua ngực người khác, bằng cách kết án hết người này đến người nọ. Chúng ta mượn lại tâm tình của Thánh Charles de Faucauld để thưa lên với Chúa: “Lạy Chúa, dù còn xấu xa hay tội lỗi đến mấy, Chúa cũng không bao giờ kết án và luận phạt. Chúa cho con tự do để làm mọi sự, nhưng Chúa luôn cấm con không được thất vọng trước sự khốn nạn do tội lỗi con gây ra. Lạy Chúa, xin xót thương con.”

24. Người Pharisêu và người thu thuế–Vincent Travers

Dụ ngôn này nhắc nhở tôi câu chuyện về một người đàn ông khoe khoang như sau: nếu trên trần thế này chỉ còn lại hai người tốt mà thôi thì đó chính là tôi và con trai của tôi. Nhưng nếu chỉ còn lại một người tốt, thì chắc chắn người đó phải là tôi!

Người Pharisêu tự thấy mình cũng như người đàn ông đó, nổi tiếng và gương mẫu về mọi phương diện, từ đầu đến chân, trên mọi người khác. Thật thế, ông ta đã nói: “Tôi lương thiện và ai giống tôi?”

Điều nguy hiểm khi đọc dụ ngôn này là chúng ta tự khen ngợi mình không giống như người Pharisêu kia, cũng như người này tự khen ngợi mình không giống như người thu thuế. Nếu chúng ta dám nhìn kỹ hơn, tôi thiết tưởng có rất nhiều điều giống với người Pharisêu ở trong tất cả chúng ta. Vấn đề là giống bao nhiêu mà thôi.

Vào một ngày nắng đẹp trời, một con voi ngâm mình trong một cái hồ ở trong rừng sâu. Một con chuột đến bờ hồ và yêu cầu con voi ra khỏi hồ. Con voi hỏi: “Tại sao?” Con chuột nói: “Tôi sẽ nói cho bạn biết tại sao, khi bạn ra khỏi hồ.” Vì vậy con voi đã ra khỏi hồ và nói: “Tao ra khỏi hồ rồi đó. Vậy mầy muốn gì?” Con chuột đáp: “Tôi chỉ muốn xem có phải bạn đã mặc bộ đồ tắm của tôi không.”

Tất cả chúng ta là những tay tổ trong nghệ thuật phóng đại sự kiện tự quan trọng hoá mình.

Tự ca ngợi mình không phải là ca ngợi

Chúa Giêsu đã dùng những kỹ thuật gây nên sửng sốt. Qua câu chuyện này, thính giả của Ngài đều nhận biết một nhân vật là tốt, còn nhân vật kia thì xấu. Nhưng Chúa Giêsu đã làm cho họ sửng sốt bằng cách kết án nhân vật tốt và ca ngợi nhân vật xấu.

Để hiểu câu chuyện gây nên sửng sốt đến mức độ nào cho những người nghe nói lần đầu tiên, chúng ta phải nhận thức rằng người Pharisêu ở đây không phải là một kẻ giả dối. Ông ta thực sự tốt hơn những người khác. Ông đã đi quá xa hơn những gì ràng buộc ông ta. Ông ăn chay hai lần một tuần không phải là điều bắt buộc đối với ông. Người Pharisêu cũng không bắt buộc phải dâng cúng cho Chúa một phần mười tài sản của mình. Tất cả những điều đó đều tốt và đáng ca tụng nữa.

Rõ ràng công bằng mà nói thì người thu thuế là một nhân vật hoàn toàn xấu. Vào thời Chúa Giêsu, thuế má được thâu bởi những nhà kinh doanh địa phương. Những thuế đó được ấn định bởi những người La-mã mà dân chúng ghét cay ghét đắng, nhằm hỗ trợ cho quân đội chiếm đóng.

Một khi người La-mã đã lấy đủ phần mình, họ không phải quan tâm tới số hoa hồng mà người thu thuế thêm vào. Những người này đã bày đủ thủ đoạn làm tiền để ăn chặn của dân chúng càng nhiều càng tốt. Chính những người thu thuế đó mới đáng ghét và bị tất cả những người tử tế lánh xa.

Trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, người thu thuế tự gọi mình là “kẻ tội lỗi” (Lc 18, 13). Như thế, ít nữa, ông ta đã nói lên một điều hoàn toàn đúng sự thật. Vậy tại sao người thu thuế – không phải người Pharisêu – đã ra về được chứng minh là công chính trước mặt Thiên Chúa.

Sự phản bội

Người Pharisêu đến đền thánh, không phải để cầu nguyện nhưng để khoe khoang, để cho Chúa biết ông ta tốt chừng nào, để cổ võ chính hình ảnh của ông. Lời cầu nguyện của ông đầy những chữ “tôi”, “tôi” và “tôi”. Đó là “tự kỷ trung tâm” (tự cho mình là trung tâm điểm của vũ trụ), thay vì đặt để Thiên Chúa làm trung tâm điểm.

Chúng ta nên cảnh giác đừng chỉ ngón tay vào người Pharisêu. Đó là một thói quen rất nguy hiểm. Điều đó có nghĩa là ba ngón tay kia chĩa lại chúng ta!

Lấy thí dụ đi xem lễ Chúa nhật. Tại sao tôi đi xem lễ? Động cơ nào đã thúc đẩy tôi? Có phải tôi đến để thoả mãn Chúa hay chỉ để thoả mãn tôi? Có phải tôi đến nhà thờ để được khuyên giải và an ủi? Để vinh danh Chúa hay tự vinh danh tôi? Để làm vui lòng Chúa hay làm vui chính tôi? Có phải tôi đã làm đúng, nhưng động cơ thúc đẩy tôi lại sai?

T.S. Eliot trong vở kịch “Murder In The Cathedral” (“Án Mạng trong Nhà Thờ Chính Tòa”) đã đề cập đến việc làm thì đúng, nhưng động cơ thúc đẩy thì sai, nên cuối cùng là một hành động “phản bội”.

Chúng ta thường nghe nhiều người than phiền như sau: “Tôi đi xem lễ nhưng chẳng được ích gì. Tôi không thể chịu đựng được vị linh mục. Bài giảng chán ngấy. Tôi không thể nghe ca đoàn hát. Tôi không thể chịu được tiếng ồn ào. Tôi không thể chịu đựng trẻ con.” Tất cả đều là “tôi”, “tôi” và “tôi”. Đúng họ là những chuyên gia về “cái tôi”!

Những người khác không cùng nhau đến nhà thờ không phải vì bị chống đối; họ không bị đá bị đuổi, đứng trên phương diện đạo giáo. Giờ đây, nếu tôi đến dự lễ hay không đến “vì tôi, cho tôi, để tôi được nhận nhưng không cho đi”, tức nhiên có điều gì đó tự bản chất đã sai lầm rồi. Tôn giáo chân chính là tôn giáo lấy Thiên Chúa làm trung tâm, chứ không phải lấy tôi làm trung tâm (“tự kỷ trung tâm”).

Sự khác biệt giữa “TÔI” và “CHÚA”

Lời cầu nguyện của người Pharisêu nhằm đề cao “cái tôi”, trong khi lời cầu nguyện của người thu thuế nhắm đến “Thiên Chúa”. Người Pharisêu nói: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình…” (Lc 18, 11). “TÔI!” Còn người thu thuế chỉ nói: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18, 13). “CHÚA!”

Điều khác biệt giữa sự tiếp cận “CÁI TÔI” và sự tiếp cận “THIÊN CHÚA” trong bất cứ tương quan nào, dù ở trên trời hay dưới đất, là điều khác biệt giữa sự kiện sống cho chính mình hay cho kẻ khác, giữa sự vị kỷ hay vị tha, giữa sự ấu trĩ hay đã trưởng thành. Chính người thu thuế, chứ không phải người Pharisêu đã đi về nhà được công chính hoá trước mặt Thiên Chúa.

Có một câu chuyện nói về một cậu bé đi xem lễ sáng sớm Chúa nhật. Mẹ cậu cho cậu hai đồng tiền bằng bạc và nói: “Một đồng cho con, còn đồng kia con dâng cho Chúa”, tức là bỏ trong giỏ khi thu tiền trong nhà thờ. Cậu bé cầm chặt hai đồng tiền trong nắm tay, khi bắt đầu đi đến nhà thờ. Trong khi băng qua đường, cậu bé đó vấp ngã trượt chân và té. Tự nhiên theo bản năng, cậu bé mở tay ra để chống đỡ cho khỏi bị ngã và hai đồng tiền vuột khỏi tay cậu. Một đồng lăn tới nằm ở lề đường, còn đồng kia lăn xuống đường mương. Cậu nhặt đồng tiền ở lề đường lên và nhìn xuống đường mương.

Đột nhiên một cuộc chiến đấu dữ dội nổi lên bên trong con người của cậu. Sau một lúc do dự, cậu đút nhanh đồng tiền nhặt được vào túi, nhìn lên trời và nói: “Chúa ôi, con rất lấy làm buồn, đồng tiền của Chúa nằm dưới đường mương rồi!”

Không biết câu chuyện đó có xác thực không? Nhưng cũng có thể lắm. Tất cả đều tùy thuộc vào “cái tôi” và có thể trở thành điển hình cho toàn bộ việc tiếp cận của chúng ta với Thiên Chúa. “Tôi”, chỉ “tôi” thôi, luôn luôn là “tôi” và không ai khác. Một chân lý chứa đựng nhiều điều trong câu chuyện có tính cách bông đùa đó!

Người thu thuế “đã hiểu điều đó một cách đứng đắn”. Việc tiếp cận của ông với Thiên Chúa là lương thiện, khiêm tốn và được công chính hoá. Giờ đây sự tương quan giữa ông với Đấng Tạo Hoá được trực tiếp, thẳng tắp và một cuộc sống mới đã bắt đầu đối với ông.

25. Bông lúa cúi đầu–Lm. Ignatio Trần Ngà

Một người cha dẫn đứa con nhỏ ra thăm đồng lúa đang độ chín vàng chờ ngày thu hoạch. Lần đầu tiên được tung tăng giữa cánh đồng bao la và được nhìn tận mắt những bông lúa mà bé chỉ được nghe kể bằng lời, cháu bé tỏ ra thích thú và lên tiếng hỏi ba:

– Bố ơi! Tại sao có những bông lúa cúi đầu xuống và cũng có những bông lúa khác vểnh đầu lên?

Người cha đáp:

– Những bông lúa cúi đầu là những bông lúa no đầy, chắc hạt, sẽ trở thành những hạt gạo ngon lành; còn những bông vểnh đầu lên là những bông lúa lép, chẳng có gì bên trong, chỉ còn là vỏ trấu.

Hình ảnh bông lúa cúi đầu đã in sâu vào tâm trí người dân Nhật từ rất xa xưa. Người Nhật xem bông lúa cúi đầu là biểu tượng cho những người khiêm tốn, chín chắn, có phẩm chất cao đẹp; còn bông lúa vểnh đầu lên là biểu tượng cho những người huênh hoang, rỗng tuếch.

Thế là từ đó, người Nhật rút ra một câu phương ngôn nhớ đời, in sâu vào tim óc các thế hệ về sau, đó là câu “Bông lúa chín là bông lúa cúi đầu.” hoặc: “Bông lúa cúi đầu là bông lúa chín.”

Qua phương ngôn này, những bậc tiền bối người Nhật muốn dạy con cháu: “Hãy khiêm tốn cúi đầu” trước mọi người, để chứng tỏ mình là người đức hạnh.

Thế là nền văn hóa cúi đầu ăn sâu vào máu thịt người Nhật cũng như người Hàn quốc. Khi gặp nhau, họ chào nhau bằng cách gập người cúi đầu cách khiêm tốn; ông chủ cúi đầu trước khách hàng vì xem khách hàng là ân nhân; nhân viên phục vụ trên sân ga cúi đầu chào khách khi đoàn tàu chuyển bánh; cô trực thang máy cúi đầu chào khi có người đi vào, đi ra cửa thang máy… Đâu đâu cũng đầy dẫy những người chào nhau bằng cách gập người cúi đầu cung kính. Bản sắc của người Nhật là như thế và đó cũng là yếu tố làm cho thế giới càng nể phục họ hơn.

Bài Tin mừng hôm nay cũng đề cập đến hai nhân vật, một người cúi đầu và một người huênh hoang ngẩng đầu cao.

Người biệt phái được Chúa Giê-su đề cập trong Tin mừng hôm nay thuộc dạng bông lúa vểnh đầu cao. Ông ta là người đầy tự phụ, huênh hoang, phô trương công đức của mình. Ông tự cho mình thánh thiện, đạo đức và tự đặt mình lên trên những người khác. Ông cầu nguyện với Chúa bằng những lời lẽ trịch thượng như sau: “Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác, không tham lam, không bất chính, không ngoại tình, không như tên thu thuế kia!”

Rồi ông phô trương thành tích đạo đức của mình: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.”

Còn người thu thuế thuộc dạng bông lúa cúi đầu. Ông ta vốn biết thân, biết phận thấp hèn, tội lỗi của mình nên chỉ đứng ở đằng xa, không dám ngước mặt lên, chỉ biết đấm ngực mà nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18, 9-14).

Thái độ khiêm tốn của người thu thuế làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên cho dù ông mang nhiều tội, ông cũng được Chúa Giê-su tuyên dương và chúc phúc; trái lại, thái độ tự phụ tự cao của người biệt phái bị Chúa Giê-su chê trách và lên án.

Tại sao vậy? Chúa Giê-su cho biết lý do: “Vì hễ ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,14).

Ngoài ra, vì khiêm tốn là đức tính cao đẹp và cần thiết nên Chúa Giê-su cũng đã nhiều lần mời gọi chúng ta: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29).

Ngoài ra, Mẹ Maria cũng răn dạy chúng ta phải coi chừng hậu quả của thói kiêu căng, qua câu nói: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.” và Mẹ khuyến khích chúng ta sống khiêm nhường, qua lời dạy: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Ngài nâng cao những kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 51-52).

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa dạy chúng con chớ dại dột nâng mình lên vì “hễ ai nâng mình lên sẽ phải bị hạ xuống” như người biệt phái trong câu chuyện trên đây, cũng đừng tranh dành chỗ quan trọng (như trong dụ ngôn bữa tiệc) kẻo có ngày chủ nhà sẽ mời xuống chỗ cuối (Luca 14, 7-11).

Xin cho chúng con biết cư xử khiêm nhường như Chúa để được Chúa rót đầy ân sủng và đổ đầy tình yêu thương.

26. Nâng mình lên sẽ bị hạ xuống–Lm. Ignatio Trần Ngà

“Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống” là một giáo huấn rất quan trọng nên thường được Chúa Giêsu đề cập nhiều lần trong Tin Mừng bằng nhiều hình thức (Lc 18,14. Lc 14, 7-11. Mt 23,12)

Lần nầy, để minh hoạ cho bài học của mình, Chúa Giêsu nêu lên hai nhân vật.

Người biệt phái rất tự phụ, vênh vang phô trương công đức của mình. Ông tự cho mình thánh thiện, đạo đức và tự đặt mình lên trên những người khác: “Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác, không tham lam, không bất chính, không ngoại tình, không như tên thu thuế kia!”

Rồi ông phô trương thành tích đạo đức của mình: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”.

Quả là ông nầy có nhiều thành tích tốt lành ít ai bì kịp. Thế nhưng Thiên Chúa chê bỏ ông vì thái độ tự kiêu của ông. Ông ta như chiếc bình đầy tràn, đầy kiêu căng tự phụ, nên chẳng còn chỗ nào cho Chúa rót thêm.

Trong khi đó, người thu thuế vốn biết thân biết phận tội lỗi của mình nên chỉ đứng ở đằng xa, thậm chí không dám ngước mặt lên, chỉ biết đấm ngực mà nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.

Anh nầy đến với Chúa như một chiếc bình trống rỗng, nghĩa là với lòng thống hối khiêm cung và khao khát được Chúa tuôn đổ ơn tha thứ nên anh đã được Thiên Chúa thứ tha.

Với dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu ghi sâu bài học đáng nhớ nầy vào tâm khảm chúng ta: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”

* * *

Một hôm khi cùng với học trò vào thăm miếu của vua Hoàn Công, nước Lỗ, Đức Khổng Tử thấy có cái lọ đứng nghiêng. Ngài nói với môn sinh: Ta nghe nói vua Hoàn Công có một vật quý để răn dạy người đời. Đó là một chiếc lọ đặc biệt, khi để trống không thì nghiêng, khi đổ nước vào vừa phải thì đứng; nếu đổ đầy nước vào thì lọ đổ nhào. Không rõ vật ấy có phải là cái lọ nầy không?

Rồi ngài sai học trò đổ nước vào thử xem. Quả thật, mới đầu lọ đứng nghiêng, khi nước được rót vào được một nửa, thì chiếc lọ chuyển sang vị thế đứng thẳng; rồi cứ đổ tiếp cho đầy tới miệng thì lọ đổ nhào.

Người đông phương ngày xưa khôn khéo tạo nên chiếc lọ đặc biệt như thế để ghi khắc vào tâm khảm người đời bài học khiêm tốn, bài học trung dung, một cách rất ấn tượng.

Còn người phương tây cũng diễn tả nội dung đó qua một ngạn ngữ khá phổ thông: “virtus in medio – nhân đức nằm ở mực trung”. Người nhân đức là người biết sống trung dung, không bất cập mà cũng không thái quá.

Bởi vì bất cứ điều gì quá dư đầy phải sụp đổ.

“Mặt trời đứng bóng rồi phải xế,

Mặt trăng tròn đầy rồi sẽ khuyết,

Vật gì thịnh lắm rồi cũng phải suy”. (Thái Trạch)

“Cái gì dư đầy sẽ phải đổ “… (Khổng Tử)

Thế nên, Lão tử khuyên chúng ta:

“Thông minh duệ trí, thủ chi dĩ ngu,

Dũng lực chấn thế, thủ chi dĩ khiếp”.

Bậc thông minh duệ trí thì nên giữ mình bằng khiêm nhường, nhận rằng mình còn nhiều điều chưa biết; bậc anh hào có sức mạnh chấn động thế giới hãy biết bảo trọng thân mình bằng cách sống hạ mình như người nhát sợ thì mới được vững bền.

Còn Chúa Giêsu vẫn hằng nhắc nhở chúng ta: chớ dại mà nâng mình lên vì “hễ ai nâng mình lên sẽ phải bị hạ xuống” như trường hợp người biệt phái trong câu chuyện trên đây hay chớ dại dột chọn ngồi chỗ cao trong bữa tiệc, kẻo có ngày chủ nhà sẽ mời xuống chỗ cuối (như ở Tin Mừng Luca chương 14, 7-11).

27. Được nên công chính–Lm. Trầm Phúc

Hai người lên Đền thờ cầu nguyện, nghĩa là họ đến trước mặt Chúa. Người Pharisêu hiên ngang dõng dạc, lên tiếng cầu nguyện: “Lạy Chúa, tôi tạ ơn Chúa, vì tôi không (xấu xa) như những người khác…”

Đọc dụ ngôn này, tự nhiên chúng ta có cảm tưởng là người Pharisêu này đáng ghét, kiêu căng, tự mãn. Đúng thế, nhưng chúng ta đừng vội phê phán, cũng đừng quá nghiêm khắc. Phải công nhận rằng người Pharisêu này cũng đáng khen trên khía cạnh nào đó. Anh biết tạ ơn Chúa. Đó là một điều hợp lý và phải lẽ. “Tôi ăn chay mỗi tuần hai lần”. Như thế anh cũng tốt đấy chứ! Chúng ta dám ăn chay như anh không? “Tôi dâng một phần mười hoa lợi của tôi”…”Tôi không tham lam, không bất công, ngoại tình…” Tất cả những việc lành ấy thật tốt và rất đáng khen. Người Pharisêu giữ luật rất chính chắn và họ lấy làm vinh hạnh vì đã giữ luật một cách trọn hảo. Nhưng nhiều lần Chúa Giêsu đã kịch liệt phản đối người Pharisêu vì họ chỉ biết giữ Luật theo hình thức mà không biết yêu mến Chúa. Họ đã bỏ quên điều răn trọng nhất. Họ phô trương công đức trước mặt thế gian… mà quên rằng Chúa mới là Đấng phán xét chí công, sẽ ân thưởng mọi người theo công việc họ làm…

Thánh Âu–tinh nói: “Không có gì xấu xa cho bằng kiêu căng vì nhân đức.”

Người Pharisêu trong dụ ngôn thật sai lầm khi tự ban cho mình bằng cấp công chính. Nhưng nhìn về bản thân chúng ta, chúng ta có hơn người Pharisêu đó không? Có lẽ chúng ta đôi khi cũng cảm thấy hài lòng vì những việc đạo đức của chúng ta, và rất nhiều khi, chúng ta phê phán những anh chị em khác… Tinh thần Pharisêu chưa chết đâu! Nó vẫn sống và vẫn sống rất dai! Trong mỗi người chúng ta, nếu chúng ta thành thật với chính mình, chúng ta vẫn che giấu một anh Pharisêu nào đó… Chúng ta không nói ra như anh Pharisêu kia, nhưng âm thầm có lẽ chúng ta cũng bằng lòng với thực trạng đạo đức của mình… Chúng ta còn “men Pharisêu” trong xương tủy chúng ta.

Chúng ta hãy nhìn về nhân vật thứ hai của dụ ngôn: người thu thuế.

Anh lên Đền thờ cầu nguyện. Người thu thuế bị loại ra khỏi cộng đoàn, bị xem như những phần tử xấu xa nhất trong xã hội Do Thái, bóc lột và làm tôi mọi cho ngoại bang… Có lẽ anh còn một chút lòng đạo nào chăng? Anh còn nhớ đến Chúa mặc dù anh đang sống trong tình trạng bất hợp pháp.

Chúa Giêsu nói: “Anh đứng xa, không dám ngước mặt lên trời”, một thái độ e sợ, khiêm tốn, vì anh thấy mình không xứng đáng đến trước mặt Thiên Chúa. Người Do Thái vẫn có một tâm thức hết sức rõ ràng về sự cao cả của Thiên Chúa. Chúng ta nhớ thái độ của Mô-sê, của tiên tri Isaia… Anh ý thức tình trạng tội lỗi của mình và tỏ ra lòng khiêm nhượng của mình bằng một thái độ thành thật. Chúa Giêsu nói thêm: “Anh đấm ngực” tỏ lòng thống hối và cầu nguyện bằng một lời thôi: “Xin Chúa thương xót tôi là kẻ có tội”.

Nhìn nhận mình là kẻ có tội một cách thành thật là một thái độ mà không mấy người làm được. Chúng ta cũng nhìn nhận tình trạng tội lỗi của chúng ta, nhưng qua loa, hời hợt. Chúng ta cần tìm lại sự thật của lòng mình. Ý thức một cách chân thành tình trạng không mấy tốt đẹp của mình, Hãy lột hết tất cả những mặt nạ của chúng ta để ánh sáng của Chúa có thể chiếu tỏa chan hòa trên khuôn mặt tội lỗi của chúng ta và ban ơn tha thứ cho chúng ta. “Có thì nói có, không thì nói không”, Chúa Giêsu đã dạy như thế.

Sự lầm lẫn của người Pharisêu là tự cho mình phần thưởng, vì họ tưởng rằng họ có thể được ân thưởng vì những việc họ làm mà không nghĩ rằng chỉ có Thiên Chúa là Thẩm phán chí công mới ân thưởng cho mọi người tùy theo những việc họ làm với lương tâm trong sạch, với tâm tình khiêm tốn. Giá trị của chúng ta không phải là những gì chúng ta tự đánh giá. Chúa không nhìn dáng vẻ bề ngoài, nhưng là nhìn tận tâm can. Chúng ta nhớ lời Chúa nói với tiên tri Samuen khi chọn Đa-vít: “Đừng nhìn dáng vẻ bên ngoài. Ta nhìn tận tâm can”…

Chỉ một mình Chúa mới biết chúng ta như thế nào. Chúng ta không cần phải phô bày thành tích của chúng ta. Chúa dệt chúng ta từng sớ thịt trong dạ mẹ. Cha chúng ta trên trời đủ sáng suốt để biết chúng ta đã sống thế nào…

Vấn đề của chúng ta là hãy sống trước mặt Chúa như Chúa đã dạy Abraham: “Hãy đi trước mặt Ta và hãy sống trọn lành”.

Bài học Chúa Giêsu hôm nay rất thực tế và dễ hiểu, nhưng cũng rất khó thực hành vì vô tình hay hữu ý, chúng ta vẫn không bao giờ thành thật trọn vẹn với chính mình và luôn so sánh với người khác. Đó là một căn bệnh mà không bác sĩ nào có thể chữa lành. Chỉ có một vị lương y duy nhất có thể giúp chúng ta mà thôi, đó chính là Đấng đã dạy chúng ta: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng.”

Bước vào thánh lễ hôm nay, chủ tế đã mời gọi chúng ta nhìn nhận tội lỗi và xin Chúa thương xót thứ tha cho chúng ta. Với một tâm hồn khiêm tốn như thế, của lễ của chúng ta mới đáng Cha trên trời chấp nhận và chúng ta mới có thể nhìn về Chúa một cách tin tưởng. Chúng ta còn được mời gọi dự bàn tiệc của Chúa. Hãy nhìn Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể với tất cả niềm tin để thấy rằng Chúa chúng ta là một Thiên Chúa khiêm tốn tuyệt đối. Vì thương chúng ta, Ngài không từ chối nhận lấy thân phận một tấm bánh, hình thức nhỏ bé nhất, nhờ đó Ngài đến tận trong con người chúng ta và giúp chúng ta sống với Ngài, như Ngài. Nếu không có Chúa Giêsu sống trong chúng ta, cuộc đời chúng ta sẽ là gì? Hãy cầu xin Ngài ở lại mãi trong chúng ta và giúp chúng ta sống đẹp lòng Cha trên trời hơn là ganh đua với thế gian, sống khiêm tốn quên mình để cho Danh Cha cả sáng.

28. Quì gối xuống–Lm Vũ Minh Nghiễm

Cũng như Chúa nhật trước, Chúa nhật hôm nay Đức Kitô dạy chúng ta phải biết cầu nguyện như thế nào. Chúa Nhật trước, Ngài dạy chúng ta phải noi gương bà góa nghèo kia mà cầu nguyện cho kiên trì. Hôm nay Ngài dạy chúng ta phải noi gương người thu thuế mà cầu nguyện cho khiêm nhượng.

Chúng ta biết rằng người Do thái cầu nguyện một ngày ba lần: 9 giờ sáng, 12 giờ trưa, và 3 giờ chiều. Lời cầu nguyện được coi là hiệu nghiệm hơn hết là lời cầu nguyện dâng trong Đền thờ.

Hôm nay Chúa dạy dưới hình thức dụ ngôn. Có hai người Do thái cùng lên Đền thờ cầu nguyện. Một người là biệt phái (mà chúng ta quen gọi là Pharisiêu). Người kia là người thu thuế (chúng ta thường gọi là Publicanô). Nhóm Pharisiêu được gọi là biệt phái, vì họ tự đứng biệt lập ra thành một phái riêng. Họ là hạng người được coi là đáng kính, đạo đức. Trong dân chúng, họ là lớp người ưu tú. Họ giữ luật Chúa rất tỉ mỉ. Nhưng do chỗ giữ luật tỉ mỉ, và được kẻ khác coi là thánh thiện, mà có những người trong nhóm, họ sinh ra tự cao tự đại đối với những người chung quanh.

Trong dụ ngôn hôm nay, một người biệt phái như vậy lên đền thờ cầu nguyện cùng một trật với một người thu thuế. Hạng người sau nầy bị dân chúng coi như ngược lại với người biệt phái. Người biệt phái được coi là thánh thiện, thì người thu thuế bị coi là tội lỗi.

Hồi đó, dân Do thái bị người Rôma đô hộ. Chính phủ độ hộ không tự tổ chức thu thuế lấy, như chúng ta thấy ở Hoa kỳ chẳng hạn. Nhưng họ cho đấu thầu. Đã thầu thì ai thầu cao nhứt, sẽ được độc quyền thu thuế. Dĩ nhiên hạng người thu thuế nầy bị dân chúng gớm ghét và coi là hạng người tội lỗi. Tội lỗi phép công bằng. Tội bóc lột, làm giàu trên xương máu đồng bào. Tội làm tay sai cho chính quyền ngoại bang Rôma.

Vậy hôm nay có hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. Một là biệt phái, một là thu thuế.

Người biệt phái đứng thẳng người lên cầu nguyện rằng:

“Lạy Chúa con cám tạ Chúa, vì con không giống như những người khác, gian tham, bất công, ngoại tình. Không giống như tên thu thuế đứng kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng cúng vào đền thờ một phần mười tất cả các hoa lợi của con.”

Luật Do thái chỉ buộc ăn chay một năm một lần trong ngày lễ Đền tội. Nhưng có người đạo đức ăn chay trường, mỗi tuần hai lần, trong ngày thứ Hai và ngày thứ Năm. Chúng ta biết rằng hai ngày nầy là hai ngày chợ tại Yê-ru-sa-lem. Nhiều nơi, như tại các vùng quê bên Việt Nam ta, không có những nơi bán thức phẩm thường xuyên, không có các siêu thị sẵn sàng mỗi ngày. Dân chúng chỉ nhóm chợ một vài ngày trong tuần. Một vài ngày trong tuần, họ mang rau cỏ, trái trăng, thịt cá, lúa gạo… ra chợ bán. Và ngày đó mới ngày chợ.

Ở Yêrusalem, hai ngày mà người Do thái đạo đức quen ăn chay cũng là hai ngày chợ. Dân chúng lên nhóm chợ chung quanh đền thờ rất đông. Những người ăn chay lên đó, đi qua giữa đám đông, mặt mày xanh xao tiều tụy, áo quần lếch thếch. Ai cũng phải chú ý đến họ. Và trong số nầy, có ông biệt phái của dụ ngôn hôm nay.

Người Do thái phải dâng vào đền thờ một phần mười hoa lợi ruộng đất của mình. (Tl 14,22). Ông biệt phái hôm nay thì dâng vào đền thờ một phần mười về tất cả mọi thứ hoa lợi, dầu những thứ hoa lợi Luật không buộc đóng thuế.

Ông quả là tốt lành, đại lượng. Ông chỉ có cái tội nầy là tự phụ, khoe khoang và khinh người. Ông lên đền thờ nói là cầu nguyện, nhưng không phải cầu nguyện cùng Chúa, mà cầu nguyện với chính mình. Nói cách khác, không phải để chúc tụng ngợi khen Chúa, mà để chúc tung ngợi khen mình.

“Lạy Chúa, con không tham lam, bất công, ngoại tình. Con không như tên tội lỗi thu thuế kia đâu. Con ăn chay mỗi tuần những hai lần. Con dâng vào đền thờ một phần mười tất cả mọi thứ hoa lợi của con.”

Rõ ràng ông không van xin ơn gì cùng Chúa cả. Ông chỉ chúc tụng mình. Ông lên đền thờ là để dùng nhà Chúa làm diễn đàn, tự tuyên dương công trạng. Ông tự cho mình là người thánh thiện, tự trưng bày công nghiệp và nhân đức của mình, với mục đích là thóa mạ, phỉ báng, lên án người cùng lên đền thờ cầu nguyện với mình.

Ông biệt phái hôm nay giống hệt thầy Rabbi Simeon ben Jocai. Có lần thầy đã tuyên bố: “Nếu trên thế giới có hai người công chính, thì đó là tôi và con tôi. Nếu chỉ có một người công chính, thì người đó chính là tôi.”

Có người biệt phái nào dám khoe khoang trước bàn thờ Chúa như ông biệt phái hôm nay chăng? Dẫu sao Đức Giêsu đã muốn làm nỗi bật giáo huấn của Ngài để chúng ta khó quên dễ nhớ. Lời cầu nguyện chỉ dâng lên cho Chúa, không dâng lên cho ai khác. Lại càng không được dâng lên cho chính mình, như kiểu ông biệt phái hôm nay. Đó là tôn thờ mình. Kẻ tôn thờ mình thì phạm tội kiêu căng, trùm của Bảy mối tội. Đã phạm tội kiêu căng thì lời cầu nguyện ấy không thể đẹp lòng Chúa được.

Còn người thu thuế, nhân vật thứ hai trong bài dụ ngôn hôm nay, thì sao? Anh đứng cuối cửa đền thờ, cúi mặt xuống, đấm ngực, thưa lên cùng Chúa:

“Lạy Chúa, xin thương con là đứa tội lỗi.”

Anh tự biết mình là người tội lỗi, khốn nạn. Nhưng anh cũng biết Thiên Chúa là Đấng nhân lành, đầy tình thương xót. Và anh kêu cầu lòng thương xót Ngài thứ tha cho anh. Anh không dùng ngôn từ quyền thế của người cậy có công lênh, nhưng dùng lời lẽ khiêm nhu của người muốn cải thiện.

Và Đức Yêsu đã kết luận rằng:

“Khi về nhà, người thu thuế trở nên công chính. Còn người biệt phái thì trước sao sau vậy?”

Hơn nữa, ông mắc thêm tội. Tội tôn thờ chính mình. Tội kiêu căng, khinh miệt kẻ khác ngay trước mặt Thiên Chúa.

Bài dụ ngôn hôm nay dạy chúng ta những điều sau đây về sự cầu nguyện.

Trước hết, khi cầu nguyện, đối tượng tôi phải so sánh là chính Thiên Chúa, chứ không phải ai khác, hoặc chính mình tôi. Nếu thay vì nhìn vào chính mình, tôi nhìn vào Thiên Chúa là Đấng tốt lành cao cả vô cùng, tôi mới thấy mình thấp kém, hèn hạ, tội lỗi như thế nào.

Một đấng thánh vĩ đại như Thánh Phaolô mà đã tự nhận mình là kẻ thấp kém nhất (1 Cor 15,9), vì “yếu đuối” (2 Cor 12,9) đã bắt đạo và ngạo ngược(1Tm 1,13; Gl 1,13). Thánh Vincente Phaolô, một ngôi sao chói lọi trong công việc bái ái từ thiện, mà tự gọi mình là người “thấp hèn nhứt trên thế gian.”

Cầu nguyện không phải là dâng kiến nghị đòi hỏi, nhưng là cậy trông và phú thc vào Chúa Quang phòng, đại lưỡng vô song, khôn ngoan vô cùng.

Thứ đến, khi cầu nguyện, tôi không được tự cho mình là hơn kẻ khác. Tôi phải luôn luôn nhớ rằng tôi thuộc về đoàn lũ đông đảo những kẻ có tội, được Con Đức Chúa Trời đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc cho.

Người tự cao tự đại không thể cầu nguyện được. Cửa thiên đàng hẹp và thấp, chỉ quì xuống, đi bằng đầu gối, mới vào được.

Tại đền thờ thánh Phêrô ở Rôma, có một bức tượng Chúa chịu nạn do Thorvaldsen (1770-1844), nhà điêu khắc Đan mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng. Ông ta nhìn mãi, rồi lắc đầu nói:

– Tôi nghe đồn bức tượng nầy nổi tiếng là đẹp lắm. Nhưng tôi chẳng thấy gì là đẹp cả.

Một người quì sau lưng ông, nói:

– Ông phải quì gối xuống mới thấy đẹp.

Ông du khách quì gối xuống. Bây giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa chịu nạn.

Muốn đến gần Chúa, muốn được Chúa dủ tình thương xót, tôi cũng phải quì gối xuống mà van xin.

29. Con mắt–Lm. Vũ Đình Tường

Mắt là đèn soi cho chúng ta. Mắt giúp quan sát, nhìn sự việc. Có người ví von mắt là cửa sổ của tâm hồn. Rất nhiều trường hợp hai người cùng quan sát một sự việc, cùng dùng mắt kết quả nhìn khác nhau. Trường hợp hai người nghe cùng câu chuyện do một người kể, kết quả nhận định khác nhau. Tai, mắt hay ngũ quan không nắm vai trò chủ động trong mọi quyết định. Mắt thấy, tai nghe là bước mở đường cho bước kế tiếp đưa đến phán đoán. Khi phán đoán tai mắt đóng góp bao nhiêu phần trăm?

NHÌN KHÁC NHAU

Điều chắc chắn hầu như mọi biến cố quan trọng trong đời mỗi người nhìn một cách khác nhau, nhận định sự việc khác nhau mặc dù họ nhìn chung một sự kiện, nghe cùng một câu chuyện, do một người kể nhưng phán đoán mỗi người mỗi khác. Mắt giúp quan sát, nhìn đi nhìn lại cũng chỉ rõ bên ngoài, không thấu suốt nội tình, bên trong. Phán đoán dựa vào quan sát bên ngoài để đoán những gì bên trong đưa đến kết quả có thể là đúng cũng có thể sai. Bởi vì đoán nên không thể quả quyết. Khi quả quyết thì không còn đoán. Nếu đoán thì không thể xác quyết vì có thể còn những chuẩn đoán chính xác hơn, hợp lí hơn.

XÉT MÌNH

Phúc âm đưa ra trường hợp hai người cầu nguyện trong đền thờ. Một được Chúa nhận lời; một không. Cả hai cùng xét mình, nhìn lại cách ăn, nết ở trong thời gian qua. Trong thánh điện kết quả xét mình của hai người đối nghịch nhau.

Một đứng thẳng, ưỡn ngực cầu nguyện; một cúi mặt, đấm ngực ăn năn.

Một đứng gần gian cung thánh; một xa tít cuối đền thờ.

Một tự hào ăn ngay, ở lành; một hối hận vì tội đã phạm.

Một vỗ ngực tự xưng công chính giữ trọn luật; một đấm ngực ăn năn xin Chúa xót thương.

Cả hai đều nhìn vào chính mình, nhận xét về chính mình, cầu nguyện trong đền thờ. Người tự nhận là tội nhân được tôn vinh; người tự tôn vinh bị hạ xuống.

HAI NGỘ NHẬN

Tự nhận mình công chính là một ngộ nhận lớn, bắt nguồn từ kiêu hãnh, tự phụ. Thực thi đức ái và giữ trọn luật là nhiệm vụ chung mọi thành phần trong xã hội, không trừ ai. Làm xong, làm tốt nhiệm vụ được coi là công dân tốt. Trong Giáo Hội họ là người đầy tớ khôn ngoan và trung thành. Hoàn thành nhiệm vụ không biến ta thành công chính. Ta trở nên công chính nhờ Đức Kitô. Nói theo ngôn ngữ Phúc âm hôm nay ta được công chính hoá nhờ lòng thương xót Chúa.

“Lậy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi’.

Nhờ thành tâm thống hối, đấm ngực ăn năn sấp mình trước Thánh Nhan xin chúa thương xót để trở nên công chính. Như thế công chính hoá không phải do tài năng con người tự kiếm mà là đặc ân Chúa ban do khiêm nhường, thống hối, thành tâm và tạ ơn.

Khiêm nhường là con đường mở thêm lối đi dẫn ta đến cùng Chúa, đưa ta tới tha nhân. Kêu ngạo là con đường một chiều, không ngã rẽ. Đường dài mấy cũng có cuối đường. Như thế kêu ngạo là con đường cụt, đường dẫn đến sự chết. Người đi đường cụt bị tắc nghẽn nơi cuối đường. Không lối thoát.

Ngộ nhận thứ hai của ngưòi tự nhận công chính là soi mói, buôn điều. Không biết đang đi trên đường cụt. Đến khi nhận ra đã cuối ngày. Kêu ngạo, tự phụ che mất đường công chính. Tôn mình lên cao đến nỗi chỉ nhìn thấy người, còn mình thì không. Dùng quá nhiều thời gian kháo chuyện thiên hạ. Hãy nghe anh ta nói: “con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia’.

Trong lời cầu anh nhắc đến tạ ơn. Tạ ơn chân thành luôn đi với khiêm tốn. Thiếu lòng thành việc tạ ơn chỉ là môi mép. Người tự phụ không cần Chúa vì tin vào khả năng mình.

Nhắc đến việc tốt lành: ăn chay mỗi tuần hai lần và công đức mười phần trăm mức thu nhập.

Không thấy anh nhắc đến việc thương người nghèo, cho kẻ đói ăn, khát uống. Không nhắc đến thăm người đau yếu bệnh tật. Những người này không có trong đời của anh có lẽ vì “con không như bao kẻ khác’

PHÚC HỌA

Ngộ nhận xảy ra cho mọi thời đại. Thiếu cẩn trọng phúc biến ra hoạ, rơi vào ngộ nhận.

Thay vì đi xét mình, xét tội mình thì kháo tội người, buôn điều, chỉ trích, phê bình người khác. Tưởng như thế là giúp người, làm đẹp lòng Chúa. Lỗi lầm dễ mắc phải, xét tội người khác, cáo lỗi người khác tưởng làm như thế là làm phúc, giúp người trở về đường ngay nẻo chính.

Chê người là tự phong cho mình hay hơn.

Nói xấu người là tự cho mình tốt hơn.

Chỉ trích người là tự nhận mình đúng, người sai.

Làm thế là tự hại chính mình, đang chích cho mình liều thuốc Pharisiêu.

30. Hai hạng người cầu nguyện – Veritas–”Hãy Ra Khơi’

Bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe có thể không cần một câu chuyện hướng dẫn nào khác, nhưng tự nó gợi ý để chúng ta suy nghĩ về điều mà chúng ta có thể gọi là sự thành thật của người Kitô. Thành thật với chính mình, thành thật với kẻ khác và thành thật với Thiên Chúa.

Con người thành thật là con người nhìn nhận thực thể của mình và cảm nhận thực thể đó một cách trung thực. Thành thật trước tiên không có nghĩa là nói thẳng ra điều mình nghĩ hay điều mình cảm nhận. Nói thẳng điều mình nghĩ, điều mình cảm nhận được không đủ để sống thành đạt. Trước hết, yếu tố quan trọng phải là chân thành nhìn nhận thực thể mình, nhìn nhận chính điều mình nghĩ về mình, và khi ta nhận thực thể mình và ý thức những giới hạn của nó, ta sẽ không còn hứng thú để xét đoán kẻ khác.

Người thành thật ý tứ để đừng lừa gạt chính mình và cũng không lừa gạt kẻ khác. Người thành thật không thích người giả hình, không thích mánh mung, nói láo. Đây không phải là điều dễ, cần phải kiên trì quan sát mình, phải xét mình hằng ngày dựa theo lời Chúa và trong sự khiêm tốn vâng phục ơn soi sáng nội tâm của Chúa. Lời cầu nguyện của chúng ta cần dâng lên Chúa hằng ngày phải là: “Lạy Chúa, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Lạy Chúa xin thương xót con vì con là kẻ có tội.

Bài dụ ngôn hôm nay nêu bật lời cầu nguyện khiêm nhường của người thu thuế, anh không nhìn sang người khác, không dám so sánh mình với kẻ khác, nhưng nhìn vào mình và so sánh mình với mẫu gương của Chúa, qua đó anh đã khám phá ra những khuyết điểm của mình rồi khiêm tốn chấp nhận.

Chúng ta cũng vậy, mỗi lần chúng ta đặt mình trước nhan Chúa, khi cầu nguyện chúng ta hãy ý thức rằng, Thiên Chúa đã biết rõ cả rồi, đã biết trọn cả con người của chúng ta là như thế nào rồi, nên không cần che giấu tránh né. Nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng nhân từ và hay thương xót, nên chúng ta không quá lo sợ hay tuyệt vọng vì những bất toàn ấy mà hãy vươn lên cùng Chúa, xin Chúa chữa lành: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi”.

Trong lời cầu nguyện của người thu thuế, chúng ta còn có thể khám phá ra một yếu tố quan trọng khác nữa, khi cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi, là kẻ đã xúc phạm đến Chúa”. Người thu thuế kia tha thiết muốn kêu lên cùng Chúa, muốn hưởng nhờ lòng nhân từ của Ngài để tiến mãi trên con đường thiêng liêng, sống mối tương quan với Chúa mỗi ngày một tốt đẹp hơn.

Người Pharisêu không có được thái độ này, ông tự mãn với chính mình và ông nghĩ là do công trạng của mình tạo lập ra, như vậy lời cầu nguyện của ông thật ra không phải là lời cầu nguyện mà chỉ là những lời khoe khoang đi kèm với thái độ khinh dể kẻ khác.

Ước chi trong cuộc sống đức tin của mỗi người chúng ta, chúng ta đừng nhìn sang kẻ khác mà so sánh. Bởi vì chúng ta sẽ bị cám dỗ so sánh mình với những bất toàn của anh chị em và nâng mình lên khinh dể kẻ khác. Chúng ta hãy so sánh mình với chính mẫu gương trọn lành của Chúa để nhận biết chúng ta còn nhiều điều phải canh tân để tiến lên mãi: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi”.

Ước chi lời cầu nguyện này trở thành lời cầu nguyện của mỗi người chúng ta không những hôm nay mà trong mọi ngày của đời sống chúng ta, để chúng ta nhận lãnh ơn thương xót của Chúa và tiến lên mãi trong tình thương của Ngài. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.

31. Hai hạng người cầu nguyện

Dụ ngôn về “Hai hạng người cầu nguyện” của bài Tin Mừng hôm nay phê phán những người biệt phái tự hào mình là người công chính và khinh chê người khác. Người đó đứng riêng biệt một mình để cầu nguyện trong đền thờ, cử chỉ này nói lên phần nào thái độ tự hào và khinh dể người khác. Đứng riêng ra để khẳng định mình là mình, mình có đủ bản lãnh. Cung cách này được xác nhận thêm qua lời cầu nguyện của ông: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác…”. Coi mình không giống như kẻ khác là một vinh dự, một ơn phúc, một mục tiêu để phấn đấu, để dành cho được. Vì thế, khi được như vậy người ta không thể không sung sướng và tạ ơn, qua đó chứng minh sự khác biệt của mình với đại chúng.

Để chứng minh, người biệt phái kể ra một số khác biệt của mình với đại chúng, nhất là không giống như người thu thuế vốn nổi bật vì các nết xấu, hay cụ thể hơn nữa là ăn chay một tuần hai lần và dâng cúng cho đền thờ 1/10 hoa lợi.

Tóm lại, sống công chính là thi hành các giới răn của Chúa trong mười điều răn như không tham lam, không ngoại tình và tuân giữ các luật lệ của Môisê như ăn chay, dâng cúng vào đền thờ mà không cần biết tâm tình bên trong cần có. Giữ được như vậy, họ cho mình là người công chính mà khinh chê kẻ khác. Vơ đũa cả nắm, họ liệt kê tất cả mọi người vào hạng tội lỗi. Như thế có thể nói đứng riêng một mình là tư thế phản ảnh đích xác sự thánh thiện của người Pharisêu, nó cũng phản ánh quan niệm cũ về sự thánh thiện.

Nhưng trớ trêu thay, số người cho mình là công chính lại không được Chúa nhận cho là người công chính. Như vậy, vấn đề không phải là làm thế nào để được nên công chính cho bằng là phải hiểu thế nào là được nên công chính. Vì làm như thế cốt để cho ai cũng tưởng họ là nên công chính nhưng rốt cuộc là không phải công chính. Và ngược lại, kẻ mà ai cũng tưởng là không công chính thì họ lại được kể là công chính, được cứu độ. Được ơn công chính là ơn nhưng không của Thiên Chúa, như Ngài đã quyết định cho người thu thuế trong dụ ngôn được kể trên là người công chính.

Thiên Chúa không căn cứ trên thành tích nào của ta, và ơn cứu độ chẳng những không làm xa cách loài người mà là đưa ta đến chỗ kết hiệp mật thiết với Chúa hơn. Những việc ta làm không phải là nguyên nhân khiến ta được cứu độ, được nên công chính, nhưng là chính Thiên Chúa ban cho ta.

32. Người Pharisiêu với người thu thuế–Lm. Giuse Nguyễn An Khang

Người ta đếm được 50 dụ ngôn trong các sách Tin Mừng. Còn nhiều dụ ngôn Chúa nói không được các tác giả ghi lại. Riêng Luca có sở thích về dụ ngôn, đã ghi trên dưới 40 dụ ngôn, 15 là của riêng ngài. Dụ ngôn người Pharisiêu và người thu thuế chỉ có nơi Luca.

Bắt đầu câu chuyện, Luca cho thấy: Đức Giêsu gửi nó cho những người tự hào là công chính. Công chính theo Kinh Thánh không chỉ có nghĩa như hiện nay là trả cho mỗi người cái gì là của người đó, song còn là người có lòng kính sợ Chúa, không làm điều gì mất lòng Ngài, đồng thời thương yêu người thân cận, không làm hại người khác. Abraham, Giuse, Giacaria, Isave, Đức Maria… được gọi là người công chính, mỗi người tín hữu đòi phải trở nên công chính.

Tuy nhiên, con người không bao giờ là người công chính, song là người được công chính hóa, nói cách khác, con người không phải là người “có giᔑ mà là người “được thi ân”. Vì, “bởi tội không vâng lời của một người, mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người, mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế” (Rm 5,19).

Người Pharisiêu

Thế nhưng, một số người tự hào cho mình là công chính, khinh chê người khác, đó là những người Pharisiêu. Chúng ta đừng vội ác cảm với họ. Thời đó, người Pharisiêu được dân chúng kính trọng, không ai giữ luật Maisen hơn họ, điều đó đã được người Pharisêu tỏ bày khi cầu nguyện. Luật chỉ buộc giữ chay một ngày trong năm vào dịp lễ Yom Kippour, lễ đền tội, người Pharisiêu đã tự nguyện thực hành việc sám hối bằng việc ăn chay hai lần trong tuần. Luật buộc nông dân có nghĩa vụ trích một phần mười hoa mầu, để chăm lo người nghèo và việc tế tự trong đền thờ, người Pharisiêu đã tự ý nộp thuế thập phân cả những thực phẩm nhỏ nhất. Bởi vậy khi lên đền thờ cầu nguyện, người Pharisiêu có lý để tạ ơn Chúa về những việc lành đã làm.

Lời cầu nguyện của người Pharisiêu xem ra tuyệt vời, nó tinh tuyền, không có chút gì vị kỷ. Ông không xin điều gì, ông chỉ cảm tạ Thiên Chúa, đó là lời kinh tạ ơn. Thánh lễ của chúng ta cũng là một lời kinh tạ ơn. Thế nhưng người Pharisiêu có điểm không hay đó là tính kiêu ngạo tự mãn.

Trước hết, Luca lưu ý thái độ đứng sững của ông. Tư thế đứng không có gì đáng trách, người thu thuế cũng đứng cầu nguyện. Nhưng có nhiều cách đứng, cách đứng của người Pharisiêu nói lên niềm tự tin, phấn khởi, không có sự kính sợ Thiên Chúa.

Ông đến, để kể công chứ không cầu nguyện, ông phô trương sự công chính trước mặt Chúa như đã quen khua chiêng đánh trống khi bố thí. Ông không để ý đến Chúa, mà chỉ quan tâm đến mình, đến công trạng của mình. Ông cầu nguỵên nơi mình chứ không cầu nguyện với Chúa. Ông không cần Chúa ban thêm hay làm gì cho ông cả. Ông đủ rồi.

Chẳng những thế, ông còn khinh chê người khác. Đức Giêsu không đồng ý với một tấm lòng khinh miệt. Tấm lòng của Người hoàn toàn dịu dàng và nhân hậu. Thiên Chúa không khinh thị một ai. Một người càng khiếm khuyết, hư hỏng, bệnh hoạn, dị dạng… Thiên Chúa càng yêu người ấy. Một người càng bị khinh bỉ, càng được yêu thương bằng một tình yêu không cần đáp lại.

Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là Thiên Chúa của những người nghèo khổ, bị bỏ rơi, bị kết án, bị gạt ra ngoài lề, không được yêu thương. Con chiên đi lạc trong bụi gai bỗng nhiên hoàn toàn chiếm chỗ trong lòng người mục tử. Khinh chê! Làm thế nào người mục tử có thể khinh chê dù chỉ một con chiên. Một kinh nghiệm, ai cũng thấy: Một đứa trẻ có tật, không những không bị khinh chê mà còn chiếm trong lòng cha mẹ một vị trí quan trọng hơn cả những đứa con khỏe mạnh.

Ôi thật nghịch lý, tình yêu thuần khiết nhất, vô tư nhất, hướng về con người đang cần nó nhất, và xét trong một giới hạn không thể đáp trả tình yêu! Thiên Chúa lúc nào cũng như thế. Tình yêu không tính toán và không đòi đáp trả. Tình yêu tuyệt đối.

Thế nhưng người Pharisêu lại khinh chê người khác. Ông tưởng, ông công chính, không có tội, nhưng ông lại có tội rất nặng, tội tự kiêu tự đại. Tội của ông không phải là việc làm tồi tệ. Ông có vấn đề về thái độ, nhưng người dân châu Mỹ thường nói.

Trước hết là thái độ với Chúa, ông tự mãn, tự cho rằng mình đã tích trữ được một tín phiếu khổng lồ, ông coi Chúa như người mắc nợ. Sau là thái độ của với người khác, cho rằng ông là người công chính, còn những người khác đều tội lỗi.

Người thu thuế

Phần người thu thuế, ông đứng lẻn đàng xa, không dám ngước mắt lên, nhưng đấm ngực mà rằng: “Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ tội lỗi”. Phải, ông là người tội lỗi thực sự, ai cũng biết. Với cái nghề, một nghề không mấy tốt đẹp, bị đồng hương, đồng đạo khinh bỉ cho là giáo gian. Chẳng những cộng tác làm việc cho người Lamã, ông còn ăn cướp bóc lột dân. Ông không có quyền là công dân, mọi người tốt lành tránh xa.

Đau khổ hơn nữa, ông thấy mình quá xa Thiên Chúa, hoàn cảnh của ông cũng như gia đình thật vô vọng. Bởi vì để ăn năn hối cải, không phải chỉ từ bỏ đời sống tội lỗi tức nghề nghiệp, còn phải hoàn trả và bồi thường thêm một phần năm những số tiền, đã tham nhũng. Làm sao biết được ông đã biển thủ của ai?

Ông cảm thấy mình bị tội lỗi đè bẹp, ông nói với Thiên Chúa điều đó, ông không có công gì để kể, ông đầy tội lỗi, xứng với sự phán xét của người Pharisiêu. Ông không cậy dựa vào sức riêng mình, tín thác nơi Chúa, khấn xin Thiên Chúa thương xót, lời khấn xin của ông đã được chấp nhận. Đức Giêsu bảo: “Ta bảo các ngươi, người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Thiên Chúa đã tha thứ cho người này mà không tha thứ cho người kia”.

Lời phán quyết của Đức Giêsu đã giáng trên cử tọa lúc bấy giờ như một tiếng sét, chắc chắn không ai trong họ ngờ được điều đó. Đức Giêsu không cho một lời giải thích nào. Ngài chỉ nói cách đơn giản, đó là cách Thiên Chúa xét xử. Nhưng một cách gián tiếp, Ngài cho thấy lý do tại sao Thiên Chúa xem ra bất công, Thánh Vịnh 51,18-19 viết: “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận. Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát; một tấm lòng tan nát dày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê”.

Vâng, Thiên Chúa là thế đó, Ngài nhận lời người tội lỗi thất vọng và từ chối người chỉ để ý đến sự công chính của riêng mình. Ngài là Thiên Chúa của những người thất vọng, lòng thương xót của Ngài vô biên, Ngài muốn tha thứ. Aharon đúc tượng bò vàng, hối lỗi ăn năn; Đavít giết chồng cướp vợ, đã hết lòng sám hối; Dân thành Ninivê đã nghe lời tiên tri Giona, ăn chay, mặc áo nhặm, bỏ tro trên đầu đền tội… tất cả đã được Chúa tha thứ. Người Pharisiêu tự cho mình là công chính, như cốc nước đầy không cần đổ đầy nữa, không được tha thứ.

Và để kết luận, Đức Giêsu nói: “Vì phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.

33. Ai là người công chính? – Thiên Phúc–”Như Thầy Đã Yêu’

Ngày kia, Khổng Tử dẫn học trò từ nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám học trò có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai môn sinh được Khổng Tử sủng ái nhất. Thời Đông Chu, loạn lạc khắp nơi khiến dân chúng lâm cảnh lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói cầm hơi.

Ngày đầu tiên khi đến đất Tề, Khổng Tử và các môn sinh được một người giàu có biếu cho một ít gạo. Khổng Tử liền phân công: Tử Lộ và một số môn sinh khác vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm nhận việc nấu cơm.

Đang khi nằm đọc sách ở nhà trên, Khổng Tử bỗng nghe tiếng động ở nhà bếp, nhìn xuống, người bắt gặp Nhan Hồi đang mở vung xới cơm cho vào tay nắm lại từng nắm nhỏ rồi từ từ đưa vào miệng. Thấy cảnh học trò đang ăn vụng, Khổng Tử nhìn lên trời than thở: “Người học trò tin cẩn nhất của ta lại là kẻ ăn vụng?” Khi Tử Lộ và các môn sinh khác trở về thì nồi cơm cũng vừa chín. Khổng Tử cho tập họp tất cả lại và nói:

– Bữa cơm đầu tiên này trên đất Tề làm cho thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương. Thầy nhớ đến cha mẹ, cho nên muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ, các con nghĩ có nên không? Nhưng liệu nồi cơm này có sạch chăng?

Nhan Hồi liền chắp tay thưa:

– Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch. Khi cơm vừa chín, con mở vung ra xem thử, chẳng may một cơn gió tràn vào, bò hóng bụi trần rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm, con đã nhanh tay đậy nồi cơm lại nhưng không kịp. Sau đó, con định xới lớp cơm bẩn vất đi, nhưng nghĩ rằng cơm ít mà anh em lại đông, nên con đã ăn phần cơm ấy. Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi.

Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngẩng mặt lên trời mà than rằng:

– Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Suýt nữa Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ!

Cho dù là bậc hiền triết như đức Khổng Tử thế mà suýt nữa đã trở thành kẻ hồ đồ, suýt nữa đã phê phán người học trò rất mực chân thật và khiêm tốn, sẵn sàng chịu thiệt về phần mình để được lợi cho anh em. Đó cũng là cám dỗ rất thường gặp nơi những người được xem là đạo đức thánh thiện, những người đã đắc thủ được một số nhân đức nào đó, đã làm được nhiều việc lớn lao, đã leo lên được chức vụ cao trong xã hội, đã đạt được một số thành tích trong đạo ngoài đời. Họ dễ tự mãn và khinh rẻ người khác lắm, nếu chẳng công khai thì cũng ngấm ngầm, lúc thì giấu được khi thì lộ ra. Chuyện ấy thường tình lắm nên Chúa Giêsu mới nhắc nhở chúng ta qua dụ ngôn: “Người Pharisêu công chính và người thu thuế tội lỗi”.

Người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện nhưng thực ra là để khoe khoang thành tích. Ông thưa chuyện với Chúa nhưng thực ra ông đang độc thoại một mình. Ông “tạ ơn Chúa” nhưng thực ra là ông muốn Chúa hãy biết ơn ông.

Quả thật, bảng liệt kê công trạng của ông không có gì sai. Những điều luật cấm ông không dám làm, những điều luật buộc thì ông còn làm hơn mức qui định. Ông thật là con người đúng mực, một con người hoàn hảo, không có gì để chê trách, một tín đồ trung thành với lề luật, một mẫu gương tuyệt vời. Chỉ tiếc có một điều là ông quá tự mãn tự kiêu nên bao việc lành phúc đức của ông theo “cái tôi” bọt bèo của mình mà trôi ra sông ra biển hết. Cái tôi của ông quá to, đến nỗi ông chỉ nhìn thấy mình mà không thấy Chúa; công trạng của ông quá nhiều đến nỗi ông chỉ nhìn thấy nó là đức độ của ông chứ không phải là do ơn Chúa; cái tự mãn của ông quá lớn, cho nên ông thẳng thừng khinh miệt anh em.

Sai lầm trầm trọng của ông Pharisêu bắt đầu từ câu này: “Vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia”. Giá như ông đừng so sánh cuộc sống của ông với người khác, mà biết đem cuộc sống của mình đối chiếu với cuộc sống thánh thiện của Đức Kitô, thì ông sẽ nhận ra mình còn thiếu sót biết là bao nhiêu, mình còn bất toàn biết là dường nào. Chính khi đó, ông mới cần đến lòng nhân từ xót thương của Chúa, cần đến sự tha thứ và khoan dung của Người. Chính lúc đó, ông mới biết cầu nguyện bằng những lời lẽ chân thành và khiêm tốn của người thu thuế: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.

Sai lầm căn bản của người Pharisêu còn ở chỗ ông đã không nhận ra sự công chính là một ân huệ Chúa ban chứ không phải tự ông mà có, tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật được. Chính khi tự mãn thiếu khiêm tốn, và nhận sự công chính ấy là của riêng mình thì ngay lúc đó ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.

Người thu thuế nhận mình lầm lỗi, ông biết rõ tội mình vô phương cứu chữa, chẳng dám ngước mắt nhìn lên, chỉ biết đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót Chúa. Ông bất lực hoàn toàn, chỉ phó thác cho lòng Chúa khoan dung. Ngay lúc đó, ông đã trở nên công chính bên trong. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho ông nên công chính.

Như thế, những kẻ cho mình là thánh thiện, là đầy đủ, thì sẽ trở về con số không; còn những kẻ nhận mình là không thì sẽ đủ chỗ cho Đấng Vô Cùng. Vì phàm “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.

Lạy Chúa, chúng con có là gì mà chẳng do lòng Chúa thương ban. Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận mình thiếu sót lỗi lầm, để được Chúa xót thương tha thứ.

Xin cho cuộc sống chúng con luôn biết rập theo khuôn mẫu thánh thiện của Đức Kitô là Đấng Công Chính tuyệt đối. Amen.

34. Hài lòng về mình hay về Thiên Chúa?

Dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế, nói theo ngôn từ thời nay, có thể gọi là một tiểu luận chớp nhoáng về một sự tương phản. Đức Giêsu dạy chúng ta thái độ phải giữ trước mặt Thiên Chúa. Có hai thái độ: tự mãn của người biệt phái, ăn năn khiêm nhường của người thu thuế. Tự mãn về mặt đạo đức, nghĩa là hài lòng về mình, cho dẫu có ảo tưởng, đó cũng là một cách tạ ơn Thiên Chúa. Trái lại khiêm nhường chính là sáng suốt. Đức Giêsu nêu rõ sự tương phản mạnh mẽ giữa hai nhân vật tiêu biểu hai thái độ trên. Người kết thúc dụ ngôn bằng lời dạy về cách làm đẹp lòng Thiên Chúa. Một sắc thái quan trọng cần ghi nhận: hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. “Cầu nguyện” ở đây là gì? Cầu nguyện là muốn được Thiên Chúa nhìn nhận mình vô tội, mình là kẻ lành, tức là muốn được hưởng lòng nhân lành của Thiên Chúa. Căn cứ vào đâu mà người biệt phái cầu nguyện? Căn cứ vào những việc đạo đức, những việc tuân thủ, mà thật ra trong những việc ấy người biệt phái không phải là không tỏ ra ít nhiều độ lượng. Còn người thu thuế thì sao? Người này biết mình lắm tội nên chỉ trông cậy vào chính Thiên Chúa, vào lượng từ bi, vào tình yêu thương của Thiên Chúa. Một kẻ kể công, một người van xin. Đó là sự khác biệt rất có ý nghĩa giữa thái độ khép kín và tâm tình cởi mở. Chúng ta đặt vấn đề: Thái độ nào được Thiên Chúa từ bi nhân hậu chúc phúc? Chúng ta phải đối xử với anh em đồng loại như thế nào?

1) Thiên Chúa chúc phúc cho kẻ khiêm nhường tin cậy. Như vậy, khiêm nhường, xét về căn bản, là mở rộng tấm lòng đón lấy niềm vui. Hai yếu tố của khiêm nhường là sáng suốt và tin cậy. Sáng suốt cho nên biết rõ thực trạng lương tâm mình. Sáng suốt cho nên khám phá ra nỗi cực khổ lớn lao của mình, do đó có thể đâm ra thoái chí tuyệt vọng. Tuy nhiên vì tin cậy cho nên tâm hồn không bị lay chuyển. Khám phá ra nỗi cực khổ của mình trước con mắt Thiên Chúa, trong khi biết rõ Thiên Chúa là tình thương –đó là phương cách rất hữu hiệu để được Thiên Chúa thứ tha thương xót. Nếu chúng ta thành thật, nghĩa là thực tế quyết tâm muốn ra khỏi hoàn cảnh khốn khổ, thì sau khi than thở với Thiên Chúa, trên đường ra về chúng ta được Người dõi theo với đầy lòng nhân từ thương mến, chúng ta sẽ có được niềm vui sâu rộng nhất.

2) Thái độ tự mãn, hài lòng về mình, ngang nhiên trước mặt Thiên Chúa, ngang nhiên trước mặt tha nhân, là điều làm mất lòng Người. Trong chúng ta ai mà không có lúc muốn cho mình là tốt, là hoàn hảo trước mặt tha nhân? Chúng ta có thật tâm chọn lấy thái độ khiêm nhường làm đẹp lòng Thiên Chúa không? Chúng ta rất dễ sa vào cơn cám dỗ muốn đề cao mình. Chúng ta làm một trắc nghiệm: gặp trường hợp bị người ta coi rẻ, chúng ta phản ứng thế nào? “Chừng nào đến lúc người ta không khen ngợi mình như mình mong đợi, mà lại làm phật ý mình, lúc đó càng tỏ ra nhũn nhặn kiên nhẫn bao nhiêu mình càng thật sự có những đức tính ấy bấy nhiêu, chẳng có gì khác hơn” (thánh Phanxicô). Cũng như khiêm nhường tin cậy thì đẹp lòng Thiên Chúa, nhũn nhặn thành thật thì đẹp lòng người ta. Cả hai thái độ đều mở rộng trí óc và tâm hồn để đón tiếp, trao đổi, vui sướng.

35. Chỉ công đức không mua được thiên đàng–Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

Ngay sau khi dạy cho các môn đệ biết về việc cần thiết phải cầu nguyện luôn luôn và cầu nguyện cách kiên trì, với tất cả lòng tin tưởng (dụ ngôn “Bà goá quấy rầy”), Chúa Giêsu còn dạy các môn đệ biết phải có tâm tình và thái độ nào khi cầu nguyện, qua dụ ngôn “Người biệt phái và người thu thuế”. Đây là một trong những dụ ngôn kinh điển của Tin Mừng Luca. Dụ ngôn đề cập 2 nhân vật chính: người thu thuế và người biệt phái. Cả hai cùng lên Đền Thờ cầu nguyện.

1. Thái độ của người biệt phái khi cầu nguyện là gì?

Người biệt phái đã tự hào cho mình là người công chính. Thế ông đã sống thế nào mà tự cho mình là một người công chính, một “á thánh”? Thưa, ông đã thực hành nghiêm chỉnh những gì luật dạy: không trộm cướp giết người, không tham ô hối lộ, không cờ bạc rượu chè, không xì ke ma tuý, không số đề bia ôm… Nói cách khác, ông chẳng làm gì đáng chê, đáng trách. Ông còn làm những việc đạo đức hơn cả những gì luật dạy: “Mỗi tuần tôi ăn chay hai lần” (Lc 18,12). Trước thời lưu đày Babilon, luật chỉ buộc mỗi năm ăn chay một lần vào dịp Lễ Xá Tội (x. Lv 23,27). Sau lưu đày, người ta đã thêm vào luật một lần ăn chay nữa để tưởng nhớ cảnh Giêrusalem bị tàn phá. Nhưng người biệt phái này tỏ ra rất đạo đức, mỗi tuần tự nguyện ăn chay thêm 2 lần vào ngày Thứ Hai và Thứ Năm (tức là 104 lần/năm) để đền bù những thiếu sót của dân tộc đối với lề luật (x. Tanila Hoàng Đắc Ánh, Bài giảng Chúa Nhật – Tin Mừng theo Thánh Luca, tr. 214). Chưa hết ông còn tự phụ kể lể: “Tôi nộp thuế Thập phân về hết mọi vật tôi mua” (x. Lc 18,12). Luật chỉ buộc dâng một phần mười lợi tức cho các thầy Lê-vi; trong khi đó, người Biệt phái này tình nguyện dâng một phần mười tất cả các thứ, kể cả các thứ ông mua được vốn không buộc phải dâng.

Như vậy, rõ ràng những điều ông làm là rất tốt, tốt hơn điều Thiên Chúa đòi hỏi. Ông là người giữ đạo rất mẫu mực, không có gì đáng chê trách. Có lẽ ông còn mẫu mực hơn nhiều người Công giáo chúng ta gấp bội.

Nhưng vì sao ông lại không đẹp lòng Thiên Chúa? Vì sao Thiên Chúa không nhận lời cầu nguyện của ông? Thưa vì 2 lý do:

– Lý do thứ nhất, vì ông đã tự mãn tự phụ và kể công trước mặt Thiên Chúa, như thể sự công chính ông đang có là nhờ vào công trạng của mình, và như thể Thiên Chúa mắc nợ ông, vì thế Thiên Chúa phải trả công, phải ban thưởng cho ông. Ông lầm tưởng rằng với công đức của mình, ông có thể mua được Nước Thiên Đàng.

– Lý do thứ hai là vì ông tự cao tự đại, cậy dựa vào công đức của mình mà khinh thường người khác. Đại khái ông đã vênh váo: “Lạy Chúa, con không giống như thằng thu thuế khốn nạn đáng sa hoả ngục, đang đứng cuối nhà thờ kia kìa! Chắc là Chúa thấy nó rồi đó”. Rõ là ông không hề biết đấm ngực mình mà chỉ đấm ngực người khác.

Như thế, động cơ của những việc đạo đức ông làm là để tỏ ra mình là người công chính, chứ không phải là do lòng yêu mến. Ông chẳng mến Chúa mà cũng chẳng yêu người. Chính vì thế mà khi ra về, chẳng những ông không được tha thứ mà còn mắc thêm tội: tội kiêu ngạo. Ngược lại, người thu thuế tội lỗi thì được tha thứ và được nên công chính.

2. Thái độ của người thu thuế như thế nào mà lại được Thiên Chúa tha thứ và được nên công chính?

Có phải là do anh ta đã có nhiều công trạng đặc biệt không? Có phải do anh ta là người đạo đức và bác ái không? Hoàn toàn không! Anh ta chẳng có công trạng gì, ngoài một “mớ tội” công khai. Bởi lẽ theo cái nhìn thời bấy giờ, tất cả những người thu thuế đều bị liệt vào hạng người tội lỗi công khai đáng khinh bỉ, hạng mọt dân bán nước, tiếp tay với ngoại bang bóc lột chính đồng bào của mình…. Vậy thì do đâu mà anh ta được nên công chính, như lời Chúa Giêsu quả quyết ở đoạn cuối Tin Mừng: “Người thu thuế được nên công chính, còn người pharisêu thì không”? (x. Lc 18,14). Do trước mặt Chúa, anh biết khiêm tốn nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Thể hiện qua các cử chỉ: đứng xa xa mà không dám tới gần cung thánh, cúi đầu, đấm ngực… Tất nhiên là đấm ngực chính mình, chứ không phải đấm ngực người khác như người Biệt phái. Hơn nữa, còn do anh biết giục lòng thống hối ăn năn một cách sâu xa, và tha thiết kêu xin lòng thương xót thứ tha của Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Chỉ với một lời cầu xin ngắn gọn, có thể nói được là ngắn gọn nhất, mà anh lại được trở nên công chính. Thế mới hay lời Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: “Phàm ai nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 18,14).

3. Phần chúng ta thì sao?

Chúng ta nên bắt chước thái độ của người nào khi chúng ta cầu nguyện? Của người biệt phái hay của người thu thuế? Có khi nào tôi rơi vào thái độ của người Pharisiêu không? Có đấy! Đó những lúc tôi đã gân cổ tranh cãi với người khác: “Tao đúng, mày sai; tao có lý, mày vô lý”… Đó là những lúc tôi bỉu môi, lên tiếng chê bai những người mà tôi cho là xấu xa, đáng trách. Đó là những lúc tôi tự cao tự đại vì thấy mình hơn người nào đó về nhiều mặt: đẹp trai hơn, xinh gái hơn, học giỏi hơn, con nhà giàu có hơn, v.v… Như vậy tôi chính là người Biệt phái đứng nghênh ngang trong Đền Thờ và khoe công trạng của mình với Chúa. Chúa không cần những cái đấm ngực thình thịch “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Chúa cũng chẳng cần công trạng của tôi. Chúa chỉ cần tấm lòng khiêm nhường thống hối của tôi.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết khiêm cung để nhận ra mình cũng đầy những thói hư tật xấu, đầy lỗi tội, để hiểu và cảm thông với anh chị em mình hơn, nhất là để biết xin Chúa thứ tha và biết cất lời ngợi khen một mình Chúa là Thiên Chúa, là Đấng Thánh, ngàn trùng chí thánh. Amen.

36. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

LÀM THẾ NÀO ĐỂ LỜI CẦU NGUYỆN ĐƯỢC CHÚA CHẤP NHẬN

Tin Mừng Lc 18: 9-14: Tin Mừng hôm nay đề cao lời cầu nguyện khiêm nhường của người Thu Thuế, không nhìn sang người khác, không so sánh mình với kẻ khác, nhưng nhìn vào chính mình và so sánh mình với mẫu gương của Chúa.

Ở Palestine, thời Chúa Giêsu, người ngoan đạo giữ ba giờ cầu nguyện mỗi ngày, lúc chín giờ sáng, mười hai giờ trưa và ba giờ chiều.

Lời cầu nguyện được kể là linh nghiệm đặc biệt nếu cầu nguyện trong Đền Thờ, và vì thế vào những giờ đó nhiều người đến Đền Thờ cầu nguyện, chính vì thế Chúa Giêsu nói về hai người lên Đền Thờ cầu nguyện: Người Biệt Phái và Người Thu Thuế.

Người Biệt Phái đứng giữa Đền Thờ và thầm nguyện bằng câu “tôi tạ ơn Chúa”, nhưng thực ra ông không nói với Chúa mà là nói với chính mình.

Ông vui mừng vì so sánh với kẻ khác thì ông thuộc một giai cấp riêng, mọi người khác đều tham lam, bất chính, ngoại tình, và điển hình là bọn Thu Thuế gian tham tội lỗi. Thay vì nhìn vào Thiên Chúa, ông đã nhìn vào người Thu Thuế, ông đã khoe rằng chẳng những đã giữ mình thoát khỏi tội lỗi, lại còn làm được nhiều việc lành phúc đức hơn.

Xem thái độ cầu nguyện của người Biệt Phái, ta thấy ông ta rất tự mãn. Có nhiều chữ “tôi” trong lời cầu nguyện của ông. Tôi thế này, tôi thế nọ, tôi không như thế này, tôi không như người khác. Rốt cuộc, người Biệt Phái lại là người quay vào mình, ông ngắm nghía vẻ đẹp của ông trước Thiên Chúa, dù chúng ta tưởng ông đã mở lòng khi nói: “Lạy Thiên Chúa, con tạ ơn Ngài”. Tạ ơn thực sự là nhìn nhận mọi sự mình làm được đều do ơn Chúa ban. Tạ ơn là quay về với Thiên Chúa, nhìn nhận Ngài là Nguồn Mạch, là Trung Tâm, là Sức Sống của cả đời mình. Người Biệt Phái đã không tạ ơn thực tâm, vì ông quay vào mình, coi mình là trung tâm, là tác giả mọi điều tốt đẹp ông đã làm. Như thế Thiên Chúa chỉ là một người mà ông đến gặp để kể công và đòi nợ. Thiên Chúa phải trả cho ông Nước Trời vì ông đã có công. Người Biệt Phái không xin Chúa điều gì, bởi vì ông không thấy mình thiếu gì cả. Thiên Chúa chẳng thể cho ông điều gì, vì ông đã đầy ắp. Vì tự mãn, nên ông mất đi một khả năng quan trọng, đó là mở ra để đón nhận Thiên Chúa vào đời mình (Augustine).

Tại Đền Thờ Thánh Phêrô có một bức tượng Chúa Chịu Nạn do Thorvaldsen (1770-1844) nhà điêu khắc Đan Mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng, ông ta nhìn mãi rồi lắc đầu nói: tôi nghe đồn bức tượng này nổi tiếng là đẹp lắm nhưng tôi chẳng thấy có gì đẹp cả. Một người quỳ sau lưng ông nói: ông phải quì gối xuống mới thấy đẹp. Ông du khách liền quì gối. Bấy giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa Chịu Nạn. Muốn gặp gỡ Chúa, muốn đón nhận lòng thương xót của Người, con người cần quì gối với tâm tình khiêm tốn.

Tin Mừng hôm nay đề cao lời cầu nguyện khiêm nhường của người Thu Thuế, không nhìn sang người khác, không so sánh mình với kẻ khác, nhưng nhìn vào chính mình và so sánh mình với mẫu gương của Chúa, qua đó anh đã khám phá ra những khuyết điểm bản thân rồi khiêm tốn chấp nhận. “Lạy Chúa! Xin thương xót con”. Lời cầu nguyện của người Thu Thuế thật đơn giản. Ý thức được thân phận yếu hèn tội lỗi của mình, ông hoàn toàn cậy dựa vào lòng thương xót của Chúa. Đó là lời cầu nguyện của người ở trong sự thật và được sự thật giải thoát khỏi tội lỗi. Lời cầu nguyện khiêm nhường là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa.

Quả thật, người Thu Thuế nhận mình lầm lỗi, ông biết rõ tội mình vô phương cứu chữa, chẳng dám ngước mắt nhìn lên, chỉ biết đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót Chúa. Ông bất lực hoàn toàn, chỉ phó thác cho lòng Chúa khoan dung. Ngay lúc đó, ông trở nên công chính. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho ông nên công chính.

Sau khi đưa ra hai thái độ cầu nguyện của người Biệt Phái và Thu Thuế, Đức Giêsu đã nhận định như sau: ”người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không”(Lc 18,14).

Đức Giêsu muốn nói, lời cầu nguyện của người Thu Thuế với thái độ khiêm tốn và thống hối nên được ơn nghĩa với Thiên Chúa và được ơn tha thứ; còn lời cầu nguyện của người Biệt Phái với thái độ tự mãn thiếu lòng khiêm tốn và hoán cải, vì ông chỉ để ý đến sự công chính của riêng mình nên không được ơn nghĩa gì trước mặt Chúa và không được tha thứ “vì ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” Amen.

37. Ai là người công chính?–Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

LỜI CẦU CỦA NGƯỜI PHARISÊU

“Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.’” (Lc.18,9-12).

Mở đầu cho lời cầu nguyện, sau khi chào Chúa bằng hai tiếng “tạ ơn”, ông liền thực hiện một cuộc so sánh giữa mình và “người thu thuế” để hình ảnh mình được nổi bật, và nhờ đó Chúa “thấy rõ” được sự “công chính” của mình thật “không thể chê vào đâu được”!

Trong cách so sánh này, người Pharisêu thật như một họa sĩ sành điệu. Trước tiên, ông cho gam màu đen tối bao quanh bằng những hình ảnh của phường “tội lỗi”, điển hình như tên thu thuế kia: “con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia”, để rồi, ngay sau đó, ông tô đậm hình ảnh của ông với gam màu rực sáng bằng những công đức mà ông đã tự thấy mình đã chu toàn hoàn hảo: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.”

Người Pharisêu cố tạo cho mình hình ảnh “rực sáng”, và tất nhiên là muốn “tỏa sáng” giữa “bao kẻ khác”, từ đó, người Pharisêu có dáng đứng đầy tự hào, đầy kiêu hãnh – “đứng thẳng” – khi cầu nguyện. Cung cách cầu nguyện của người Pharisêu tương tự như cung cách của người ngồi vào vòng “đàm phán” với đối phương với tư thế “mạnh” của kẻ đang nắm ưu thế, đầy tự tin, đặt sệt tự tôn.

Cách cầu nguyện như vậy, giống hệt cách cầu nguyện mà Chúa Giêsu đã từng dạy các môn đệ của Ngài phải xa lánh: “Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy” (Mt.6,5).

Cầu nguyện kiểu như Pharisêu là lời cầu nguyện để “vinh danh chính mình” chứ không phải “vinh danh Thiên Chúa”. Vì họ “tự nhận” và “tự tôn” họ đã nên công chính rồi.

Chính vì thấy mình đã nên công chính, nên họ trở nên mù lòa không còn nhận ra mình là kiếp người tội lỗi nữa. “Nhân vô thập toàn”. “Bảy mươi chưa gọi mình lành”… Những người Pharisêu không còn thấy được những thiếu sót của thân phận con người. Và sự đui mù tệ hại nhất, đó là họ không còn thấy sự kiêu căng nơi con người của họ. Một khối kiêu căng to đùng ở trong chính tâm hồn họ, mà họ vẫn không thấy, họ vẫn cho rằng lòng họ đạo đức và trong sáng. “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn” (Ga 9,40).

Vì họ tự cho mình có công đức, nên họ cho rằng đương nhiên là họ được Chúa ban ơn. Nên lời cầu nguyện của họ tuyệt nhiên không thấy kêu cầu đến lòng thương xót của Chúa, mà chỉ khoe khoang và phô trương công đức.

Vì họ cho mình là người công chính, nên họ khinh thường và loại trừ anh em đồng loại. Họ tự cho mình quyền được hưởng những ơn lộc Thiên Chúa, và xua đuổi anh em đồng loại ra khỏi con tim của họ. Họ từ bỏ anh em đồng loại của họ. Từ bỏ có nghĩa là không thể tha thứ. Không tha thứ cho anh em được, thì Thiên Chúa cũng không tha thứ cho con người. “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt.6,14).

Nếu không được Thiên Chúa thứ tha, con người không thể trở nên công chính. Vì con người chỉ có thể nên công chính, khi con người được là con Thiên Chúa.

LỜI CẦU CỦA NGƯỜI THU THUẾ

“Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc18,13).

Sau khi kêu cầu đến thánh danh Chúa, là lời van xin Chúa thương xót. Thật ngắn gọn. Có thể người thu thuế không còn biết nói gì thêm! Vì anh chắc đã tin rằng Chúa đã hiểu thấu nỗi lòng của anh. “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin” (Mt.6,7).

Người thu thuế đang cần gì? – Cần Chúa thương tha thứ.

Xin thương xót là khát khao được Chúa thứ tha những lỗi lầm. Khát khao được thứ tha, là khát khao được vẫn là con Chúa.

Khát khao được vẫn là con Chúa, là nhìn ra thân phận bọt bèo, tro bụi, chẳng nghĩa lý gì, nếu không có Chúa. Điều ấy, cũng có nghĩa là nói lên: “con mãi mãi cần đến Chúa”.

Tâm tình ấy từng bước vươn lên, để từ những lời van xin biến thành những lời ca tụng. Từ những giọt nước mắt ăn năn biến thành những nụ cười hạnh phúc. Từ cử chỉ ngại ngùng khép nép “đứng đằng xa”, đến việc được Chúa ôm vào lòng tràn đầy yêu thương tha thứ.

Và thế là tình yêu Thiên Chúa được ca tụng đến muôn đời.

Vậy, lời kêu xin Thiên Chúa thương xót chính là lời ca tụng tuyệt vời, như lời Chúa Giêsu tóm gọn trong giáo huấn của Ngài: “Yêu thương như Thầy”.

Tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa và biết múc nguồn tình yêu Thiên Chúa để chia sẻ với tha nhân, con người sẽ không có sự lên án nhau, không có sự loại trừ nhau.

Lời nguyện cầu của người thu thuế được đón nhận. Ông trở nên công chính từ giọt lệ thành tâm sám hối. “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không” (Lc.18, 14).

ĐỂ KẾT LUẬN

Trong dòng đời, ai biết ai công chính, ai biết ai tội lỗi?

Có những người trông thật công chính lại cực kỳ gian xảo! Có những tên trông gian manh nhưng lòng lại rất chân thành! Có những người ở địa vị cao trông rất đạo mạo lại có những hành động lừa đảo, dã tâm. Có những tên vô danh tiểu tốt lại âm thầm làm việc chân thiện hết lòng hết dạ!

Nhận ra thiện ác đã là khó, nhận ra người thiện người ác lại càng khó hơn!

Nhận ra hàng thiệt hàng giả đã là khó, nhận ra người thiệt người giả lại càng khó hơn!

Ai là người công chính? Đừng vội trả lời. Đừng vội xét đoán. (Lc.6,37). Chỉ có Thiên Chúa, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, mới có quyền kết luận. (Mt.6,4).

Trong Khổng Tử Gia Ngữ có câu chuyện “Thế nào là kẻ trộm” như thế này: Tử Cống được bổ làm quan Tể Tướng ở xứ Tín Dương. Khi sắp đi nhận chức, đến từ biệt Khổng Tử. Khổng Tử nhân bảo Tử Cống: – Phải siêng năng, phải cẩn thận. Chớ cướp, chớ đánh, chớ bạo tàn, chớ trộm cắp…

Tử Cống đáp: – Tứ này ngay từ lúc nhỏ đã theo học thầy là bực quân tử, có khi nào lại trộm cắp để lụy đến thân?

Khổng Tử nói: – Ngươi chưa hiểu nghĩa.

Ôi! đem người hiền đức này để thay người hiền đức kia, thế là cướp. Đem kẻ bất tiếu này để thay kẻ bất tiếu kia, thế là đánh đập. Hờ hững mệnh lệnh mà gấp rút hình phạt, thế là tàn bạo. Nhận ra điều thiện của người để làm ra điều thiện của mình, thế là trộm cắp. Trộm cắp đây không phải là trộm cắp tiền của vậy!

Lạy Chúa, Con yếu đuối quá, xin thương xót con, xin biến đổi sự yếu đuối của con thành sức mạnh cho cuộc đời con, tất cả nhờ lòng thương xót của Chúa. Amen.

38. Cúi mình xuống–Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Dụ ngôn người Biệt phái và Thu thuế lên Đền thờ cầu nguyện cho thấy sự tương phản giữa hai thái độ của con người trước tình yêu thương bao la của Thiên Chúa. Người Biệt phái là nhân vật được xã hội đương thời kính trọng, vì thuộc thành phần nhiệt tâm giữ luật, thực thi đức ái hơn nguời khác. Người thu thuế, kẻ bị xã hội mạt sát, khinh chê. Hai mẫu người đối lập cùng bước vào Đền thờ và làm cùng một công việc là cầu nguyện. Tại đây, sự tương phản giữa hai con người trở nên rõ nét khi tâm tính và thái độ sâu kín được bộc bạch trước nhan Thiên Chúa.

Người Biệt phái ung dung tự tại, đứng thẳng cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa, con cảm tạ Chúa vì con không giống các người khác, không tham lam, không bất công, không ngoại tình hay như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, dâng một phần mười thu nhập của con. Người Biệt phái đang báo cáo thành tích. Ông nói điều ông đã làm và những gì ông làm thì không chê vào đâu được: không gian tham, không chiếm đoạt, không rối vợ rối chồng, không đam mê tội lỗi, thậm chí về phần đạo đức bác ái, ông còn làm quá điều luật dạy.Thường người ta chỉ ăn chay một ngày trong năm vào dịp lễ Sám hối, đàng này ông ăn chay hai ngày trong tuần. Luật buộc các nông dân nộp một phần mười sản phẩm cho việc phụng tự, ông lại nộp thuế thập phân tất cả thu nhập của ông. Đây là lời cầu nguyện mà nhiều người Do thái thời ấy mơ ước. Không thấy ông xin gì cho bản thân. Lời cầu nguyện chỉ là lời tạ ơn. Điều đáng tiếc là lời cầu nguyện của ông đầy nét tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân: Vì tôi không như bao người khác, tôi không như tên thu thuế kia. Rõ ràng người Biệt phái tốt lành quảng đại nhưng lại tự phụ khoe khoang, khinh người. Đây là biểu tượng cho hạng người hay chúc tụng, tôn thờ bản thân mình. Thật đúng, kiêu căng đứng trước trong danh sách bảy mối tội đầu.

Người thu thuế đến thú tội, anh ý thức mình là tội nhân nên run rẩy xấu hổ, đầu cúi xuống chẳng dám ngước lên. Anh đã nghe thấy lời cầu nguyện của người Pharisiêu (hay như tên thu thuế kia), nên anh thấy khỏi cần cáo tội mình. Anh chỉ còn đặt mình trước nhan Thiên Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin: Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Điều anh khao khát là được Thiên Chúa tha thứ và được làm hoà với anh em. Anh chỉ đứng xa xa vì thấy mình bất xứng. Lời cầu hết lòng khiêm tốn đó có sức an ủi anh ngọt ngào biết bao. Anh cảm thấy đầy niềm tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, vì anh biết rằng: dù tội lỗi như Aaron đúc bò vàng cho toàn dân thờ, dù thủ đoạn như vua Đavít đã cướp vợ giết chồng người khác nhưng họ đã hết lòng ăn năn sám hối và Thiên Chúa đã sẵn lòng tha thứ; dẫu rằng cả toàn dân bỏ Chúa và bị bắt lưu đày Babylon, lại bị thủ tướng Aman ra tay diệt trừ nhưng trong cơn cùng khốn như thế, hoàng hậu Ette cùng toàn dân đã biết ăn năn sám hối tội lỗi, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát họ; hay tội lỗi như dân ngoại Ninivê, Thiên Chúa còn thương, bắt buộc Ngôn sứ Giona đến rao giảng cho họ biết cải tà qui chính, Thiên Chúa liền tha thứ cho họ khi họ sám hối chân thành. Thấy tất cả những sự kiện lịch sử thống hối đó, người thu thuế càng thêm tin tưởng vào lòng thương xót khoan dung cùa Thiên Chúa, anh càng đấm ngực hết lòng ăn năn.

Đức Giêsu kết luận: Người thu thuế trở nên công chính còn người biệt phái thì không được…. Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.

Người thu thuế ra về và được tha hết mọi tội, tâm hồn thành trắng trong.

Người biệt phái ra về tội lỗi vẫn cứ còn đó.Cái tôi nặng quá nên còn phải gánh thêm sức nặng của tội lỗi nữa, thật đáng thương cho đời một người quá tự kiêu tự mãn.

Tội lỗi hay hành động xấu không làm người ta mất sự công chính cho bằng tính tự mãn thói kiêu căng. Người thu thuế đã thật sự phạm nhiều tội lỗi nên đã làm mất đi sự công chính, nhưng hành động khiêm tốn biết nhìn nhận mình tội lỗi và hết lòng thống hối nên được công chính trước Thiên Chúa.

Khiêm nhường có khả năng biến tội lỗi thành thánh thiện, bất chính thành công chính.Trái lại, kiêu ngạo tự mãn có thể biết điều tốt thành điều xấu. Khiêm nhường, tự hạ, quên mình luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện, là gốc rễ của các nhân đức. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I đã nói: Trên thiên đàng không thiếu bọn thu thuế và gái điếm, nhưng không có kẻ kiêu ngạo. Dưới hoả ngục có cả Hồng Y, Giám mục nhưng không có người khiêm nhường.

Khiêm nhường bao nhiêu cũng không đủ, chỉ một chút kiêu ngạo cũng quá nhiều. Đừng vì mình đạo đức mà khép kín trong tự mãn, cũng đừng vì mình tội lỗi mà khép kín trong tuyệt vọng. Ơn Chúa chỉ đến với người biết mở tâm hồn ra để đón nhận. Tội lỗi hay công đức đều có thể làm ta khép lại hay mở ra. Điều quan trọng là thấy mình luôn luôn cần Chúa. Sự triển nở trong đời sống thiêng liêng nằm chỗ là ta trở nên nhỏ lại, là nhường bước để cho Chúa xâm chiếm và chi phối trọn vẹn đời ta. Càng lớn lên trong Chúa, ta càng cảm thấy một cách mạnh mẽ rằng mình cần đến Chúa ngày một hơn.

Một Đấng Thánh vĩ đại như Phaolô mà đã tự nhận mình là kẻ thấp hèn nhất (1Cor 15,9); một ngôi sao chói lọi trong công việc bác ái từ thiện như Thánh Vincent Phaolô mà cũng đã tự gọi mình là người thấp hèn nhất trần gian thì huống là chúng ta! Người tự cao tự đại không thể cầu nguyện được. Cửa thiên đàng hẹp và thấp, chỉ quì xuống mới vào được mà thôi. Thiên Chúa luôn chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng luôn ban ơn cho kẻ khiêm nhường (x. Gc 4,6; 1Pr 5,5).

Tại Đền Thờ Thánh Phêrô có một bức tượng Chúa Chịu Nạn do Thorvaldsen(1770-1844)nhà điêu khắc Đan Mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng, ông ta nhìn mãi rồi lắc đầu nói: tôi nghe đồn bức tượng này nổi tiếng là đẹp lắm nhưng tôi chẳng thấy có gì đẹp cả. Một người quỳ sau lưng ông nói: Ông phải quì gối xuống mới thấy đẹp. Ông du khách liền quì gối. Bây giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa Chịu Nạn. Muốn gặp gỡ Chúa, muốn đón nhận lòng thương xót của Người, con người cần quì gối với tâm tình khiêm tốn.

Đức Cha Fulton J. Sheen viết trong cuốn “Người Galilê vĩnh cửu”: Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng, nhưng Ngài giáng sinh trong hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Đó là một cử chỉ khiêm nhường. Một số người quá tự mãn không hạ mình sẽ không thấy được niềm vui bên trong hang đá. Các mục đồng và các đạo sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như thế, họ thấy mình không ở trong một cái hang, nhưng ở trong một thế giới khác. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng, và cánh tay ẵm Hài Nhi, Đấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất, nơi chúng ta đang sống. Và khi các mục đồng và các đạo sĩ quỳ gối, tôi tự hỏi: không biết những người thông thái ghen với những người đơn sơ, hay những người đơn sơ ghen với những người thông thái? Tôi hướng tới xác tín rằng: các đạo sĩ ghen với các mục đồng, bởi vì con đường của các mục đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.

Tin Mừng hôm nay đề cao lời cầu nguyện khiêm nhường của người thu thuế, không nhìn sang người khác, không so sánh mình với kẻ khác, nhưng nhìn vào chính mình và so sánh mình với mẫu gương của Chúa, qua đó anh đã khám phá ra những khuyết điểm bản thân rồi khiêm tốn chấp nhận. “Lạy Chúa! Xin thương xót con”. Lời cầu nguyện của người thu thuế thật đơn giản. Ý thức được thân phận yếu hèn tội lỗi của mình, anh hoàn toàn cậy dựa vào lòng thương xót của Chúa. Đó là lời cầu nguyện của người ở trong sự thật và được sự thật giải thoát khỏi tội lỗi. Lời cầu nguyện khiêm nhường là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa. Sách huấn ca dạy: “Lời cầu nguyện của người khiêm tốn xuyên thấu các tầng mây” (Hc 35,17). Sách giáo lý cũng dạy: “Khiêm tốn là thái độ căn bản phải có để đón nhận ơn cầu nguyện” (GLCG số 1559).

Lạy Chúa Giêsu, chúng con có là gì mà chẳng do Chúa thương ban. Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận mình thiếu sót lỗi lầm để luôn được Chúa xót thương tha thứ.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống một cuộc đời rất khiêm nhường, đầy tinh thần tự hủy và vị tha tới tận cùng, xin cho chúng con biết sống quên mình, tự hạ, yêu thương và hòa đồng với tất cả mọi người chung quanh con. Amen.

39. Hãy nhận ra chính mình–An Phong

Sứ điệp Lời Chúa

Tin mừng chúa nhật 30 thường niên C là dụ ngôn người thu thuế và người Pharisêu. Mặc dầu hai người này được xem là hai mẫu người tiêu biểu, đại diện cho người tội lỗi (người thu thuế) và người đạo đức (người Pharisêu), nhưng họ không phải là tiêu biểu cho toàn thể những người mà họ đại diện. Chắc chắn là có nhiều người Pharisêu “tốt hơn” người Pharisêu trong câu chuyện này và nhiều người thu thuế khác cũng vậy. Có lẽ Đức Giêsu không muốn nói những con người cụ thể cũng như những cách sống cụ thể. Dụ ngôn này muốn nói đến Thiên Chúa chấp nhận người tội lỗi hoán cải, và không chấp nhận người chỉ tin vào sự công chính của riêng mình. Như thế, tin nhận Thiên Chúa, sấp mình trước nhan Người thì hơn là bằng lòng với những thành quả đạo đức cá nhân.

Suy niệm

Trong xã hội Do Thái, thời Đức Giêsu có ba việc mà người đạo đức phải thực hiện suốt đời mình, đó là: cầu nguyện, ăn chay và bố thí. Người Pharisêu trong câu chuyện hôm nay là một người đạo đức. Ông hãnh diện về việc chu toàn lề luật, ăn chay… Ông thực là một người đạo đức, được mọi người chung quanh tôn trọng. “Khiêm tốn là dám chấp nhận những gì mình có được để phục vụ cộng đoàn”. Người Pharisêu có thể được coi là “người khiêm tốn”, nhưng ông hết khiêm tốn khi đánh giá những việc làm của mình và khinh khi người khác. Hơn thế nữa, trước mặt Thiên Chúa, con người chỉ là con số zêrô lớn. Ông hết khiêm tốn khi hãnh diện về những việc đã làm và tự đánh giá mình “hạnh kiểm loại A” trước mặt Thiên Chúa. Sự công chính của một người không phải chỉ là những thành quả cá nhân trong đời sống đạo đức, nhưng còn phải tin vào Thiên Chúa và mở lòng đón nhận ơn cứu độ đến từ Người. Nói như thế không phải muốn làm giảm nhẹ những việc đạo đức cá nhân, nhưng việc đạo đức cá nhân đó phải được thực hiện với lòng tin, cậy, mến yêu Thiên Chúa, đồng thời không coi thường người khác.

Đời sống của các vị thánh là một bằng chứng rõ nét. Phong thánh cho một người là đặt người đó làm kiểu mẫu, chuẩn mực, tiêu biểu cho đức tin, cậy, mến Kitô giáo (canonization nghĩa là chuẩn mực hóa, hay còn nghĩa là phong Thánh). Các vị thánh thực hiện các nhân đức như thương người, khổ chế, cầu nguyện… vì các vị tin vào Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”. Nếu không thế, các vị chỉ là những vĩ nhân của cuộc đời. Vả lại, các việc đạo đức các vị làm được không cầu mong được “cấp bằng khen”, “giải thưởng” này khác (chắc chắn Mẹ Têrêsa Calcutta không mong những giải thưởng đời ban tặng, nhưng thực tế, Mẹ có nhiều giải thưởng.).

Người thu thuế trong dụ ngôn là người nhận mình chẳng có nghĩa lý gì trước mặt Thiên Chúa. Ông là người bị xã hội Do Thái đánh giá là người tội lỗi. Những người chung quanh – nhất là “những người đạo đức” coi thường ông. Ông đứng xa xa, cầu nguyện như một người đầy mặc cảm vì bị coi thường, nhưng cũng như một người đầy lòng khiêm tốn “không dám ngước mặt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ có tội'”. Ông cần Thiên Chúa thương xót và cứu độ. Lòng đầy tin tưởng và cần đến Thiên Chúa đã được Thiên Chúa chuẩn nhận “người này ra về được khỏi tội”. Cho dù ông có thực sự tội lỗi đến đâu, lời Đức Giêsu nói đã công chính hóa ông. Thiên Chúa luôn là Đấng đưa tay cứu vớt con người khi họ biết đưa tay cầu cứu Người. Sự công chính của mỗi người cũng bắt đầu từ lúc họ biết đấm ngực, cúi mình xuống và xin Thiên Chúa thương xót.

Phải chăng chúng ta là người “đạo đức” – theo kiểu Pharisêu – hay chúng ta là người “công chính” vì cần đến Thiên Chúa cứu độ – như người thu thuế.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa Giêsu,

là Đức Chúa và là Cứu Chúa của con.

Trong tay Ngài, con được an toàn.

Nếu Ngài gìn giữ con, nào con sợ chi.

Nếu Ngài ruồng bỏ con,

con không còn gì để hy vọng nữa.

Con xin Chúa ban điều tốt nhất cho con,

và con xin phó thác hoàn toàn cho Chúa.

Hồng y Newman

40. Tình thương biến đổi–Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Đi hành hương Đất Thánh, ai cũng muốn đến Giêricô thăm “Cây sung Giakêu” và thưởng thức trái chà là. “Cây sung Giakêu” to lớn khoảng hai người ôm. Cây sung này được trồng lại cách đây hơn 700 năm. Tôi đi dịp tháng 4 nên sung nhiều trái. Các bà thích lắm, hái ăn và tin rằng trái từ “cây sung Giakêu” chữa lành mọi thứ bệnh.

Giêricô trở nên nổi tiếng với câu chuyện ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn cho được Chúa Giêsu đi ngang qua.

Giêricô chính là miến Đất Hứa, khi xưa Môsê từ trên núi Nebô đã được nhìn thấy. Sách Giosuê chương 6 kể lại cuốn đánh chiếm thành Giêricô.

Giêricô là một thành rất giàu có và quan trọng, nằm trong vùng thung lũng sông Giođan, là giao điểm của đường lên Giêrusalem và các lối qua sông Giođan để tỏa về các vùng đất phía sông Giođan.

Giêricô có một rừng chà là rất lớn, những vườn cây thuốc thơm nổi tiếng quốc tế, cách xa mấy dặm vẫn ngửi thấy mùi thuốc thơm. Các vườn hoa hồng ở đó cũng rất nổi tiếng. Người ta gọi Giêricô là “thành cây chà là”. Sử gia Do thái Josephus gọi là “Khu đất thần tiên, khu đất màu mỡ nhất của Phalettin”. Người La mã chở trái chà là và dầu thơm từ đó đi bán khắp nơi trên thế giới.

Chúa Giêsu đi qua Giêricô, tiến về Giêrusalem với đoàn người hành hương đông đảo, chuẩn bị bước vào khổ nạn. Ông Giakêu leo lên cây sung để nhìn cho được Chúa sắp đi ngang qua. Chúa nhìn lên cây sung thấy Giakêu. Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương.Trái tim Giakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương. Ông đáp lại tình thương của Chúa và thể hiện bằng việc đền bù thiệt hại, chia sẻ chân thành cho tha nhân. Tình thương của Chúa đã cảm hóa Giakêu và biến đổi cuộc đời ông.

1. Tình thương biến đổi.

Giakêu là một người thu thuế và là một người giàu có. Ông đã từng nghe biết Chúa Giêsu đã chọn ông Lêvi, một nhân viên ngành thuế như ông làm môn đệ (Mt 9,9). Nay ông rất muốn có dịp nhìn thấy con người kỳ lạ này.

Lần kia, biết Người sắp đi ngang Giêricô quê hương ông, Giakêu ra xem, nhưng vì dân chúng quá đông mà ông lại lùn, nên ông leo lên một cây sung để nhìn cho rõ. Ðường đường một người “đứng đầu những người thu thuế”, một công chức có địa vị, nhưng ông vẫn không sợ mất mặt, vẫn trèo lên cây cao.

Chúa ngước mắt lên cây sung, ánh mắt Chúa và ánh mắt Giakêu gặp nhau. Ánh mắt Giakêu bộc bạch tất cả tấm lòng và cuộc đời của mình: một người thu thuế, một người bị vạ tuyệt thông cách ly, một tâm hồn khát khao muốn gặp Chúa, một con chiên lạc đang tìm lối về. Lòng Chúa xao xuyến, thương mến vô vàn, một tâm hồn mà Chúa đang muốn tìm về đây. Chúa nói: “Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ông”. Giakêu cười sung sướng, nhảy xuống đất, chạy mau về nhà, làm tiệc tiếp đãi khách quý. Và đó phải là một bữa tiệc linh đình, có đông bạn bè trong ngành thuế tham dự, giống như ông Lêvi đã làm trước kia (x. Lc 5,29).

Không phải bốc đồng, nhưng từ đáy lòng Giakêu cuộn lên một niềm sám hối mãnh liệt khiến ông cất tiếng thưa với Chúa: “Thưa Ngài, này đây phần nửa tài sản tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Ông Giakêu tự buộc mình làm một việc đền bù rộng rãi phi thường, vượt xa mức đòi hỏi của luật lệ. Ðiều ấy chứng tỏ ông đã thật lòng hoán cải và hơn nữa ông biết mình đã được tha thứ và cứu độ. Chính Chúa Giêsu xác nhận như thế khi Ngưới phán: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này”.

Trước đây Giakêu chỉ nghĩ đến tiền và sống ích kỷ cho riêng mình, không nghĩ đến người khác.Trước đây Giakêu vốn tham lam, bất lương, lòng quảng đại bị chôn vùi qua bao năm tháng. Hôm nay, gặp được Chúa Giêsu, ông đã biết sống trao ban cho người khác, quan tâm đến người nghèo, sống công bằng với mọi người. Lòng quảng đại đó được bộc phát cách rõ ràng: “Tôi xin bố thí phần nữa của cải của tôi cho người nghèo, và nếu tôi có gian lận gì của ai, tôi xin đền lại gấp bốn”. Quả là mùa xuân về trong tâm hồn Giakêu. Ngập tràn ánh nắng. Ngây ngất niềm vui. Bình minh Ơn Cứu Ðộ chan hoà lòng trí ông, gia đình ông.

1. Tình thương hoán cải.

Trong sách (Lv 5, 20-26; Xh 21, 37; Ds 5, 6) đều nói đến khoản luật phải trả lại, đền bù cho người nghèo, cho kẻ bị thiệt hại một số của cải. Ðó là luật trong Cựu Ước. Giakêu trình bày ngay vấn đề, điều đó cho thấy có lẽ ông đã nghiên cứu Thánh Kinh, biết được các luật lệ đó. Tiếng lòng hồi sinh và như vậy ông đã có thao thức thầm kín, có băn khoăn và chờ đợi. Trong cuộc sống dư giả vật chất, bân rộn với công việc làm ăn, ông vẫn thấy lòng trĩu nặng ưu tư, để rồi hôm nay có cơ hội ông tìm kiếm Chúa mong làm lại cuộc đời mới.

Thánh Luca đã nói rõ: ông là thủ lãnh của những người thu thuế. Giêricô bấy giờ là hải cảng, thu thuế nơi xuất nhập cảng phồn thịnh phải là một tay có thế lực. Trong nghề nghiệp đó, bạn bè của ông phải là những người thu thuế, các sĩ quan Rôma. Vậy tại sao ông lại vất vả chen lấn với đám đông để mong gặp một người tên là Giêsu, kẻ hoàn toàn khác địa vị xã hội với ông? Là người giàu có, sang trọng, tại sao ông bỏ cả thể hiện sẵn sàng trèo lên cây sung như một đứa trẻ để nhìn cho được Chúa Giêsu đi qua? Hơn nữa, vốn bị dân chúng thù ghét, ông có thể bị nguy hiểm tính mạng khi đối diện với quần chúng giữa đám đông. Như thế ông phải liều, và bỏ ngoài tai mọi phê bình.

Ðộng lực nào thúc đẩy ông đi tìm Chúa Giêsu? Chắc chắn không phải vì sự tò mò, nhưng có lẽ nhờ lời Thánh Kinh đánh động.Tâm hồn mong hoán cải đã thúc bách ông lên đường tìm Chúa! Hoán cải là kết quả của một cảm nhận về tình yêu, một ưu tư thao thức tìm kiếm. Hoán cải là từ bỏ. Bất cứ cuộc trở lại nào, dù lớn dù nhỏ, cũng đòi phải từ bỏ. Hoán cải bởi tình thương bao giờ cũng có kết quả tốt. Giakêu tích cực đi tìm Chúa: “Ông chạy tới phía trước, leo lên một cây sung”. Khi nghe tiếng Chúa gọi, ông đã nhanh chóng và vui mừng đáp lại: “Ông vội vàng tụt xuống”. Ông còn “vui mừng đón rước Ngài về nhà”. Ông nhìn nhận tội lỗi của mình.Ông đền bù những thiệt hại mình gây cho kẻ khác. Ông còn lấy tài sản bố thí cho người nghèo. Hoán cải là một hành trình: từ bỏ những tội lỗi, quảng đại đáp lại tiếng Chúa và canh tân đời sống. Giakêu hoán cải đem lại niềm vui cho chính ông và hai nhóm người, đó là nhóm nghèo được ông san sẻ cho phân nửa tài sản, nhóm bị oan ức (nếu có) được giải oan và nhận huê lợi hơn bốn lần thiệt hại. Việc hoán cải của một người mang lại niềm vui cho nhiều người.

Giakêu lùn về thể lý nhưng tâm hồn không thấp chút nào. Giá trị một người hệ tại nơi tâm hồn. Gía trị của một việc làm ở nơi lòng mến. Đối với Chúa Giêsu, giờ đây, Giakêu, đã trở nên cao thượng nhờ ông biết hoán cải và sống có tình người. Chiều cao thân xác Giakêu vẫn thấp nhưng chiều cao tâm hồn bây giờ ngất cao nhờ tình thương chiếu rọi.

2. Tình thương cảm hóa.

Chúa Giêsu là bậc Thầy cảm hoá lòng người. Tôn trọng, yêu thương có sức cảm hoá đến kỳ diệu. Ánh mắt, lời nói và thái độ của Chúa Giêsu đem mùa xuân về cho tâm hồn Giakêu. Những gì xưa nay trói buộc ông, làm cho ông say mê kiếm tìm giờ trở nên vô vị. Giakêu trở nên nghèo hơn trước, nhưng ông lại hạnh phúc hơn xưa nhiều lần. Thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã cao thượng hơn gấp bội. Từ một người đáng khinh, Giakêu bỗng trở thành một người đáng khâm phục. Bởi lẽ, Ông đã gặp được Chúa, được nhận lãnh Ơn Cứu Ðộ của người Mục Tử Nhân Lành đi tìm con chiên lạc.

Kho tàng văn học Thiền có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang bên rồi đứng vào chỗ đó.Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: “Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh!”. Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.

Những lời trách móc, lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc.Nhưng chính thái độ tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Câu chuyện về ông Giakêu cho thấy, thái độ lên án và tẩy chay thường chỉ khiến người có tội thu mình lại và càng dễ dấn sâu hơn vào con đường sai trái của mình; chỉ có một thái độ tích cực có thể giúp họ hồi tâm hoán cải, đó là cởi mở, cảm thông, kính trọng và tùy hoàn cảnh mà nhắc nhở hay sửa dạy với đầy lòng yêu mến.

Giakêu rất cảm động trước sự trân trọng và yêu thương của Chúa Giêsu.Giakêu quyết tâm trở về con đường ngay chính, trước tiên bằng việc thực thi bác ái và công bằng. Cung cách đối xử chan chứa tình người mới là yếu tố chính yếu đem lại thành công trong công việc tông đồ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người mà Chúa Giêsu đã sử dụng để làm nên phép lạ nơi con người Giakêu.

Lạy Chúa Giêsu, tình thương của Chúa đã làm nên bao điều kỳ diệu. Xin dạy chúng con nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa, sống với người khác bằng tình thương, hy vọng vào lòng tốt của mỗi người và tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn. Amen.

41. Khiêm nhường chớ có kiêu ngạo–Lm. Joshepus Quang Nguyễn

Trong kinh Bảy mối tội đầu, Hội Thánh dạy: “Thứ nhất Khiêm nhường chớ kiêu ngạo”. Vì sao chúng ta phải khiêm nhường chớ kiêu ngạo? Vì trong con người chúng ta luôn có hai bản năng khiêm nhường và kiêu ngạo nhưng chúng ta là con người có trí khôn và ơn Chúa giúp chúng ta sống khiêm nhường để trở thành nhân và thành thánh nếu không thì sẽ thất bại, tội lỗi. Chẳng hạn, trong phim “Tây Du ký”, mới đầu con khỉ Tôn Ngô Không mới sinh ra thì ngoan hiền, sau này muốn bằng trời nên mới tự xưng là Tề Thiên Đại Thánh nên mới bị trừng phạt giam cầm dưới núi và sau này cũng không thành Phật. Còn trong Thánh Kinh, chúng ta thấy Thánh Phê-rô, sau một đêm vất vả chài lưới chẳng bắt được con nào, gặp Chúa, Chúa cho mẻ cá đầy thuyền. Đó là thất bại một đêm vì kiêu ngạo không cần Chúa, để ông khiêm nhường chuẩn bị cho thành công một giờ. Lần khác, Ngài đã thất bại một giờ chối Chúa, để khiêm nhường chuẩn cho thành công một đời làm vị thủ lãnh trong khiêm nhường thẳm sâu, và đền bù bằng một tình mến nồng nàn. Rồi, qua lời khiêm nhường của thánh Gioan Tẩy Giả: “Tôi không đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu Thế” (Mt 3, 11). Chúa đã đáp trả bằng một lời tôn vinh mà Ngài có nằm mơ cũng không thấy: “Trong con cái loài người không có ai cao trọng bằng Gioan”. Vì thế, Chúa Giêsu nói: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11), điều đó cũng có nghĩa rằng ai coi mình là con số không, thì sẽ có đủ chỗ cho Thiên Chúa ngự trị. Còn ai cho mình là đầy đủ, thì lại bị loại bỏ, rơi vào con số không.

Vì vậy, khiêm nhường là một nhân đức được Thiên Chúa yêu mến, còn tính tự cao, tự đại, cao ngạo là một mối tội. Khiêm nhường giúp chúng ta đào sâu chố trũng thấp, để đón nhận những hồng ân của Thiên Chúa, mà những hồng ân đó không thể dừng lại ở những đồi núi kiêu ngạo, nhưng chảy xuống và động lại ở những thung lũng dưới chân đồi là khiêm nhường nhìn nhận tội lỗi, phục vụ yêu thương tha thứ và sẻ chia. Còn kiêu ngạo sẽ làm chúng ta tự mãn, bất cần Chúa và mọi người, khinh chê và sống phóng đảng. Cho nên, qua trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải có thái độ khiêm nhường và thống hối trong cầu nguyện để nhờ đó mà không bao giờ kiêu ngạo, khoe khoan, bê bai người khác.

Câu chuyện Chúa Giêsu kể cho thấy thái độ của hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người thu thuế và một người biệt phái, người biệt phái khi lên đền thờ cầu nguyện, gọi là cầu nguyện nhưng thực ra anh ta lên đền thờ để đọc một bài báo cáo thành tích dài trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Ông tự mãn khoe khoang những việc tốt lành của mình. Và ông ta nghĩ rằng nhờ có những việc tốt ấy mà Thiên Chúa phải ban cho ông nhiều ơn khác nữa. Điều đáng chú ý nữa là ông tỏ ra khinh miệt người khác, khi so sánh công trạng mình với người thu thuế tội lỗi, trước mặt Chúa. Thế nhưng, sai lầm lớn nhất của ông là ông tự cho mình làm được mọi sự mà không cần đến ân sủng và sự tha thứ của Thiên Chúa. Ngược lại, người thu thuế không có gì để khoe khoang. Ông biết ông là một tội nhân, ông nói ít lời, nhưng thái độ của ông và lời cầu nguyện khiêm nhường trong tâm tình sám hối, cần được Thiên Chúa tha thứ và xót thương. Ông nhận thấy mình thiếu thốn, yếu hèn, chỉ biết phó thác cho lòng thương xót của Chúa. Ông kêu xin với lòng khiêm nhường và ông đã được Thiên Chúa nhận lời ban ơn tha thứ và ra về nên người công chính. Như Lời Chúa trong bài đọc 1, Sách Huấn Ca dạy: “Vì Đức Chúa là Đấng xét xử, Người chẳng thiên vị ai. Người không vị nể mà làm hại kẻ nghèo hèn, nhưng nghe lời kêu xin của người bị áp bức. Người không coi thường lời khấn nguyện của kẻ mồ côi, hay tiếng than van của người goá bụa”.

Trong đời sống Đạo, chúng ta rất dễ rơi vào lối sống Đạo kể lể công đức với Chúa và với mọi người để rồi chê bai, khinh bỉ người khác: tôi vẫn đi lễ Chúa Nhật mỗi tuần, tôi chẳng trộm cắp giết người hay làm thiệt hại của ai, tôi và gia đình vẫn dâng cúng ủng hộ đóng góp cho nhà thờ cái này, cái kia, tôi còn làm ông này bà nọ trong cộng đoàn…, mà chúng ta quên không biết rằng mình được như thế là do ơn Chúa ban để khiêm tốn tạ ơn Chúa và thờ phượng Ngài trong yêu thương đồng thời biết sẻ chia đồng hành và nâng đỡ người kém may mắn hơn, kém đạo đức hơn hoặc nghèo hơn mình thay vì tự mãn, khinh chê người khác. Bởi lẽ, trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đều là những yếu kém và tội nhân. Cho nên, Thánh Tôma Aquinô nói: “Kiêu ngạo là thích được đề cao hơn người khác, và kiêu ngạo là khoe khoang, là cay đắng, là tàn nhẫn, là chỉ nghĩ đến bản thân, cho nên kiêu ngạo khiến ta đố kỵ nhau. Bởi vậy, muốn yêu thương phải bắt đầu để cho tâm hồn mình thấm nhuần sự khiêm nhường và hiền lành”.

Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa thương giúp mỗi người chúng ta luôn biết sống khiêm nhường nhờ đó biết yêu thương, tôn trọng và nhân ái với tất cả mọi người. Và khi cầu nguyện, chúng ta hãy mượn lời cầu nguyện của người thu thuế mà thưa lên với Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi, con là kẻ thấp hèn yếu đuối, xin nâng đỡ phù trì con” – Amen.

42. Thói giữ đạo thành tích–Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Đã từ lâu, nền kinh tế xã hội, văn hóa giáo dục của chúng ta bị mắc vào căn bệnh, gọi là bệnh thành tích, cấp trên chỉ ngồi ở văn phòng và thỏa mãn với những con số báo cáo thành tích của cấp dưới, mà không biết thực tế như thế nào. Các báo cáo toàn là con số ảo, báo cáo láo và chỉ có dân chúng là người thiệt thòi thật, nghèo đói thật. Cũng nhiều lần từ Quốc Hội đến Trung Ương họp bàn và đưa ra kế hoạch chống lại bệnh thành tích này, nhưng dường như vẫn chưa có gì thay đổi, mà ngày càng trầm trọng hơn. Bệnh này không chỉ ở ngoài xã hội, mà có khi nó cũng đang âm thầm ảnh hưởng trong các sinh hoạt của các giáo xứ, giáo phận và giáo hội, khi người ta cũng thỏa mãn với một số công việc bác ái, mục vụ, truyền giáo và nhất là người ta thỏa mãn với các công trình xây dựng bên ngoài mà quên đến chất lượng đời sống đức tin của mình và của người tín hữu, thì đó cũng là bệnh thành tích.

Thời Chúa Giêsu, các Luật sĩ và Biệt phái là nhóm người lãnh đạo tôn giáo cũng đã mắc căn bệnh hình thức và thành tích này, chính vì thế đã nhiều lần Đức Giêsu đã thẳng thắn cảnh cáo lối sống đạo hình thức ở nơi những con người này. Họ giữ đạo không phải vì lòng yêu mến Chúa, họ chu toàn lề luật là để tỏ ra cho mọi người thấy sự thánh thiện hoàn hảo của mình, và họ làm các việc phúc đức là để phô trương với mọi người và để tính công tính điểm với Chúa. Vì thế nhiều lần chúa Giêsu đã không ngần ngại gọi những người này là đồ giả hình, là mồ mả tô vôi xanh đỏ bên ngoài, là kẻ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo đi đứng nghênh ngang để người ta bái chào.

Câu chuyện trong bài Tin Mừng cho thấy thái độ của hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người thu thuế và một người biệt phái, người biệt phái khi lên đền thờ cầu nguyện, gọi là cầu nguyện nhưng thực ra anh ta lên đền thờ để đọc một bài báo cáo thành tích dài trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Thái độ của anh rất nghênh ngang và tự mãn, anh đứng thẳng và nói: Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như bao kẻ khác: tham lam, bất công ngoại tình, hay như tên thu thuế kia, tôi ăn chay một tuần hai lần và dâng một phần mười hoa lợi của tôi. Kể ra như thế, cho thấy, bên ngoài cuộc sống của anh thật hoàn hảo tốt đẹp, nhưng đàng sau lời cầu nguyện ấy lại là một sự khoe khoang về thành tích của mình. Anh nhìn thấy mọi người chung quanh đều thua kém mình về đời sống đạo đức, anh thấy mình hơn hẳn mọi người về đời sống luân lý: Tôi không như bao kẻ khác: tham lam, bất công, ngoại tình. Anh còn so sánh mình và chà đạp lên danh dự và thân phận của người khác khi anh so mình: tôi cũng không như tên thu thuế đang quỳ đàng kia, so với việc đạo đức và đời sống của anh, thì người thu thế chỉ như rơm rác. Chưa dừng lai ở đó, bản báo cáo của anh còn trổi vượt khi anh kể lể: Tôi ăn chay một tuần hai lần, điều này vượt quá cả những đòi hỏi của lề luật, và dâng một phần mười hoa lợi, lại càng chứng tỏ rằng anh ta rất quảng đại để dâng cúng vào đền thờ, nhưng có lẽ anh chưa bao giờ biết chia sẻ và cho đi. Ở điểm này anh lại càng có dịp để hãnh diện với mọi người, và có địp để ném cái nhìn khinh miệt vào người thu thuế là kẻ chỉ biết tham lam vơ vét.

Thế nhưng bản báo cáo thành tích của người biệt phái này lại không phải là điều Chúa muốn nghe và muốn thấy. Điều Chúa muốn thấy và chờ đợi đó là một tâm hồn khiêm nhường, là những lời cầu nguyện chân thành phát xuất từ đáy lòng, từ con tim, và Chúa muốn thấy những tâm hồn dám đặt mình vào tay Thiên Chúa hơn là những người đặt mình vào những công việc mình đã làm. Trái lại người thu thuế đã có tâm tình khiêm nhường trước mặt Chúa, anh nhận thấy mình nhỏ bé và tội lỗi trước sự cao cả và thánh thiện của Thiên Chúa, anh không dám bước lên, không dám dứng thẳng, mà chỉ dám quỳ sấp mình ở đàng xa xa, và đấm ngực thú nhận về những sự bất toàn tội lỗi của mình: Lạy Chúa xin thương xót tôi là kẻ tội lỗi. Anh chẳng có công gì trước mặt Chúa, anh cũng chẳng làm được việc gì nổi bật trước mặt người đời, nhưng anh chỉ có một tâm hồn thống hối sâu xa, để xin sự thương xót tha thứ của Chúa. Chúa Giêsu đã kết luận: Người này ra về thì được nên công chính, còn người kia thì không. Vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.

Thiên Chúa không ưa những kẻ kiêu căng ngạo mạn, Thiên Chúa ngoảnh mặt làm ngơ trước những kẻ cậy dựa vào bản thân, tiền bạc và của cải vất chất, Thiên Chúa không muốn nghe những lời khoe khoang khoác lác của những kẻ giả hình, trái lại Thiên Chúa yêu mến những người bé nhỏ khiêm nhường, và những người biết cậy trông vào tình thương của Chúa. Tác giả của sách Huấn Ca hôm nay đã đúc kết lại những cảm nghiệm của ông về Thiên Chúa, khi nói: Thiên Cúa là Đấng xét xứ, Ngài không thiên vị ai, Ngài không vị nể ai mà làm hại kẻ nghèo hèn, nhưng lắng nghe lời kêu xin của kẻ bị áp bức, người mồ côi góa bụa. Lời cầu nguyện của kẻ nghèo hèn thì vượt ngàn mây thẳm.

Thưa quý OBACE, bệnh thành tích, lối giữ đạo kể công, có thể nó cũng đang ảnh hưởng trong đời sống đạo của mỗi người, từ các linh mục đến người tin hữu, từ cấp Ban Hành Giáo đến cấp giáo xứ và giáo phận. Người ta rất dễ rơi vào tình trạng huênh hoang khoe khoang về thành tích của ban mình, của nhiệm kỳ mình, của giáo xứ mình, mà lại quên việc canh tân đời sống đức tin, thăng tiến đời sống đạo. Các linh mục rất dễ rơi vào tình trạng an phận với một vài công việc mục vụ của mình, tập trung nhiều vào những hình thức bên ngoài, những công trình vật chất nhiều hơn là xây dựng đời sống cộng đoàn, chú tâm đến những phần nổi mà không quan tâm thao thức về đời sống thiêng liêng, khi nghĩ rằng: tôi vẫn dâng lễ, tôi vẫn cử hành các bí tích, và coi như thế là đủ trong đời sống đạo của cá nhân và của cộng đoàn.

Còn đối với tín hữu, chúng ta rất dễ rơi vào lối sống đạo kể lể công đức với Chúa với mọi người khi cho rằng: tôi vẫn đi lễ Chúa Nhật mỗi tuần, tôi chẳng trộm cắp giết người hay làm thiệt hại của ai, tôi vẫn dâng cúng đóng góp cho nhà thờ, tôi còn làm ông này bà nọ trong xứ, tôi bỏ bào nhiêu công sức, gia đình tôi đóng góp cái này, ủng hộ cái kia…, mà chúng ta quên không làm mới lại tương quan của chúng ta đối với Chúa, không làm phong phú đời sống đức tin, như thế, thì có khác gì người biệt phái trong cầu chuyện của tin Mừng hôm nay.

Như đã chia sẻ ở trên, điều mà Chúa muốn và chờ đợi ở chúng ta là một thái độ khiêm nhường, nhận ra sự yếu hèn thấp kém và tội lỗi của mình, và đến với Chúa để cầu xin sự thương xót và tha thứ. Nhận thật mình là kẻ tội lỗi yếu đuối, điều đó không làm giảm giá trị con người, trái lại nó giúp chúng ta biết khiêm tốn hơn, chân thành hơn khi đến với Chúa và với anh em. Nhận mình là kẻ tội lỗi và xin sự thương xót như người thu thuế trong câu chuyện, là nhận mình cần đến sự trợ giúp và tình yêu của Thiên Chúa, để mình cố gắng hơn nữa, sống tốt hơn nữa.

Lối sống đạo hình thức, thành tích nó cũng đang thể hiện nơi nhiều gia đình, nơi các bậc làm cha mẹ, nhiều người đến với Chúa mà còn tính toán thiệt hơn, sống đạo chỉ là để tránh không phạm luật, không bỏ lễ, mà quên đi điều tích cực và cần thiết, đó là tấm lòng của chúng ta khi đến với Chúa. Vì chỉ để tránh phạm luật, mà nhiều người đến với Chúa hết sức tính toán từng phút, đi trễ về sớm, hoặc là chỉ đến nhà thờ cho có hình thức qua lần, gọi là có đi lễ ngày Chúa nhật mà không hề có một chút tâm tình tạ ơn hoặc thành tâm sám hối.

Cũng như người biệt phái trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, khi đến nhà thờ anh ta đã chỉ còn mân mê với những thành tích của mình mà không nhìn thấy Thiên Chúa nữa, nhiều bạn trẻ ngày nay cũng vậy, bên ngoài họ tự hào, tự mãn về sự thành công và đẳng cấp của mình trong xã hội, nhiều người nghĩ mình đã làm được nhiều thứ, và tự mình có thể giải quyết được tất cả công việc, và không nhìn thấy Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời của mình, vì thế, họ đến với Chúa với một thái độ hời hợt, như một chương trình đã được cài đặt sẵn, mà không có một tâm tình khiêm nhường sám hối.

Hãy cùng với người thu thuế hôm nay, quỳ gối, đấm ngực mà thưa lên với Chúa: Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Chúa sẽ nhìn thấy sự khiêm nhường thành thật của chúng ta và sẽ nhận lời cầu xin và biến đổi chúng ta nên công chính. Amen.

43. Biết mình

Ai nâng mình lên, thì sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên.

Đó chính là tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động của chúng ta, bởi vì ai khiêm nhường thì sẽ trở nên to lớn, còn ai kiêu ngạo sẽ trở thành nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa.

Hơn thế nữa, Chúa thường chống đối kẻ kiêu ngạo và ban ơn phúc cho người khiêm nhường.

Tuy nhiên, điều kiện đầu tiên để sống khiêm nhường, đó là phải biết mình.

Thực vậy, chúng ta thường biết nhiều sự, nhưng có một điều chúng ta cần phải biết thì lại không biết, đó là biết chính bản thân, biết chính con người mình. Và tâm hồn mình vẫn mãi mãi là một vùng đất xa lạ nhất.

Dân ngoại thời xưa cũng đã biết tới tầm mức quan trọng của việc biết mình. Thực vậy, trên cửa đền thờ kính thần Apollo tại Delphes có khắc ghi câu này:

– Hãy biết mình.

Người Trung Quốc cũng bảo:

– Tri bỉ, tri kỷ, bách chiến bách thắng. Biết mình, biết người trăm trận đều thắng.

Và thánh Augustinô thường cầu nguyện:

– Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con.

Sở dĩ như vậy vì nếu không biết mình, thì cũng chẳng thể nào sống khiêm nhường. Mà đã không khiêm nhường, thì chẳng thể nào có nhân đức. Mà đã không nhân đức, thì chẳng thể nào vào được Nước trời.

Ai muốn tập luyện các nhân đức, mà không thực thi khiêm nhường thì cũng chỉ là như bụi bay trước gió. Ai không biết mình, thì làm sao có thể sửa chữa những sai lỗi để trở nên hoàn thiện. Họ không có lấy một cố gắng để thăng tiến, bởi vì họ luôn tự mãn với chính mình. Họ giống như một chiếc đồng hồ đã chết.

Tuy nhiên, biết mình không phải là chuyện dễ. Bởi vì không có một cái thước nào chính xác để đo được thẳm sâu cõi lòng.

Trong kinh Kính mừng, chúng ta thường đọc:

– Cầu cho chúng con là kẻ có tội.

Khi tâm hồn trong sạch, thì chỉ một vết nhơ rất nhỏ bé cũng đủ đập vào mắt chúng ta. Chính vì thế, những người đạo đức thường có nhiều điều để xưng thú trong tòa giải tội. Thậm chí có những vị thánh xưng tội mỗi ngày. Còn chúng ta, một khi tâm hồnđã phủ đầy bùn nhơ, chúng ta không còn cảm thấy những dấu vết của nó nữa và chúng ta thường tự nhủ: – Tôi chẳng có tội gì để mà xưng thú cả.

Hay: – Năng xưng, không bằng năng chừa.

Và chúng ta trở thành những kẻ mù lòa, có mắt mà không nhìn, có nhìn thì cũng chẳng thấy.

Lý do khiến chúng ta khó nhận biết mình, đó là tính kiêu ngạo, đó là tinh thần Pharisêu.

Chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ trước mặt đặt những sai lỗi của người khác, còn cái giỏ sau lưng đặt những sai lỗi của bản thân. Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ những sai lỗi của người khác, để rồi lên tiếng phê bình và chỉ trích một cách thậm tệ. Trong khi đó, những sai lỗi của bản thân thì lại chẳng nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy thì cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bào chữa.

Chúng ta thường cư xử hà khắc đối với người khác mà khoan dung với chính bản thân. Đáng lý ra chúng ta phải khoan dung với người khác mà hà khắc đối với chính bản thân mình.

Vậy có phương cách nào giúp chúng ta biết mình hay không?

Trước hết, chúng ta phải tìm hiểu về tính tình và những sai lỗi của mình. Đâu là điều tôi hay vấp phạm nhiều nhất? Đâu là điểm yếu, đâu là “mối tội đầu” của tôi để rồi bắt tay vào việc sửa đổi.

Tiếp đến là hãy tự vấn lương tâm xem những cám dỗ nào là những cám dỗ tôi thường xuyên gặp phải? Cách thức chống trả của tôi như thế nào? Và tại sao những cám dỗ ấy lại làm cho tôi vấp ngã?

Rồi cũng hãy tự kiểm điểm xem tình trạng đạo đức hiện giờ của tôi ra làm sao? Khô khan và nguội lạnh hay chăm chỉ và sốt sắng?

Và sau cùng, đừng bao giờ quên đi một phương pháp chính yếu đó là sự cầu nguyện. Hãy suy nghĩ và hỏi Chúa trong thinh lặng. Hãy nhìn vào Chúa và chúng ta sẽ thấy được con người thực của mình.

Chỉ khi nào biết mình, thi chúng ta mới thực sự bắt đầu trở nên trọn lành. Hay như lời thánh nữ Têrêsa đã nói:

– Nhận biết mình nhỏ bé thì có giá trị và lợi ích hơn là nhận biết những chân lý cao vời.

44. Khiêm nhường

Chúng ta vừa nghe thánh Luca kể lại một dụ ngôn rất hay, dụ ngôn nêu lên hai nhân vật tương phản, có thể nói là hai thái cực của xã hội Do thái thời ấy: biệt phái và thu thuế. Anh biệt phái là hình mẫu của người giữ đạo tốt, anh thuộc nhóm đạo hạnh. Còn người thu thuế là hình mẫu của loại tội nhân công khai, bởi thu thuế là phục vụ nền hành chính xâm lược, anh bị xếp vào loại hàng ngũ bất hảo. Thế nhưng anh thu thuế lại được Đức Giêsu khen vì anh đã khiêm nhường.

Dụ ngôn ngày hôm nay cũng như nhiều dụ ngôn khác mà thánh Luca ghi lại cho thấy rằng: Đức Giêsu luôn đứng về phía những người tội lỗi để bênh vực, giúp đỡ họ và Ngài luôn lên án những người biệt phái. Thế nhưng chúng ta hãy coi chừng có thể mình sẽ kết án người biệt phái ở những khía cạnh không chính đáng. Thực vậy, khi so sánh người biệt phái: đứng, còn người thu thuế: quì gối khi họ cầu nguyện mà có người cho đó là kiêu ngạo và khiêm nhường. Thực ra đứng khi cầu nguyện là một thái độ rất thường làm của người Do thái. Người khác nữa khi nghe lời cầu nguyện của người biệt phái chỉ thấy anh ta cảm tạ, tri ân mà không van xin gì thì cho đó là kiêu ngạo. Chúng ta phải công nhận đó là lời cầu nguyện hết sức tuyệt hảo. Cầu nguyện không chỉ để xin mà còn để tạ ơn nữa. Vậy, Đức Giêsu không căn cứ vào bên ngoài để kết án anh biệt phái.

Thế thì tại sao người biệt phái này bị Đức Giêsu kết án? Để trả lời được chúng ta nên xác định trong dụ ngôn hôm nay ai là nhân vật chính: anh biệt phái hay anh thu thuế? Xin thưa cả hai người này đều không phải là nhân vật chính. Để ý kỹ chúng ta sẽ thấy cả hai người đang ở trong đền thờ. Vậy nhân vật chính của dụ ngôn này là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa như chúng ta đã nghe trong bài đọc 1: “Người là Thần chí công, không nể mặt giàu để hại nghèo. Người nghe kẻ oan khổ kêu xin”. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu nỗi lòng của người nào cần đến Ngài. Vậy vấn đề then chốt nằm ở chỗ: Anh thu thuế rất cần Thiên Chúa thương xót, trong khi anh biệt phái không cần. Thực vậy, Phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy rất rõ: anh biệt phái chỉ nhìn sau lưng anh, anh tự mãn vì sự quảng đại và hiệu quả của những cố gắng riêng mình, còn anh thu thuế thì nhìn trước mặt mình và xin Chúa giúp; anh biệt phái nhìn chính mình, còn anh thu thuế nhìn vào Thiên Chúa và đó là điều cứu vớt anh. Thay vì đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa và phó thác bản thân cho Người, thì anh biệt phái đã đặt Thiên Chúa trước sự hiện diện của anh và “bắt Chúa” phải “chuẩn nhận” những gì anh có. Anh biệt phái đã đi đến chỗ quên mất Chúa, Chúa chỉ đóng vai phụ, còn anh mới là vai chính.

Các việc lành thánh, đạo đức của anh biệt phái thiết nghĩ là Thiên Chúa có ghi nhận. Nhưng có một điều anh quên mất là chỉ mình Thiên Chúa mới xét đoán ai là người công chính mà thôi, trong khi anh đã thay Chúa làm việc này: tự hào về mình, tự cho mình là “đạo đức”.

Người ta kể rằng có một vị quan nọ đi thăm trại giam. Các tù nhân khi thấy ngài thì ai cũng nói họ vô tội, họ bị oan, (trong khi việc họ bị giam là do chính vị quan này trước khi xét xử). Duy chỉ có một tới trước mặt vị quan và nói: tôi bị tù là đáng với tội của tôi. Nghe thấy thế, vị quan đã tuyên bố một câu làm mọi người quá bất ngờ: “Tôi thấy ở đây ai cũng vô tội, chỉ có anh này đây là người có tội vậy thì chúng ta phải tách anh ta ra khỏi đám người kia, bằng cách đem anh ra ngoài vì sợ mọi người bị “nhiễm” bởi tội của anh”.

Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta hãy sống tâm tình phó thác, khiêm nhường như anh tội nhân trên đây hay như anh thu thuế trong dụ ngôn. Thiên Chúa sẽ đánh đổ niềm tự tin của những kẻ tự xưng mình “đạo đức”, nhưng cũng chính Ngài sẽ làm cho nên công chính những ai biết khiêm nhường, phó thác. Hiểu như thế thì mọi việc đạo đức chúng ta làm như: dâng lễ, đọc kinh, ăn chay, bố thí… có ích gì đâu nếu chúng ta không lồng nơi đó một tâm tình khiêm nhường, phó thác cho Chúa vì mình “đã làm những việc phải làm”. Ngược lại, tội lỗi chúng ta có đáng gì đâu đối với Chúa một khi mình biết thống hối, tin vào lòng Chúa xót thương và chính Chúa sẽ nâng chúng ta lên để ta được công chính hóa.

Họp nhau đây để cử hành thánh lễ “tạ ơn”, chúng ta hãy có nơi mình sự khiêm nhường trước thánh nhan và như thế ta mới có thể để cho lòng mình trào lên lời cầu nguyện rất tuyệt vời như thánh Augustinô: “Lạy Chúa, con xin cảm tạ Ngài. Vì con có thể nghĩ đến tội lỗi của mình, mà vẫn không bị nó đè bẹp”.

45. Xưng thú

Lời cầu nguyện của người Pharisêu như sau: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”.

Lời cầu nguyện của người thu thuế cũng có thể theo cách đó: “Lạy Chúa, Chúa hãy nhìn người Pharisêu đứng ở đàng kia để mọi người có thể nhìn thấy ông ta cầu nguyện. Ông ta nghĩ ông ta tốt hơn những người khác. Ông ta khinh bỉ những người như con. Chúa hãy nhìn cái áo dài ông ta đang mặc như để làm cho ông ta cảm thấy mình thánh thiện và làm người ta chú ý đến ông ta.

“Ông ta đã làm mọi việc không phải để đem lại vinh quang cho Chúa, mà để được những người khác tôn trọng, và do đó đem lại vinh dự cho ông ta. Ông chắc sẽ chiếm được chỗ ngồi danh dự trong những bữa tiệc và trong hội đường. Ông thích được người ta chào ông trên phố và gọi ông bằng “tôn sư”.

“Ông ta rất sốt sắng và lo lắng về những luật chi li ngớ ngẩn theo cách giữ luật của ông ta trong lúc thờ ơ với những điều thật sự là quan trọng, đó là thực hành sự công bằng và lòng thương xót. Ông ta trình bày luật pháp cho người khác rất hay. Ông ta phải thực hành điều ông ta rao giảng. Ông ta sống trên sự đóng góp của các bà góa.

“Ôi lạy Chúa, Chúa đừng tin vào ông ta. Tất cả chỉ là một màn trình diễn. Ông ta không chân thật. Nhìn bên ngoài, ông ta có vẻ trong trắng, giống như mồ mả quét vôi trắng, nhưng bên trong đầy những sự thối rữa. Ông ta là một kẻ giả hình khổng lồ trên đôi chân mình”.

Người thu thuế có thể nói tất cả những điều ấy hoặc hơn thế nữa. Và Chúa phải nói thêm: “Cha đồng ý với mọi lời con nói”. Bởi lẽ chính Chúa cũng sẽ nói những điều ấy về người Pharisêu. Nhưng người thu thuế không nói điều gì theo cách đó. Ông chỉ nói đơn giản: “Lạy Chúa, xin thương xót con là người tội lỗi”.

Điều mà người Pharisêu đã làm là cáo tội người khác, đồng thời phô trương những công việc tốt của ông ta. Người thu thuế đã làm điều ngược lại. Ông này xưng thú tội lỗi của mình và để tội lỗi của những người khác cho Chúa xử lý. Kết quả là người thu thuế về nhà và được nên công chính còn người Pharisêu thì không. Chúng ta nghe Đức Giêsu nói rõ điều đó.

Người ta dễ có thói quen cáo tội người khác. Nhưng điều này nguy hiểm bởi vì nó ngăn cản chúng ta nhìn vào tội lỗi của chính mình. Mặt khác, người ta không thể cân nhắc tội lỗi của người khác mà không để cho tính chủ quan của mình chen vào làm thiên lệch.

Người thành công luôn bị cám dỗ nhìn sự thành công của mình như một sự chúc lành của Thiên Chúa hoặc một phần thưởng vì mình sống công chính. Điều này dẫn người ta đến chỗ phán xét người không thành công và cho rằng người này vừa không bác ái, vừa không chân thật.

Chúng ta đi đến chỗ tin rằng mình phải được sửa sang tề chỉnh cả bên ngoài lẫn bên trong trước rồi mới dám trình diện với Giáo Hội của Người. Nhưng chúng ta phải đến trước mặt Thiên Chúa bằng con người thật của mình. Bởi lẽ như thánh Phanxicô Atxidi nói: “Tôi ở trước mặt Thiên Chúa với con người thật của tôi. Không là cái gì khác. Không hơn. Không kém”.

46. Mãnh lực lời nguyện–Lm. Minh Vận, CRM

Xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, người ta thường phân thành hai đẳng cấp cách biệt nhau, đôi khi còn đối nghịch miệt thị nhau, như chúng ta thấy Chúa đề cập tới trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay.

Thượng cấp: Các thầy thông giáo, biệt phái, luật sĩ và phái pharisiêu là bậc thầy được dân chúng tôn là hàng đạo đức, người công chính. Vì thế, họ thường được trọng kính, được bái chào ngoài đường phố, dành chỗ danh dự nơi bàn tiệc, chiếm chỗ nhất nơi hội đường; mang y phục lộng lẫy, tua rua dài, thẻ bài lớn, huy chương đầy ngực.

Hạ cấp: Trái lại, các nhân viên thâu thuế lại bị liệt vào hạng người tội lỗi, kẻ bất lương đáng khinh bỉ; vì họ là những viên chức của chính quyền Roma, như những tay sai của ngoại bang, tôi tớ của đế quốc, những hạng người bị gọi là mọt dân, đục khoét, hối lộ, hà hiếp, bóc lột dân chúng.

I. ĐỂ CẢNH TỈNH NGƯỜI KIÊU CĂNG

Để cảnh tỉnh những con người kiêu căng, tự cao, tự đại, tự tôn mình là người công chính và khinh dể kẻ khác, Chúa đã nêu ra một dụ ngôn hai người lên Đền Thờ cầu nguyện:

Người biệt phái với điệu bộ huênh hoang, thay vì dâng lời ngợi khen chúc tụng Chúa, ông ta lại liệt kê một loạt những công phúc việc lành ông đã thực hiện; thay vì thống hối xưng thú tội lỗi mình để cầu xin Chúa tha thứ, ông lại phang phui các tội lỗi của người khác. Sau cùng, ông đã tự mãn kết tội: “Tôi không như tên thu thuế khốn nạn tội lỗi dưới kia”. Trái lại, người thu thuế, tự cảm thấy mình là kẻ tội lỗi, khép nép đứng đàng xa mãi cuối Đền Thờ, cúi đầu không dám ngước mắt nhìn lên, đấm ngực khẩn cầu ơn tha thứ: “Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ tội lỗi”. Để kết thúc dụ ngôn, Chúa đã quả quyết: “Người thu thuế ra về được khỏi tội, còn người biệt phái không đáng lãnh nhận ơn tha thứ “. Rồi Chúa kết luận: “Vì, tất cả những ai tự tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống và những ai tự hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.

II. MÃNH LỰC CỦA LỜI CẦU KHIÊM TỐN

Lời cầu nguyện của những kẻ khiêm tốn có một mãnh lực vô song, vì họ luôn chân nhận mình là một thụ tạo, có nghĩa vụ phải tôn vinh ca ngợi Đấng Tạo Hóa; họ ý thức thân phận thụ tạo của mình là phải hoàn toàn tùy thuộc Đấng dựng nên mình, như những kẻ thụ ân luôn phải cảm tạ Chúa, vì muôn ơn phúc Người đã ban; họ thú nhận mình chỉ là những tội nhân đáng Chúa trừng phạt, nên họ cần phải thống hối ăn năn và khẩn cầu ơn Chúa tha thứ tội lỗi. Sau cùng, họ tự cảm nhận được diễm phúc làm con cái Chúa, nên họ phải luôn dâng lời cảm tạ Chúa là Cha Nhân Từ hằng ban muôn vàn ơn lành cho họ và họ cố gắng sống hết tình con ngoan thảo đối với Chúa.

Vì thế, lời cầu của người khiêm tốn dâng lên được Chúa đoái thương chấp nhận, tha thứ tội lỗi và ban muôn phúc lành cần thiết. Đúng như lời Thánh Phêrô đã quả quyết: “Chúa hằng ban ơn cho người khiêm hạ; nhưng Chúa chống lại kẻ kiêu căng tự phụ”.

Ngoài ra, lời cầu của người khiêm tốn còn có thế lực chinh phục tha nhân trở về với Chúa. Câu truyện sau đây minh chứng điều đó: Bà Dorothy Day từ trần tháng 11, 1980, hưởng thọ 84 tuổi. Khi tường thuật về cái chết thánh thiện của bà, tời báo New York Times đã kể bà là một nhân vật có thế lực nhất trong lịch sử Công Giáo Hoa Kỳ. Sau ngày bà từ giã cõi đời, người ta đã khơi dậy một phong trào, vận động xin Giáo Hội phong Thánh cho bà, vì cuộc đời thánh đức và các công việc từ thiện bái ái bà đã thực hiện để cứu giúp những người nghèo đói túng thiếu ở thành phố New York.

Trong cuốn sách nhan đề: “From Union Square to Rome”, bà đã tự thuật cuộc trở lại Công Giáo của bà như sau: “Một điều lôi cuốn tôi trước hết, là một hôm, tôi thấy hình ảnh một bà mẹ đang quì đăm chiêu sốt sắng cầu nguyện. Hình ảnh ấy đã lay động lòng tôi cách mãnh liệt và sâu xa, đến nỗi không bao giờ tôi có thể quên được”. Cũng trong cuốn tự thuật đó, bà còn viết: “Trong những ngày đầu khi tôi mới trở lại, tôi thường nghỉ đêm ở quán trọ, để sáng mai tôi có thể tới dự Thánh Lễ sớm tại nhà thờ Thánh Giuse; điều lôi cuốn tôi đến nhà thờ này, là tôi được thấy người ta quì cầu nguyện cách sốt sắng”. Bà còn quả quyết: “Tôi khát khao được Đức Tin như họ, và bỗng nhiên tôi được ơn tin vào Chúa, nên tôi đã quyết tâm gia nhập Giáo Hội Công Giáo”.

III. SỰ SÁNG CÁC CON PHẢI CHIẾU GIÃI

Mãnh lực nào đã chinh phục bà Dorothy Day từ một người ngoại trở lại Công Giáo? Sức mạnh nào đã biến đổi con người của bà, từ một người phụ nữ tầm thường đã trở nên một người thánh thiện, hăng say xả thân phục vụ trong công cuộc từ thiện bác ái, cứu giúp những người nghèo khó cùng khổ? Đó chính là hấp lực gương sáng của những người có Đức Tin vững mạnh khi họ khiêm tốn sốt sắng cầu nguyện.

Một Cha già Việt Nam, dâng Thánh Lễ trong một cộng đồng người Mỹ. Sau Thánh Lễ, một số người đã tới bày tỏ: “We are very happy to attend your Mass”. Ngài hỏi: “Why?” Họ đã trả lời: “You believe what you do”.

Những người đã từng được chứng kiến Đức Thánh Cha Piô XII cầu nguyện, đều đồng thanh quả quyết: “Ngài giống như một Thiên Thần sốt mến”.

Cha Thánh Gioan Maria Vianney thường xuyên thấy một ông già nông dân vào nhà thờ quì gối thầm lặng, mắt đăm chiêu nhìn lên nhà tạm Thánh Thể Chúa cách sốt sắng phi thường. Một hôm, ngài hỏi cho biết ông cầu nguyện thế nào, mà không thấy ông nói gì với Chúa. Ông trả lời đơn sơ: “Je Le vois, Il me voit. Ca suffit”. Xin tạm dịch: “Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con. Thế là đủ rồi”.

Một cụ già nhà quê, là một trong những người được mời đến thẩm vấn, để lập án xin phong Thánh cho Cha Gioan Maria Vianney, đã được ông phát biểu một nhận định thâm thúy về Cha Gioan Vianney như sau: “Tôi nhìn thấy Thiên Chúa nơi con người Cha Gioan Vianney”.

Kết Luận

Khi dâng hay tham dự Thánh Lễ, tham dự các giờ phượng tự hay bất cứ một việc đạo đức nào, chúng ta có cảm nghiệm được rằng: Chúng ta đang được diễm phúc diện kiến với Thiên Chúa, tâm sự với Đấng thánh thiện và uy linh cao cả, Đấng đáng yêu mến vô cùng, Đấng mà các Thần Thánh trên trời, các chính nhân dưới thế và muôn loài muôn vật phải hết lòng yêu mến, phụng thờ, kính tôn?

Khi giao tiếp với tha nhân, nhất là khi chúng ta làm việc phụng sự Chúa, người ta đã gặp thấy Thiên Chúa nơi chúng ta và cảm nghiệm được Thiên Chúa đang tưởng nghĩ, nói năng và hành động nơi con người chúng ta chưa?

47. Xin đừng mưa trong ngày vui của tôi

“Mật ngọt đời sống và quả cầu bơ mặt trời / xin đừng giăng mây bao phủ / để rồi mưa rơi trong ngày vui của tôi.” Đó là những lời ca của nữ ca sĩ Barbra Streisand hát trong đĩa nhạc nổi tiếng của cô cách đây ít năm: “Xin mưa đừng rơi trong ngày vui của tôi.” Nhưng tôi lại nghĩ rằng băng nhạc Mills Brothers cũ cách đây mấy thập niên lại gần với sự thật hơn khi họ hát, “Mưa sẽ rơi trong mỗi cuộc sống.” Dĩ nhiên ai chẳng muốn sống vô tư dưới ánh mặt trời. Chúng ta đâu muốn giáp mặt với những biến động và nguy cấp như: bệnh tật, đau đớn, khổ sở, chia ly và chết chóc. Ai trong chúng ta đều muốn hát, “Xin đừng mưa trong ngày vui của tôi!” Thế nhưng, ngay khi chúng ta còn đang hát, thì mây đen bao phủ, mưa bắt đầu rơi, và bệnh tật xảy đến, hay người thân yêu của ta giã từ cõi đời, hoặc mối giây yêu đương đứt quãng, hay như những vấn đề kinh tế gia đình đè bẹp chúng ta. Chúng ta không cần phải dẫn chứng thêm nữa để có thể nhận ra rằng bài hát xưa đúng với sự thật hơn: “Mưa sẽ rơi trong mỗi cuộc sống.” Thử thách thật sự của đời sống là không phải ta sống thế nào dưới ánh dương quang, mà là ta sống thế nào dưới cơn mưa.

Khi Chúa Giêsu ban Bài Giảng Trên Núi như một bức ảnh tuyệt mỹ của đời sống, Ngài kết thúc bài giảng đó bằng sự nhấn mạnh rằng đó là sự thật. Ngài nhắc nhở mọi người rằng các biến cố sẽ xảy đến; nghĩa là mưa sẽ rơi trong mỗi cuộc sống của mọi người. Khi trình bày bức ảnh rõ ràng của một cuộc sống sẽ được chúc phúc, no thoả, và xứng danh con người, thì Ngài đã kết bằng những biến cố đó. Ngài dùng dụ ngôn về hai người xây nhà, một người xây trên nền cát và người kia xây trên nền đá. Khi mùa lũ đến, ngôi nhà xây trên cát hoàn toàn bị tàn phá. Còn ngôi nhà kia vì được xây trên đá nên vẫn kiên vững với bão giông. Để dễ hiểu dụ ngôn này, các bạn nên biết là nơi Đất Thánh nơi Chúa Giêsu giảng, thì mưa đổ xuống theo mùa. Trong mùa khô, tức mùa không có mưa, thì có rất nhiều nơi để bạn chọn xây nhà. Nhưng phải cẩn thận, vì biết đâu chỗ bạn chọn lại là giữa lòng sông đang bị khô nên khi mà mưa đến thì nhà bạn sẽ bị chìm dưới 50 hay 60 thước Anh. Chúa Giêsu dùng sự thật của đời sống này ở Đất Thánh mà làm bình phong cho dụ ngôn của Ngài. Ngày dạy rằng bạn hãy cẩn thận khi xây nhà vì chắc rằng mưa bão sẽ đổ xuống trên nó, và chỉ có nhà nào xây trên nền đá mới đứng vững mà thôi. Chúa Giêsu đã kết Bài Giảng Trên Núi bằng sự thật đó.

Nhưng nó có liên quan gì đến chúng ta? Nền đá là gì? Xây dựng trên cái gì để nó có thể giúp ta đứng vững khi những biến cố và nguy cấp chắc chắn xảy đến trong đời sống chúng ta? Đơn giản đó là sự tín phục nhưng lại ít người biết đến. Với tài năng độc đáo của một vị Thầy, Chúa Giêsu đã dễ dàng hướng dẫn chúng ta qua Bài Giảng Trên Núi để vào thực tế. Trước tiên Ngài đưa ra hai lối, đó là 2 con đường rộng và hẹp. Rồi Ngài đề cập đến 2 loại cây đó là tốt và xấu. Xong Ngài nói về 2 căn nhà được xây trên cát và đá. Điều gì làm khác biệt trong mỗi loại của ba trường hợp trên? Tôi xin được trả lời bằng lời của Chúa Giêsu: “Không có ai nói lạy Chúa, lạy Chúa mà vào được Nước Trời, trừ những người làm theo ý Cha Ta” (Mt. 7:21).

Người xây nhà trên đá là người nghe và thực hành Lời Chúa. Chúng ta nghe được trong Bài Phúc Âm hôm nay là: “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lk. 18:14). Sự kiêu căng và dại dột của những người Pharisêu là tự nghĩ họ tốt lành hơn người khác và như thách thức Thiên Chúa tìm ra lỗi lầm trong đời sống của họ. Đó là họ tự xây nhà trên cát sỏi trơn tuột của chính bản thân và ý riêng họ. Người tội lỗi khôn ngoan và khiêm nhượng tự nhận mình có những vấn đề và sẵn sàng bỏ ý riêng mình mà theo ý Chúa, đó là người xây nhà mình trên nền móng bằng đá của sự vâng phục. Thiên Chúa là Chúa Nhân Từ mời gọi chúng ta dâng trót cuộc sống theo luật Ngài, nhưng Ngài không thúc ép chúng ta. Ngài không bắt buộc bất cứ ai. Đó phải là sự tự tình chấp nhận Thánh Ý Ngài, ước muốn sống theo như Ngài muốn chúng ta sống, nhờ đó mà ta có thể trở nên như Thiên Chúa muốn chúng ta trở nên.

Ngay bây giờ các bạn có thể đang ngồi đó và mọi sự coi như tốt đẹp đối với các bạn. Nhưng trước khi ngày tàn, biết đâu tang thương sẽ đến với các bạn, ấy là mưa rơi trong ngày vui của các bạn. Các bạn không thể biết điều gì xảy ra ở góc quẹo kế tiếp…! Đời sống là thế đấy. Có những lúc đau thương nối tiếp nhau. Các biến cố dồn đống lên, và thế là chúng ta phải chiến đấu với chúng. Đôi lúc chúng ta cảm thấy như anh chàng trong câu truyện “Con Chó Xồm.” Trở về nhà sau một cuộc hành trình lâu ngày và được viên tài xế đón ở sân ga, anh chàng hỏi, “Có gì xảy ra khi tôi vắng nhà không?” Người tài xế trả lời, “Dạ không có gì đặc biệt, ngoại trừ con chó xồm của ông chủ bị chết.” “Trời ơi! sao con chó của tôi lại chết?” “Dạ, tại nó ăn thịt con ngựa bị chết cháy,” người tài xế tài xế trả lời. “Hả! ăn thịt con ngựa bị chết thiêu?” “Vâng ạ, con ngựa bị thiêu chết khi chuồng ngựa bị cháy.” “Chuồng ngựa bị cháy?” “Vâng, chuồng ngựa bị cháy vì nhà bị bắt lửa.” “Bắt lửa từ nhà của tôi?” “Vâng thưa ông, nhà bị cháy vì nến của đám tang ạ.” “Hở! sao lại nến đám tang?” “Đúng thế, bà chủ đã tạ thế ạ.” “Trời! Bà nhà tôi chết rồi sao?” “Dạ, bà chủ mất vì quá kích động khi bà nghe tin người cộng sự của ông đã làm thụt két quá mức nên việc buôn bán của ông bị sụp tiệm ạ.” Dĩ nhiên, câu truyện cứ thế tiếp diễn… Hết cái này tới cái khác nối tiếp nhau. Ý của câu truyện là vào một lúc nào đó trong đời sống chúng ta sẽ cảm thấy tựa như thế: nhiều biến cố cứ dồn dập đổ trên chúng ta! Chúa Giêsu rất thực tế về vấn đề này tuần tự mỗi năm mùa mưa sẽ đến; các biến sự sẽ lần lượt xảy đến. Những ai có cách sống ăn rễ sâu nơi tình yêu Chúa sẽ vượt qua những khó khăn.

Những Kitô hữu không phải là những người đứng hát bài ca vô thực với những con mắt thau láu: “Xin mưa đừng rơi trong ngày vui của tôi.” Nhưng những Kitô hữu là những người biết rằng mưa sẽ đổ xuống. Kitô hữu là những người tự do và sung sướng hạ mình vâng phục ý Chúa.

48. Suy Niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Theo cách suy nghĩ thông thường của bạn, khi nghe hai người trong bài Tin Mừng cầu nguyện, bạn đánh giá ai công chính hơn ai? Cách phán đoán của Đức Giêsu về sự công chính có khác với cách của bạn không? Khác chỗ nào?

2. Những người tập luyện được nhiều nhân đức hơn người, làm được nhiều việc tốt lành hơn người, nhưng lại tự hào và lên mặt về sự hơn người đó, thì sẽ được Thiên Chúa đánh giá thế nào?

3. Đọc bài Tin Mừng bạn rút ra được bài học gì cho mình? cho cách xử sự hằng ngày và cho công việc nên thánh của mình?

Suy tư gợi ý:

1. Cách phán đoán của Đức Giêsu khác với cách của ta

Qua lời cầu nguyện của hai người trong bài Tin Mừng này, ta biết tất cả những điều tốt lành mà người Pha-ri-siêu khoe với Chúa rằng mình đã làm đều là sự thật, và tình trạng tội lỗi mà người thu thuế thú nhận trước mặt Chúa cũng đều là sự thật. Nếu để ta xét đoán, ta sẽ dễ cho rằng người Pha-ri-siêu kia mới là người công chính, còn người thu thuế đích thực là tội lỗi. Nhưng câu kết luận của Đức Giêsu làm chúng ta phải ngạc nhiên: «Tôi nói cho các ông biết: người này (tức người thu thuế), khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia (tức người Pha-ri-siêu) thì không». Ta thấy phán đoán của Đức Giêsu về sự công chính khác hẳn cách phán đoán của chúng ta. Đương nhiên, chúng ta phải lấy cách phán đoán của Ngài làm mẫu mực cho cách phán đoán của ta, và phải chỉnh lại cách suy nghĩ của ta theo cách của Ngài.

2. Tự đề cao mình khiến mình bớt giá trị trước mặt Thiên Chúa

Như vậy, điều khiến cho một người nên công chính không phải là những việc tốt lành mà họ làm được cho bằng động lực đã thúc đẩy họ làm những việc ấy. Nếu họ làm những điều tốt để được mọi người khen thưởng, khâm phục, chứ không phải vì yêu Chúa hay thương tha nhân mà làm, thì những điều tốt ấy chỉ có giá trị trước mặt người đời chứ không chắc có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Đức Giêsu đã nói về những hành động ấy như sau: «Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi» (Mt 6,1-2).

Làm điều tốt đẹp để được khen đó là làm vì một động lực vị kỷ, tự kiêu. Đương nhiên, chẳng mấy ai trên đời thoát được tính vị kỷ, muốn tự đề cao mình: người ta chỉ hơn nhau ở chỗ vị kỷ ít hay nhiều mà thôi. Muốn nên thánh, ta phải tập luyện hằng ngày để tính vị kỷ hay tính thích được đề cao của ta càng ngày càng giảm đi. Sự thánh thiện và tính vị kỷ hay «độ phình lớn của cái tôi» tỷ lệ nghịch với nhau. Lời của Gio-an Tẩy giả có thể coi là một định luật: «Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi» (Ga 3,30). Cái tôi của ta càng nhỏ đi thì đời sống thần linh hay sự sống của Đức Ki-tô càng lớn lên trong ta, và giá trị của ta trước mặt Thiên Chúa càng lớn. Ngược lại, cái tôi của ta càng phình lớn, thì sự sống của Đức Ki-tô ở trong ta hay giá trị của ta trước mặt Thiên Chúa càng nhỏ đi. «Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên» (Mt 23,12; Lc 14,11; 18,14).

Người nào hay tìm cách để được mọi người đề cao, khen thưởng thì cũng thường tự coi mình là hơn người và thích chê bai người khác: hạ người khác xuống để mình được nổi bật lên. Những người này dù có làm được biết bao điều tốt lành, thực tập biết bao nhân đức để được người khác nể phục, dù có lên được những bậc thang cao trong Giáo Hội hay xã hội thì vẫn là con số 0 trước mặt Thiên Chúa. Họ không được Thiên Chúa coi là người công chính.

3. Tự hạ, tự coi thường mình lại làm mình tăng giá trị lên trước mặt Thiên Chúa

Qua bài Tin Mừng ta thấy tội lỗi hay những hành động xấu không làm người ta mất sự công chính cho bằng tính tự mãn hay kiêu ngạo. Người thu thuế đã thật sự phạm nhiều tội lỗi, nên đã làm mất đi sự công chính của mình. Nhưng hành động khiêm nhường, biết nhìn nhận sự bất chính và tội lỗi của mình đã lập tức biến anh ta nên người công chính trước Thiên Chúa, bất chấp quá khứ tội lỗi của mình. Tương tự như vậy, tên trộm bị đóng đinh bên phải Chúa, tôi nghĩ chưa chắc anh ta đã phạm ít tội hơn tên trộm bên trái, nhưng chỉ vì anh ta nói được câu: «Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!» mà đã được Đức Giêsu hứa «Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng» (Lc 23,41-43). Ôi thật là kỳ diệu sự khiêm nhường tự hạ, biết nhìn nhận thực trạng hèn kém của mình! Nó có khả năng biến tội lỗi thành thánh thiện, bất chính thành công chính! Ngược lại, cũng thật quái lạ, tính kiêu ngạo, tự mãn, tự đề cao, có thể biến những điều tốt thành xấu, công chính thành bất chính!

4. Bài học về khiêm nhường tự hạ

Nếu thế thì tại sao ta lại không rút ra một bài học cho mình? cho lý tưởng nên thánh của mình? Khiêm nhường, tự hạ, quên mình luôn luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện, của nhân đức. Tất cả những tài năng, nhân đức dường như không có giá trị tự nó (en soi) trước mặt Thiên Chúa. Chúng chỉ trở nên có giá trị khi đi chung với sự khiêm nhường, tự hạ. Cũng như những số 0 (không, zéro) dù nhiều tới đâu cũng chẳng làm cho con số do chúng tạo thành có giá trị gì. Nhưng nếu chúng được dẫn đầu bởi số 1, thì lập tức mỗi số 0 sau đó đều trở nên có giá trị: càng nhiều số 0 đi sau số 1, thì giá trị con số do chúng tạo thành càng tăng lên. Mỗi số 0 sau số 1 đều làm cho con số đã có tăng giá trị lên gấp 10 lần.

Đức Gioan-Phaolô I (1912-1978) nói: «Trên thiên đàng không thiếu bọn thu thuế và đĩ điếm nhưng không có kẻ kiêu ngạo. Dưới hỏa ngục có cả hồng y giám mục nhưng không có người khiêm nhường». Nếu đúng như vậy thì bí quyết để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu là khiêm nhường, tự hạ, và ai khiêm nhường tự hạ thì dường như không thể xuống hỏa ngục được! Còn muốn xuống hỏa ngục thì chỉ cần kiêu ngạo là đủ, và kẻ kiêu ngạo thì dường như không thể vào thiên đàng được!

Trong cuộc đời, ta thấy có nhiều người sống trong sạch như các thiên thần, hoặc làm được rất nhiều việc lành như những vị thánh, nhưng họ lại kiêu ngạo, tự hào không kém gì ma quỉ về sự tốt lành của họ. Chính vì thế, họ không phải là đối tượng của Nước Trời. Thật là uổng, tất cả những nhân đức họ tập được, những việc lành họ làm được, chỉ vì kiêu ngạo mà biến thành «công dã tràng»! Như vậy, ai tự đưa mình lên thì coi chừng kẻo bị hạ xuống tới tận hỏa ngục! Còn ai tự hạ mình xuống thì rất có thể sẽ được đưa lên tới tận thiên đàng! Đức Giêsu đã chẳng nói: «Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu» sao? (Mc 10,31; xem Mt 20,16; Lc 13,30). Vậy thì dại gì mà kiêu căng, khoe khoang, tự mãn! dại gì mà lên mặt chê bai kẻ khác! Chính khi ta chê bai kẻ khác với mục đích để mình nổi bật lên, thì hành động của ta lại trở thành đáng chê hơn kẻ bị ta chê!

Về sự khiêm nhường và kiêu ngạo, Karl Marx (?) nói: «Khiêm nhường bao nhiêu đều không đủ, Chỉ chút kiêu ngạo cũng quá nhiều!».

Vì thế, hãy khiêm nhường được chừng nào hay chừng nấy, và đừng kiêu căng hay tự mãn chút nào cả!

Cầu nguyện

Lạy Cha, Thánh Kinh cho con biết Cha rất thích kẻ khiêm nhường, và rất ghét kẻ kiêu căng. Đức Giêsu là hình ảnh trung thực nhất của Cha đã sống một cuộc đời hết sức khiêm nhường, đầy tinh thần tự hủy và vị tha tới tận cùng, đến nỗi Ngài không còn sống cho bản thân mình mà hoàn toàn sống cho Cha và tha nhân. Xin cho con biết sống như Đức Giêsu: quên mình, tự hạ, để có thể sống yêu thương và hòa đồng với tất cả mọi người chung quanh con. Amen.

49. Suy Niệm của JKN- 2

Suy tư gợi ý

1. Cách đánh giá của Đức Giêsu thật đáng ngạc nhiên

Đọc đoạn Tin Mừng trên, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và kinh sợ. Ngạc nhiên vì kết luận rất bất ngờ của Đức Giêsu so với cách suy nghĩ đánh giá của chúng ta. Kinh sợ vì thấy chính mình nhiều khi cũng hành xử y hệt người Pharisêu ấy. Người Pharisêu trong đoạn Tin Mừng tự hào về những việc mình làm, điều đó không phải là không có lý do chính đáng. Chắc hẳn ông ta đã thật sự làm được những điều mà ông ta kể ra với Thiên Chúa. Bài Tin Mừng viết, «Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng…». Từ «nguyện thầm» cho ta thấy những việc tốt lành đạo đức ông kể ra là chỉ để cho Chúa nghe, chứ không phải để khoe khoang với mọi người. Cho nên những việc ấy là có thật. Chẳng những ông tuân giữ luật Môsê cũng là luật Chúa một cách nhiệm nhặt, mà còn làm tốt hơn những gì luật ấy buộc nữa. Chẳng hạn luật Môsê chỉ buộc kiêng ăn mỗi năm một lần vào ngày lễ tạ tội, tức ngày 10 tháng 7 của lịch Do Thái (x. Lv 16,29), thế mà ông đã ăn chay mỗi tuần hai lần. Nghĩa là nhiều hơn gấp 104 (=52 x 2) lần luật buộc! Chính những việc làm xem ra tốt lành ấy đã khiến ông tự hào mình đạo đức, khiến ông rơi vào tình trạng mà sách Cách Ngôn nói: «Có hạng người cứ cho mình là trong sạch, dù chưa được gột rửa khỏi vết nhơ» (Cn 30,12).

Nhưng rõ ràng theo quan điểm Đức Giêsu thì ông không phải là người công chính trước mặt Thiên Chúa. Điều đó hẳn phải làm ta ngạc nhiên. Nhưng ta còn ngạc nhiên hơn nữa khi Đức Giêsu lại coi người thu thuế tội lỗi kia – là người công chính sau khi ông cầu nguyện cách khiêm cung như thế. Mặc dù người thu thuế chắc chắn đã phạm nhiều tội hơn người Pharisêu kia. Quả thật, cách suy nghĩ, đánh giá của Đức Giêsu ngược hẳn với cách thường tình của chúng ta, kể cả những Kitô hữu “cao cấp”. Nhưng là người Kitô hữu, chúng ta phải học cách suy nghĩ và đánh giá của Đức Giêsu, chứ không phải tiếp tục cố chấp với cách suy nghĩ của mình.

Thiên Chúa cũng sẽ xét xử chúng ta dựa trên cách suy nghĩ và đánh giá của Đức Giêsu chứ không theo cách của chúng ta. Do đó, tới ngày phán xét, sẽ có một sự đảo lộn không ngờ so với những suy nghĩ hay dự đoán của con người, vì có «những điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa» (Lc 16,15). Vì thế, ngày ấy có thể xảy ra: «Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót» (Mt 20,16; Mc 10,31; Lc 13,30); «Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng» (Mt 8,11-12); «Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác» (Mt 7,22-23).

2. Sự công chính theo quan điểm của Đức Giêsu

Rõ ràng Đức Giêsu không phán đoán theo kiểu con người, kể cả những Kitô hữu “cao cấp”. Sự công chính không chính yếu hệ tại những việc đạo đức, những lễ nghi tôn giáo mà ta làm được, cho dù nhiều tới đâu. Lời của thánh Phaolô soi sáng cho ta phần nào: «Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,2-3). Như vậy, tất cả những việc tốt lành mà ta làm được, dù nhiều đến đâu, nếu không phát xuất từ tình yêu đích thực, thì trước mặt Thiên Chúa, vẫn chỉ là một con số không to tướng.

Những việc làm tốt đẹp ấy nếu thật sự phát xuất từ tình yêu, thì ta sẽ không bao giờ kể ra để được mọi người khen ngợi, kể cả việc kể ra với Thiên Chúa. Khi kể ra để được khen ngợi, thì việc kể ra đó chứng tỏ ta làm những việc ấy không phải do tình yêu, mà do ý muốn được khen ngợi là đạo đức, là có tình yêu, là giỏi giang, là tuyệt hảo. Và như thế thì ta «đã được phần thưởng rồi» (Mt 5,2.5), nên Thiên Chúa không còn phải thưởng cho ta nữa.

Nếu ta kể công với Thiên Chúa, thì hóa ra ta làm những việc ấy chỉ để Ngài trả công như thể ta là người làm công. Họ làm việc để được trả lương hơn là làm vì tình yêu, khác với con cái trong nhà làm vì yêu thương cha mẹ chứ không để được cha mẹ trả công. Trường hợp này, Thiên Chúa, Đấng vô cùng công bằng, luôn trả công cho ta xứng đáng bằng một phần thưởng nào đó có thể ngay ở đời này; nhưng Ngài không thể kể ta là người công chính đáng được hưởng thứ phần thưởng vốn chỉ dành cho những người có tình yêu đích thực. Cũng như ông chủ có thể trả lương sòng phẳng cho những người làm công, nhưng không bao giờ chia gia tài cho họ, mà chỉ chia gia tài cho con cái, cho dẫu con cái làm được ít việc cho ông hơn người làm công. Cũng vậy, trước con mắt Thiên Chúa, giá trị của một công việc dù nhỏ bé nhưng được làm vì tình yêu thì vẫn vô cùng lớn hơn giá trị của một công việc dù to tát nhưng lại làm vì một động lực khác.

3. Trường hợp hai người cầu nguyện trong dụ ngôn

Trong dụ ngôn của bài Tin Mừng trên, người Pharisêu tưởng rằng ông có thể cậy vào việc giữ lề luật và những việc đạo đức của mình để tự hào là công chính trước mặt Thiên Chúa. Nhưng thánh Phaolô cho biết, «Trước nhan Chúa, không người phàm nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy» (Rm 3,20; Gl 2,16); «Dân Ítraen tìm một luật làm cho họ nên công chính thì lại không đạt tới Luật đó. Tại sao thế? Vì họ không tìm cách nên công chính nhờ đức tin, nhưng nhờ việc làm» (Rm 9,31-32). Sự công chính không đến từ việc làm hay việc tuân giữ lề luật, mà đến từ việc tin vào ân sủng của Thiên Chúa và sống phù hợp với niềm tin ấy.

Do đó, càng cậy vào việc giữ luật và những việc mình làm để tự hào về sự công chính của mình thì càng trở nên bất chính trước mặt Thiên Chúa. Vì «Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường» (Gc 4,6; Pl 5,5). Do đó, ta đừng bao giờ tự hào về sự thánh thiện hay những việc làm tốt đẹp của mình. Thánh Phaolô viết: «Người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin sẽ làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính» (Rm 4,5). Trước khi sa ngã, chắc chắn thiên thần Lucifer còn thánh thiện hơn ta bây giờ rất nhiều. Nhưng “ông’ đã trở nên xấu xa tội lỗi vì tính kiêu ngạo và niềm tự hào về sự thánh thiện của “ông’. Do đó, kiêu ngạo là đầu mối mọi tội lỗi, nó xấu xa và tác hại hơn bất kỳ tội ác nào.

Còn người thu thuế, tuy rằng ông tội lỗi thật, ông đã từng phạm nhiều tội ác, nhưng ông đã hối hận và thành thật nhận chân tình trạng tội lỗi của mình. Qua sự đánh giá của Đức Giêsu, ta thấy đối với Thiên Chúa, tuy tội lỗi làm mất lòng Thiên Chúa nặng nề, nhưng tình yêu được thể hiện bằng tâm hồn khiêm nhượng lại làm đẹp lòng Ngài nhiều hơn. Thật vậy, thánh Phêrô nói: «Lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi» (1Pr 4,8; x. Tb 12,9). Kẻ thánh thiện nhất trên đời cũng vẫn có tội, vì trước mặt Thiên Chúa, «không ai là người công chính, dẫu một người cũng không» (Rm 3,10). Vấn đề không phải là mình tội lỗi nhiều hay ít, mà là mình có được Thiên Chúa tha thứ hay không: «Hạnh phúc thay kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung! Hạnh phúc thay người Chúa không kể là có tội!» (Rm 4,7-8). Chính tình yêu và lòng khiêm nhường thống hối khiến Chúa tha thứ tất cả và «không kể là có tội». Do đó, một người vô cùng tội lỗi nhưng một khi đã thật lòng thống hối, thì trước mặt Thiên Chúa, người ấy công chính hơn một người ít phạm tội, làm được nhiều việc phúc đức, nhưng lúc nào cũng tự hào về sự vô tội hay đạo đức của mình.

Bài Tin Mừng hôm nay mặc khải cho chúng ta biết điều ấy. Đó là tin vui cho những người tội lỗi, vì họ chỉ cần thật lòng thống hối là được nên công chính; nhưng lại là tin buồn cho những người kiêu ngạo, thích tự hào về sự đạo đức hay thánh thiện của mình.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, có thể nói: trước mặt Cha, tính ích kỷ và kiêu ngạo của một người che lấp tất cả mọi sự tốt đẹp của người ấy, khiến người ấy trở thành bất chính. Và tình yêu thương và lòng khiêm nhượng của một người co thể che lấp được những tội lỗi xấu xa của người ấy. Vậy, xin Cha giúp con biết sống yêu thương, khiêm nhượng và trừ tuyệt tính ích kỷ và kiêu ngạo trong con.

50. Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy

TỰ CÔNG CHÍNH HÓA CHÍNH MÌNH, MỘT THÁI ĐỘ SAI LẦM

Chắc hẳn dụ ngôn người «Pha-ri-sêu và người thu thuế» – mà bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu – đối với tất cả chúng ta đã quá quen thuộc, và có lẽ vì quá quen thuộc nên chúng ta cũng khó nhận ra được ý nghĩa trọng yếu của câu chuyện nữa. Vâng, bình thường chúng ta hay tự đồng hóa mình với người thu thuế từ tốn trong dụ ngôn, bởi vì đối với chúng ta hình ảnh người Pha-ri-sêu quá đậm nét kiêu kỳ và tiêu cực. Nhưng nếu chúng ta tự thành thật với chính mình, chúng ta sẽ nhận thấy rằng cả hai hình ảnh đó – người Pha-ri-sêu và người thu thuế – đều ít nhiều có mặt trong chính bản chất con người chúng ta.

Thực ra, những người Pha-ri-sêu thường là những thành phần tốt và đàng hoàng của xã hội lúc bấy giờ, chứ không xấu như người ta ngày nay thường có ấn tượng về họ. Những ý kiến cho rằng tất cả những người Pha-ri-sêu đều là những kẻ giả hình giả bộ, gian trá, tham lam và chỉ chú trọng đến việc sống đạo theo văn tự và theo hình thức bên ngoài, chứ tinh thần và sự xác tín nội tâm thì hoàn toàn thiếu hẳn, là những ý kiến hoàn toàn không phản ảnh đúng với thực tại cụ thể.

Đúng vậy, vào thời Đức Giêsu, những người Pha-ri-sêu nói chung là những người có tâm hồn tôn giáo, luôn rất coi trọng luật Môsê. Sự cầu nguyện và việc cử hành các lễ nghi phụng tự luôn giữ một vai trọng quan trọng trong cuộc sống của họ. Tuy nhiên, quan niệm và cách thức sống đạo của một số lớn trong họ đã trở nên quá khích và lệch lạc, cần phải được sửa sai. Dẫn chứng cụ thể là hình ảnh người Pha-ri-sêu đã được Đức Giêsu nêu lên trong câu chuyện dụ ngôn.

Vâng, người Pha-ri-sêu được nói đến trong câu chuyện dụ ngôn tự cho rằng ông ta có thể tồn tại được trước Thiên Chúa. Trong khi cầu nguyện, ông ta chỉ nêu lên những tội lỗi mà ông ta không hề sa phạm bao giờ. Ông ta cảm tạ Chúa vì ông sống hoàn hảo và tử tế hơn tất cả những người khác. Trong khi cầu nguyện, người Pha-ri-sêu chỉ nói lên lòng cảm tạ biết ơn của mình đối với Thiên Chúa, chứ không hề khẩn cầu kêu xin cùng Người bất cứ điều gì cả. Ông ta cũng nói đến những công trạng của mình. Và thực ra, những điều ông ta đã làm không phải là ít: Mỗi tuần ông ta ăn chay hai lần và dâng cúng một phần mười hoa lợi của mình cho Đền Thờ.

Thử hỏi ai trong chúng ta có thể dám tự coi mình ngang hàng với một người đạo đức như thế? Bởi vì, nhiều người hễ khi nghe nói động đến vấn đề bớt ăn nhịn uống cũng như vấn đề dâng cúng của cải tiền bạc, là tự nhiên mất hết hứng thú, mất hết vui vẻ và tâm tình đạo đức tôn giáo cũng biến đâu mất. Trong khi đó người Pha-ri-sêu này hoàn toàn ngược lại. Vì để tôn vinh Thiên Chúa, ông ta đã ăn chay, đã hy sinh nhịn ăn nhịn uống mỗi tuần đến hai lần và cắt giảm mức sống bình thường của mình lại để dâng cúng cho đền thờ Thiên Chúa. Đối với ông, Thiên Chúa cũng cụ thể như những đồng tiền nằm lẻ kẻng trong túi tiền của ông. Như vậy, chúng ta không có quyền coi mình cao thượng hơn người Pha-ri-sêu này. Trái lại, ông ta có cuộc sống vượt trội hơn chúng ta.

Nhưng sự ngạc nhiên ở đây, trong câu chuyện dụ ngôn này, là theo nhận xét của Đức Giêsu, thì người Pha-ri-sêu này, một người Do-thái có thể được coi là đạo đức kiểu mẫu, sau khi cầu nguyện ở Đền thờ trở về nhà, sẽ không được công chính!

Tại sao lại vậy, khi mà ông ta đã trưng dẫn cho thấy là ông ta đã thực thi được bao điều tích cực, bao việc lành phúc đức? Vâng, đức Giêsu đã có lý khi đưa ra sự nhận xét như thế. Bởi vì, sự sai lầm và tiêu cực đáng trách nơi người Pha-ri-sêu này là ông đã tự công chính hóa chính mình, đã tự cho mình là đúng và thánh thiện hơn người khác. Nhất là ông đã quá ỷ lại vào chính mình, vào các khả năng và công cán cá nhân của ông ta, chứ không dựa vào Thiên Chúa và ơn trợ giúp của Người. Ông ta đã quên đi rằng, tự bản chất con người nói chúng và bản thân ông ta nói riêng hoàn toàn yếu hèn, bất toàn và khốn cùng trước mặt Thiên Chúa Tạo Hóa, và mọi khả năng, tài lực và của cải ông ta có được đều là hồng ân của Người ban cho.

Do đó, ông ta đã tự vô hiệu hóa các công sức, các việc lành phúc đức của mình, và qua đó ông ta đã vô tình tự hạ mình xuống thấp. Vâng, người Pha-ri-sêu đã đánh giá các việc lành nhân đức của mình bằng các phạm trù, bằng các tiêu chuẩn và cách thế trần gian, khi ông ta muốn dựa vào công sức của mình để khẳng định địa vị và chỗ đứng trước mặt Thiên Chúa. Tiếp đến ông ta ra mặt khinh thường những người mà ông ta cho là còn thấp kém và còn đầy khiếm khuyết hơn ông ta. Cái chuẩn độ mà ông ta đưa ra để đo lường nhân đức và sự thánh thiện hoàn toàn không phải là Thiên Chúa. Vì thế, tất cà những gì ông ta làm, đều mất hết giá trị.

Đức Giêsu đã đưa ra câu chuyện dụ ngôn này là có ý muốn nhắn gửi đến những người đã luôn tự phụ cho mình là công chính thánh thiện và coi khinh những người khác. Người đã thẳng thắn nói cho những người vốn có quan niệm sai lầm như thế rằng Thiên Chúa, Đấng mà Người loan báo, hoàn toàn kết án việc tự công chính hóa chính mình, việc tự cho mình là lành thánh vô tội. Trong khi đó, chỉ có một mình Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể công chính hóa con người và các hành động của họ bằng sự phán quyết tuyệt đối công minh và đúng đắn của Người mà thôi.

Còn những người thu thế vào thời Đức Giêsu không được đại chúng kính trọng, vì nghề thu thuế của họ là một nghề lem nhem đáng khinh, một nghề không hoàn toàn dựa trên pháp lý và sự công bằng. Họ bị dư luận quần chúng cho là những người tội lỗi, bởi vì họ cộng tác với quân ngoại xâm Roma và trong vấn đề thu thuế má họ đã lợi dụng để làm giàu cho chính mình trên sự đau khổ của đồng bào. Dó đó, đời xưa những người thu thuế bị xếp vào hàng ngũ những kẻ trộm cướp. Họ mất hết phẩm giá của một công dân Do-thái và người ta tránh tiếp xúc giao lưu với họ.

Nhưng cũng chính vì lý do đó mà câu chuyện dụ ngôn lại làm cho chúng ta ngạc nhiên một lần thứ hai nữa. Đó là việc Đức Giêsu đã quả quyết rằng người thu thuế, một kẻ đã sai phạm không biết bao nhiêu là tội lỗi và bất công, sẽ rời Đền Thờ ra về trong an bình vui sướng với Thiên Chúa và với chính mình, sẽ trở về nhà như một người công chính!

Tại sao?

Điều tích cực nơi người thu thuế là chính việc anh đã thành tâm đến cầu nguyện cùng Thiên Chúa thực sự. Trước tòa Chúa anh đã nhận ra mình chỉ là một kẻ tội lỗi bất xứng và anh biết rằng với một lương tâm u uẩn, đầy tội lỗi nặng nề như thế, chắc chắn anh sẽ không thể tồn tại được trước mặt Thiên Chúa. Như thế, người thu thuế đã đánh giá cuộc sống và các việc mình làm theo các tiêu chuẩn trên cao, theo luật lệ Thiên Chúa. Vâng, Thiên Chúa là mẫu mực, là mô phạm và là tiêu chuẩn của anh. Do đó, trước mặt Chúa anh đã xưng nhận tội lỗi của mình và chân thành khẩn cầu Người tha thứ cho anh.

Qua đó chúng ta thấy rằng người thu thuế tội lỗi – với một tâm hồn khiêm tốn chân thành – được ở gần kề bên Thiên Chúa hơn là người Pha-ri-sêu đạo đức – với một tâm hồn đầy tự phụ, kiêu căng và khinh người.

Nói tóm lại, người Pha-ri-sêu bị chê trách không phải vì lý do sự công bằng và những việc phúc đức ông đã làm. Điều gì tốt thì luôn luôn vẫn là điều tốt. Nhưng vào giai đoạn kết thúc câu chuyện, người Pha-ri-sêu lại không còn được coi là một người tốt, đó là do ông đã quá tự đề cao mình khi so sánh với những người khác và rồi coi khinh họ.

Trong khi đó người thu thuế được khen ngợi không phải vì những tội lỗi anh đã sa phạm. Điều gì xấu thì vẫn luôn luôn là điều xấu. Nhưng anh ta được khen ngợi, bởi vì:

• anh ta thành tâm đến với Chúa trong tinh thần khiêm tốn;

• anh ta đã can đảm biết nhìn thẳng vào chính đời mình;

• anh ta đã không đâm ra thất vọng, chán nản và buông xuôi trước các tội lỗi của mình;

• anh ta chấp nhận sự yếu đuối và sự bất toàn của mình, v.v…!

Chính sự thành tâm đó là khởi đầu cho công cuộc thay đổi và canh tân cuộc sống.

Vậy, qua dụ ngôn «Người Pha-ri-sêu và người thu thuế», Đức Giêsu muốn nói cho chúng ta biết điều gì thực sự là thánh thiện và hoàn hảo trước mặt Thiên Chúa: Không phải là việc chỉ nhắm giữ đúng các luật lệ và các đòi hỏi luân lý, nhưng là sự xác tín rằng mình hoàn toàn bất toàn trước mặt Thiên Chúa, nên cần đến lòng thương xót của Người và nhất thiết phải canh tân cải thiện cuộc sống của mình.

51. Món vật cao quý nhất trước mặt Chúa

Có một chuyện cổ tích thời Trung cổ. Câu chuyện này kể lại một người đã về bên kia thế giới. Cuộc đời trên thế gian của cô thì thật là tầm thường. Khi đến cửa thiên đàng, cô được cho biết là nếu muốn vào thiên đàng thì phải trở về thế gian và tìm cho được món vật gì mà giá trị nhiều nhất trước mặt Chúa. Cô đã trở về thế gian để tìm kiếm.

Một ngày nọ, cô gặp một người bị tử đạo vì danh Chúa Kitô. Cô nghĩ: “Máu tử đạo chắc là món quà mà Thiên Chúa đánh giá cao trọng nhất.” Thế rồi, cô liền lấy một giọt máu tử đạo và đem về thiên đàng. Khi dâng lên, cô được biết là món vật đó chưa phải là cao trọng nhất. Cô lại trở về thế gian và tìm kiếm.

Rồi một ngày nọ, cô gặp một nhà truyền giáo đang rao giảng Lời Chúa giữa những người nghèo khổ. Cô nghĩ rằng, “Đây rồi, ta tìm được món vật quí nhất rồi, đó là giọt mồ hôi của người rao giảng Tin Mừng.” Khi đem về thiên đàng, cô lại được cho biết là món vật ấy chưa phải là quí nhất trước mặt Chúa. Cứ như vậy nhiều lần, cô đã tìm đủ mọi vật để đem về thiên đàng, nhưng vẫn không được gọi là vật quí giá nhất trước mặt Chúa.

Bất chợt, cô thấy một người đàn ông cưỡi ngựa đến cạnh hồ nước của thành phố. Ông xuống ngựa và định tâm uống nước. Khi người đàn ông nhìn thấy đứa bé đang chơi gần đấy, ông chợt nhớ lại tuổi thơ ấu của ông. Khi ông cúi xuống nước thì bỗng ông nhìn thấy dung nhan phản chiếu của ông trên mặt nước. Đó là một khuôn mắt xấu xí và dày dạn. Nhìn chòng chọc vào khuôn mặt của mình, ông nhận ra rằng ông đã uổng phí cuộc đời mà Thiên Chúa đã ban cho ông. Bất chợt, những giọt lệ bắt đầu lăn xuống trên má ông. Cô đã vội hứng lấh một giọt nước mắt thống hối đó và đem về thiên đàng. Khi cô dâng hạt nước mắt ấy lên thì cả thiên đàng vui mừng hớn hở. Thì ra món quà mà Thiên Chúa đánh giá trị cao nhất là giọt nước mắt thống hối của tội nhân.

Câu chuyện cổ tích trên rất phù hợp với bài Phúc Âm hôm nay. Bài Phúc âm cho chúng ta biết lời cầu nguyện được Chúa coi là cao trọng nhất, là lời cầu nguyện của một kẻ tội lỗi thống hối. Chúa Giêsu đã phán: “Cả thiên đàng sẽ vui mừng khi một tội nhân trở lại còn hơn là chín mươi chín người công chính không cần trở lại.” (Lc 15,7)

Lòng thống hối thường được hiểu là ăn năn vì đã trót phạm tội. Thật ra lòng thống hối còn phải hiểu rộng rãi hơn nữa. Đó là chúng ta dốc lòng muốn cải sửa những gì đã làm sai.

Cách đây nhiều năm, nhóm “Broadway” đã trình diễn một vở kịch nói về một người con trai mới lớn đã bỏ học, bỏ gia đình và trở thành con mồi ngon cho ma túy. Những thứ đó đã đưa câu đến chán chường. Cậu đã nhìn trời và thầm thĩ rằng: “Tôi ước ao cuộc đời nầy như là một cuốn vở để tôi có thể xé bỏ đi những trang nào mà tôi đã lầm lỗi.”

Tạ ơn Chúa Giêsu, chúng ta có thể xé đi bất cứ phần nào mà chúng ta đã làm sai và liệng đi. Chúa Giêsu nhân từ đã lập nên Bí tích Xá giải. Qua Bí tích này, chúng ta có thể bỏ đi những gì là xấu xa và làm lại từ đầu.

Đó là sứ điệp Tin Mừng hôm nay. Tin vui đó là chúng ta biết được món quà cao quí nhất trước mặt Chúa là những giọt lệ thống hối.

52. Người thu thuế ra về được khỏi tội–Br. JB. Đức Hiền

Bài Phúc âm hôm nay, Thánh Luca thuật lại việc Chúa Giêsu dùng dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái và một người thu thuế, để dạy chúng ta là những người tin theo Chúa, chúng ta cần phải có thái độ và tâm tình nào khi cầu nguyện.

Có phải từ chỗ tự cao, tự mãn của tính kiêu ngạo như của người biệt phái khi ông ra trước mặt Chúa, không nói một lời cầu xin, trái lại ông còn coi Chúa như người mắc nợ để nghe ông say sưa kể công về những thành tích đạo đức của ý riêng; mà ông đã làm trong quá khứ, hoặc tuân giữ một vài điều luật để khỏi lỗi luật bên ngoài, rồi đem mình ra so sánh với những người khác và tự cho mình là công chính mà khinh bỉ kẻ khác? Hoặc từ chỗ thẳm sâu (Tv 130:1) của một tâm hồn tan nát khiêm cung (Tv 50:19) của người thu thuế: ông không dám đến gần Chúa, không dám ngước mắt lên trời, mà chỉ đấm ngực mình để bày tỏ lòng ăn năn thống hối mà nâng lòng mình lên chúng Thiên Chúa ở trên trời cùng với lời cầu nguyện chân thành vắn tắt như một kẻ ăn xin, khẩn nài lòng thương xót Chúa tha thứ cho mình là kẻ tội lỗi?

Chính sự kiêu hãnh, tự tán dương và nhìn về mình một cách tự mãn qua việc bày tỏ vẻ công chính trước mặt người đời của người biệt phái khi cầu nguyện, để rồi khinh thị kẻ khác mà không cần đến lòng thương xót của Chúa…một cách nào đó ông đã phỉnh gạt chính mình và ăn cướp vinh quang của Thiên Chúa (Mk 2:9) vì ông có gì mà lại đã không chịu lấy từ nơi Thiên Chúa? Mà nếu đã chịu lấy, sao lại vinh vang không chịu lấy? (1Cr 4:7). Chính lòng kiêu ngạo này đã khiến cho Thiên Chúa nhờn tởm (Lc 16:15) bởi Ngài biết rõ lòng con người suy tính (Gr 17:9-10) và người ta ai cũng ghét (Hc 10:7). Do đó Chúa chống lại người kiêu ngạo (Gc 4:6) và khiến ông không được công chính hóa.

Còn người thu thuế với lòng khiêm nhượng thống hối nhìn nhận những yếu đuối của mình, không xấu hổ khi nghe người khác tố cáo tội trạng mình (Hc 4:26; Tv32:5) để rồi tín thc cho tình thương nhân hậu của Chúa và kết quả ông đã đạt được sự tha thứ của Thiên Chúa (Cn 28:13), khiến ông được công chính hóa và ra về được khỏi tội. Bởi thú tội ra thì còn đâu trách móc nữa (Hc 20:3). Thật vậy, lòng khiêm nhường quả là nền tảng của việc cầu nguyện và còn là tâm trạng để nhận được hồng ân của việc cầu nguyện (Gc 4:6).

Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy những người Kitô hữu chúng ta không những phải sống trung thành trong việc tuân giữ lề luật tôn giáo, mà còn phải ý thức về sự yếu đuối khốn cùng của mình và biết phó thác tin cậy vào lòng nhân hậu của Chúa nữa. Ngoài ra, chúng ta không nên có thái độ tự kiêu lầm tưởng như người biệt phái nghĩ; bởi vì sự công chính của chúng ta không nguyên chỉ cần liên hệ với Thiên Chúa mà thôi, nhưng sự công chính của chúng ta còn có liên đới với những người xung quanh nữa. Do đó chúng ta cần phải có tinh thần trách nhiêm xây dựng, tiếp nhận nâng đỡ nhau trong cuộc sống (Rm 14:1; 15:7; Cl 3:13) không nên tỏ thái độ khước từ và khinh bỉ những người hèn kém xấu số sống chung quanh mình, vì Thánh Phaolô nói: “Chúng ta phải vác gánh nặng của nhau, và như thế chúng ta sẽ làm trọn luật của Đức Kitô. Vì nếu ai tưởng mình là gì, mà kỳ thực là không, thì chỉ lừa gạt chính mình đó thôi. Vậy ai nấy hãy hạch sách lấy mình, và bấy giờ sẽ có lý mà vinh vang, mình đọ với mình, chứ không đọ với ai khác; vì mỗi người phải mang gánh nặng riêng mình” (Gl 6:3-5)

53. Cầu nguyện: chiếc cầu hiệp thông–Lm. Bùi Quang Tuấn

Dụ ngôn “Người Biệt Phái và Người Thu Thuế” Chúa Giêsu đưa ra cho thấy sự tương phản giữa 2 thái độ của con người đứng trước tình yêu thương bao la của Thiên Chúa.

Người Biệt phái là nhân vật được xã hội đương thời kính trọng, vì thuộc thành phần nhiệt tâm giữ luật, thực thi đạo đức bác ái hơn hẳn người ta. Riêng anh thu thuế, kẻ bị xã hội mạt sát khinh chê, vì là hạng “cõng rắn cắn gà nhà,” tước đoạt tài sản “nhân dân,” làm lợi cho ngoại bang. Hai mẫu người đối lập cùng bước vào đền thờ và cùng làm một công việc: cầu nguyện. Nhưng tại đây sự tương phản giữa hai con người trở nên rõ nét, khi tâm tình và thái độ sâu kín được bộc bạch trước Nhan Giavê.

Người Biệt phái ung dung tự tại, đứng thẳng và cầu nguyện: “Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không giống các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi.” Khách quan thì người này không bịa chuyện. Ông chỉ nói điều ông làm. Và những gì ông làm thì không chê trách vào đâu được: không gian tham, không chiếm đoạt, không rối vợ rối chồng, không đam mê tội lỗi. Thậm chí về phần đạo đức bác ái, ông còn làm quá điều luật dạy. Thường thì người ta chỉ phải ăn chay một ngày trong năm vào dịp lễ Sám hối, đàng này ông thi hành chuyện đó mỗi tuần hai lần. Luật buộc các nông dân phải nộp một phần mười sản phẩm cho việc phụng tự, ông lại nộp thuế thập phân trên tất cả mọi thứ hàng hoá mua về.

Hành động của ông thật đáng tuyên dương nhưng thái độ của ông đã làm mất toi công phúc. Tạ ơn Chúa là điều cần thiết, nhưng kể lể công đức như ngầm bảo Chúa đang mắc nợ với tôi là điều chẳng đúng tí nào. Tệ hại hơn là khi ông dùng công nghiệp hay lòng đạo của mình để đè bẹp tâm hồn kẻ khác.

Đáng lẽ cầu nguyện là để gia tăng sự gắn bó giữa mình với Giavê, thì đây, người biệt phái lại làm lung lay nhịp cầu tiến đến với Ngài.

Không những đã không làm chắc thêm nhịp cầu đến với Thiên Chúa, người biệt phái còn làm tan tành nhịp cầu đến với tha nhân. Anh hăng hái lên án phường tham lam, bất chính, ngoại tình, thu thuế. Anh nhất quyết không thoả hiệp với tội lỗi, điều này rất đáng khâm phục. Nhưng anh thiếu cảm thương những người có tội và điều này đã làm cho anh khác xa Thiên Chúa.

Vì không làm vững nhịp cầu đến với Chúa và tha nhân mà lời cầu nguyện của người biệt phái đã rơi vào giòng sông hư không. Anh ra về chẳng nên công chính, cũng chẳng được sạch tội.

Trong khi đó, người thu thuế đi cầu nguyện nhưng lại “không dám ngước mặt lên trời,” anh “đứng xa xa,” đâu đó phía cuối đền thờ, lại còn “đấm ngực” và nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ có tội.” Anh nhìn rõ chính mình trong tình thương của Thiên Chúa. Trước tấm gương của tình thương, anh thấy mình là kẻ tội lỗi. Có lẽ anh đã bao lần cố gắng vươn lên nhưng vẫn cứ bị ngã xuống đau thương. Thế nên lời cầu nguyện của anh chất chứa tâm tình thống hối, khiêm nhu, khẩn thiết, cậy trông, chân thành: “Lạy Chúa, xin thương tôi….” Không dám ngước mắt lên trời nhưng lại thấy được tình Chúa bao la vẫn còn hơn đứng thẳng ngước cao mà chẳng khám phá sự yêu thương đâu cả.

Nhìn vào tha nhân để tự mãn là thất sách. Nhưng nhìn vào Chúa để khẩn nài và bước theo là lối đường tôi được mời gọi đi tới. Bao người thu thuế đã nhìn vào Đức Kitô, gặp gỡ được tình thương, sau đó “ra về và được nên công chính,” như Mathêu và Giakêu. Họ đã làm chắc nhịp cầu với Thiên Chúa khi bước theo Đức Kitô và nối kết nhịp cầu với tha nhân khi “xin bố thí cho kẻ khó nửa phần của cải, và đền bù gấp bốn cho kẻ bị thiệt oan” (Lc 19:8).

Cầu nguyện để tiến sâu hơn vào tình thương và mối hiệp thông với Thiên Chúa và con người chính là bài học mà Đức Kitô muốn trao ban cho nhân loại hôm nay.

54. Biệt phái và thu thuế

Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau dừng lại ở hình ảnh người Biệt phái và kẻ thu thuế.

Cứ bề ngoài người Biệt phái đầy vẻ đạo đức và công chính, đồng thời được mọi người kính nể, vì ông là người cầm cân nảy mực mọi nghi lễ và lề luật. Hằng ngày ông cặm cụi vào từng chi tiết của lề luật. Ông tuân giữ ngày Sabbat, rửa tay chân trước khi ăn uống. Ông đeo thẻ kinh, đứng cầu nguyện và ăn chay nghiệm ngặt. Ông đóng mọi thứ thuế… Đời sống của ông được dệt bằng trăm ngàn khoản luật, và ông cho đó là phương tiện để nên thánh.

Thế nhưng trước mắt Chúa, ông chỉ là một con số không mà thôi. Tại sao thế?

Lý do thứ nhất vì ông cho mình là kẻ vô tội và thánh thiện. Còn những kẻ khác chỉ là những kẻ xấu xa tội lỗi đáng sa hỏa ngục. Từ niềm xác tín ấy, ông trở thành người kiêu ngạo, cố chấp và cứng lòng.

Lý do thứ hai vì ông không hề cầu nguyện. Nếu có thì cũng chỉ là khoe khoang và cầu danh mà thôi. Bên ngoài ông tỏ ra cám ơn Chúa, nhưng cái lõi bên trong nhằm mục đích chứng tỏ ông xứng đáng là một người biệt phái có khả năng, có đạo đức.

Nếu ông thực sự cầu nguyện thì tại sao ông không tạ ơn về những điều đã có, đã làm và đã thất bại. Ông không thể cầu xin vì ông tự mãn, cho mình đầy đủ quá rồi. Cách cầu nguyện của ông chỉ là một hình thức đóng kịch, lấy vải thưa mà che mắt thánh. Đáng lý ra cầu nguyện phải là hơi thở của linh hồn, thì linh hồn của ông đã chết từ lâu.

Và như thế chúng ta thấy cầu nguyện chính là thước đo sự sống. Không cầu nguyện, linh hồn trở nên yếu đuối và có thể chết đi, nghĩa là sa vào vòng tội lỗi. Cầu nguyện không phải chỉ là kể lể, van xin nhưng còn là ca ngợi, ăn năn và sống theo ý Chúa. Cầu nguyện không phải là độc thoại giữa ta và Chúa nhưng là đối thoại giữa Chúa và ta. Cầu nguyện như thế thì hậu quả gấp trăm lần hoạt động vì chúng ta kéo Chúa về phe mình, để Chúa giải quyết những khó khăn và hành động qua đời sống chúng ta.

Rất nhiều người đã cầu nguyện nhưng lòng không đi theo hay tệ hơn nữa còn đi ngược chiều. Có khi chúng ta cầu nguyện chỉ để đánh lạc hướng một dư luận, để ru ngủ mình trong chốc lát, để chửi xéo hay tâng bốc người khác, để khoe khoang công đức của mình. Xét cho cùng, lối cầu nguyện không quan trọng cho bằng đối tượng cầu nguyện. Chúng ta nói chuyện với ai trong khi cầu nguyện, đó mới là vấn đề. Có thể chúng ta đã nói với chính mình hay với một tạo vật nào khác trong lúc cầu nguyện và như vậy lời cầu nguyện của chúng ta chẳng ích lợi gì,

Trái lại, cầu nguyện phải là nói chuyện với Thiên Chúa Đấng ngập tràn quyền năng và yêu thương. Và chúng ta có thể tìm thấy mẫu gương của sự cầu nguyện qua hình ảnh người thu thuế.

Trước mặt mọi người ông chỉ là một kẻ tội lỗi, liên hệ với ngoại bang để bóc lột đồng bào. Chính vì nhận biết thân phận tội lỗi của mình mà ông chỉ dám đứng ở đằng xa, gục đầu xuống và đấm ngực ăn năn.

Với tâm tình khiêm nhu ông đã kêu cầu Chúa: Lạy Chúa xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi. Ông ý thức tội lỗi ông nặng nề mà chỉ mình Thiên Chúa mới có thể thứ tha. Ông tin vào uy quyền của Thiên Chúa khả dĩ làm ông đổi mới. Ông là người đáng khen hơn đáng khinh. Chính vì thế mà ông đã được tha thứ và lời van xin của ông được Thiên Chúa chấp nhận.

Biết cầu nguyện là biết sống và lời cầu nguyện đích thực có thể biến đổi được cả tâm hồn.

55. Chúa Nhật 30 TN–Lm. Gioan Baotixita Nguyễn Kim Ngân

Có thể nói một trong những hoạt động chính của người có niềm tin là cầu nguyện. Cầu nguyện là hình thức giúp người tín hữu gắn kết với Đấng mình đang tôn thờ. Cho nên, không riêng gì những tôn giáo khác, người Công giáo chúng ta cũng được mời gọi cầu nguyện với Chúa một cách kiên trì và liên lỉ, như Tin Mừng Chúa Nhật 29 Thường Niên C nói tới. Hơn nữa, với Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện một cách chân thành khiêm tốn. Đó là cách thức cầu nguyện đẹp lòng Chúa bởi vì những ai chân thành nhận ra mình mỏng dòn tội lỗi trước mặt Chúa, mong được Chúa đoái thương, thì Chúa là Đấng Nhân Từ không ngoảnh mặt làm ngơ trước tâm hồn như thế.

Trong bài đọc I, sách Huấn Ca nói rằng “ lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây, … và nó chẳng rút lui cho đến khi Đấng Tối Cao đoái nhìn.” (Hc 35,21). Thiên Chúa không nhìn đến vinh quang trần thế của con người nhưng Ngài nhìn đến nỗi nhục nhằn của người nghèo khó, kẻ bị áp bức, kẻ khốn cùng. Lời cầu nguyện của họ được Chúa nhận lời bởi họ biết nhìn lên Chúa là Đấng hay thương xót. Họ biết dâng chính con người của họ cũng những gì họ có để tôn thờ Thiên Chúa là Chúa của mình. Vì thế, những ai khoe khoang về thành quả của mình, vinh quang mà mình đang hưởng thì không được Chúa ghé mắt nhìn xem, họ đã được trả công rồi.

Với bài đọc II, thánh Phaolô đã tin tưởng Thiên Chúa là Đấng phán xét chí công sẽ ban cho ngài phần thưởng Nước Trời. Bởi lẽ, thánh nhân đã hoàn toàn dùng chính cuộc đời của mình để rao giảng về Chúa Giêsu, Đấng khiêm nhường đến cứu chuộc nhân loại trong thân phận người phàm, ngoại trừ tội lỗi. Thánh nhân đã khiêm nhường nhận ra mình chỉ là rơm rác vậy mà được Chúa mời gọi làm việc lớn lao là loan báo Tin Mừng cứu độ – khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng. Và ngài đã khẳng định rằng mối lợi tuyệt vời là được biết Chúa Giêsu, Đấng cứu độ. Nếu không phải có lòng khiêm nhường thì Phaolô cũng vẫn còn ở trong tình trạng Pharisêu tự cao tự đại về sự công chính của mình. Quả thật, với ơn Chúa, thánh Phaolô đã để Thiên Chúa chiếm trọn con tim; với lòng khiêm nhường, thánh nhân trở nên khí cụ mang lại ơn cứu độ cho nhân loại.

Con đường khiêm nhường được khẳng định một cách chắc chắn trong Tin Mừng hôm nay. Hai người lên đền thờ cầu nguyện, nhưng một người được Chúa nhận lời còn người kia thì không. Người biệt phái vào đền thờ với thái độ tự mãn vì ông tự cho mình công chính hơn người khác: đạo đức hơn, thánh thiện hơn, giữ luật Chúa tốt hơn, không phạm tội gì. Vì thế, ông chỉ muốn khoe với Chúa nhiều hơn là tạ ơn Ngài về những gì mình đã làm. Cho nên, tâm tình tạ ơn của ông không được Thiên Chúa chấp nhận. Người thu thuế vào đền thờ với thái độ mong được thứ tha, được đón nhận. Ông không dám ngước lên vì mình quá tội lỗi. Ông không dám ngước lên vì mình quá bất xứng. Ông không dám ngước lên trước những lời khinh chê của thế gian. Ông chẳng biết thưa gì với Chúa cho phù hợp, chỉ biết đấm ngực xin Chúa tha thứ cho những tội lỗi của mình. Chắc ông cũng không ngờ rằng tâm tình thống hối của ông lại được Thiên Chúa tỏ lòng khoan dung. Tuy tác giả Tin Mừng không nói tới khi ông về thì lòng ông như thế nào, nhưng chúng ta cũng có thể tưởng nghĩ rằng hẳn ông sẽ thấy tâm hồn mình tràn ngập niềm vui. Quả thật, một người tự mãn khi nâng mình lên để rồi quên rằng mình chỉ là thụ tạo của Chúa, thì họ đã tự đánh mất lòng thương xót của Chúa. Còn người khiêm nhường nhận ra mình chỉ là thụ tạo, xác đất vật hèn, chỉ biết tựa nương vào lòng thương xót của Chúa, thì họ lại được Chúa dủ lòng thương mà tha thứ mọi lỗi lầm.

Lời Chúa hôm nay cũng soi sáng vào tận đáy lòng chúng ta, giúp chúng ta nhìn lại nơi chính bản thân mình trong đời sống đạo. Có thể, đôi khi, chúng ta là người biệt phái vì mình đọc kinh sớm hôm đầy đủ, tham dự thánh lễ không bỏ bữa nào, giữ chay vào ngày thứ sáu hằng tuần, nhưng chúng ta lại khoe khoang so đo với người khác, lắm lúc còn khinh chê họ. Tệ hơn nữa, đọc kinh cầu nguyện, tham dự thánh lễ chỉ vì để người ta biết mình là người đạo đức thánh thiện chứ không phải thờ phượng Chúa thực sự. Khi đến nhà thờ chúng ta hiện diện bằng thân xác nhưng lòng trí thì bận lo toan công những việc khác. Và như thế, Thiên Chúa trở thành Đấng để trang trí cho đời sống chúng ta đối với mọi người. Tâm tình sống đạo như thế quả là giả hình, giả hình đến mức không còn nhận ra mình là gì trước mặt Chúa. Để rồi từ đó, chúng ta lại vênh vang cho người này khô đạo, người kia tội lỗi. Với tâm tình như thế, cho dù ta có đọc kinh nhiều đi nữa, một ngày hai ba thánh lễ, công đức đầy dẫy cũng chẳng là gì đối với Chúa. Nếu không kịp thức tỉnh ắt chúng ta khó lòng đón nhận tình thương của Chúa.

Vậy chúng ta thức tỉnh bằng cách nào? Thưa, chúng ta thức tỉnh bằng cách mặc lấy tâm tình của người thu thuế trong Tin Mừng hôm nay: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Với thân phận yếu hèn, chúng ta dễ vấp phạm. Với bản tính yếu đuối, chúng ta dễ sa ngã. Vì thế, tâm tình đến với Chúa là khiêm nhường nhận ra những lỗi lầm thiếu sót của thân phận con người; đến với Chúa bằng sự thống hối chân thành cần đến ơn tha thứ của Chúa. Chúng ta gặp gỡ Chúa bằng lời cầu nguyện đượm lòng tin tưởng Chúa là Cha và là Đấng khoan dung. Chúng ta hiệp dâng thánh lễ với ước mong được kết hợp một cách sâu xa với Chúa Giêsu Thánh Thể là Đấng xóa bỏ tội trần gian. Nhất là chúng ta luôn biết cảm tạ vì mình chỉ là không không trước mặt Chúa, nhưng lại được Chúa dựng nên để hưởng hạnh phúc với Người.

Hơn nữa, trong đời sống đức tin, chúng ta đừng nhìn sang người khác mà so sánh, hãy nhìn lên Chúa để xem mình đã xứng đáng với ơn Chúa tuôn đổ xuống trên ta mỗi ngày. Hãy nhận ra trong từng giây phút sống, chúng ta được Chúa tỏ tình thương và không chấp nhất những lỗi lầm thiếu sót của ta, nhưng lại yêu thương dắt dìu ta trở về bên Chúa. Có như thế, những giây phút cầu nguyện của ta với Chúa là những giây phút ta được ấp ủ trong vòng tay yêu thương của Cha và chúng ta là người con thảo.

Đặc biệt trong đời sống đức cậy, chúng ta không còn phải ngã lòng vì Thiên Chúa thánh thiện nhưng không ngoảnh mặt với tội nhân. Nếu chúng ta vững lòng trông cậy vào Người, Người sẽ đỡ nâng ta khi ta ngã quị vì sa ngã. Người khiêm tốn đến với ta bằng bí tích để ta có thể hòa giải với Người. Và cũng với lòng khiêm tốn chúng ta chân thành gặp gỡ Chúa Giêsu để được chữa lành.

Ước gì với ánh sáng Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta nhận ra mình cần phải làm gì để đời sống đạo thực sự là thờ phượng, yêu mến Chúa. Đồng thời, chúng ta không còn mặc cảm vì tội lỗi mà không dám đến giao hòa với Chúa và tha nhân. Chúng ta tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa luôn che phủ cho những ai khiêm nhường nhận ra chính mình cần phải lệ thuộc vào Chúa, hầu chúng ta can đảm đấm ngực thưa với Chúa: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội.” Amen.

56. Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống–Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật

Hai mẫu người

Theo cái nhìn bên ngoài, hai nhân vật của dụ ngôn đều bắt đầu từ một khởi điểm. Nhưng…

Người biệt phái bước đi chững chạc, hiên ngang. Ông đang ở trong Đền Thờ nhưng ông cảm thấy thoải mái dễ chịu như đang ở nhà mình: đầu ngẩng cao, mắt nhìn đầy vẻ tự tin. Bản kết toán của ông đầy nét tích cực: ông biết điều đó và ông nói lên. Ông kể ra những con số. Tất cả đều tốt đẹp. Ông tự xếp mình vào số những người suy nghĩ tốt, làm tốt, và có đạo đức: Ông tự nhận mình là người công chính.

Nơi ông không có một kẽ hở, không một sự chờ đợi, không một khoảng cách. Ông chiếm trọn cả lớp kịch: vừa là diễn viên, vừa là khán giả. Trên nguyên tắc, ông thưa với Chúa, nhưng trong thực tế, “ông cầu nguyện nơi chính mình”. Ông chiêm ngắm chính mình, ông nói với chính mình. Thiên Chúa chỉ là công chúng nghe ông nói và vị Thiên Chúa đó được đổng hoá với lương tâm của ông, một lương tâm hoàn toàn tin chắc vào chính mình.

Chỉ có một khoảng cách được thú nhận: ông đứng xa người có tội… tức là những người khác, những người bị ông coi thường.

Đó là một con người đã đạt tới đích. Ông còn có thể làm gì hơn được nữa? Chẳng còn một khoảng trống nào để ông băng qua. Ông chỉ còn đợi lãnh triều thiên. Đó là một con người đã hoàn thành. Làm sao ông có thể tái sinh được?

Trong khi đó, người thu thuế đứng xa xa, phía cuối đền thờ. Trước mắt xã hội, hình ảnh của anh không phải là một hình ảnh dễ thương. Anh không được công nhận là công chính vì đã vi phạm quá nhiều, đã thoả hiệp với tiền tài, với quyền lực. Giờ đây, anh dứng im, không dám ngẩng mặt lên. Anh sẵn sàng chui xuống đất, nếu có thể được. Anh biết rằng mình chưa được sinh ra. Và khi ấy, tất cả đều trở thành có thể.

Anh cầu nguyện, anh thưa với Thiên Chúa: “Xin thương xót con.” Anh nhận thức trọn vẹn khoảng cách giữa tình trạng con người của anh và sự cao cả của Thiên Chúa, khoảng cách giữa sự “công chính” của anh và sự công chính của Thiên Chúa. Anh tìm kiếm sự liên lạc, tìm kiếm sự gần gũi với Thiên Chúa, một sự hiệp thông mặc dù từ căn bản, có một sự khác biệt: “Con không phải như Thiên Chúa! Con chỉ là một kẻ tội lỗi! Chúa có nghe lời con chăng?” Và khi ấy, tất cả đều có thể.

Khi bước vào đền thờ, mỗi người đều quay trở về với chính mình. Nhưng…

Một người thì vênh vang với lương tâm tốt lành của mình, tự hào vì những xác tín của mình. Ông hiện diện trước Thiên Chúa dựa trên nền tảng là cái có: lối sống của ông, Thiên Chúa của ông, quyền lợi của ông.

Còn người kia trở về với sự khốn cùng bên trong của mình. Anh đứng trước nhan Chúa với nền tảng là sự thiếu thốn: bước vào đền thờ, anh đã bỏ lại thế giới tiền bạc, để đi tìm một điều gì khác.

Với hai con người như thế, Thiên Chúa sẽ giải quyết cách nào?

Một kẽ hở cho Thiên Chúa

Người biệt phát trình bày dài lê thê. Ông cám ơn Thiên Chúa, mà ông nghĩ rằng mình biết rõ, vì đã nâng đỡ, trợ giúp ông, để ông “không như bao kẻ khác”. Trong mối tương giao của ông với Thiên Chúa, ông chối bỏ người khác: ông tự loại mình ra khỏi môi trường hoạt động của tình yêu. Đôi tay ông đã đầy những công phúc, đầu óc ông đầy những xác tín của riêng mình. Đó chính là thái độ của niềm tin mù quáng. Mọi cánh cửa đều đóng kín: Thiên Chúa không thể vào được.

Người thu thuế thì kêu cầu. Bị xã hội chê bỏ, anh nhẫn nại chịu đựng: biết mình xa cách Thiên Chúa, anh chờ đợi. Anh chẳng còn biết bày tỏ với ai nữa, và anh xin Thiên Chúa can thiệp. Đôi tay anh trống không, anh đợi chờ: đó chính là thái độ của lòng tin. Mọi cánh cửa đều mở toang: Thiên Chúa có thể vào được.

Trước hai con người này, Thiên Chúa không chút do dự. Người làm bạn với chàng thu thuế, cùng với anh rời khỏi đền thờ, và bỏ mặc người Biệt phái với các việc lành của ông, để ông ra về một mình.

Tại sao thế?

Người biệt phái đã làm những việc đạo đức tốt lành, lại không phải là người công chính; đang khi đó người thu thuế là kẻ tội lỗi thì được nên công chính. Thiên Chúa có bất công quá không?

Một khi đôi tay đã đầy, lòng trí đã thoả mãn, thì Thiên Chúa sẽ không thể chen vào được. Làm sao Người có thể đến được khi không có chỗ cho Người? Bởi đó, Thiên Chúa yêu chuộng kẻ khó nghèo không phải chỉ tại họ nghèo, nhưng hơn thế, vì họ cảm thấy mình luôn thiếu thốn và họ chờ đợi. Như vậy, con người luôn phải nhận ra mình nghèo khó trước Thiên Chúa, luôn cần đến sự trợ giúp, cần sự hiện diện của Người. Và quan trọng hơn, điều thiết yếu là con người không được tự nhốt kín sự nghèo khó của mình, nhưng là sống trong thái độ rộng mở. Người nghèo khó, vì nhu cầu cần thiết, luôn biết trông chờ sự giúp đỡ của người khác. Đó chính là thái độ căn bản của Kitô giáo.

Dĩ nhiên, đây không phải là sự nghèo khó vật chất, nhưng là thái độ nghèo khó trong tinh thần. Vẫn có những người túng thiếu cùng cực, nhưng vẫn là một đời sống khép kín. Vẫn có những người có nhiều tài sản vật chất, nhưng lại biết đón chờ, biết mở rộng tâm hổn. Và quan trọng hơn nữa, đó là một thái độ nghèo khó trong đời sống thiêng liêng. Con người không được quyền cậy dựa vào bất cứ hành vi nào để cho rằng mình là người đạo đức, là người đã đạt tới sự thánh thiện. Con người không thể nghĩ rằng mình đã được nên công chính do các việc mình làm. Một khi có quan niệm cho rằng mình đã đạo đức, đã thánh thiện, tức là không cần đến sự trợ giúp, sự can thiệp của Thiên Chúa. Đó là một thái độ đóng kín, thái độ của con người chỉ biết hướng về mình, chứ không phải về người khác, và nhất là về Thiên Chúa. Con người đó không biết thế nào là sám hối, thế nào là trở về, và như vậy, trong tâm hổn của họ, không có chỗ cho Thiên Chúa.

Dù thế nào, dù đạt tới mức độ nào, vẫn phải là người nghèo trước Thiên Chúa, vẫn phải là người cần trợ giúp. Thiên Chúa cần có những cửa ngõ để đi vào, cho dù đôi khi chỉ là một kẽ hở.

Cả hai đều cần

Như tác giả xác định, Đức Giêsu đã nói dụ ngôn này với những người tự cho rằng mình là người công chính và khinh miệt người khác. Vào thời Đức Giêsu, đó là những người biệt phái, những người chấp hành luật pháp cách nghiêm ngặt.

Thực ra, các hành vi của người biệt phái thật đáng khen. Có mấy người trong chúng ta thực hành được như ông ta? Thế nhưng, ông thiếu mất một điều, và đó là điều quan trọng nhất: đó chính là thái độ khiêm tốn, biết trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa. Chính sự thiếu sót này đã phá tan tất cả cố gắng, tất cả mọi hành động của ông.

Ngày nay, trong chúng ta, vẫn có những người nghĩ rằng mình đã đạo đức, đã thánh thiện nhờ những việc tốt của mình, nhờ việc giữ đạo của mình. Tất nhiên, những điều đó rất tốt. Nhưng nếu dựa vào đó để lấy làm thoả mãn, để coi thường người khác thì thật là tai hại. Phải hiểu rằng người Kitô hữu được mời gọi đạt tới sự thánh thiện của Thiên Chúa, và đó là một hành trình dài, hành trình chưa chấm dứt. Một khi tự cho rằng mình đã tới đích, tức là đã ngưng lại, và nguy hiểm hơn nữa, là đã lạc đường, đã mất phương hướng. Mỗi người chúng ta vẫn có thể nhận ra mình, ít là một phần nào đó, qua lời cầu nguyện đầy vẻ tự mãn của người biệt phái.

Tuy vậy, không có nghĩa là Đức Giêsu dạy chúng ta chỉ cần thưa với Thiên Chúa như người thu thuế. Điểm nhấn mạnh của Đức Giêsu là thái độ trước Thiên Chúa, nhưng không vì thế mà có quyền bỏ những hành vi đạo đức. Không phải người ta cứ sống theo ý thích của mình, để rổi chỉ cần thưa với Thiên Chúa một câu ngắn gọn là được tha thứ, được nên công chính. Thái độ tin tưởng, trông chờ sự trợ giúp của Thiên Chúa không loại bỏ những nỗ lực của con người.

Như thế, chúng ta có thể nhìn thấy một mẫu người Kitô hữu đích thực, dựa trên hai nhân vật của bài Tin Mừng. Đó là một con người luôn cố gắng chu toàn những lời giáo huấn của Thiên Chúa, một con người thi hành trọn vẹn những gì luật pháp quy định, đổng thời cũng là người biết tin tưởng và phó thác cho tình thương của Thiên Chúa. Càng tiến triển, lại càng phải khiêm tốn. Và người khiêm tốn thì được Thiên Chúa yêu thương, được Thiên Chúa làm cho nên công chính.

Lạy Chúa,

Chúa biết rõ nỗi khốn cùng của con,

Chúa thấu hiểu nỗi cô đơn đang vây bọc quanh con,

Chúa nhìn thấy tình cảnh yếu đuối và bệnh tật của con,

ôi Chúa là Đấng dựng nên con.

Chúa biết tất cả.

Xin nhìn đến con đang hết lòng khiêm nhường và thống hối.

Xin nhìn đến con đang tìm đến bên Chúa.

Ôi Chúa là Đấng thương xót,

xin đừng nghoảnh mặt làm ngơ.

xin đừng quên kẻ đang khao khát tìm Chúa.

Trong trái tim Chúa, con tìm được chỗ ẩn thân,

trong lòng thương xót Chúa, con tìm được nơi an nghỉ.

Con kêu lên Chúa cậy nhờ vào tình yêu Chúa dành cho nhân loại.

theo Syméon le Nouveau Théologien.

57. Cầu nguyện

Đâu là sự khác biệt trong lời cầu nguyện của ông biệt phái và của anh thu thuế?

Lời cầu nguyện của ông biệt phái trước hết là một lời tạ ơn, cùng với những thói hư tật xấu mà ông không hề phạm, và những việc đạo đức ông thường làm. Chẳng những ông đã làm các việc đạo đức do luật buộc, như ăn chay mỗi năm vào dịp lễ xá tội, nộp 1/10 lợi tức cho đền thờ, mà hơn thế nữa, ông còn tự nguyện làm những việc đó ở một mức độ cao. Chúng ta không thấy ông xin gì cho bản thân, mà chỉ luôn tạ ơn. Điều đáng tiếc là lời cầu nguyện của ông đầy vẻ tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân. Chính vì thế mà chúng ta có thể nghi ngờ về tâm tình tạ ơn của ông, bởi vì tâm tình tạ ơn thực sự bao giời cũng gắn liền với sự khiêm tốn.

Trong khi đó, anh thu thuế lên đền thờ để thú tội. Anh ý thức mình là kẻ tội lỗi. Anh đặt mình trước tôn nhan Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin: Lạy Chúa, xin thương xót con vì con chỉ là kẻ tội lỗi. Điều anh khao khát là được Chúa tha thứ và được hoà giải với anh em. Anh chỉ dám đứng xa xa vì thấy mình bất xứng.

Từ hai hình ảnh trên chúng ta thấy: Ông biệt phái đi gặp Chúa vì ông cảm thấy mình có thế giá nhiều hơn những người khác. Ông đã sống một đời sống đạo đức và nghiệm nhặt. Ông đi gặp Chúa với một kho tàng công nghiệp to lớn của riêng ông. Thế nhưng cái kho tàng đó quá lớn đến độ đã ngăn cách ông với Chúa, nó không cho ông thấy được Ngài nữa, mà chỉ còn thấy có chính mình ông. Có quá nhiều chữ tôi trong lời cầu nguyện của ông: Tôi thế này, tôi thế nọ, tôi không như người này người khác… Rốt cuộc, ông lại là người quay vào mình, khép lại trên chính mình, mặc dù môi miệng ông đã kêu lên: Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa.

Tạ ơn thực sự là nhìn nhận mọi sự mình làm được là do bởi ơn Chúa ban. Tạ ơn thật sự là quay về với Chúa, nhìn nhận Ngài là nguồn mạch, là trung tâm, là sức sống của đời mình, của những việc tốt mình làm được.

Như thế, ông biệt phái đã không thực tâm tạ ơn, vì ông quay vào mình, coi mình là trung tâm, là tác giả mọi điều tốt đẹp, còn Thiên Chúa chỉ là một người thừa, hay cùng lắm chỉ là một người mà ông đến gặp để kể công và đòi nợ. Thiên Chúa phải trả cho ông Nước Trời vì ông đã có công. Ông không xin vì ông không thiếu và Chúa cũng sẽ không cho vì ông đã đầy ắp.

Trong khi đó, anh thu thuế, mặc dù lắm tiền nhiều của, nhưng thật ra lại là một người nghèo trước mặt Chúa. Anh chẳng có công trạng gì để cậy dựa. Anh ý thức về tình trạng nhơ nhớp của mình, nên chỉ còn một lối thoát duy nhất là tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa.

Và như vậy thật là oái oăm, chính sự đạo đức của ông biệt phái lại trở nên chướng ngại vật khiến ông không gặp được Chúa, không lãnh nhận được ơn huệ của Ngài, còn sự tội lỗi của anh thu thuế lại đưa anh đến chỗ mở rộng cõi lòng để đón nhận Chúa và ơn tha thứ của Ngài.

58. Lời cầu nguyện khiêm nhường–”Mở Ra Những Kho Tàng’–Charles E. Miller

LỜI CẦU NGUYỆN KHIÊM NHƯỜNG XUYÊN QUA NHỮNG ĐÁM MÂY

Trong Phúc Âm theo Thánh Luca, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta về cầu nguyện. Đầu tiên chúng ta học cầu nguyện với Chúa Giêsu là cầu nguyện với Cha trong lời kinh mà chúng ta gọi là “lời cầu nguyện của Chúa” hoặc đơn giản là “Kinh Lạy Cha”. Chúng ta học, chúng ta phải nhớ dâng lời tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa, chúng ta phải kiên trì với những lời nài xin dâng lên Thiên Chúa.

Ngày hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về chân lý, đã được tiên báo trong sách Khôn ngoan: “Lời cầu nguyện khiêm nhu xuyên qua những đám mây nó không nghỉ ngơi cho đến khi nó đạt được mục đích”. Thiên Chúa thương đến những lời cầu nguyện khiêm nhường, đó là một bài học bên trong của dụ ngôn có hai người lên Đền Thờ cầu nguyện. Thiên Chúa không hài lòng với tất cả những lời cầu nguyện của người Pharisiêu kiêu căng. Thật sự, đó không phải là một lời cầu nguyện nhưng đó chỉ là một bản danh sách những lời tự ca tụng. Nhưng Thiên Chúa hài lòng với lời cầu nguyện của người thu thuế tội lỗi. lời cầu nguyện chân thành của ông đã được thương xót.

Chúa Giêsu lấy làm sung sướng khi chú ý đến việc chấp nhận người anh hùng của câu chuyện (hãy nhớ đến người Samaria nhân hậu đã giúp đỡ một người ngoại quốc bị nạn và trở thành một vị anh hùng trong dụ ngôn này). Mọi người khinh bỉ người thu thuế, đặc biệt dị ứng đối với người thu thuế và sở thu thuế. Nhưng người đàn ông này biết mình tội lỗi và đã cầu xin nơi Thiên Chúa sự xót thương.

Chúa Giêsu chọn người thu thuế oán ghét này để làm người anh hùng bởi vì Người muốn ám chỉ tới dụ ngôn là: “Những người đã tin vào sự công chính của họ trong lúc nhìn mọi người với cặp mắt khinh bỉ”. Người Pharisiêu trong dụ ngôn đã được giới thiệu như những người này, ông là một hình thức xấu nhất của cái tôi phiền phức. Ông ta có thể chỉ biết chính mình trong con đường thuận lợi.

Mặc dầu ông đã cảm tạ Thiên Chúa không làm cho ông giống như người đàn ông tội lỗi kia, ông là một kẻ giả hình. Điều ông ta nói chẳng có ý nghĩa gì. Thật sự ông chỉ thấy chính mình như là người đã tạo ra con người hoàn hảo mà không cần bất cứ ai, không cần ngay cả Thiên Chúa. Đó là sự sai lầm làm nền tảng, là tội nguyên tổ mà tổ tiên chúng ta đã nghĩ đến khi đặt chính mình thay thế Thiên Chúa. Cái tôi làm cho chúng ta giống như những chiếc xe hơi mà chúng ta gọi vô dụng. Chúng có những hiệu quả nghiêm trọng bởi vì chúng ta được chế tạo với những sai sót và số phận là lập lại những thất bại.

Người thu thuế thì không phải là một kẻ vô dụng, nhưng ông ta giống như một chiếc xe hơi đã chịu đựng những tay lái không cẩn thận và không biết bảo quản xe. Chỉ có một quyết định duy nhất là mang xe hơi trở lại cho người buôn bán để họ tân trang lại. Người thu thuế đã làm một chọn lựa đúng, ông ta đã đi tới với người công chính để sửa chữa lại những gì mình cần. Ông đã làm một lời xin thứ lỗi. Ông không nhận biết những vấn đề của mình nhưng cầu xin Thiên Chúa ban ơn cho những gì ông cần trong lời cầu nguyện đơn giản: “Ôi Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi”.

Lời cầu nguyện của người thu thuế là một lời nài xin, một lời van xin giúp đỡ, một kiểu cầu nguyện mà chúng ta thường dâng lên Thiên Chúa. Sự nài xin đích thực diễn tả trong sự khiêm nhường đã được Chúa Giêsu chuẩn nhận. Chúng ta yêu cầu Thiên Chúa ban ơn, bởi vì chúng ta biết rằng Ngài là Đấng sẽ xoay chuyển được mọi sự, Người là Đấng quyền năng có thể giúp đỡ chúng ta. Một nửa của sự khiêm nhường để nhận biết quyền năng của Thiên Chúa thì lớn lao hơn bất cứ sức mạnh nào trong vũ trụ này. Một nửa kia của sự khiêm nhường này là chấp nhận rằng chúng ta cần Thiên Chúa, chúng ta không thể đi đâu, làm gì một mình được và chúng ta tùy thuộc vào tình yêu của Ngài cũng như quyền năng của Ngài. Lời cầu nguyện khiêm nhường diễn tả sức mạnh của Thiên Chúa và nhu cầu của chúng ta.

Lời cầu nguyện khiêm nhường của chúng ta bay thẳng lên trời vì lời cầu nguyện khiêm tốn sẽ xuyên qua các đám mây và sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi nó đạt đến mục đích của nó.

59. Cầu nguyện là thông hiệp với Thiên Chúa–Lm. Bùi Mạnh Tín

Chúng ta thường nghe câu định nghĩa quen thuộc: “Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Chúa”. Định nghĩa này tuy ngắn gọn nhưng nói lên bản chất và cách thức cầu nguyện.

Dĩ nhiên ở đây, việc “nâng tâm hồn lên” cần được hiểu sâu xa. “Nâng lên” có nghĩa là ý thức mình chỉ là một thụ tạo kém cỏi, thấp hèn, luôn sống trong trần thế, dễ bị ràng buộc vào những truyện “dưới đất”. Và như vậy, khi cầu nguyện, chúng ta cố gắng vươn cao tâm hồn lên, vượt ra khỏi những gì thuộc hạ giới, tạm thời tách rời những liên quan nhân loại, để thiết lâp một liên quan có tính cách hướng thượng, cao hơn, xa hơn, thanh thoát hơn. Cũng chính vì thế, Chúa Giêsu thường tìm nơi vắng vẻ thanh tịnh để có những giờ phút hiệp thông với Cha Ngài. Thánh lễ, cùng với việc rước lễ, là một hiệp thông hoàn hảo nhất, nên trước khi bước vào phần phụng vụ Thánh Thể, chủ tế nói với ngững người dự lễ: “Anh chị em hãy nâng tâm hồn lên”.

Ở đây, yếu tố được nhấn mạnh không phải là những cử chỉ của thân thể, những âm thanh trong lời đọc hay tiếng hát, nhưng chính là trạng thái của tâm hồn. Hiểu như thế, nhiều khi chúng ta đọc kinh lớn tiếng, dang tay cao, mà vẫn không phải là cầu nguyện, vì lòng trí chúng ta chưa thực sự thoát khỏi những ràng buộc của lo toan trần thế. Do đó, lời cầu của chúng ta vẫn chưa tới Chúa, tâm hồn chúng ta vẫn chưa gặp được Ngài.

Trong cuốn “150 More Stories”, Jack Mac Ardle kể một câu truyện:

Một người chìm vào giấc mơ, thấy mình được nâng lên trời và gặp Chúa Giêsu. Chúa đưa anh đi nhiều chỗ khác nhau và sau cùng hai người dừng chân tại một thánh đường giữa lúc đang cử hành thánh lễ. Chàng thanh niên nhìn thấy các ca viên đang mở sách hát, nhưng không nghe thấy tiếng hát; thấy một người đang lướt các ngón tay trêm phím đàn nhưng không nghe thấy tiếng nhạc; thấy mọi ngượi đang mở miệng đọc kinh, nhưng cũng không nghe thấy âm thanh phát ra từ miệng họ. Ngạc nhiên, anh ta hỏi Chúa Giêsu: tại sao chỉ thấy im lặng. Chúa trả lời: “Chúng ta chỉ có thể nghe được tiếng của họ, nếu họ thực sự cầu nguyện với tất cả tâm hồn mà thôi”

“Với tất cả tâm hồn” không chỉ được hiểu là hết sức lực, hết tâm trí, nhưng còn hiểu là cầu nguyện với niềm tin tưởng phó thác vào Chúa, với lòng khiêm nhượng và tình bác ái.

Qua dụ ngôn hôm nay, chính Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy: dù có đến nhà thờ, dù có giơ cao đôi tay hay lớn tiếng đọc kinh, nhưng không ý thức thân phận yếu đuối và tội lỗi của mình, trái lại, tự cao tự đại, coi thường anh chị em mình, thì hành động và lời nói của chúng ta chỉ trở thành vô ích, không bao giờ được Chúa lắng nghe và chấp nhận. Người thu thuế, vì ý thức mình tội lỗi, yếu hèn, cần đến ơn tha thứ, nên trong khi cầu nguyện, anh đã được Chúa nhận lời và thứ tha. Anh đã cầu nguyện với tất cả tâm hồn.

Lạy Chúa, mỗi lần trước khi đến với Chúa, trước khi mở miệng cầu nguyện, chúng con xin Chúa hãy thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi các ý nghĩ kiêu căng, ghen ghét, giận hờn và giúp chúng con thoát khỏi những ràng buộc bận tâm trần thế.

60. Nhận thức–Trầm Thiên Thu

Nhận thức là một quá trình bao gồm sự nhận biết (mức độ thấp) và sự hiểu biết (mức độ cao). Có nhận thức thức đúng đắn thì mới khả dĩ ý thức.

Có nhiều thứ cần nhận biết, nhưng khó nhất vẫn là nhận biết chính mình. Muốn nhận biết chính mình thì phải can đảm đối diện với chính mình. Nhưng cần nhận biết điều gì về bản thân? Cũng có nhiều thứ: sức mạnh, sức khỏe, điểm yếu (nhược điểm, sở đoản), điểm mạnh (yếu điểm, sở trường), tài năng, kiến thức, quan điểm, niềm tin, ước vọng, cảm xúc, bản năng, thói quen, tâm lý,…

Theo cách nhận thức riêng về cuộc đời, Allan Rufus ví von thú vị: “Cuộc đời như ổ bánh mì kẹp. Sinh ra là một lát bánh, và chết đi là lát bánh còn lại. Điều bạn kẹp vào giữa là tùy bạn. Ổ bánh mì của bạn thơm ngon hay chua cay?”. Đừng tự lừa dối, kẻ lừa bịp đáng sợ nhất là chính mình.

Và rồi chính Albert Einstein cũng đã từng thắc mắc: “A question that sometimes drives me hazy: am I or are the others crazy? – Có một câu hỏi đôi khi khiến tôi cảm thấy mơ hồ: Tôi điên hay người khác điên?”. Cuộc đời luôn là một ẩn số, không có cách lý giải chuẩn xác. Nội tại luôn quan trọng hơn ngoại tại, đúng như Agatha Christie nhận xét: “Chính điều bên trong con người của bạn làm cho bạn hạnh phúc hay bất hạnh”.

Thật chí lý khi người ta nói “đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”. Từ ánh mắt của ai đó, người khác có thể nhận thấy người đó có sức mạnh, uy tín, đáng tin hay khả nghi,… Người ta sợ nhau từ ánh mắt. Thật vậy, khi hai người nhìn nhau, ai yếu bóng vía sẽ tự cảm thấy mình “lép vế” ngay. Dám nhìn thẳng vấn đề là một thế mạnh của người quân tử.

Cuộc đời vốn dĩ là bể khổ, tất nhiên liên quan nước mắt. Nước mắt của nhà giàu và nhà nghèo giống nhau về vị mặn, nhưng khác nhau xa về tính chất và nguyên nhân. Kinh Thánh đặt vấn đề: “Nước mắt quả phụ lại không giàn giụa trên gò má, và tiếng bà kêu lại chẳng cáo tội kẻ làm bà phải khóc sao? Kẻ phục vụ Đức Chúa theo ý Người sẽ được Người chấp nhận, lời họ kêu xin sẽ vọng tới các tầng mây. Lời nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm. Lời nguyện chưa tới đích, họ chưa an lòng” (Hc 35:15b-17).

Trước mặt người đời đời, người nghèo là cái gai cần phải đập gãy, nhưng với Thiên Chúa thì không như vậy. Ngài là Thiên Chúa giàu lòng thương xót thì không thể làm ngơ trước lời van xin tha thiết của những con người hèn mọn, khốn khổ.

Điều gì chưa xảy ra, ngay cả công lý, là vì Thiên Chúa chưa cho phép xảy ra, chưa đến lúc theo sự quan phòng và tiền định của Ngài. Cứ tin tưởng, an tâm để Ngài dắt đi và bước theo Ngài thì chúng ta sẽ thanh thản. Đừng sợ loài người, chỉ sợ Thiên Chúa mà thôi. Và điều gì đến sẽ phải đến: “Sẽ đến lúc Người đập gãy lưng bọn tàn ác, và báo oán chư dân. Sẽ đến lúc Người tiễu trừ lũ ngạo ngược, đập tan vương trượng bọn ác nhân. Sẽ đến lúc Người trả cho ai nấy theo việc họ làm, và xét xử hành động của người ta theo ý hướng của họ” (Hc 35:20-22a). Tất cả đều đúng thời, đúng lúc, không gì có thể xảy ra ngoài Thánh Ý Chúa. Chắc chắn như vậy!

Thật vậy, Thánh Phaolô tha thiết nhắn nhủ: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4:6-7).

Tác giả Thánh Vịnh cũng chân thành bày tỏ: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” (Tv 34:2-3). Dù sướng hay khổ, dù buồn hay vui, cứ trò chuyện với Chúa thì chẳng có gì phải lo, phó thác hết cho Ngài, cứ để Ngài hành động.

Là những con người đầy tội lỗi và nhiều sai lầm, thế mà không cha mẹ nào nỡ lòng muốn điều xấu cho con cái, những đôi lứa yêu nhau cũng luôn muốn điều tốt cho nhau, thậm chí cọp dữ còn chưa nỡ ăn thịt con kia mà. Chắc chắn Thiên Chúa còn hơn như vậy: “Chúa để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu. Họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:17-18).

Và còn hơn thế nữa, tác giả Thánh Vịnh dẫn chứng cụ thể: “Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề” (Tv 34:19). Đúng vậy, ngôn sứ Isaia còn nói rõ ràng và chi tiết hơn: “Cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gẫy; tim đèn leo lét, Ngài chẳng nỡ tắt đi” (Is 42:3). Văn hào Victor Hugo (1802-11885, Pháp) đã nói: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa; ai chết vì yêu là sống trong tình yêu”. Thật là chí lý! Nhưng có lẽ chúng ta không thể hiểu nổi lòng thương xót của Thiên Chúa. Tình yêu tuyệt đối của Ngài viên mãn tới mức đôi khi chúng ta nghi ngờ, không dám tin. Và cũng đã có những người coi tình yêu ấy là tình yêu điên rồ. Vâng, điên thật!

Cũng nhớ “khối tình điên” ấy mà chúng ta mới hiện hữu và sống tới hôm nay. Nhận thức như vậy để có thể hoàn toàn tín thác vào Ngài: “Chúa cứu mạng các người tôi tớ, ai ẩn thân bên Chúa không bị phạt bao giờ” (Tv 34:23).

Cuối đời, Thánh Phaolô nhắn nhủ Timôthê: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện” (2 Tm 4:6-8). Dù là một “tân tòng”, nhưng ông Phaolô đã nhận thức sâu sắc về ơn gọi của mình, đồng thời biết mình sống thế nào nên ông tin tưởng mình sẽ được cứu độ. Thật hạnh phúc! Ước gì mỗi chúng ta cũng biết Chúa và biết mình như vậy!

Thánh Phaolô dẫn chứng cụ thể và rạch ròi: “Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. Amen” (2 Tm 4:16-18).

Ông được đặc ân nhưng không tự mãn, ông chấp nhận sự vô cảm của người khác và còn xin Thiên Chúa tha thứ cho những người đã đối xử tệ với mình. Thật cao thượng!

Ai cũng biết đức khiêm nhường là nhân đức cần thiết, nhưng lại khó thể hiện, vì “cái tôi” luôn to lớn (nhưng không hề vĩ đại). Trình thuật Lc 18:9-14 nói về dụ ngôn “Người Pharisêu và Người Thu Thuế” – một người khiêm nhường, một người kiêu ngạo. Hai thái cực đối lập, hai động thái trái ngược. Người Việt có câu: “Thùng rỗng kêu to”. Thùng càng rỗng càng kêu to. Người ta cũng thế, càng dốt càng chảnh, càng “nổ”. Kheo khoang vì muốn chứng tỏ “bản lĩnh” của mình, không muốn người khác biết “thùng mình rỗng”. Nhưng càng “nổ” mạnh thì càng văng miểng nhiều, khiến người ta “sợ” dính miểng nên phải xa lánh.

Người Pharisêu mệnh danh là nhóm Biệt Phái, tức là những người được tách khỏi dân thường và có nhiệm vụ riêng biệt. Vì được coi trọng nên họ kiêu hãnh, luôn ra vẻ ta đây. Nhưng đó chỉ là động thái giả hình, coi trọng bề ngoài, coi trọng hình thức, coi trọng nghi thức, nhưng bên trong rỗng tuếch. Chúa Giêsu đã từng gọi họ là “mồ mả tô vôi” (x. Mt 23:27), bên ngoài sơn son thếp vàng nhưng bên trong đầy giòi bọ hôi thối.

Để đánh động những người tự nhận mình công chính mà khinh chê người khác, Chúa Giêsu kể dụ ngôn thế này…

Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng thẳng và nguyện thầm: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Còn người thu thuế đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.

Theo mặc định của xã hội Do Thái, người biệt phái là công chính, người thu thuế là tội lỗi (vì làm việc cho ngoại bang mà đàn áp dân lành, và có thể lóm lém tiền bạc). Chúng ta thấy có những động thái đối nghịch: ngẩng đầu – cúi đầu, dang tay – khép tay, chê người – thú nhận, tự mãn – khiêm nhường. Chúa Giêsu xác định: người thu thuế khi trở xuống mà về nhà thì đã được nên công chính, còn người biệt phái thì không. Xã hội luôn có những kẻ có “máu” Pharisêu, ngay trong các dòng tu, các giáo xứ và các hội đoàn cũng không thiếu. Thật đấy!

Kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu kết luận: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.

Liên quan vấn đề nhận thức, đại nhân Khổng Tử xác định: “Đừng lo mình không có chức vị, chỉ lo không đủ tài mà nhận lãnh chức vị mà thôi”. Đó là cách nhận thức giản dị mà thâm thúy, khả dĩ giúp người ta sống thanh thản, không ảo tưởng, dù là ai và ở cương vị nào. Ca dao Việt Nam cũng nói:

Người trồng cây Hạnh người chơi

Ta trồng cây Đức để đời về sau

Hãy cứ bình thường khi gặp người khác, dù người đó là ai. Người có như vậy có thể sẽ bị coi là lạnh lùng, dửng dưng, khinh người,… nhưng không phải vậy. Bắt chước là hèn nhát, nịnh bợ là nhục nhã. Hãy cứ là chính mình. Không sợ hãi trước kẻ quyền thế, không hống hách với người yếu thế, không luồn cúi hoặc nịnh bợ người khác để có lợi cho mình, đó chính là phong cách của quân tử. Thật là đê tiện với những ai có cái kiểu “cáo mượn oai hổ”.

Biết mình và biết người là điều cần thiết trong cuộc sống, cao cấp nhất là nhận biết Thiên Chúa – dạng nhận thức tâm linh. Thánh Augustinô phân tích: “Nhận biết Thiên Chúa là làm cho con người nhận biết mình; cũng vậy, nhận biết mình cũng là khiến cho người ta nhận biết Thiên Chúa”. Rất hay, rất lô-gích!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận thức đúng đắn, khả dĩ biết Chúa, biết người, và biết chính con, để con không ảo tưởng mà kiêu ngạo, và để con biết sống khiêm nhường theo đúng Tôn ý Ngài.

Lạy Đấng giàu lòng thương xót, cơn bão Sakira (số 7) đang làm cho miền Trung ngập trong biển nước, hơn 30.000 gia đình không có chỗ trú thân, trong khi đại họa Formosa chưa nguôi, khổ chồng lên khổ. Xin Chúa chúc lành và che chở họ, xin thêm đức tin cho họ trong cảnh khốn khó này.

Lạy Đức Mẹ La Vang, xin Mẹ choàng Chuỗi Mân Côi quanh miền Trung để bảo vệ họ khỏi thiên tai và nhân tai, xin cho những người hữu trách có được nhận thức theo Tháy Ý Chúa, và xin ban bình an cho Việt Nam bé nhỏ của dân tộc chúng con. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

61. Lời cầu nguyện đích thực–Lm Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc

Tin Mừng Lc 18: 9-14 Hình ảnh của hai nhân vật trong dụ ngôn hôm nay đã giúp chúng ta khám phá lại hai sự thật căn bản: sự thật về Thiên Chúa tình thương và sự thật về con người tội lỗi.

Một vị linh sư nọ đang cầu nguyện. Các môn đệ đến xin ông dạy họ cách cầu nguyện. Vị linh sư liền dạy các môn đệ cầu nguyện bằng một câu chuyện như sau:

Cả hai người dẫn nhau đi qua một cách đồng, bỗng một con bò mộng giận dữ không hiểu từ đâu chạy tới. Hai người bèn chạy đến hàng rào gần nhất để ẩn núp; những đã quá trễ, họ không thể lẩn trốn được con bò mộng hung dữ kia đang chạy tới để hút vào người họ. Trong cơn hốt hoảng, không còn biết làm gì được nữa, một trong hai người đề nghị: chỉ còn có sự cầu nguyện may ra giúp chúng ta thoát được. Thế nhưng người kia lắc đầu tuyệt vọng:

– Cả đời tôi, có bao giờ tôi cầu nguyện đâu!

Người bạn quả quyết:

– Anh hãy đọc bất cứ kinh nào anh nhớ.

Một chút hy vọng bỗng lóe lên, anh ta nói:

– Vậy thì tôi sẽ đọc lời kinh duy nhất mà tôi còn nhớ, đó là lời cầu nguyện cha tôi thường đọc trước bữa ăn như sau:

“Lạy Cha, xin cho chúng con luôn biết tạ ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng con đã nhận được”.

Anh chị em thân mến,

Cầu nguyện là sinh hoạt căn bản và là nhu cầu cấp thiết của lòng tin. Cầu nguyện còn là biểu hiện của một lòng tin sống động. Người Kitô hữu nào cũng phải cầu nguyện. Nhưng lời cầu nguyện của chúng ta chỉ có ý nghĩa thực khi nó diễn tả mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa. Và đó là lời cầu nguyện đẹp nhất mà Thiên Chúa mong đợi nơi những kẻ tin Ngài.

Chúng ta thường cầu nguyện như thế nào?

Hôm nay chúng ta hãy nghe lời cầu nguyện của người Pharisêu và của người thu thuế trong dụ ngôn Chúa Giêsu đã kể cho chúng ta. Qua lời cầu nguyện của hai người nầy, chúng ta thấy được phần nào nội tâm của từng người.

Lời nguyện của người Pharisêu trước hết là một lời tạ ơn, tiếp theo là bản liệt kê những thói hư tật xấu mà ông không hề phạm, cuối cùng là những việc đạo đức ông quen làm. Đây là một lời cầu nguyện hết sức thành thực, người Pharisêu chỉ nói lên những điều ông đã sống. Chẳng những ông đã làm các việc đạo đức do luật buộc như ăn chay mỗi năm vào dịp lễ Xá tội, nộp một phần mười lợi tức cho đền thờ, mà ông còn tự nguyện làm những việc đó ở mức độ cao hơn, như ăn chay một tuần hai lần, nộp cho đền thờ một phần mười lợi tức chẳng những về gia súc, ngũ cốc, rượu và dầu mà còn cả về rau, đậu và thảo mộc nữa. Chúng ta không thấy ông xin gì cho bản thân, nhưng chỉ là “tạ ơn”. Điều đáng tiếc là lời tạ ơn của ông đầy nét tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân: “Tạ ơn Chúa vì con không như bao người khác…”, “con không như tên thu thuế kia”. Chính vì thế chúng ta có thể nghi ngờ về tâm tình “tạ ơn” của người Pharisêu nầy. Tạ ơn thực sự bao giờ cũng gắn liền với thái độ khiêm tốn thẳm sâu.

Còn người thu thuế đến đền thờ để thú tội. Anh ý thức mình là một tội nhân, bị kể ngang hàng với bọn đĩ điếm (x. Mt 21,31-32). Có lẽ anh đã nghe thấy lời cầu nguyện lớn tiếng của người Pharisêu “con không như tên thu thuế kia”, nên anh thấy khỏi cần thú tội mình. Anh chỉ đặt mình trước Thiên Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Điều anh khao khát là được Thiên Chúa tha thứ và được làm hòa với anh em, nhưng anh chỉ dám đứng xa vì thấy mình hoàn toàn bất xứng.

Thưa anh chị em,

Qua lời cầu nguyện của hai người trên đây, chúng ta thấy: Người Pharisêu ra gặp Thiên Chúa và ông cảm thấy mình có thế giá hơn nhiều người khác. Ông đã sống một đời sống đạo đức, nhiệm nhặt. Ông ra gặp Chúa với một kho những công trạng to lớn của riêng ông. Nhưng than ôi, cái kho đó lớn quá đến độ nó ngăn cách ông với Chúa, nó không cho ông thấy được Ngài nữa mà chỉ còn thấy chính mình. Có nhiều chữ “tôi” trong lời cầu nguyện của ông. Tôi tôi thế nầy, tôi thế nọ, tôi không như người nầy, không như người khác… Rốt cuộc ông Pharisêu lại là người quay vào mình, ông ngắm chính mình, dù chúng ta tưởng ông đã mở ra khi nói: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa”. Tạ ơn là quay về với Thiên Chúa, nhìn nhận Ngài là nguồn mạch, là trung tâm, là sức sống của cả đời mình, của những việc tốt mình làm được. Ông Pharisêu đã không tạ ơn thực tâm vì ông quay vào mình, coi mình là trung tâm, là tác giả mọi điều tốt đẹp ông đã làm. Như thế Thiên Chúa là một người thừa, hay cùng lắm chỉ là một người mà ông đến gặp để kể công và đòi nợ. Thiên Chúa phải trả cho ông Nước Trời vì ông đã có công. Người Pharisêu không xin Thiên Chúa cũng chẳng thể cho điều gì, vì ông đã đầy ắp. Vì tự mãn, nên ông mất đi một khả năng quan trọng, đó là mở ra để đón nhận Thiên Chúa vào đời mình.

Nếu người Pharisêu là một ông nhà giàu, chẳng có gì phải xin Thiên Chúa, thì ngược lại, anh thu thuế, tuy là là người có lắm tiền nhiều của, nhưng thực ra anh là người nghèo trước mặt Thiên Chúa. Anh chẳng có công trạng gì để cậy dựa. Anh ý thức về sự nhơ nhớp của mình và thấy gần như không thể làm lại cuộc đời. Nếu hoán cải, anh phải bỏ nghề, và nhất là phải bồi thường toàn bộ những gì anh đã thu quá mức, cộng thêm một phần năm số tiền trên. Tình cảnh của anh thật là tuyệt vọng. Anh chỉ còn biết cậy dựa vào lòng thương xót của Thiên Chúa.

Như thế, thật là oái oăm, chính sự đạo đức của người Pharisêu đã trở thành một chướng ngại khiến ông ta không gặp được Thiên Chúa, không lãnh nhận được ơn của Ngài. Còn sự tội lỗi của người thu thuế lại đưa anh đến chỗ mở lòng ra để đón nhận Thiên Chúa, Đấng yêu thương tha thứ. Chúa Giêsu đã long trọng tuyên bố: “Tôi nói cho các ông biết:người nầy, khi trở về nhà, thì đã được nên công chính; còn người kia thì không”.

Như thế, thưa anh chị em, những ai tự cho mình là công chính thì không được Thiên Chúa nhìn nhận, còn kẻ tội lỗi biết cậy trông, lại được Thiên Chúa làm cho nên công chính. Chúng ta không thể tự tạo cho mình sự công chính thánh thiện nhờ làm những việc lành phúc đức. Trở nên công chính là một ơn Chúa ban cách nhưng không, nhờ lòng tin và lòng mến của ta đối với Chúa Giêsu Kitô. Chắc chắn chúng ta phải làm nhiều việc lành phúc đức, nhưng đừng tưởng mình có thể mua được Nước Trời bằng những công phúc của mình. Chúng ta được cứu độ nhờ công trạng của Đức Kitô. Dù sống đạo đức hay trót mang thân phận tội lỗi, chúng ta phải tránh thái độ khép kín trước Thiên Chúa và tha nhân. Đừng vì mình đạo đức mà khép kín trong tự kiêu, cũng đừng vì mình tội lỗi mà khép kín trong tự mãn, cũng đừng bì mình tội mà khép kín trong tuyệt vọng. Ơn Chúa chỉ đến với người biết mở ra để đón nhận.

Anh chị em thân mến,

Hình ảnh của hai nhân vật trong dụ ngôn hôm nay đã giúp chúng ta khám phá lại hai sự thật căn bản: sự thật về Thiên Chúa tình thương và sự thật về con người tội lỗi. Vì thế lời cầu nguyện của người thu thuế về con người tội lỗi. Vì thế lời cầu nguyện của người thu thuế lại chính là mẫu mực cho đời sống đức tin của chúng ta: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Nếu dụ ngôn giúp chúng ta khám phá hai sự thật căn bản đó thì để kết thúc, không có gì tốt hơn là lặp lại thật sâu và thật trọn vẹn lời cầu nguyện của Thánh Âutinh: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con”.

62. Tội lỗi chống lại sự có tội–McCarthy

Người Pharisêu hoàn toàn không biết đến sự có tội của mình. Ông ta không nghĩ mình có tội gì cả. Ông ta không phải là một người tội lỗi như phần còn lại của nhân loại. Không. Ông ta khác hẳn. Tuy nhiên, thay vì xem xét lương tâm của mình và xưng thú tội lỗi của mình, ông xem xét lương tâm của những người khác và xưng thú tội lỗi của họ –tham lam, bất công, ngoại tình vân vân…

Tuy nhiên, ông ta có tội. Thật vậy, tội rất nghiêm trọng. Tội chính của ông là lòng kiêu ngạo. Nhưng ông ta cũng phù phiếm và tự cho mình đúng lại còn khinh khi những người khác. Những tội lỗi của ông ta không phải vì những việc làm xấu mà là những thái độ xấu. Ông ta tỏ một thái độ có vấn đề như người ta thường nói như thế ở Mỹ.

Người thu thuế nếu muốn cũng có thể cáo tội người Pharisêu. Nhưng ông không làm thế. Ông tập trung vào chính mình, và để tội lỗi của những người khác ở giữa họ và Thiên Chúa. Với sự lương thiện triệt để, ông bóc trần tâm hồn trước mặt Thiên Chúa. Ông không cố tình giấu giếm điều gì. Ông đứng trước mặt Thiên Chúa và với tất cả sự khiêm tốn, ông nói: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Kết quả là khi ông trở về nhà, ông đã được nên công chính. “Lời cầu xin của người khiêm tốn sẽ vọng tới các tầng mây” (Bài đọc 1).

Chúng ta có thể học hỏi cả hai người ấy. Trước hết người Pharisêu. Thật vậy, có một người Pharisêu ẩn núp trong mỗi người chúng ta. Giống như họ, chúng ta có thể nhận thức rõ những tội lỗi của các người khác nhưng lại không nhìn thấy tội lỗi của mình. Người ta dễ có thói quen cáo tội người khác. Nhưng điều nguy hiểm bởi vì nó ngăn cản chúng ta nhìn vào chính tội của mình. Ngoài ra, không thể định tội những người khác mà không để cho sự chủ quan của mình, làm cho thiên lệch.

Và chúng ta có thể học hỏi với người thu thuế. Ông này chỉ cho chúng ta biết phải xưng thú tội lỗi của chúng ta như thế nào. Dù chúng ta chưa nhận thức hết mọi tội mình làm, mỗi người trong chúng ta vẫn có thể nói với tất cả sự thật: “Con là kẻ tội lỗi”.

Nhiều người đến với Bí tích hoà giải với một danh sách các tội đã được chuẩn bị trước. Phần lớn những điều ghi trong danh sách ấy thì tầm thường, không đáng kể và không thay đổi bao nhiêu từ lần xưng tội này đến lần xưng tội sau. Người ta không nỗ lực đi sâu vào căn nguyên của mối tương giao của họ với Thiên Chúa và với người khác. Người ta quá nhấn mạnh đến các tội mà không nhấn mạnh đúng mức trên sự kiện là một người tội lỗi.

Người thu thuế hẳn sẽ dễ dàng lập ra danh sách các tội. Nhưng ông đã không làm thế; ông làm một điều tốt hơn, và cũng khó khăn hơn. Ông nói: “Con là kẻ tội lỗi”.

Chúng ta cũng phải chuẩn bị đứng trước Thiên Chúa như những kẻ tội lỗi cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa như đất hạn cần mưa. Chúng ta cần phải đối diện không phải với sự thật chúng ta phạm tôi mà với sự thật chúng ta là những kẻ tội lỗi. Chúng ta là một dân có tội, sa đoạ – đây là một thực tế. Tội lỗi không phải là một hành động hay một hoạt động các hành động, nhưng là một điều kiện trong đó chúng ta sống. Đó là một chân lý cao cả mà người thu thuế đã lĩnh hội.

Một vấn đề lớn của thời đại chúng ta là con người không biết được chính mình, nhận ra điều xấu và giải quyết nó nơi bản thân mình. Những người trong các nhóm hỗ trợ nói rằng khúc quanh lớn làm họ chuyển biến là khi họ có thể nói lên sự yếu đuối của mình.

Người Pharisêu đầy sự tự mãn, là tâm điểm của thế giới ông ta. Ông đã tự tán dương mình. Từ vị trí tự tâng bốc ấy, ông nhìn xuống những người khác, trong đó có những người mà ông khinh bỉ. Người thu thuế, trái lại, hạ mình trước mặt Thiên Chúa. Ông này đặt hy vọng của ông vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta làm tốt khi theo gương ông. Thiên Chúa yêu thích tâm hồn tan vỡ và sầu khổ biết rõ những thất bại của mình hơn tâm hồn tự mãn và kiêu căng không bao giờ nhận rằng mình đã phạm tội.

“Một kẻ tội lỗi biết rằng mình là kẻ tội lỗi tốt hơn một ông thành biết mình là thánh nhân” (Châm ngôn Yiđít).

63. Suy niệm của William Barclay

Ở Palestine, người ngoan đạo giữ ba giờ cầu nguyện mỗi ngày, lúc chính giờ sáng, mười hai giờ trưa và ba giờ chiều. Lời cầu nguyện được kể là linh nghiệm đặc biết nếu cầu nguyện trong Đền Thờ, và vì thế vào những giờ đó nhiều người đến Đền Thờ để cầu nguyện. Chúa Giêsu nói về hai người lên Đền Thờ để cầu nguyện.

1. Có một đạo sĩ Do thái, ông lên Đền Thờ cầu nguyện.

Ông đứng giữa Đền Thờ nói với Thiên Chúa, nhưng thực ra không phải là lời cầu nguyện thật. Ông bắt đầu bằng “tôi tạ ơn Chúa”, nhưng thực ra ông không nói với Chúa mà là nói với chính mình. Lời cầu nguyện đích thực bao giờ cũng phải được dâng lên cho Chúa và chỉ một mình Chúa mà thôi. Ông đang trình bày chính mình như một bằng chứng trước mặt Thiên Chúa. Ông vui mừng vì so sánh với kẻ khác thì ông thuộc một giai cấp riêng, mọi người khác đều “tham lam, bất chính, ngoại tình, và điển hình cho bọn tội nhân ấy là bọn thâu thuế khốn nạn. Thay vì nhìn vào Thiên Chúa, ông đã nhìn vào người thâu thuế, ông đã khoe rằng chẳng những đã giữ mình thoát khỏi tội lỗi của kẻ khác, lại còn làm nhiều việc lành hơn. Luật Do thái chỉ buộc ăn chay một ngày trong năm, đó là ngày lễ chuộc tội, những kẻ muốn lập công đặc biệt cũng kiêng ăn các ngày thứ hai và thứ năm nữa. Luôn nhớ đó là ngày phiên chợ và Giêrusalem đầy dẫn dây từ các làng đổ về. Những kẻ ăn chay làm cho sắc mặt mình tái đi, bước đi trong bộ áo nhàu nát, những ngày đó tuyên truyền mạnh mẽ cho cái vẻ đạo đức vì có nhiều người ngắm nhìn họ. Luật buộc dâng một phần mười lợi tức cho các thầy Lê vi, vị đạo sĩ này dâng một phần mười tất cả các thứ, kể cả các thứ không buộc phải dâng. Nói khác đi, ông tỏ ra tốt hơn điều Thiên Chúa đòi hỏi, ông làm như Thiên Chúa cần biết ơn ông, tất cả thái độ trên tiêu biểu cho một điều tệ hại nhất của chủ thuyết Pharisi. Có một bài cầu nguyện của một rabi còn được ghi lại như sau: “Lạy Đức Chúa Giavê, tôi cảm tạ Ngài vì đã đặt tôi dự phần với những viện sĩ Hàn lâm viện chứ không phải ngồi chung với những kẻ đầu đường xó chợ. Vì tôi dậy sớm thì chúng cũng dậy sớm, tôi dậy sớm để học luật pháp Chúa, chúng dậy sớm vì những sự hư không. Tôi làm việc chúng cũng làm việc; tôi làm việc vì lãnh phần thưởng, còn chúng làm việc và không được lãnh phần thưởng. Tôi chạy và chúng cũng chạy, tôi chạy tới sự sống đời sau, còn chúng chạy tới hố diệt vong”. Rabi Ben Jocai được ghi nhận là đã có lần nói: “Nếu chỉ có hai người công chính trên thế gian thì đó là tôi và con trai tôi; nếu chỉ có một người thì đó là tôi”. Người biệt phái này thực ra không lên Đền Thờ để cầu nguyện, ông ta đến để nói cho Thiên Chúa biết ông ta tốt như thế nào. Một con người như thế đâu có hiểu biết gì về sự thánh thiện của Thiên Chúa, về tinh túy của luật Chúa là tình yêu!

2. Có người thâu thuế.

Người này cung kính đứng cách xa con người có vẻ thánh thiện, vì công đức của người ấy được mọi người nhận biết, cảm phục. Cũng không dám ngước nhìn lên trời, đấm ngực tỏ dấu ăn năn miệng kêu khấn: “Lạy Chúa, xin thường xót con là kẻ có tội”. Những chữ dùng ở đây không những chỉ tội nhân mà còn là tội nhân rất khốn nạn nữa. Và Chúa Giêsu cho biết chính lời cầu nguyện khiêm tốn và tấm lòng tan nát này khiến Thiên Chúa đóai thương ta.

– Người kiêu ngạo không thể cầu nguyện. Cửa lên trời rất thấp nên chỉ những ai biết quỳ gối mới có thể vào được.

– Người nào khinh dể anh chị em mình thì không thể cầu nguyện được. Trong khi cầu nguyện chúng ta không được nâng mình lên trên kẻ khác. Cần nhớ rằng chúng ta là một phần của nhân loại đang phạm tội, đang đau khổ, đang âu sầu, tất cả đang quỳ gối trước ngai thương xót của Thiên Chúa.

– Chỉ có sự cầu nguyện thật khi biết được đời sống mình bên cạnh đời sống của Thiên Chúa. Chúng ta không hề hồ nghi điều người biệt phái này nói, tất cả đều đúng. Ông đã ăn chay, ông đã kỹ lưỡng dâng một phần mười, ông ta đã không giống người khác, lại càng đã không giống người thu thuế này. Nhưng vấn đề không là: “Tôi có tốt như kẻ khác chăng?” nhưng “tôi có tốt như Thiên Chúa không?” Tất cả tùy ở chúng ta so sánh mình với đối tượng nào. Khi chúng ta đặt đời sống mình bên cạnh đời sống diệu kỳ của Chúa Giêsu, bên cạnh sự thánh thiện của Thiên Chúa, thì chúng ta chỉ có thể nói: “Lạy Chúa, xin xót thương con là kẻ tội lỗi.”

Dụ ngôn này không phải chỉ dạy về lòng khiêm nhường khi đi cầu nguyện mà cả trong mọi cách đánh giá bản thân và trong mọi lúc đến cùng Thiên Chúa. Nó đối chiếu sự tương phản giữa tôn giáo của hình thức và tôn giáo của tâm hồn. Nó minh định rằng chỉ có ăn năn là con đường duy nhất đưa đến sự tha tội và bình an.

Dụ ngôn này không phải Chúa kể cho người Pharisêu, dầu nó vạch trần bộ mặt giả tạo và tự lừa dối của mọi thứ chủ nghĩa biệt phái. Hình như khi kể, Chúa đã nghĩ đến mấy người trong số đã theo Ngài, nhưng dầu là thuộc giai cấp hay nghề nghiệp nào, ở thời đại nào hay nơi chốn nào, tinh thần biệt phái này cũng có đại diện. Đó là hạng người cho mình là đạo đức và coi kẻ khác không ra gì.

Nhận thấy mình tội lỗi, tìm cầu ơn tha tội và kêu xin lòng thương xót của Thiên Chúa, đó chính là khởi điểm của cuộc sống mới. Rồi muốn tiến bộ trên đường thánh thiện đến mức nào đi nữa, cũng vẫn cần lòng khiêm tốn như vậy. Càng gần ánh sáng càng nhận ra mình nhơ bẩn, càng gần Chúa càng thấy mình tội lỗi và càng không thể khoe khoang về thành tích đạo đức của mình. Hễ càng biết mình không ra gì, thì càng xứng đáng để phục vụ Chúa và đồng loại. Đứng trên phương diện quốc gia cũng như trong đời sống cá nhân, sự kiêu ngạo của chủ nghĩa Pharisêu ngăn trở tính cách đắc lực, tình huynh đệ và ân huệ của Thiên Chúa, điều cần thiết là chúng ta sám hối, sống khiêm cung: “Ai tự nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.

64. Người biệt phái và người thu thuế–Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

1. Trong phúc âm Lc, dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế được tiếp đón sau dụ ngôn vị thẩm phán bạo ngược. Không có gì chứng minh hai dụ ngôn này được đưa ra trong cùng một hoàn cảnh. Có lẽ chúng được liên kết với nhau vì có cùng chủ đề tương tự. Mỗi dụ ngôn đều có phần nhập đề đặc biệt. Mạch văn ghi lại những giai thoại cuối cùng trong hành trình tiến về Giêrusalem. Lc giống Mt và Mc ở điểm này. Dụ ngôn xem ra được đưa ra tại Perée hoặc Giuđêa ít lâu trước khi Chúa Giêsu đi tới Giericô lần cuối cùng. Bản văn đã giúp xác quyết các dữ kiện đó. Dụ ngôn chạm trán, không chút vị nể, sự công chính giả hiệu của người biệt phái. Chúa Giêsu đã không đợi đến ngày cuối cùng mới làm việc đó, nhưng đúng hơn ngay khi bắt đầu cuộc sống công khai, tuy nhiên Ngài tránh dịp đả kích.

2. Nhiều nhà chú giải nghĩ rằng Chúa Giêsu muốn dùng dụ ngôn này để dạy về sự cầu nguyện, hoặc bề sự khiêm tốn, hoặc về sự cầu nguyện khiêm tốn, đó là những điểm nhấn mạnh trong những lời chú giải. Họ xây dựng ý kiến đó trên sự kiện dụ ngôn được bao gồm trong một cơ cấu về việc cầu nguyện, theo sau vị thẩm phán bạo ngược và nhất là dựa trên những nét chính dụ ngôn: dụ ngôn không được xây dựng do những lời cầu nguyện của người biệt phái và người thu thuế sao? Cách chung, các tác giả này xem câu châm ngôn: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” như là câu kết thúc trình thuật dụ ngôn.

Đa số các nhà chú giải cho rằng Chúa Giêsu có lý khác. Khi mô tả người biệt phái cầu nguyện. Ngài không muốn dạy về sự cầu nguyện cho bằng phơi trần hai đời sống nội tâm. Phải chăng lúc cầu nguyện là lúc người ta được coi là chân thành hơn hết đó sao? Vậy dụ ngôn có mục đích dạy về các giá trị của hai trạng thái tâm hồn, hai thái độ nội tâm, hai mặc cảm tinh thần: mặc cảm của người biệt phái tự mãn về chính mình, về sự thánh thiện của mình và mặc cảm của người thu thuế, tuy là tội nhân, nhưng biết tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa.

Tất cả đều làm nổi bật quan niệm đó: thể văn dụ ngôn đưa ra hai khuôn mặt đối nghịch, chỉ mình Chúa Giêsu mới xét đoán ai công chính, ai không. Câu nhập đề cũng nghiêng theo quan điểm đó: “Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những ai thường tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác”. Dụ ngôn dạy những người tự phụ, bằng cách cho họ thấy rõ ràng tính tự kiêu và vẻ hợm hĩnh họ bày tỏ trước mặt Thiên Chúa, trong khi những người bị họ khinh chê, nhờ ăn năn hoán cải, đã được ơn tha thứ và ơn công chính hóa.

3. Thông thường, các dụ ngôn trình bày những sự vật hay con người để dùng bản chất hay việc làm của họ để dạy về các thực thể thuộc bình diện cao hơn. Ngược lại, dụ ngôn hôm nay chỉ là một ví dụ.

Chúa Giêsu đã vắn tắt phác họa hai khuôn mặt nổi tiếng. Không nên có tiên kiến khi phân tích hai khuôn mặt đó. Từ nhiều thế kỷ, người biệt phái đã thành một loại chiên hy sinh (bouc émissaire); một số nhà chú giải còn muốn tô đậm hơn các nét mà Chúa Giêsu đã sơ họa. Chớ làm thế. Một khuôn mặt luôn ngụ một ý nào đó; nếu quá nhấn mạnh nó sẽ thành hài hước và cuối cùng không gây được một cảm tưởng nào.

Ví dụ, khi người biệt phái cảm tạ Chúa vì mình không như những kẻ khác, thật là ép nghĩa khi xem người biệt phái đó muốn đối chiếu bản thân ông là người công chính; bên kia là tất cả mọi người khác, họ đều là người hư hỏng. Nhiều nhà chú giải nghĩ phải hiểu ngầm có thêm câu “như những người khác không phải là biệt phái”: cách nói này có thể chấp nhận. Ngoài ra, người biệt phái không xem tất cả các người khác không phải là biệt phái đều là những quái vật. Đừng hiểu cách vô hạn định thành ngữ hoi loipoi tôn ânthrôpôn. Nếu dịch thành ngữ này là “các người còn lại” thì quá mạnh nghĩa; có lẽ nên dịch là “các người khác”, hay “quần chúng nói chung”. Hoặc nếu muốn hiểu thành ngữ đó theo nghĩa mạnh thì phải xem người biệt phái đã cố ý khoa trương như tác giả Tv (Tv 14,2-3). Việc đối chiếu người đạo đức với các kẻ gian ác là một chủ đề thường gặp trong các Tv (Tv 1,14; 16,17…). Việc người biệt phái có khuynh hướng gán ghép điều ác cho kẻ khác và điều thiện cho bản thân mình là một việc có thể có. Ông sai lầm ở chỗ là tạo nên ảo tưởng đó ngay trước mặt Thiên Chúa. Ông hơi hợm hĩnh, buồn cười, nhưng sự kiêu ngạo của ông không lạ lùng gì, vì thường ai cũng thế.

Và vì hình ảnh người biệt phái có vẻ có như trong thực tế, và vì lời ông cầu nguyện xem ra chính đáng, nên dụ ngôn đã làm cử tọa kinh ngạc và khó hiểu. Sách Tamud ghi lại một lời nguyện ở thế kỷ I khá tương tự với lời nguyện của người biệt phái: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con cảm tạ Chúa vì đã cho con nhập bọn với các người đầu đường xó chợ, con đã lên đường sớm như họ: nhưng con sớm đi theo Lời của Lề luật còn họ sớm theo phù vân giả dối. Con từng vất vả như họ: con chịu vất vả để trọng thưởng, còn họ chịu vất vả mà chẳng gì. Con chạy họ cũng chạy: con chạy về sự sống của thế giới mai sau, còn họ chạy về hố thẳm diệt vong (b Ber 28b).

Lời nguyện của người Biệt phái do đó là một lời nguyện rút từ cuộc sống cụ thể, và b Ber 28b là lời chú giải chính xác về thành ngữ “con cảm tạ Chúa” của câu 11. Người biệt phái chân thành cảm tạ Chúa đã hướng dẫn đời sống ông. Ông biết rằng chính Thiên Chúa đã cho ông sống khác biệt và tốt hơn người khác, rằng chính Ngài đã cho ông gia nhập nhóm những người biết nghiêm túc tuân giữ các bổn phận tôn giáo. Ông không muốn hoán đổi cuộc sống ông với suộc sống của kẻ khác dù họ có một đời tốt đẹp hơn, vì ông hứa rằng: đường ông đang đi, dù gặp bao khó khăn gian khổ, cuối cùng cũng sẽ đưa đến “sự sống của thế giới mai sau”. Đó chẳng phải là những lý do để cảm tạ hay sao (c.12 cũng là lời cảm tạ). Hãy lưu ý thêm điều này: lời nguyện của người biệt phái không chứa đựng một lời van xin gì cả, mà chỉ là một lời cảm tạ, tri ân. Thật là điều tuyệt hảo, không ai mà lại không ao ước như thế. Đó chính là tiền nếm sự sống vĩnh cửu. Cầu nguyện như thế, có gì cần phải sửa đổi?

4. Chúng ta cũng phải khảo sát lời cầu nguyện của người thu thuế với cái nhìn của người đương thời. Bản văn nói là ông ta không dám nhìn lên và hơn nữa – đây là điều hiểu ngầm – không dám đưa tay lên trời như ông vẫn thường làm khi cần nguyện. Ông cúi đầu và đấm ngực: đây là một cử chỉ hoàn toàn lạ thường biểu lộ một nỗi thất vọng sâu xa. Ông ăn năn đấm ngực, không để ý gì đến nơi đang đứng; ông đau khổ vì thấy mình quá xa Thiên Chúa; hoàn cảnh của ông cũng như gia đình của ông, thật vô vọng, bởi vì để ăn năn hối cải, không phải chỉ từ bỏ đời sống tội lỗi, nghĩa là từ bỏ nghề nghiệp của ông, nhưng còn phải hoàn trả và bồi thường thêm một phần năm những số tiền mà ông đã tham nhũng. Làm sao biết ông đã biển thủ ai! hoàn cảnh của ông, cũng như lời cầu nguyện của ông, thật là vô vọng.

Chính lúc đó, câu 14a kết luận: “Ta bảo các ngươi, người này ra về khỏi tội, còn người kia thì không! Thiên Chúa đã tha thứ cho người này mà không tha thứ những kia. Đó chính là câu kết luận khiến thính giả Chúa Giêsu bỡ ngỡ; chắc chắn không ai trong họ ngờ điều đó. Vậy người biệt phái đã có thể làm gì ? Và người thu thuế sẽ phải sửa đổi làm sao ? Nếu bỏ câu 14b (có lẽ là câu kết luận tổng quát Lc thêm vào), Chúa Giêsu không thèm đưa ra một giải pháp nào. Ngài chỉ nói cách đơn giản: đó là cách Thiên Chúa xét xử. Nhưng một cách gián tiếp, Ngài cho thấy lý do tại sao Thiên Chúa xem ra bất công. Trong tiếng kêu đầy thất vọng, người thu thuế đọc lại những câu đầu của Tv 51 (Miserere) và chỉ thêm: “thương xót tôi là kẻ có tội” (một nghĩa đối nghịch): “Lạy Chúa, xin thương xót tôi dù tôi là kẻ tội lỗi” (c.13). Nhưng trong chính Tv 51 này cũng có nói: “Của lễ Thiên Chúa ưa chuộng chính là tâm hồn tan nát khiêm cung” (Tv 51,19). Chúa Giêsu nói Thiên Chúa xử sự như Tv đã viết. Ngài nhận lời những tội lỗi thất vọng và từ chối người chỉ để ý đến sự “công chính” của riêng mình. Ngài là Thiên Chúa của những người thất vọng và lòng thương xót của Ngài vô biên đối với những ai có tâm hồn tan nát. Thiên Chúa thế đó! và bây giờ, bắt chước Ngài, tôi cũng hành động như vậy.

KẾT LUẬN

Chúa Giêsu đánh đổ niềm tự tin của những kẻ tự xưng là “đạo đức”. Họ tự công chính hóa bản thân mình, trong khi đúng ra phải để Chúa công chính bản thân họ, vì chỉ Ngài có thể làm công việc đó.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Qua dụ ngôn này, Chúa đề nghị chúng ta chọn giữa hai thái độ tinh thần, hai cách thức nhận ra tương quan chúng ta với Ngài.

Thái độ của người biệt phái chứng tỏ ông có ý thức về các cố gắng đã chu toàn, các tiến bộ bản thân ông đã thực hiện, khoảng cách giữa tình trạng hiện thời lành thánh và tình trạng khả thể tội lỗi của mình. Ông rất quan tâm đến điều đó và đặt tin tưởng vào những thành tích tinh thần của mình (ăn chay, dâng 1/10 …) Ông có một cái gì đó để làm chứng trước tòa Thiên Chúa; ông còn thấy mình “chắc ăn” hơn khi sánh mình với những người có thành tích thua mình.

Người thu thuế đo lường khoảng cách giữa tình trạng hiện thời tội lỗi và tình trạng phải trở nên lành thánh của mình; khoảng cách này đối với ông không có gì là rõ ràng cả. Tuy nhiên ông không trì trệ đối với điều đó. Ông kêu van lòng thương xót, ông không tìm cách được công chính hóa bằng một thành tích tốt lành… Xin Chúa hãy hành động.

Người thứ nhất nhìn sau lưng ông và tự mãn bằng sự quảng đại và hiệu quả của những cố gắng riêng mình. Người thứ hai nhìn trước mặt mình và xin Thiên Chúa giúp. Người thứ nhất nhìn chính mình, người thứ hai nhìn Thiên Chúa – và đó là điều cứu vớt ông.

2. Thiên Chúa chúc phúc cho lòng khiêm cung tín thác. Lòng khiêm cung cốt ở chỗ phơi bày tâm tư trước mặt Thiên Chúa. Nó được tạo nên do sự sáng suốt và sự tín thác. Sự sáng suốt soi sáng tâm trí về trạng thức của lương tâm. Nó khám phá ra những bất hạnh lớn lao và xem ra bị vây hãm trong sự thất vọng, chán chường. Thế nhưng sự tín thác đến để nâng đỡ tâm hồn. Khám phá ra sự bất hạnh của mình dưới cái nhìn của Thiên Chúa để biết rằng Thiên Chúa là tình yêu, chính là kêu xin sự tha thứ và lòng xót thương một cách rất bảo đảm. Nếu thành thực, nghĩa là quyết tâm thực hành việc ra khỏi bất hạnh của mình, ta sẽ được tha thứ.

Ngược lại, sự tự túc tự mãn làm mếch lòng Thiên Chúa khi đem ra khoe khoang trước mặt Ngài hoặc người bên cạnh. Ai trong chúng ta lại không bị cám dỗ tự “công chính hóa” trước người bên cạnh, trước mặt những người khác ? Có thực sự chấp nhận đường lối khiêm nhu làm hài lòng Thiên Chúa ? Chúng ta rất dễ bị cám dỗ nâng mình lên. Thử xem chúng ta phản ứng thế nào khi bị người khác đánh giá quá thấp. Cũng như lòng khiêm như tín thác làm hài lòng Thiên Chúa, sự nhún nhường thành thật khiến chúng ta làm vừa lòng người khác. Trong cả hai trường hợp, tâm hồn cảm thấy dễ dàng đón nhận, trao đổi, vui mừng.

3. Đừng kiêu ngạo hoặc tự đắc về việc đạo đức của chúng ta. Khi tham dự thánh lễ, chúng ta chỉ chu toàn bổn phận tối thiểu của người Kitô hữu. Chúng ta đừng bằng lòng về một sự hiện diện duy hình thức, không hiến dâng thân mình làm hòa với lời nguyện tôn thờ, van xin của phụng vụ, nhưng hãy làm hòa lẫn mọi ý hướng và thái độ nội tâm với mọi nghi lễ, kinh nguyện phụng vụ. Đừng bắt chước kiểu công chính biệt phái: đứng trên cao nhìn xuống phê phán người ta, dù họ có mặt hay vắng mặt. Chỉ mình Thiên Chúa mới thấu triệt các lý do họ hành động, các tâm ý cũng như các khó khăn họ gặp phải. Chúng ta đừng xuất hiện trước mặt Thiên Chúa như những quan tòa phê phán tha nhân, nhưng như những người thờ lạy thống hối, khiêm cung.

65. Cầu nguyện và khiêm nhường–Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP

Tin Mừng Lc 18: 9-14 Hôm nay khi nói về đức khiêm nhường, Đức Giêsu đã kể cho dân chúng và các Tông đồ nghe dụ ngôn người Biệt Phái và người Thu Thuế lên đền thờ cầu nguyện.

Trong thư thứ nhất của thánh Phêrô, ngài đã khẳng định thật mạnh mẽ khi nói: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5, 5). Thật vậy, kiêu ngạo là kẻ thù số một của Thiên Chúa, bởi vì nó là con đẻ của Ma Quỷ. Ngược lại, khiêm nhường là trở nên giống Con Thiên Chúa làm người.

Hôm nay khi nói về đức khiêm nhường, Đức Giêsu đã kể cho dân chúng và các Tông đồ nghe dụ ngôn người Biệt Phái và người Thu Thuế lên đền thờ cầu nguyện.

1. Hai hình ảnh và hai thái độ đối lập nhau khi cầu nguyện

Dụ ngôn được khởi đi từ việc Đức Giêsu nhận định về một tầng lớp trí thức trong dân tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác (x. Lc 18, 9). Họ là những người Biệt Phái, luôn miệng khoe khoang mình là người người đạo đức, chuyên cần suy gẫm Lời Chúa, tuân giữ cách tỉ mỉ từng dấu chấm, dấu phết, rồi thông luật, nắm bắt được mọi vấn đề và, có lòng quảng đại vượt trội. Điều này được thể hiện rất rõ qua hình ảnh của người Biệt Phái hôm nay. Ông ta cùng lên cầu nguyện một trật với người Thu Thuế. Khi ông ta cầu nguyện, thay vì tạ ơn Thiên Chúa vì những ân huệ mà họ đã nhận được, thì họ lại kể lể, liệt kê thành tích của mình; đồng thời tố cáo anh em đồng loại. Nào là: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18, 12). Quả thật, những thành tích đó, đã gắn liền với cái tôi ích kỷ của ông, nên cũng từ cái tôi đó mà ông trở nên rỗng tuếch. Đúng là: “cái thùng kêu to là cái thùng rỗng”. Ông đâu biết rằng mọi sự là của Chúa, nếu Chúa không ban cho ông thì ông đâu có của cải để mà làm như vậy… Sự khoe khoang của nhà Biệt Phái đã làm cho ông ta mất phần phúc Nước Trời. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu cũng đã dạy: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng” (Mt 6, 1). Sự khiên nhường của ông chính là một sự khiêm nhường giả tạo. “Khiêm nhường như vậy thì bằng bốn lần kiêu ngạo”.

Hình ảnh người Thu Thuế thì trái ngược hẳn. Ông ý thức mình là người tội lỗi trước mặt Chúa, nên ông chẳng có gì để khoe cả, ông chỉ có con người tội lỗi, tấm lòng thành và tâm tình sám hối của mình mà thôi. Vì vậy, ông Thu Thuế này đã hết lòng tin tưởng và cậy trông vào sự nhân từ của Thiên Chúa. Ông khiêm tốn không dám ngẩng đầu lên vì coi mình không xứng đáng tiến đến gần Chúa. Vì vậy, từ đàng xa, ông này đã thốt lên: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Tấm chân thành của ông đã đụng tới trái tim, lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, nên ông đã được Chúa thương nhận lời. Nói về sự khiêm nhường, Gióp đã phải thốt lên: “Chúa triệt hạ kẻ ăn nói kiêu căng và cứu vớt ai khiêm nhường cúi mặt” (G 22, 29). Người Thu Thuế hôm nay quả là một người khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa. Ông đã nhận ra con người thật của mình để tự hào một cách khiêm tốn, và tự trọng đúng với giá trị của mình (x. Hc 10, 28).

Kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu đã kết luận bằng lời xá tội và tuyên án “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” bởi vì “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 52). Hình ảnh và thái độ của người Thu Thuế hôm nay đáng để cho mỗi người chúng ta noi theo.

2. Sống Sứ Điệp Lời Chúa hôm nay

Muốn khiêm nhường thực sự, chúng ta phải sám hối thật lòng, phải nhìn lại quá khứ lịch sử cuộc đời chúng ta để thấy được Thiên Chúa là Đấng yêu thương, tha thứ, trung thành; còn chúng ta thì vô ơn, bội bạc, bất trung… Khi nhìn lại quá khứ của chúng ta như thế, và chúng ta đặt mình trước mặt Chúa để thấy Chúa lớn lao, thấy Chúa là Chúa Tể, ta chẳng có gì, mà nếu có thì cũng là do ơn Chúa. Vì thế, tâm tình sám hối và tạ ơn là dấu chỉ của kẻ khôn ngoan. Thậy vậy, muốn đón nhận được ơn Chúa, ta phải trở nên người bé nhỏ, đơn sơ và khiêm tốn.

Nói về đức khiêm nhường, hẳn chúng ta vẫn còn nhớ Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Khi ngài còn là Khâm sứ Toà Thánh kiêm Đại diện Tông Toà quản trị các giáo phận ở Bungari và Thổ. Lúc đó có một linh mục bất mãn với ngài, nên viết thư tố cáo ngài nhiều chuyện. Tuy nhiên, thay vì giận dữ, Đức Giáo Hoàng đã trân trọng kẹp thư đó vào trong cuốn Kinh Thánh, để hằng ngày suy gẫm, để sửa sai và để nhớ đến vị linh mục đó và cầu nguyện cho vị linh mục đã tố cáo và ngài coi là đại ân nhân của mình. Khi gặp lại vị linh mục đó ở Vaticăng, trong một buổi triều yết riêng, vị linh mục này rất sợ, vì biết những việc sai lỗi của mình, nhưng khi gặp, Đức Giáo Hoàng đã chủ động tiến lại, ôm trầm lấy vị linh mục đó và ôn tồn trong khiêm tốn, ngài nói: “Con đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người, cũng yếu đuối, cha ngăn bức thơ con viết vào Kinh Thánh để hằng ngày đọc vào đó mà xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại hoặc xa tránh những lầm lỡ có thể xảy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con” (x. Đường Hy Vọng).

Mong thay, mỗi chúng ta hãy có được tâm tình sám hối như người Thu Thuế và thái độ khiêm nhường như Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Được như thế, chúng ta sẽ gặp được bình an, hạnh phúc, và được trở nên giống Thiên Chúa. Thật vậy: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30).

“Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” phải là lời cầu nguyện của chúng ta hằng ngày, mọi nơi, mọi lúc. Khi lời cầu nguyện đó được thốt lên thì cũng là lúc ta nhìn lại chính mình, để cần đến ơn tha thứ của Thiên Chúa nhiều hơn; yêu thương anh chị em và không bao giờ dám tố cáo lỗi lầm của người khác như người Biệt Phái khi xưa. Có lẽ nhiều lúc trong mắt chúng ta vẫn có cái xà thì làm sao trông rõ để lấy cái rác trong mắt anh chị em mình. Ý thức được điều đó, ta phải đấm ngực ăn năm vì đó là lỗi của ta chứ không đấm ngực người khác và bảo lỗi tại ông, tại bà, tại anh, tại chị chứ không phải tại tôi.

Lạy Chúa, xin cho con biết phó thác, tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa. Biết sám hối để nhận ra lỗi lầm của mình và khiêm nhường xin ơn tha thứ của Thiên Chúa; đồng thời biết yêu thương anh chị em mình thực lòng chứ không nhân danh đạo đức để tố cáo anh chị em chúng ta như người Biệt Phái khi xưa. Amen.

66. Xét rồi chỉ đoán–Nguyễn Thảo Nam

Tiếng Việt có một cụm từ rất hay: xét đoán. Tôi thích dùng hai chữ này theo lối hài hước, đó là xét một vấn đề cho thật kỹ, rồi cuối cùng, cũng chỉ đoán mà thôi. Nếu kết luận chỉ là đoán, thì thường không chính xác. Biết không chính xác nhưng nhiều người vẫn thích dùng. Vì nghề này không cần bằng cấp, không cần giấy phép nên người ta có thể hành nghề khắp nơi. Trong khi cụm từ “xét nghiệm,” cần công thức hóa học, và phải có bằng cấp, nên chỉ có thể được thực hành ở những nơi được phép.

Tiếng Việt còn có cụm từ “xét nét,” ám chỉ về người quá khó tính, người hay “vạch lá tìm sâu” nơi người khác. Người có tính xét nét thì cũng có khuynh hướng xét đoán một cách chủ quan. Vì không có công thức như làm xét nghiệm, nên dễ kết luận sai lầm. Bài toán xét rồi cũng chỉ đoán này dễ sai, nên tôi cần cẩn thận.

Chợ Và Đền Thờ

Phúc Âm có câu chuyện tương tự. Người thu thuế và người biệt phái cả hai cùng lên đền thờ. Người biệt phái kể công, người thu thuế sám hối. Người biệt phái chỉ trích, người thu thuế thinh lặng. Người thu thuế xét mình dùm cho người khác, còn người thu thuế xét mình cho riêng ông. Vì lo xét cho người khác nên ông quên xét lòng ông. Điều buồn, là cuối cùng người biệt phái đoán sai.

Ông đoán người thu thuế là người khó được Chúa chấp nhận, vì có tội lỗi công khai, và dân chúng loại trừ. Thế nhưng, phúc âm kể thật hay. Trong chính giây phút mà người biệt phái chỉ trích người thu thuế, thì ở cuối đền thờ, và ngay trong tâm hồn của người thu thuế đang diễn ra một mùa sám hối trọn vẹn, và ơn Chúa đang tuôn đổ trên ông. Không chờ đến ngày mai, không chờ cho ánh mặt trời lên, ơn thánh đến ngay lúc đó.

Ơn hoán cải của một con người diễn ra như một huyền nhiệm và không ai, dù là giới lãnh đạo tôn giáo, cũng không thể nắm bắt được điều gì đang diễn ra trong lòng của một con người. Do đó tôi cần cẩn thận khi đánh giá một con người qua hình thức và ngay cả qua những hành vi bên ngoài của họ.

Một chi tiết thật hay khác của câu chuỵện đó là sự có mặt của người thu thuế nơi đền thờ. Lẽ ra người biệt phái phải thắc mắc tại sao người thu thuế lại có mặt ở đây? Thông thường, mấy người thu thuế đâu có vào đền thờ cầu nguyện. Họ lo bận rộn đi thu tiền ngoài chợ. Vì đa số người dân không có học, thiếu tính toán, nên mấy người thu thuế hay thêm bớt con số để kiếm tiền thêm bỏ túi, chứ lên đền thờ đâu có chút lợi nhuận nào.

Hôm nay người thu thuế có can đảm bước chân đến đền thờ, có nghĩa là lòng sám hối của anh đã trải dài từ những ngày tháng trong cuộc sống rồi. Những đêm dài thao thức của lòng sám hối nơi anh không có phát thanh trên đài, nên không ai nhận ra, và người biệt phái không nghe được tin vui này. Không biết được tin vui sâu thẳm của lòng sám hối, nên ông vẫn nghĩ rằng chỉ có thái độ công chính mới làm cho đời vui.

Ông sai hai bài toán về cuộc sống: 1) xét sai về tâm hồn người khác; 2) sống niềm vui giả tạo trong thái độ công chính. Cả hai bài toán, hôm nay tôi cần tránh.

67. Cầu nguyện và khiêm nhượng–Jos. Vinc. Ngọc Biển

Tin Mừng Lc 18: 9-14 Hôm nay khi nói về đức khiêm nhường, Đức Giêsu đã kể cho dân chúng và các Tông đồ nghe dụ ngôn người Biệt Phái và người Thu Thuế lên đền thờ cầu nguyện.

Trong thư thứ nhất của thánh Phêrô, ngài đã khẳng định thật mạnh mẽ khi nói: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5, 5). Thật vậy, kiêu ngạo là kẻ thù số một của Thiên Chúa, bởi vì nó là con đẻ của Ma Quỷ. Ngược lại, khiêm nhường là trở nên giống Con Thiên Chúa làm người.

Hôm nay khi nói về đức khiêm nhường, Đức Giêsu đã kể cho dân chúng và các Tông đồ nghe dụ ngôn người Biệt Phái và người Thu Thuế lên đền thờ cầu nguyện.

1. Hai hình ảnh và hai thái độ đối lập nhau khi cầu nguyện

Dụ ngôn được khởi đi từ việc Đức Giêsu nhận định về một tầng lớp trí thức trong dân tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác (x. Lc 18, 9). Họ là những người Biệt Phái, luôn miệng khoe khoang mình là người người đạo đức, chuyên cần suy gẫm Lời Chúa, tuân giữ cách tỉ mỉ từng dấu chấm, dấu phết, rồi thông luật, nắm bắt được mọi vấn đề và, có lòng quảng đại vượt trội. Điều này được thể hiện rất rõ qua hình ảnh của người Biệt Phái hôm nay. Ông ta cùng lên cầu nguyện một trật với người Thu Thuế. Khi ông ta cầu nguyện, thay vì tạ ơn Thiên Chúa vì những ân huệ mà họ đã nhận được, thì họ lại kể lể, liệt kê thành tích của mình; đồng thời tố cáo anh em đồng loại. Nào là: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18, 12). Quả thật, những thành tích đó, đã gắn liền với cái tôi ích kỷ của ông, nên cũng từ cái tôi đó mà ông trở nên rỗng tuếch. Đúng là: “cái thùng kêu to là cái thùng rỗng”. Ông đâu biết rằng mọi sự là của Chúa, nếu Chúa không ban cho ông thì ông đâu có của cải để mà làm như vậy… Sự khoe khoang của nhà Biệt Phái đã làm cho ông ta mất phần phúc Nước Trời. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu cũng đã dạy: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng” (Mt 6, 1). Sự khiên nhường của ông chính là một sự khiêm nhường giả tạo. “Khiêm nhường như vậy thì bằng bốn lần kiêu ngạo”.

Hình ảnh người Thu Thuế thì trái ngược hẳn. Ông ý thức mình là người tội lỗi trước mặt Chúa, nên ông chẳng có gì để khoe cả, ông chỉ có con người tội lỗi, tấm lòng thành và tâm tình sám hối của mình mà thôi. Vì vậy, ông Thu Thuế này đã hết lòng tin tưởng và cậy trông vào sự nhân từ của Thiên Chúa. Ông khiêm tốn không dám ngẩng đầu lên vì coi mình không xứng đáng tiến đến gần Chúa. Vì vậy, từ đàng xa, ông này đã thốt lên: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Tấm chân thành của ông đã đụng tới trái tim, lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, nên ông đã được Chúa thương nhận lời. Nói về sự khiêm nhường, Gióp đã phải thốt lên: “Chúa triệt hạ kẻ ăn nói kiêu căng và cứu vớt ai khiêm nhường cúi mặt” (G 22, 29). Người Thu Thuế hôm nay quả là một người khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa. Ông đã nhận ra con người thật của mình để tự hào một cách khiêm tốn, và tự trọng đúng với giá trị của mình (x. Hc 10, 28).

Kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu đã kết luận bằng lời xá tội và tuyên án “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” bởi vì “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 52).

Hình ảnh và thái độ của người Thu Thuế hôm nay đáng để cho mỗi người chúng ta noi theo.

2. Sống Sứ Điệp Lời Chúa hôm nay

Muốn khiêm nhường thực sự, chúng ta phải sám hối thật lòng, phải nhìn lại quá khứ lịch sử cuộc đời chúng ta để thấy được Thiên Chúa là Đấng yêu thương, tha thứ, trung thành; còn chúng ta thì vô ơn, bội bạc, bất trung… Khi nhìn lại quá khứ của chúng ta như thế, và chúng ta đặt mình trước mặt Chúa để thấy Chúa lớn lao, thấy Chúa là Chúa Tể, ta chẳng có gì, mà nếu có thì cũng là do ơn Chúa. Vì thế, tâm tình sám hối và tạ ơn là dấu chỉ của kẻ khôn ngoan. Thậy vậy, muốn đón nhận được ơn Chúa, ta phải trở nên người bé nhỏ, đơn sơ và khiêm tốn.

Nói về đức khiêm nhường, hẳn chúng ta vẫn còn nhớ Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Khi ngài còn là Khâm sứ Toà Thánh kiêm Đại diện Tông Toà quản trị các giáo phận ở Bungari và Thổ. Lúc đó có một linh mục bất mãn với ngài, nên viết thư tố cáo ngài nhiều chuyện. Tuy nhiên, thay vì giận dữ, Đức Giáo Hoàng đã trân trọng kẹp thư đó vào trong cuốn Kinh Thánh, để hằng ngày suy gẫm, để sửa sai và để nhớ đến vị linh mục đó và cầu nguyện cho vị linh mục đã tố cáo và ngài coi là đại ân nhân của mình. Khi gặp lại vị linh mục đó ở Vaticăng, trong một buổi triều yết riêng, vị linh mục này rất sợ, vì biết những việc sai lỗi của mình, nhưng khi gặp, Đức Giáo Hoàng đã chủ động tiến lại, ôm trầm lấy vị linh mục đó và ôn tồn trong khiêm tốn, ngài nói: “Con đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người, cũng yếu đuối, cha ngăn bức thơ con viết vào Kinh Thánh để hằng ngày đọc vào đó mà xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại hoặc xa tránh những lầm lỡ có thể xảy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con” (x. Đường Hy Vọng).

Mong thay, mỗi chúng ta hãy có được tâm tình sám hối như người Thu Thuế và thái độ khiêm nhường như Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Được như thế, chúng ta sẽ gặp được bình an, hạnh phúc, và được trở nên giống Thiên Chúa. Thật vậy: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30).

“Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” phải là lời cầu nguyện của chúng ta hằng ngày, mọi nơi, mọi lúc. Khi lời cầu nguyện đó được thốt lên thì cũng là lúc ta nhìn lại chính mình, để cần đến ơn tha thứ của Thiên Chúa nhiều hơn; yêu thương anh chị em và không bao giờ dám tố cáo lỗi lầm của người khác như người Biệt Phái khi xưa. Có lẽ nhiều lúc trong mắt chúng ta vẫn có cái xà thì làm sao trông rõ để lấy cái rác trong mắt anh chị em mình. Ý thức được điều đó, ta phải đấm ngực ăn năm vì đó là lỗi của ta chứ không đấm ngực người khác và bảo lỗi tại ông, tại bà, tại anh, tại chị chứ không phải tại tôi.

Lạy Chúa, xin cho con biết phó thác, tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa. Biết sám hối để nhận ra lỗi lầm của mình và khiêm nhường xin ơn tha thứ của Thiên Chúa; đồng thời biết yêu thương anh chị em mình thực lòng chứ không nhân danh đạo đức để tố cáo anh chị em chúng ta như người Biệt Phái khi xưa. Amen.

68. Tự trọng–Như Hạ

Cầu nguyện là đặc điểm của con người. Cầu nguyện là hơi thở của các tín hữu. Nhưng đâu là bản chất và hình thức cầu nguyện đích thực. Hôm nay, Đức Giêsu trình bày những điều kiện sâu xa cần thiết cho việc cầu nguyện.

HAI LỜI CẦU NGUYỆN.

Cầu nguyện là một hành vi đạo đức. Nhưng việc đạo đức đó cũng có thể trở thành vô đạo đức, nếu con người không biết tự trọng. Lời cầu nguyện hão huyền chỉ dựa trên những điều hư không. Hư không đích thực và lớn nhất trên trần gian này chính là cái tôi. “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện.” (Lc 18:10) Cả hai người đều thờ một Chúa, đều ở trong một đền thờ, đều đang làm một hành vi đạo đức cao cả nhất. Một trong hai người cầu nguyện trong đền thờ là ông Pharisêu. Từ tâm tình, cung cách đến lời nói đều không thích hợp với việc cầu nguyện. “Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao người khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia.” (Lc 18:11) Ông xác định thế đứng của minh trong tương quan với người thu thuế. Khi so sánh, ông mới thấy mình cao vượt hơn mọi người về mặt đạo đức. Trong khi mọi người sống ích kỷ, xa hoa, trác táng, ông chỉ lo việc đạo đức. Trong việc đạo đức, ông là người rất kỷ luật và sốt sắng. Ông cầu nguyện thường xuyên và giữ Luật Thiên Chúa. Ôn vượt trên cả những đòi hỏi của lề luật. Trong khi luật chỉ đòi ăn chay mội năm một lần vào Ngày Xá Tội Vong Ân, ông ăn chay một tuần hai lần vào thứ hai và thứ năm. Ông kể lể với Chúa: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.” (Lc 18:12) Thái độ tự mãn đã không cho ông nhìn thấy sự thật về mình và người khác nữa. Như vậy ông còn cần gì đến Chúa nữa không? Vậy tại sao ông lại vào đền thờ? Thực ra ông quan niệm cầu nguyện chỉ là việc đổi chác theo lẽ công bình, chứ không phải là một ân sủng.

Trong khi đó, người thu thuế hoàn toàn ý thức tự bản chất cầu nguyện chỉ là xin Chúa thương xót. Ông cảm thấy phải tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Nhìn cung cách ông cầu nguyện cũng có thể thấy được tất cả tâm tình của ông. “Người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời.” (Lc 18:13) Cung cách đó cho thấy một khoảng cách giữa Thiên Chúa cực thánh và con người tội lỗi. Nếu Chúa không thương xót, khoảng cách đó không bao giờ lấp đầy được. Ông thành tâm cầu nguyện, “vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18:13) Ông nhận sự thật về mình, chứ không dám so sánh với ai. Ông chỉ biết tương quan giữa Thiên Chúa và mình là một tương quan bất tương xứng. Nhưng ông tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh của lòng Chúa xót thương sẽ xóa nhòa biên giới giữa cõi thánh thiêng và trần tục.

Dụ ngôn hôm nay mạc khải một lúc hai tương quan. Tương quan giữa Thiên Chúa và con người không thể ổn định nếu tương quan giữa con người với nhau không tốt đẹp. Trong dụ ngôn này, rõ ràng ông Pharisêu tập trung hoàn toàn vào cái tôi của mình. Không thông cảm với người khác, làm sao ông có thể đòi Thiên Chúa cảm thông với mình? Đó là lý do tại sao ông thất bại trong việc cầu nguyện. Ông không làm đẹp lòng Chúa như mình tưởng. Thật là công dã tràng bao nhiêu khó nhọc trong việc giữ luật và đóng góp vào đền thờ. Trái lại, dù không có những việc đạo đức như ông, người thu thuế “đã được nên công chính” (Lc 18:14) vì đã hết lòng cầu khẩn Chúa xót thương đến thân phận mình. Ông không có công trạng gì để tự hào. Khi nhìn lại mình, ông chỉ thấy một vực thẳm tội lỗi. Nhìn lên Thiên Chúa, ông lại thấy vực thẳm đầy ân sủng, “ân sủng tự bản chất đầy lòng thương xót và tha thứ.” (NIB 1995:343) Trái lại, ông Pharisêu không hề cầu xin Chúa tha thứ hay thương xót, nên tình trạng ông trước sau như một. Ông coi mình hoàn hảo về mọi phương diện, nên cầu nguyện đối với ông là đòi nợ. Thiên Chúa chẳng nợ ai cả, tại sao ông lại biến Thiên Chúa thành con nợ? Lời cầu của ông hoàn toàn dựa trên công trạng riêng, chứ không trên tình yêu Thiên Chúa. Ông nói bằng một ngôn ngữ lạ hoắc. Thiên Chúa không hiểu ông muốn nói gì. Ông tin Chúa. Nhưng ông tin mình hơn.

Thế mới biết tại sao Đức Giêsu lại nói có “một số người tự hào cho mình là người công chính mà khinh chê người khác.” (Lc 18:9) Những hạng công chính như thế không bao giờ là đối tượng của sứ mệnh cứu độ. Nói khác, ơn cứu độ không dành cho những người kiêu ngạo. Bởi đấy Chúa mới nói: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5: 32) Chỉ những người tội lỗi mới hiểu được Chúa. Ngược lại, chỉ Chúa mới thông cảm với người tội lỗi, vì chính Chúa đã từng đi sát với họ, đến nỗi bị mang tiếng là “bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” (Lc 7:34) Người tội lỗi hoàn toàn tay trắng trước nhan Chúa. Họ cũng là một hạng người nghèo về tinh thần. Họ không có gì để kể lể. Lời cầu nguyện của họ thật là vắn tắt và đơn sơ, nhưng đầy ý nghĩa đối với Chúa. “Ông đã chẳng cho đi cái gì, nhưng đã nhận được tất cả.” (Faley 1994:696)

PHARISÊU THỜI ĐẠI.

Thánh Phaolô cũng đã từng là Pharisêu hạng gộc. Nhưng thánh nhân đã trải qua một kinh nghiệm đau thương và đã thấy được tất cả bộ mặt thật của những hạng “người tự hào cho mình là công chính.” Nhưng giờ đây Người không tự cho mình là công chính, nhưng hi vọng được vinh dự ấy: “Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính.” (2 Tm 4:8) Thánh nhân cũng cảm thấy tự hào khi nói: “Nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng.” (2 Tm 4:17) Thế nhưng, khác với đồng môn xưa, Người qui hướng tất cả về Thiên Chúa, Đấng “đã ban sức mạnh cho tôi.” (2 Tm 4:17) Đó là lý do tại sao Người đầy hứng khởi khi “chúc tụng Chúa vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. Amen ” (2 Tm 4:18) Khác với thái độ ngông nghênh của ông Pharisêu, thánh nhân thú nhận: “Tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa.” (1 Cr 15:9-10) Ơn Chúa vô cùng sung mãn đã bù đắp được tất cả những thiếu sót quá khứ và đưa thánh nhân vào một tương quan hoàn toàn mới với Thiên Chúa và tha nhân.

Tương quan giữa con người với Thiên Chúa và với anh em đang đổ vỡ. Khủng bố và chiến tranh là bằng chứng cho thấy vẫn còn nhiều Pharisêu trong cộng đồng nhân loại. Thượng phụ Igace IV Hazim đã vạch mặt chỉ tên: “Chính phủ Hoa Kỳ vô tình cho người ta cảm tưởng họ đang tìm cách thống trị thế giới,”(CWNews 22/10/2001) trong khi họ vẫn tỏ ra nhân đạo qua chính sách viện trợ. Nhân đạo chỉ là phấn son che đậy những nét cao ngạo trên gương mặt Âu Mỹ. Giống như Pharisêu, họ xuất hiện trước nhan Chúa với một tay đầy ắp công đức, một tay ngổn ngang bom đạn. Thử hỏi có thể lập tương quan với Thiên Chúa trong khi tương quan con người bị gẫy đổ không? Tương quan nhân loại hôm nay cần phải được điều chỉnh lại. Nếu không, nhân loại sẽ trở về thời ăn lông ở lỗ, xây dựng cuộc sống trên luật báo thù. Theo phái đoàn Vatican tại Liên Hiệp Quốc, cuộc không kích vào Afghanistan là “những hành động bào thù, không loại trừ được các nguyên nhân gây nên khủng bố.” (CWNews 23/10/2001) Đức Tổng Giám mục Martino cho biết cần phải “loại bỏ các yếu tố hiển nhiên tạo nên những điều kiện dễ dàng sinh ra thù hận và bạo lực. Việc phủ nhận nhân phẩm, thiếu tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản, việc loại trừ một số người khỏi đặc quyền xã hội, những nơi tị nạn không thể chịu đựng nổi, và sự đàn áp về thân thể cũng như tâm lý là những mảnh đất mầu mỡ sẵn sàng cho bọn khủng bố khai thác. Bởi đấy, bất cứ chiến dịch chống khủng bố nào cũng cần đưa ra các hoàn cảnh xã hội, kinh tế, và chính trị nuôi dưỡng mầm mống khủng bố, bạo lực, và xung đột.” (CWNews 23/10/2001)

69. Thành thật với chính mình–Huệ Minh

Trang Tin Mừng hôm nay gợi ý để ta suy nghĩ về điều mà chúng ta có thể gọi là sự thành thật của người Kitô. Thành thật với chính mình, thành thật với kẻ khác và thành thật với Thiên Chúa.

Con người thành thật là con người nhìn nhận thực thể của mình và cảm nhận thực thể đó một cách trung thực. Thành thật trước tiên không có nghĩa là nói thẳng ra điều mình nghĩ hay điều mình cảm nhận. Nói thẳng điều mình nghĩ, điều mình cảm nhận được không đủ để sống thành đạt. Trước hết, yếu tố quan trọng phải là chân thành nhìn nhận thực thể mình, nhìn nhận chính điều mình nghĩ về mình, và khi ta nhận thực thể mình và ý thức những giới hạn của nó, ta sẽ không còn hứng thú để xét đoán kẻ khác.

Người thành thật ý tứ để đừng lừa gạt chính mình và cũng không lừa gạt kẻ khác. Người thành thật không thích người giả hình, không thích mánh mung, nói láo. Đây không phải là điều dễ, cần phải kiên trì quan sát mình, phải xét mình hằng ngày dựa theo lời Chúa và trong sự khiêm tốn vâng phục ơn soi sáng nội tâm của Chúa. Lời cầu nguyện của chúng ta cần dâng lên Chúa hằng ngày phải là: “Lạy Chúa, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Lạy Chúa xin thương xót con vì con là kẻ có tội.

Lời cầu nguyện của ông biệt phái trước hết là một lời tạ ơn, cùng với những thói hư tật xấu mà ông không hề phạm, và những việc đạo đức ông thường làm. Chẳng những ông đã làm các việc đạo đức do luật buộc, như ăn chay mỗi năm vào dịp lễ xá tội, nộp 1/10 lợi tức cho đền thờ, mà hơn thế nữa, ông còn tự nguyện làm những việc đó ở một mức độ cao. Chúng ta không thấy ông xin gì cho bản thân, mà chỉ luôn tạ ơn. Điều đáng tiếc là lời cầu nguyện của ông đầy vẻ tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân. Chính vì thế mà chúng ta có thể nghi ngờ về tâm tình tạ ơn của ông, bởi vì tâm tình tạ ơn thực sự bao giời cũng gắn liền với sự khiêm tốn.

Người biệt phái cầu nguyện đứng thẳng, chi tiết này nói lên tinh thần tự kiêu, ỉ lại trước nhan Thiên Chúa, và nội dung lời cầu nguyện của ông chỉ là những lời khoe khoang với Chúa và gây chia rẽ: “Con không phải như người thu thuế, tôi lỗi kia, con không giống như những kẻ khác: tham lam, bất công, ngoại tình…” Đó là những lời kết tội anh em, lỗi đức ái, không có chút gì tích cực xây dựng cộng đoàn và tôn vinh lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ngược lại, người thu thuế đã ý thức được thân phận tội lỗi của mình, nên khiêm tốn cúi mình xin Chúa thương xót, hướng dẫn mình trở về với tình thương của Chúa, trở về với anh em mà mình đã xúc phạm.

Người Pharisêu đến đền thánh, không phải để cầu nguyện nhưng để khoe khoang, để cho Chúa biết ông ta tốt chừng nào, để cổ võ chính hình ảnh của ông. Lời cầu nguyện của ông đầy những chữ “tôi”, “tôi” và “tôi”. Đó là “tự kỷ trung tâm” (tự cho mình là trung tâm điểm của vũ trụ), thay vì đặt để Thiên Chúa làm trung tâm điểm.

Người biệt phái rất tự phụ, vênh vang phô trương công đức của mình. Ông tự cho mình thánh thiện, đạo đức và tự đặt mình lên trên những người khác: “Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác, không tham lam, không bất chính, không ngoại tình, không như tên thu thuế kia!”

Rồi ông phô trương thành tích đạo đức của mình: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”.

Lời cầu nguyện của người Pharisêu nhằm đề cao “cái tôi”, trong khi lời cầu nguyện của người thu thuế nhắm đến “Thiên Chúa”. Người Pharisêu nói: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình…” (Lc 18, 11). “Tôi!” Còn người thu thuế chỉ nói: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18, 13). “Chúa!”

Trong khi đó, anh thu thuế lên đền thờ để thú tội. Anh ý thức mình là kẻ tội lỗi. Anh đặt mình trước tôn nhan Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin: Lạy Chúa, xin thương xót con vì con chỉ là kẻ tội lỗi. Điều anh khao khát là được Chúa tha thứ và được hoà giải với anh em. Anh chỉ dám đứng xa xa vì thấy mình bất xứng.

Người thu thuế, dẫu không cầu nguyện dài lời cũng cho thấy ông là người đã tới mức tin vào Thiên Chúa và phó thác hoàn toàn cho Ngài. Bởi thấy mình quá lem luốc theo mắt nhìn thành kiến của người đương thời, nên ông chỉ có thể đợi chờ một sự gột rửa trong mắt nhìn của Thiên Chúa; bởi thấy mình đã bất chính trong vòng quay nghiệt ngã của nghề nghiệp, nên con người ông nếu có cái gì phải tiến dâng thì đó chính là cuộc đời tội lụy của tấm lòng tan nát khiêm cung cúi đầu đấm ngực xin ơn tha thứ. Và bởi thấy mình chỉ đáng tội nên Thiên Chúa lại thấy ông chỉ đáng thương, nên bằng tình thương, Ngài đã ban ơn cho ông theo như ông tin vào Ngài.

Người thu thuế vốn biết thân biết phận tội lỗi của mình nên chỉ đứng ở đằng xa, thậm chí không dám ngước mặt lên, chỉ biết đấm ngực mà nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.

Anh nầy đến với Chúa như một chiếc bình trống rỗng, nghĩa là với lòng thống hối khiêm cung và khao khát được Chúa tuôn đổ ơn tha thứ nên anh đã được Thiên Chúa thứ tha.

Rõ ràng là tình thương Thiên Chúa ban cho con người như nước chảy về chỗ trũng, chỉ khi gặp tâm hồn khiêm tốn khai hoang, tình thương ấy mới có thể đổ vào tràn đầy chan chứa. Hay nói cách khác, tình thương Thiên Chúa là một “tình cho không biếu không”, nhưng chỉ những ai đã gạt bỏ ảo tưởng về mình để nhìn nhận mình là không, người ấy mới có thể nhận được tình thương của Thiên Chúa.

Từ hai hình ảnh trên chúng ta thấy: Ông biệt phái đi gặp Chúa vì ông cảm thấy mình có thế giá nhiều hơn những người khác. Ông đã sống một đời sống đạo đức và nghiệm nhặt. Ông đi gặp Chúa với một kho tàng công nghiệp to lớn của riêng ông. Thế nhưng cái kho tàng đó quá lớn đến độ đã ngăn cách ông với Chúa, nó không cho ông thấy được Ngài nữa, mà chỉ còn thấy có chính mình ông. Có quá nhiều chữ tôi trong lời cầu nguyện của ông: Tôi thế này, tôi thế nọ, tôi không như người này người khác… Rốt cuộc, ông lại là người quay vào mình, khép lại trên chính mình, mặc dù môi miệng ông đã kêu lên: Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa.

Dụ ngôn ngày hôm nay cũng như nhiều dụ ngôn khác mà thánh Luca ghi lại cho thấy rằng: Đức Giêsu luôn đứng về phía những người tội lỗi để bênh vực, giúp đỡ họ và Ngài luôn lên án những người biệt phái. Thế nhưng chúng ta hãy coi chừng có thể mình sẽ kết án người biệt phái ở những khía cạnh không chính đáng. Thực vậy, khi so sánh người biệt phái: đứng, còn người thu thuế: quì gối khi họ cầu nguyện mà có người cho đó là kiêu ngạo và khiêm nhường. Thực ra đứng khi cầu nguyện là một thái độ rất thường làm của người Do thái. Người khác nữa khi nghe lời cầu nguyện của người biệt phái chỉ thấy anh ta cảm tạ, tri ân mà không van xin gì thì cho đó là kiêu ngạo. Chúng ta phải công nhận đó là lời cầu nguyện hết sức tuyệt hảo. Cầu nguyện không chỉ để xin mà còn để tạ ơn nữa. Vậy, Đức Giêsu không căn cứ vào bên ngoài để kết án anh biệt phái.

Điều Thiên Chúa cần nơi con người là lòng thống hối để được Người làm cho nên công chính. Việc tuân giữ lề luật không làm cho con người nên công chính khi không nhận biết Đấng Công Chính và nhận sự thánh hoá từ nơi Người. Không dừng lại ở lề luật và cho mình là công chính vì đã tuân giữ chúng.

70. Cuộc trần ai, ai dễ hơn ai?–Đỗ Lực

Sáng nay, lên mạng, tôi say sưa với câu chuyện đầy ý nghĩa “Nắng chiều dọi lên hiên nhà bà Thảo, con Phúc buồn buồn nằm tắm nắng. Những vết thương lở loét trên khắp thân thể nó như đang lành, ngứa ngáy khó chịu nhưng nó không buồn đưa chân lên gãi. Giờ này mấy đứa con nó đều đang lẩn quẩn trong nhà, không dám ra ngoài này vì sợ thằng Bạo nên chẳng ai quấy phá nó. Nó nằm lim dim không ngủ, hồi tưởng về tất cả những gì xảy ra trong đời nó.

Cuộc đời nó, lẽ ra cũng êm ả, hạnh phúc như bao nhiêu con chó khác vì nó may mắn có được bà chủ tốt bụng. Bà Thảo thương nó lắm. Ngày nó còn trẻ, sạch sẽ, bà dẫn nó đi nhiều nơi lắm. Bà thương nó như những đứa con của bà. Câu chuyện chỉ bắt đầu từ khi cái gã chủ quán thịt cầy dọn tới ở sát bên nhà.”(1)

Đọc xong, tôi nghĩ ngay tới thân phận người thu thuế trong xã hội đạo đời Do thái ngày xưa. Dưới mắt ông Pharisêu, người thu thuế có khác gì con Phúc? Nhưng cuộc đời cứ nhìn nhau như vậy, liệu có giải quyết được vấn đề gì không? Xã hội và Giáo hội đi tới đâu?

KHÚC CA LÊN ĐỀN

Tất cả những khó khăn trong cuộc sống đều bắt nguồn từ sự vô minh về bản thân. Hôm nay, Chúa đưa ra hình ảnh hai người đang cầu nguyện trong đền thờ, để mọi người thấy ngay cả đạo đức cũng cần xét lại. Ngay cả trong việc cầu nguyện, chưa chắc đã tìm được sự công chính cần thiết cho Nước Trời. Chính trong tương quan với Thiên Chúa tha nhân, con người có thể xác định bản chất và những công việc của mình.

Cầu nguyện với Thiên Chúa trong Đền thánh không phải là một việc ngoài chợ. Thế mà con người vẫn còn bị những thứ tiếng động quấy phá. Tiếng động không phát xuất từ bên ngoài, nhưng từ chính nội khảm của cái tôi. Không có lời cầu nguyện nào ồn ào như lời nguyện phát xuất từ miệng lưỡi người Pharisêu hôm nay. Ông thấy mình đứng giữa một tương quan hai chiều, với Thiên Chúa và đồng loại. Nhưng cả hai tương quan đều cho thấy ông đang đánh mất chính mình. Trước nhan Chúa, ông khoe khoang mọi việc đạo đức của mình. Làm như Thiên Chúa cũng cần ông mách nước mới khám phá những kỳ công đạo đức trong cuộc đời! Đối với tha nhân, tương quan của ông cũng chẳng êm thắm chút nào. Cái tôi của ông phì nộn tới mức báo động. Ông thấy mình vượt xa đồng loại, nhất là người thu thuế đang cầu nguyện với ông trong đền thờ. Tóm lại, ông muốn Thiên Chúa phải khâm phục trước những việc phi thường ông đã thực hiện.

Ngay cả sự công chính của con người cũng phải xét lại. Mù quáng và kiêu ngạo chi phối vào tận lời cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao người khác: trộm cướp, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia.” (Lc 18:11) Những việc đạo đức đã làm ông lóa mắt đến nỗi không nhìn thấy Thiên Chúa và tha nhân nữa. Đúng hơn, ông muốn biến Thiên Chúa thành một con nợ. Có một khoảng cách giữa niềm tin Thiên Chúa và công việc đạo đức. Dựa trên những việc đó, ông nghĩ mình có thể tự cứu lấy mình.

Trái lại, người thu thuế cảm thấy mình hoàn toàn bất lực vì tội lỗi. Ông cảm thấy không thể tự cứu và không xứng đáng xuất hiện trước Thiên Chúa. Tất cả tùy thuộc lòng quảng đại của Thiên Chúa. Bởi đó, ông kêu lên: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18:13) Nhìn lại mình, ông thấy toàn những công việc bất chính, nhất là đã cộng tác với đế quốc đàn áp dân tộc bằng chính sách sưu cao thuế nặng. Cái nhìn của dân chúng về ông và nhóm người như ông quả không sai. Cùng với những bọn đĩ điếm và ngoại giáo, ông bị xếp vào hạng những người tội lỗi. Nhưng Chúa Giêsu lại thích giao du và ăn uống với hạng người này. Chúa không đến kêu gọi người công chính, nhưng những người tội lỗi (Mt 9:13 và 11:19). Chúa qủa quyết những người thu thuế và bọn đĩ điếm vào Nước Thiên Chúa trước những tư tế và trưởng lão trong dân (Mt 21:31).

Chúa biết có những người thu thuế đáng kính, những người trở lại như Lêvi (Mt 10:3), Giakêu (Lc 19:2), hay như người đã gợi hứng cho Chúa nói dụ ngôn này. Chính sự khiêm tốn trong lời cầu nguyện đã làm cho người tội lỗi trở thành người công chính. Lý do vì chỉ có tâm hồn như thế mới thấy và đón nhận được tất cả hồng ân cứu độ của Thiên Chúa. Khi nhìn nhận mình yếu đuối, người thu thuế ngấm ngầm nhìn nhận mình cần một “đấng cứu độ.” Ông nhận biết mình không thể đơn thương độc mã thoát khỏi tình trạng tội lỗi. Ông nói lên sự thiếu thốn của mình và thú nhận mình cần đến Chúa để học cách yêu thương. Còn Pharisêu tự tin mình hoàn hảo, tự mãn và tự cao. Đây là một bi kịch: ông tin mình có thể sống mà không cần đến Thiên Chúa. Tự thâm tâm, ông luôn ca bài: “Không! Không! Tôi không cần yêu ai nữa!” Ông không cần ai, kể cả Thiên Chúa.

Thực tế, chỉ những ai nhìn nhận mình “mỏng giòn,” yếu ớt, thiếu thốn mới có thể đọc lên lời kinh thấu đến tận con tim Đấng Cứu Độ. “Lời nguyện của người nghèo vươt ngàn mây thẳm.” (Hc 35:17) Triết gia Emmanuel Levinas cũng nói: “Chỉ khi bị tổn thương, bản thân mới có thể yêu thương tha nhân.” Điều đó đúng từ trong sách vở đến ngoài thực tế. Tra tự điển Anh Pháp, chúng ta sẽ thấy chữ “prayer” (prière, cầu nguyện) và “precarious” (précaire, mỏng giòn) đều có cùng gốc La tinh (precarius). Thật là thú vị.

Trong mỗi người đều có người thu thuế như thưa lên: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Con biết sự công chính của con không do chính con, nhưng do Chúa, nhờ niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô!” (Rm 3:22) Dụ ngôn không ngừng dạy chúng ta một bài học đơn giản: Chúa cực kỳ thánh thiện, còn chúng ta là những tội nhân. Đó là điều làm chúng ta xa cách Chúa nhất, nhưng cũng là điều làm chúng ta hướng về Chúa nhất. Thay vì tìm những việc tốt để khoe khoang, nêu cao những công trình, biện minh cho chính mình, chúng ta cần noi gương người thu thuế, nhận thực về mình: “Chính khi ta nói với Thiên Chúa: con hư vô, thì Chúa nói: Ta làm cho con hiện hữu. Chính khi ta nói với Thiên Chúa: con tội lỗi, thì Chúa nói: Ta tha thứ và yêu thương con. Khi tự đặt mình vào số phận chân thật nhất, chúng ta có thể có tất cả, không chỉ cho mình, nhưng còn cho tha nhân. Trái lại, nếu tự phụ, chúng ta sẽ đánh mất tất cả và chẳng làm ích gì cho ai, dù chúng ta có là gì và quyền lực tới đâu.

BIẾT MÌNH BIẾT NGƯỜI

Vì không biết mình, Pharisêu không thể trở nên công chính. Cá nhân bất chính, xã hội tắc loạn. Nhiều lần Chúa Giêsu khiển trách họ sống công chính theo mã bề ngoài, trong khi bên trong “đầy những chuyện cướp bóc, gian tà.” (Lc 11:39) Lúc nào miệng cũng hô hào phải tuân giữ lề luật. Nhưng thực tế, họ “xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa.” (Lc 11:42) Không những cá nhân mà cả tập thể tôn giáo và xã hội đều xây dựng trên sự thật ảo.

Về phương diện thiêng liêng, những con người giả hình không có khả năng hướng dẫn ai. Suốt đời họ nỗ lực “khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào!” và “làm cho (thiên hạ) đáng xuống hỏa ngục gấp đôi.” (Mt 23:13.15) Về phương diện xã hội, không những họ không bao giờ phục vụ ai, mà còn ra sức bóc lột người nghèo. Bằng chứng, họ “nuốt hết tài sản của các bà góa” (Mt 23:14) để vinh thân phì da. Tôn giáo của họ là một rừng nghi lễ. Một đoàn người theo họ đang lạc lõng bơ vơ như mất định hướng, vì chính họ đã dẹp “bỏ diều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín.” (Mt 23:23) Bởi thế, họ không ngần ngại nhúng tay vào những tội ác như sát hại các ngôn sứ (x. Mt 23:34).

Niềm tin Pharisêu là một niềm tin cứng ngắc và đầy hình thức. Niềm tin đó không đem lại sự giải thoát cho nhân loại. Cũng không thể tìm thấy công lý nơi lối sống đạo thiếu chiều sâu đó. “Quả thực, công lý không phải là một khê ước thuần túy nhân loại, vì điều “công chính’ trước tiên không phát xuất từ lề luật, nhưng từ căn tính sâu xa của con người quy định.” (2) Nếu không bắt nguồn từ căn tính sâu xa đó, tôn giáo sẽ bất lực trong việc giải quyết mọi vấn đề của con người và xã hội. Công lý cũng không hiện diện trong các tổ chức tôn giáo đó. Dĩ nhiên, “tự bản chất, công lý không đủ. Thực thế, nếu không mở ra đón nhận quyền năng sâu xa hơn, tức tình yêu, công lý có thể phản bội chính mình. Thực vậy, Học Thuyết Xã Hội của Giáo hội đặt giá trị tình liên đới bên cạnh giá trị công lý, mở ra con đường độc đáo dẫn tới hòa bình.” (3) Nhìn lại lời nói và hành động của Pharisêu, chúng ta thấy ông vừa thiếu công lý vừa phá tan mối dây liên đới với đồng loại. Làm cách nào có thể hòa giải hòa hợp hai lối sống và nếp nghĩ khác nhau như thế?

Thiếu sự hiểu biết về Thiên Chúa và tha nhân, Pharisêu đã hoàn toàn thu gọn tầm nhìn vào những công trình cá nhân. Nhưng “không thể yêu thương tha nhân như chính mình, và kiên trì trong hành động này nếu không quả quyết mạnh mẽ và kiên nhẫn hành động mưu ích cho tất cả và mỗi người, vì tất cả chúng ta đều thực sự có trách nhiệm với mọi người. Theo giáo huấn Công đồng, chúng ta phải tôn trọng và yêu thương những người suy nghĩ và hành động khác chúng ta về những vấn đề xã hội, chính trị, và tôn giáo. Thực vậy, càng suy nghĩ sâu xa về những cách suy nghĩ cách êm ái, càng có thể dễ dàng đối thoại với họ.” (4) Thực tế, cuộc đối thoại không dễ dàng thực hiện, vì còn tùy thuộc quan niệm và cách xử sự của đối tác nữa.

Làm sao đối thoại với Pharisêu khi ông tự nâng mình lên chín tầng mây xanh? Muốn bắt đầu đối thoại, cần phải có bình đẳng và công lý. Công lý đòi mọi người phải tôn trọng nhau như những nhân vị. Cuộc đối thoại chỉ có thể thành công, khi mọi người đều nhắm đến công ích. “Nguyên tắc hướng dẫn công ích có liên quan tới mọi mặt đời sống xã hội, nếu đạt đến ý nghĩa trọn vẹn, phát xuất từ phẩm giá, sự hiệp nhất và bình đẳng của mọi người.” (5) Rõ ràng Pharisêu đã không theo đúng nguyên tắc đối thoại. Ông không có khả năng đối thoại, vì ông chỉ biết có mình. Ông mở đầu lời nguyện rất “ngon lành.” Nhưng kết thúc thật tệ hại vì dẫn đến kết quả trái ngược. Uổng cả một đời nỗ lực nên công chính! Chỉ vì khinh thế ngạo vật, mọi sự tan ra mây khói.

ĐỐI THOẠI?

Nhìn vào xã hội Việt nam hôm nay, ai dám nói đang có một cuộc đối thoại thực sự để giải quyết những vấn đề xã hội? Cả trong đạo ngoài đời, những người cầm quyền có dám nhìn thẳng vào thực tế không? Họ có thực sự nhắm đến lợi ích quần chúng không? Làm sao đối thoại hữu hiệu với Nhà Nước, trong khi Giáo Hội không được nhìn nhận là một thực thể pháp nhân? Đó chính là lý do tại sao Giáo hội không được phép tham gia sinh hoạt trong các ngành giáo dục, y tế và không được hợp tác trong nhiều lãnh vực để hướng dẫn và phục vụ quần chúng, nhất là giới trẻ.

Trong dịp viếng mộ thánh Phêrô năm 2002, các Giám mục Việt Nam đã được ĐGH Gioan Phaolô II mở ra một định hướng mục vụ tích cực: “Đối thoại chân thành và hợp tác lành mạnh.” Nhưng nhìn lại, “phải chăng trong mấy thập niên vừa qua, Hội Đồng Giám mục Việt Nam đã cố gắng thể hiện định hướng đó bằng những hình thức và cách thế riêng? Nhưng có bao nhiêu cơ hội để thể hiện nó?” (6) Trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, không phải chỉ có kinh tế thị trường, nhưng cả tôn giáo cũng phải đi vào định hướng xã hội chủ nghĩa, do đảng tự do tung hoành lãnh đạo về mọi mặt. Chỉ có một thực tại duy nhất tồn tại là đảng mà thôi. Trong tình thế đó, có đối thoại cả trăm năm cũng không cải tiến được xã hội. Nếu không có đối thoại, mọi việc hợp tác đều giả hiệu và vô hiệu. Thực vậy, làm sao phục vụ, nếu không có công lý? Làm sao có công lý, nếu không có sự thật? Làm sao tìm được sự thật, nếu không đối thoại? Thánh Augustinô quả quyết: “Bất cứ những gì trái với sự thật đều không thể có công lý.”

Làm sao có thể đối thoại khi Đảng chỉ công nhận “tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân” (7)? Khi không công nhận Giáo hội, họ cũng chẳng cần biết “mục đích của Giáo Hội và Nhà Nước thuộc hai lãnh vực khác nhau, có những phương tiện riêng, và độc lập trong những lãnh vực hoạt động liên hệ.” (8) Nếu thực tình phục vụ con người, ai chẳng cần đến những cái nhìn và nỗ lực từ nhiều phía? Thật vậy, “công việc phục vụ phúc lợi quần chúng và cộng đồng nhân loại chỉ có thể hữu hiệu khi có cuộc đối thoại theo cơ chế giữa Giáo hội và chính quyền. Mục đích nhằm góp phần vào công cuộc tiến bộ mỗi dân tộc và toàn thể nhân loại trong công lý và hòa bình.”(9) Đối thoại là con đường duy nhất để nhìn ra vấn đề và phục vụ hữu hiệu. Thực vậy, muốn có công lý để hành động, cần phải vận dụng tư tưởng và lời nói để đối thoại. Nếu không, sẽ lãng phí nhiều tài nguyên quốc gia và Giáo hội và chẳng bao giờ có thể đáp ứng những nhu cầu lớn lao của quần chúng.

Trước cảnh đau thương của dân tộc, Giáo hội đành bó tay khi nhìn các nạn nhân đang quằn quại trong các bệnh viện hay bị bưng bít trong nền giáo dục một chiều. Thật vậy, “ngành y tế chúng ta cũng đang gặp khủng hoảng, cả về chất lượng lẫn số lượng. Tại Tp HCM chẳng hạn, để thực hiện công tác điều trị bình thường, mỗi ngày cần khoảng 14.000 giường cho bệnh nhân. Thế nhưng, tất cả bệnh viện công và tư ở thành phố mới có khoảng 8000 giường, nghĩa là chỉ mới đạt tới hơn một nửa nhu cầu. Vì thế tình trạng 2 bệnh nhân một giường sẽ còn tiếp diễn trong những năm tới. Nếu Tp HCM là đầu tàu kinh tế của cả nước mà còn xảy ra tình trạng thiếu hụt ở trên, thì những vùng sâu, xa và cao của đất nước sẽ sao? Trong quá khứ giới Công giáo đã đóng góp nhiều cho lãnh vực y tế. Bao giờ mới được tái nhập cuộc để xoa dịu nỗi đau và nỗi khổ của đồng bào?”(10)

Trong ngành giáo dục, vấn đề trầm trọng không kém. Dù việc phục vụ tương lai dân tộc đang bị bỏ bê và xuống cấp vì thiếu thốn cơ sở cũng như nhân sự trầm trọng, nhưng giáo dục vẫn là lãnh vực độc quyền của Nhà Nước. Giáo hội làm được gì khi bị đặt ra ngoài cơ chế giáo dục, dù mình có rất nhiều nhân sự sẵn sàng nhập cuộc? “Nhiều người vẫn băn khoăn thắc mắc: Tại sao vẫn chưa cho phép các tôn giáo trong nước, những người cùng chung một giòng máu và một tình tự dân tộc được trực tiếp tham gia vào lãnh vực giáo dục? Tại sao chưa để cho các tu sĩ có cơ hội đóng góp tim – óc của mình cho tương lai dân tộc?” (11) Thật là tiếng kêu bức xúc và thất thanh giữa sa mạc!

Biết thế, HĐGMVN năm 2007 vẫn bàn về một lãnh vực mà mình chẳng có ảnh hưởng gì, ngoài trường mẫu giáo? Thư Chung 2007 nói về quá khứ như một điều đáng tiếc, nhưng vẫn quyết tâm và tin tưởng kêu gọi giáo hội Việt NAM Tham gia vào lãnh vựa giáo dục trong kế hoạch ba năm. Hy vọng với sự quyết tâm ấy, giáo hội sẽ tìm ra cơ hội để cống hiến cho thế hệ trẻ tương lai.

Tóm lại, cùng trong một đền thờ, cùng tôn thờ một Thiên Chúa, và cùng nhìn vào bản thân, nhưng ông Pharisêu và người thu thuế theo những đường hướng khác nhau. Vì kiêu ngạo, Pharisêu đã không nhận ra sự thật về Thiên Chúa, bản thân và tha nhân. Ông đánh mất tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Lời cầu nguyện trở thành độc thoại. Ông tự tách mình khỏi Thiên Chúa và anh em. Trái lại, trong khiêm cung, người thu thuế đã được nâng lên hàng công chính, vì “kẻ phục vụ Đức Chúa theo ý Người sẽ được Người chấp nhận, lời họ kêu xin sẽ vọng tới các tầng mây.” (Hc 35:16)

Cùng lên đền thờ Thiên Chúa, nhưng mỗi người ca một khúc khác nhau. Tiếng ca của người Pharisêu chói tai cả Thiên Chúa lẫn con người. Có lẽ giờ đây, không ai muốn đồng hội đồng thuyền với Pharisêu. Ai cũng tự xếp mình vào hàng ngũ người thu thuế. Như vậy, phải chăng mình cũng đang muốn mình hơn người Pharisêu?! Coi chừng khúc ca cũng chói tai không kém đâu nhé!

Lạy Chúa, tất cả cuộc đời và sứ mệnh con đều tùy thuộc vào lòng thương xót của Chúa. Xin cho con được gặp gỡ Chúa và đồng loại hôm nay để có thể phục vụ theo đúng thánh ý Chúa. Amen.

——————————

1. Đoàn Kiếm,

http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=4046

2. Toát yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 202.

3. ibid., 203.

4. ibid., 43.

5. ibid., 164.

6. Nguyễn Thái Hợp, http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=2577

7. http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=2577

8. Toát yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 445.

9. Ibid.

10. Nguyễn Thái Hợp, http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=2577

11. Ibid.

12 HĐGMVN, Thư Chung 2007, số 19,

http://www.conggiaovietnam.net/tulieugiaohoi/thuchungHDGMVN2007.htm

CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO năm C 2022.10.23

Lời Chúa: Is. 2, 1-5; 1Tm. 2,1-8; Mt. 28,16-20

1. Hãy đi khắp thế gian–”Manna’

Suy Niệm

“Hãy đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng…”

Lời Đức Giêsu mời gọi làm chúng ta nhức nhối.

Thế giới chẳng phải ở đâu xa.

Thế giới là quê hương tôi với gần 80 triệu dân.

Thế giới là những người tôi vẫn gặp, những nơi tôi vẫn sống.

Thế giới ấy, chân tôi chưa một lần đi hết,

miệng tôi chưa một lần loan báo tin vui.

Tôi có lòng tin không? Tôi có dám tin Lời Chúa không?

Chúa hứa cho những ai tin được khả năng trừ quỷ,

nghĩa là giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô lệ,

khả năng chữa bệnh để xoa dịu nỗi đau của trần gian,

khả năng nói những ngôn ngữ mới để đem lại hiệp nhất.

Các tông đồ đã tin và thấy Chúa cùng làm việc với mình.

Họ chẳng bao giờ cô đơn trên bước đường rao giảng.

Có nhiều cách loan Tin Mừng, nhiều cách truyền giáo.

Cách thứ nhất là bằng chính cuộc sống bản thân.

Nếu các Kitô hữu đều siêu thoát danh lợi,

sống trung thực, thanh khiết, sống chung thủy, yêu thương…

Một Kitô hữu nghèo mà vui tươi, hạnh phúc,

thì đó là một lời chứng đáng tin cậy.

Làm cho xã hội được tốt đẹp hơn,

đó cũng là một cách loan báo Tin Mừng rất hiệu quả.

Kitô giáo phải góp phần xây dựng

một thế giới hòa bình và huynh đệ, công bằng và ấm no,

nơi nhân phẩm của từng người được tôn trọng,

nơi bóng tối của sự ích kỷ tàn nhẫn bị đẩy lui.

Mẹ Têrêxa Calcutta đã âm thầm loan báo Tin Mừng

bằng những cử chỉ nhân ái với bao người cùng khổ.

Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để lập các cộng đoàn.

Còn thánh Têrexa nhỏ đã truyền giáo tại chỗ

bằng lời cầu nguyện và những hy sinh nhỏ bé.

Chị là nữ tu dòng Kín, sống trong bốn bức tường,

nhưng lại được phong làm bổn mạng các xứ truyền giáo.

Chị đã đi khắp thế giới, không phải bằng đôi chân,

nhưng bằng lòng ước ao của một trái tim cháy bỏng.

Phải sống sao để người ta thắc mắc, đặt câu hỏi.

Nhưng cũng phải sẵn sàng trình bày câu trả lời.

Dù bạn chẳng uyên thâm về giáo lý

nhưng hãy bập bẹ nói về Chúa bằng kinh nghiệm của bạn.

Truyền giáo là giới thiệu cho người khác Đấng tôi đã quen.

Có thể người ấy đã biết Đấng này từ lâu rồi.

Anrê đã gọi Simon, Philipphê đã gọi Nathanaen đến gặp Chúa.

Cần tập đến với người khác

như Đức Giêsu đã đến với người phụ nữ Samari.

Hãy xin nước uống, trước khi nói về Nước Hằng Sống.

Hãy tìm hiểu người đối diện trước khi loan báo Tin Mừng.

Chúng ta cần thấm nhuần văn hóa dân tộc

thì mới biết cách nói về Chúa Cha cho đồng bào mình.

Nếu cả đời, mỗi Kitô hữu mời được một người theo đạo,

thì nguyện ước của Đấng Phục Sinh được thành tựu.

Gợi Ý Chia Sẻ

Thánh Têrêxa nhỏ đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội Thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh của chị? Bây giờ có hợp thời không?

Mẹ Têrêxa hiến đời mình cho người cùng khổ, bệnh tật, không phân biệt tôn giáo, màu da… Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo này? Nó có đánh động trái tim con người hôm nay không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,

nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau,

thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu

một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất.

Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.

Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động.

Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu,

thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,

các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình…

Lạy Chúa Giêsu, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con,

ơn gọi của con chính là tình yêu.

Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh:

nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu,

và như thế con sẽ là tất cả,

vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.

Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con,

mọi ước mơ của con được thực hiện. (dựa theo lời của thánh Têrêxa)

2. Thầy Ở Cùng Anh Em–”Manna’

Suy Niệm

Truyền giáo là một mệnh lệnh

và cũng là một ước mơ của Chúa Phục Sinh:

“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.”

Ngài đòi ta phải ra đi loan báo Tin Mừng,

nhưng cuối cùng là phải giúp người khác

trở thành môn đệ của Chúa Giêsu,

nghĩa là có tương quan thân thiết với Ngài,

dám sống như Ngài, sống cho Cha và con người.

Đấng Phục Sinh nắm quyền trên cả thế giới,

nên Ngài sai chúng ta đến với mọi dân tộc.

Tin Mừng không còn bị giới hạn trong mảnh đất Israel,

nhưng lan rộng khắp trái đất (x. Mt 10,5).

Ngày nào còn một người chưa trở thành môn đệ,

ngày ấy trách nhiệm chúng ta vẫn còn.

“Bằng cách làm phép Rửa cho họ

nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.

Phép Rửa khiến người ta trở thành môn đệ Đức Kitô,

và đi vào tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa.

“Bằng cách dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em”,

như thế các môn đệ thuộc bất cứ thời đại nào

đều có một điểm chung,

đó là cùng tuân giữ toàn bộ giáo huấn của Chúa.

“Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”

Đây không phải là một lời hứa cho tương lai,

nhưng là một điều đang xảy ra trong hiện tại.

Chúa Giêsu thật là Emmanuel (Mt 1,23),

Ngài ở cùng Giáo Hội, ở cùng các môn đệ,

Ngài ở bên họ trong mọi bước đường rao giảng (Mc 16,20).

Khi nhìn đến quê hương Việt Nam,

chúng ta thấy hơn 70 triệu người chưa biết Chúa.

Chúng ta có trách nhiệm loan báo Tin Mừng,

có bổn phận nói về Chúa cho họ,

nói bằng lời và nói bằng cuộc sống cụ thể.

Làm sao qua cuộc sống của tôi:

yêu thương, tha thứ, hy sinh phục vụ, bình an vui tươi,

người ta gặp được Đấng Vô Hình mà gần gũi?

Làm sao tôi có thể trả lời được những câu hỏi,

soi sáng được những vấn đề nhức nhối của họ bằng ánh sáng Tin Mừng?

Truyền giáo không phải là tuyên truyền hay mua chuộc,

cũng không phải là áp đặt một cách tinh vi,

Truyền giáo là hát lên niềm vui chất chứa nơi lòng mình,

là tỏa hương tự nhiên như đoá hoa.

Truyền giáo là hơi thở của một Giáo Hội đầy sức sống Thánh Thần.

Chúng ta phải biếu Chúa Giêsu cho con người hôm nay.

Nhưng trước hết chúng ta phải có Chúa Giêsu,

và phải biết lắng nghe con người.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo ý bạn, tại sao ít người Việt Nam theo đạo Công Giáo? Có gì cần sửa đổi để người khác dễ chấp nhận đạo chúng ta hơn không?

Cha Đắc Lộ đã đi truyền giáo ở Việt Nam và đã đóng góp nhiều cho việc hình thành chữ Quốc Ngữ. Theo bạn, người Công Giáo Việt Nam hôm nay có thể làm được điều gì cho quê hương Cha Đắc Lộ?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,

Chúa đã muốn trở nên con của loài người,

con của trái đất, con của một dân tộc.

Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa

dù họ từ khước Tin Mừng và đóng đinh Chúa vào thập giá.

Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,

một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu sau những năm dài chiến tranh,

một quê hương đang mở ra trước thế giới

nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc

và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.

Xin cho chúng con

đừng nhắm mắt ngủ yên trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,

nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,

và làm một điều gì đó thật cụ thể

cho những đồng bào quanh chúng con.

Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước

bằng khối óc, quả tim và đôi tay.

Và ước gì chúng con biết khiêm tốn cộng tác với muôn người thiện chí.

3. Anh em là chứng nhân–”Manna’

Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã làm một điều quan trọng,

đó là đào tạo những chứng nhân.

Hội Thánh tương lai phải được xây nền vững chắc

trên những con người có kinh nghiệm cá nhân

về cái chết và sự phục sinh của Ngài.

Chính vì thế Ngài đã hiện ra cho Simon,

cho hai môn đệ về Emmau, cho các tông đồ.

Ngài cho họ xem chân tay và Ngài đã ăn bánh

để họ đừng nghi Ngài là ma.

Hơn nữa Ngài còn soi sáng cho họ

để họ hiểu những lời Kinh Thánh nói về Ngài.

Các môn đệ đã là chứng nhân, đã tử đạo

để làm chứng cho điều mình xác tín.

Mỗi năm Hội Thánh dành một ngày Chúa Nhật

để nhắc chúng ta nhớ đến bổn phận của mình,

bổn phận truyền giáo cho thế giới.

“Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”

Chúng ta phải tiếp tục sứ mạng của các tông đồ,

vinh dự đứng vào hàng ngũ các chứng nhân.

Để truyền giáo, chúng ta phải quen thân với Chúa Giêsu,

có kinh nghiệm gặp gỡ Ngài thật sâu lắng,

sống cái chết của Ngài mỗi ngày

và nếm được niềm vui phục sinh Ngài ban tặng.

Để truyền giáo cần có nhiều tình yêu:

tình yêu đối với Chúa Giêsu và đối với con người.

Chính vì mến yêu Ngài

mà ta muốn Ngài được mọi người nhận biết.

Chính vì mến yêu mọi người

mà ta muốn chia sẻ hạnh phúc mình đang hưởng.

Thế giới hôm nay đầy lạc thú và hưởng thụ,

nhưng vẫn là một thế giới buồn.

Buồn vì nạn phá thai, ly dị, tự tử; buồn vì hận thù, thất vọng và lo âu.

Nhiều bạn trẻ tìm quên trong vui chơi, nghiện ngập,

vì không thấy cuộc sống có ý nghĩa.

Như thế truyền giáo là loan báo tin vui cho một thế giới buồn.

Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ giới trẻ:

“Hội Thánh ủy thác cho giới trẻ nhiệm vụ

hô to lên cho thế giới biết niềm vui vì gặp được Đức Kitô…

Hãy đi rao giảng Tin Mừng giải thoát.

Hãy là những điều ấy với tâm hồn hân hoan.”

Chúng ta không thể là những chứng nhân buồn.

Chính cuộc sống của ta phải đầy ắp niềm vui,

sự lạc quan và sự sống của Chúa Phục Sinh.

Chỉ như thế chúng ta mới hy vọng

đáp ứng những đòi hỏi gay gắt của thế giới đang bước vào đệ tam thiên niên kỷ.

Gợi Ý Chia Sẻ

Có khi nào bạn nói về Chúa cho một người bạn không? Bạn có thấy mình cần học giáo lý và cầu nguyện để có thể truyền giáo tốt hơn không?

Hơn 90% người Việt Nam chưa tin Chúa. Theo ý bạn, chúng ta có truyền giáo đủ chưa? Phải sửa đổi gì để việc truyền giáo có hiệu quả hơn?

Cầu Nguyện

Lạy Cha, Cha muốn cho mọi người

được cứu độ và nhận biết chân lý,

chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.

Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người chưa nhận biết Đức Giêsu,

họ cũng là những người đã được cứu chuộc.

Xin Cha thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo,

khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,

niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,

và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.

Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực

trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng.

Chúng con chỉ xin đến với những người bạn gần bên,

giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,

qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.

Chúng con cũng cầu nguyện cho tất cả những ai

đang xả thân lo việc truyền giáo.

Xin Cha cho những cố gắng của chúng con sinh nhiều hoa trái. Amen.

4. Quyền năng từ trên cao–”Manna’

Nếu Đức Giêsu phục sinh không sai gửi Thánh Thần

thì chúng ta sẽ chẳng có một Hội Thánh truyền giáo.

Các tông đồ được lệnh phải chờ ở Giêrusalem.

Chờ mặc lấy quyền năng từ trời cao ban xuống.

Chờ Đức Giêsu sai gửi Đấng Cha đã hứa ban.

Chờ lãnh nhận phép Rửa trong Thánh Thần (Cv 1,5).

Không có sức mạnh của Ngôi Ba Thiên Chúa,

các tông đồ chẳng dám đi rao giảng cho muôn dân,

và trở nên chứng nhân của Đức Giêsu cho cả thế giới.

Không có Thánh Thần thì không có hoạt động truyền giáo.

Điều này vẫn đúng cho thời đại chúng ta.

Thánh Thần vẫn thôi thúc bao tâm hồn đi gieo Tin Mừng,

vẫn hiện diện và hướng dẫn Hội Thánh trong việc rao giảng,

vẫn khơi dậy bao sáng kiến mới mẻ trong việc truyền giáo.

Kitô hữu tự bản chất là chứng nhân.

Các tông đồ đã làm chứng vì họ đã thấy tận mắt.

Chúng ta chỉ có thể làm chứng nếu thấy bằng đức tin.

Thấy bằng đức tin mạnh chẳng kém gì thấy bằng mắt.

Kitô hữu là người thấy được Đấng Vô Hình,

có tương quan thân thiết với Đấng họ mến tin.

Truyền giáo không phải là tuyên truyền một lý thuyết,

mà là đưa người khác đến gặp một Ngôi Vị,

là chia sẻ cho họ niềm xác tín và yêu mến của mình.

Chúng ta cần tự hỏi tại sao sau gần 4 thế kỷ

Kitô giáo ở Việt Nam vẫn chưa phát triển mạnh.

Phải chăng vì đức tin chúng ta đã nhạt nhòa,

vì đời sống chúng ta chẳng có gì đáng nói?

Hay phải chăng chúng ta đã lơ là với việc rao giảng,

hoặc không biết cách loan báo Tin Mừng cho phù hợp?

Có thể tất cả những lý do trên đều đúng.

Truyền giáo hôm nay

đòi ta cộng tác với mọi người thiện chí,

để xây dựng một thế giới công bằng, nhân ái hơn,

đòi ta yêu thương và phục vụ những người nghèo nhất.

Truyền giáo là đưa Tin Mừng vào nền văn hoá Việt Nam,

và đưa những giá trị tốt đẹp của văn hoá Việt Nam

vào việc sống và làm chứng cho Tin Mừng.

Chúng ta tin một Thánh Thần duy nhất

đã hoạt động nơi các dân tộc trước khi Ngôi Lời nhập thể,

vẫn luôn hoạt động trong đời Đức Giêsu và trong Hội Thánh,

và còn đang hoạt động nơi các tôn giáo,

các nền văn hoá của mọi dân tộc trong thế giới hôm nay.

Phải làm sao để trình bày Tin Mừng cách dễ hiểu,

gần gũi với tâm thức của đồng bào.

Phải làm sao để bày tỏ một khuôn mặt Đức Giêsu nhân từ, dễ mến,

đem lại hạnh phúc cho con người.

Hội Thánh Việt Nam cần biết bao

những người công giáo biết làm văn, làm nhạc, làm thơ, biết viết kịch, viết báo…

Tinh thần Chúa Kitô phải từ từ thấm vào mọi lãnh vực.

Có thể Kitô hữu mãi mãi vẫn là một thiểu số,

nhưng phải là một thiểu số đóng góp nhiều cho dân tộc.

Gợi ý chia sẻ

Có người bảo đạo Công Giáo là đạo ngoại lai. Bạn nghĩ sao? Có tôn giáo nào ở Việt Nam không đến từ nước ngoài? Làm sao để đạo Công Giáo gần gũi với lối sống, lối nghĩ của người Việt Nam hơn?

Đức Thánh Cha nói: không truyền giáo là dấu hiệu của khủng hoảng đức tin. Bạn nghĩ sao?

Cầu Nguyện

Lạy Cha, Cha muốn cho mọi người

được cứu độ và nhận biết chân lý,

chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.

Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người chưa nhận biết Đức Giêsu,

họ cũng là những người đã được cứu chuộc.

Xin Cha thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo,

khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,

niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,

và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.

Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực

trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng.

Chúng con chỉ xin đến với những người bạn gần bên,

giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,

qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.

Chúng con cũng cầu nguyện cho tất cả những ai

đang xả thân lo việc truyền giáo.

Xin Cha cho những cố gắng của chúng con sinh nhiều hoa trái. Amen.

5. Chúa sai tôi đi–TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.

Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công việc của mọi người khi Người sai 72 môn đệ lên đường. Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng. Đó là thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Còn 72 môn đệ không có tên tuổi rõ ràng. Đó là một đám đông không xác định. Đó là tất cả mọi người giáo dân. Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần tham gia vào việc truyền giáo.

Giáo dân tham gia vào việc truyền giáo bằng cách nào? Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Biết bao anh em đang chờ đợi được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa. Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lở mất cơ hội.

Thứ đến ta phải cầu nguyện. Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban. Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. Ta hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín. Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.

Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chúa dạy ta: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” để ta biết sống khó nghèo. Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.

Sau cùng, truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người. Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận lãnh. Và nhất là, niềm bình an vì được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.

Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm trong tầm tay của mọi người giáo dân. Mọi người đều có thể ý thức việc truyền giáo. Mọi người đều có thể cầu nguyện. Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên chúa. Và mọi người đều có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người khác

Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.

Hôm nay, Chúa đang than thở với mọi người chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp thiết không?

2. Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công trong vùng này, người tông đồ cần có những đức tính nào?

3. Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho người làm việc truyền giáo, cho những người chưa biết Chúa ở chung quanh bạn không?

Bạn đã bao giờ tham gia vào việc truyền giáo trong Giáo xứ, trong Giáo phận chưa?

6.  Hãy thả lưới bên phải thuyền (Lc 5,1-11)–TGM. Ngô Quang Kiệt

Các Tông đồ đã đánh cá vất vả suốt đêm mà không được con cá nào. Nay Chúa Giêsu bảo các ngài phải ra khơi một lần nữa. Chắc các ngài phải ngần ngại lắm. Ngần ngại vì vừa qua một đêm vất vả, thân thể mỏi nhừ vì suốt đêm phải vật lộn với biển cả, với sóng gió, với chài lưới. Ngần ngại vì đang buồn ngủ. Mắt chĩu nặng vì suốt đêm không ngủ, đang cần một giấc ngủ để hồi phục sinh lực. Ngần ngại vì vừa bị thất bại ê chề, đã mất hết ý chí phấn đấu. Thế nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa, ra khơi, thả lưới. Và kết quả thật là bất ngờ. Lưới đầy cá chất đầy hai thuyền đến gần chìm.

Qua bài Tin Mừng này Chúa muốn dạy tôi những bài học về việc truyền giáo.

Bài học thứ nhất: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi vất vả. Phải lao động đêm ngày. Như các Tông đồ đã chài lưới suốt đêm thâu trong sương đêm giá lạnh, trong sóng gió biển khơi, trong vất vả cực nhọc. Suốt đêm đã lênh đênh trên biển cả, sáng sớm vừa mới về tới đất liền, tưởng được nghỉ ngơi, không ngờ lại phải ra khơi ngay tức khắc. Ra khơi cả lúc đang mệt mỏi cần nghỉ ngơi. Người muốn truyền giáo cũng phải noi gương các tông đồ. Làm việc không nghỉ. Phải đầu tư sức lực và trí tuệ. Phải phấn đấu không ngừng. Làm cho hết việc chứ không làm cho hết giờ. Và phải chấp nhận tất cả những mỏi mệt, những thử thách.

Bài học thứ hai: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi kiên trì. Vì việc truyền giáo có nhiều thất bại hơn thành công, có nhiều mệt nhọc hơn vui thích, nên việc truyền giáo đòi hỏi rất nhiều kiên trì. Kiên trì khi đã gặp thất bại. Kiên trì khi đã chán nản, mệt mỏi rã rời. Kiên trì khi gặp những trắc trở. Như lời thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tim 4,2). Các Tông đồ thật kiên trì, mặc dù đã thất bại sau suốt một đêm vất vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi theo lệnh Chúa truyền. Trong quá khứ, ta đã gặp nhiều thất bại trong việc truyền giáo. Hôm nay Chúa lại mời gọi ta hãy ra khơi, hãy lên đường truyền giáo. Ta hãy mau mắn đáp lời Chúa mời gọi, kiên nhẫn làm việc trên cánh đồng truyền giáo, bất chấp mọi thất bại, bất chấp mọi chán nản.

Bài học thứ ba: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi thanh luyện bản thân. Truyền giáo là công việc thánh thiện nên người truyền giáo phải thánh thiện. Sự thánh thiện khởi đi từ nhận thức thân phận yếu hèn tội lỗi. Và từ đó nảy sinh nhu cầu được thanh luyện. Như Phêrô cảm thấy mình tội lỗi không xứng đáng ở gần Chúa. Như Phaolô ngã ngựa cảm thấy mình lầm lạc. Như Isaia cảm thấy môi miệng mình ô uế. Sau khi được thanh luyện các ngài đã trở thành những nhà truyền giáo gương mẫu. Thánh hoá bản thân là một điều kiện quan trọng để truyền giáo thành công.

Bài học thứ tư: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi lắng nghe Lời Chúa. Vì truyền giáo là một công việc thiêng liêng. Nên ta không thể cậy dựa vào sức lực phàm nhân, phương tiện phàm trần. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp. Các ngài biết rõ biển hồ Galilê như lòng bàn tay. Thế mà các ngài đánh cá suốt đêm chẳng được con nào. Đó là bài học dạy ta biết rằng, nếu cậy dựa vào tài sức riêng, việc truyền giáo sẽ không có kết quả. Việc các tông đồ vâng lời Chúa ra khơi và vâng lời Chúa thả lưới bên phải mạn thuyền cho ta thấy một thái độ khiêm nhường lắng nghe. Dù Chúa Giêsu không phải là ngư phủ chính gốc. Dù Chúa Giêsu không hiểu biết biển hồ, nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa. Chính nhờ thế, các ngài đã thành công. Người làm việc truyền giáo phải noi gương các tông đồ biết khiêm nhường nhận biết sự bé nhỏ nghèo hèn của bản thân để thao thức lắng nghe Lời Chúa. Chỉ làm theo Lời Chúa, làm theo ý Chúa, làm vì Chúa việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.

Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta một nghị lực mạnh mẽ để sẵn sàng chấp nhận những vất vả khổ cực trong việc truyền giáo. Xin cho chúng ta biết chấp nhận cả những thất bại mà vẫn kiên trì lên đường truyền giáo. Và nhất là xin cho mọi người chúng ta được Chúa dạy bảo, để biết làm theo ý Chúa. Chỉ có như thế, việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.

Lạy Chúa Giêsu, xin kêu gọi chúng con lên đường truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin thanh luyện chúng con để xứng đáng làm việc truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết cách làm việc truyền giáo. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Truyền giáo là lẽ sống của Hội Thánh, bạn có ý thức điều này không?

2. Muốn truyền giáo phải có những điều kiện nào?

3. Bạn đã bao giờ bắt tay vào việc truyền giáo chưa?

4. Năm nay bạn đã quyết tâm làm gì để đóng góp vào việc truyền giáo?

7. Truyền giáo bằng đời sống–TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt 28,16-20.

II. TẤM BÁNH CHIA SẺ.

Hai thánh Phêrô và Phaolô Tông đồ là hai nhà truyền giáo vĩ đại. Ngay sau khi nghe bài giảng đầu tiên của thánh Phêrô, 3 nghìn người đã xin được rửa tội. Thật là một kết quả ngoài sức tưởng tượng. Còn thánh Phaolô là người ra đi không biết mệt mỏi. Đã thành lập nhiều giáo đoàn. Đã đào tạo được nhiều giám mục. Đã viết nhiều thư dạy dỗ khuyên nhủ. Tuy không được chính thức ở trong nhóm 12, nhưng Ngài vẫn được gọi là Tông đồ. TÔNG ĐỒ viết hoa.

Nhờ đâu cuộc truyền giáo của các ngài có kết quả lớn lao như thế? Trước hết ta phải kể đến ơn Đức Chúa Thánh Thần. Chính Đức Chúa Thánh Thần đã ban cho công cuộc truyền giáo thành công. Tuy nhiên cũng phải có sự đóng góp của các ngài. Cuộc đời của hai thánh Phêrô và Phaolô Tông đồ, trước khi ra đi truyền giáo đã trải qua những bước chuẩn bị chu đáo.

Bước thứ nhất: Gặp gỡ Cha. Thánh Phêrô đã được hạnh phúc sống bên Chúa Giêsu 3 năm trời. Hơn thế nữa, ngài còn được gặp Cha sau khi Chúa Phục Sinh, được Chúa dạy dỗ, cùng ăn uống, cùng trò chuyện với Cha. Còn thánh Phaolô tuy muộn màng nhưng cũng đã gặp được Chúa trên đường đi Đa mát. Được Chúa trực tiếp dạy dỗ trong những năm tháng sống tại sa mạc. Được Chúa đưa lên tầng trời thứ ba. Việc gặp gỡ Chúa đã để lại những dấu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn các ngài. Sau này, các ngài có đi truyền giáo cũng chỉ là để kể lại những điều mắt thấy tai nghe.

Bước thứ hai: Cảm nghiệm được tình thương của Cha. Thánh Phêrô được Cha yêu thương. Điều này ngài đã cảm nghiệm sau 3 năm chung sống với Chúa. Nhưng nhất là sau khi phạm tội chối Thày. Cha vẫn yêu thương tha thứ. Sau khi Phục Sinh, Cha không một lời trách móc. Chỉ nhẹ nhàng hỏi: “Phêrô, con có mến Thày không?”. Và lạ lùng không thể ngờ, Chúa đặt Phêrô lên làm giáo hoàng, coi sóc Giáo Hội của Chúa. Còn thánh Phaolô, trước kia là một người đi bắt đạo. Nhưng Chúa đã cho ngài được ơn ăn năn trở lại. Và tuyển chọn ngài làm Tông đồ đi rao giảng cho dân ngoại.

Cảm nghiệm tình thương của Chúa, các ngài đã đem hết tình yêu đền đáp. Tình yêu đã làm thay đổi hẳn cuộc đời các ngài.

Bước thứ ba: Thay đổi đời sống. Các ngài đã biến đổi từ những con người yếu hèn nên dũng mạnh. Từ tự tin tự phụ vào sức mình đến chỉ tin cậy vào sức mạnh của Thiên Chúa. Từ hoạt động suy nghĩ theo ý riêng đến toàn tâm toàn ý theo ý Cha. Từ sống cho mình đến sống cho Chúa và chết cho Chúa. Tình yêu gắn bó với Cha đến nỗi không có gì có thể tách lìa các ngài ra khỏi Thiên Chúa.

Bước thứ bốn: Hăng hái ra đi truyền giáo. Tình yêu thôi thúc các ngài ra đi làm chứng cho Chúa. Các Ngài đã ra đi không ngừng. Các Ngài sẵn sàng chấp nhận tất cả: làm việc mệt mỏi, gian truân khốn khó, bị xua đuổi, bị chống đối, bị hành hạ, bị giam cầm và sau cùng các Ngài đã hiến mạng sống làm chứng cho tình yêu Chúa.

Chúa và Hội Thánh đang mời gọi chúng ta lên đường truyền giáo. Chúng ta tha thiết muốn làm việc truyền giáo. Hãy noi gương hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô ở ba điểm.

Trước hết phải sống thân mật với Cha. Đây chính là nội lực. Gặp được Chúa. Tiếp xúc thân mật với Chúa. Cảm nghiệm được tình thương của Chúa. Đó là bước khởi đầu quan trọng cho việc truyền giáo.

Tiếp đến, ta phải thay đổi đời sống. Sống tin cậy phó thác. Sống công bình và nhất là sống bác ái với mọi người.

Sau cùng, hãy hăng hái bắt tay vào việc. Trong thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam có đề nghị với chúng ta hãy làm những việc cụ thể. Đó là phải cầu nguyện cho việc truyền giáo, sống nêu gương thánh thiện, đối thoại và nhất là hãy kết nghĩa và làm việc bác ái.

Việc kết nghĩa là học hỏi kinh nghiệm của Giáo Hội Hàn quốc. Vào năm 1983 Hàn quốc có 3 triệu rưỡi người Công giáo. Năm đó, Đức Thánh Cha đi thăm Hàn quốc và phong thánh cho 103 vị tử đạo. Đức Hồng Y Stephano Kim đã hứa với Đức Thánh Cha sẽ hăng hái làm việc truyền giáo. Ngài đưa ra một chương trình đó là mỗi gia đình Công giáo phải truyền giáo cho một gia đình ngoài Công giáo. Mỗi người Công giáo phải truyền giáo cho một người ngoài Công giáo.

Các gia đình Công giáo kết nghĩa với những gia đình ngoài Công giáo. Đi lại thăm viếng, giúp đỡ và giới thiệu Chúa cho họ. Và kết quả thật khả quan. Khoảng 10 năm sau, số giáo dân Hàn quốc đã tăng lên gấp đôi. Người Công giáo Hàn quốc đã hăng hái làm việc truyền giáo và đã có kết quả.

Tai Hà nội có một người Hàn quốc mở doanh nghiệp làm ăn. Doanh nghiệp của ông có khoảng 50 công nhân. Trong đó có mấy thanh niên Công giáo. Một hôm ông hỏi họ: Các anh là đạo gốc, thế các anh đã truyền giáo cho ai chưa? Mấy thanh niên trả lời: Chúng cháu giữ đạo còn chưa xong, làm sao dám truyền giáo. Ông chủ nói: Thế là các cậu thua tôi rồi. Tôi là đạo mới, chỉ theo đạo khi lập gia đình. Và tôi mới tới Việt Nam được 3 năm thế mà tôi đã thuyết phục được hai người vào đạo.

Lạy Cha xin vì lời bầu cử của hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô ban cho chúng con những nhà truyền giáo nhiệt thành. Amen.

III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU.

1) Hai thánh Phêrô và Phaolô đã trải qua những biến đổi nào trước khi trở thành những nhà truyền giáo lớn của Hội Thánh?

2) Bạn mong muốn trở thành nhà truyền giáo, bạn phải làm gì?

3) Bạn có những kinh nghiệm gì về truyền giáo (của bản thân hoặc của người khác)?

8. Hãy loan báo Tin mừng–TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thầy, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thầy có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thầy vẫn lắc đầu: không phải. Thấy không ai trả lời được, thầy mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.

Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của mình.

Mẹ Têrêxa dường như đã tìm ra thứ ánh sáng ấy. Mẹ là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn Độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.

Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ phải động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không thèm muốn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.

Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hỏa soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc âm, khi người Samaritanô nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng lóe lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.

Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc để họ được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết tiếng. Mẹ được nhiều giải thưởng trong đó có giải Nobel Hòa bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Clinton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn Độ, đa số dân theo Ấn Độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc tang. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.

Mẹ Têrêxa là một nhà truyền giáo thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn soi trong đêm tối. Giữa đêm tối vật chất hưởng thụ. Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên của thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã thắp lên ngọn đèn ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy tỏa lan tới muôn người làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là anh em.

Vào thời Cộng sản còn mạnh và còn chống đối Công giáo kịch liệt, Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở Nga, ở Cuba và cả ở Việt Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã có thể đi khắp thế giới như lời Chúa truyền. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng khắp thế giới.

Hôm nay Giáo hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Nhờ đâu Mẹ Têrêxa đến được cả những nước Cộng sản?

2- Nhờ đâu việc truyền giáo của Mẹ Têrêxa thành công tốt đẹp?

3- Đời sống bạn là ánh sáng hay là bóng tối cho những người chung quanh?

4- Bạn quyết tâm làm gì để loan báo Tin Mừng cho mọi người?

9. Truyền giáo theo gương Mẹ Têrêsa–TGM. Ngô Quang Kiệt

Hôm nay, toàn thể Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Ngày Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị tuyên phong Mẹ Têrêxa lên bậc Chân Phúc mà ta quen gọi là Á thánh cũng là ngày cầu nguyện cho việc truyền giáo. Và Đức Thánh Cha khuyên nhủ chúng ta hãy truyền giáo theo gương Mẹ Têrêxa. Vậy Mẹ Têrêxa là ai và Mẹ đã truyền giáo như thế nào?

1) Cuộc đời

Mẹ Têrêxa sinh tại nước Anbani cũ. Mẹ đã xin gia nhập dòng Đức Mẹ Loretto và được sai đi Ấn độ để phục vụ nguơì nghèo. Khi đến Ấn độ, Mẹ được chứng kiến cả một đại dương mênh mông những người nghèo đói. Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi nằm la liệt ngoài đường. Những người già cả bệnh tật nằm chờ chết bên những đống rác, và khi chết, bị vất vào đống rác như một con thú vật. Xúc động trước cảnh nghèo khổ. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo. Việc đầu tiên là mở những trung tâm đón tiếp, đưa những người hấp hối ngoài đường về, săn sóc để họ được chết như một con người. Rồi mở cửa nhà cô nhi nuôi dưỡng trẻ em bị bỏ rơi. Rồi mở bệnh viện chăm sóc chữa trị những người nghèo khổ. Rồi mở trường cho trẻ em nghèo đến học. Công việc càng ngày càng phát triển. Số người theo giúp Mẹ càng ngày càng đông. Chẳng bao lâu, một dòng mới được thành hình với tên Nữ tử Thừa sai Bác ái. Ngoài 3 lời khấn như những nữ tu khác, còn có lời khấn phục vụ người nghèo. Mẹ được thế giới biết tiếng. Cả thế giới gọi Mẹ là Mẹ Têrêxa. Khi Mẹ qua đời, 80 nhà lãnh đạo quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Cliton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến nghiêng mình kính cẩn trước thi hài của Mẹ. Nước Ấn độ có đa số dân theo Ấn độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, thế mà đã nghi thức quốc táng cho Mẹ,đã bắn hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về thiên đàng.

2) Truyền giáo

Mẹ Têrêxa đã truyền giáo cách nào mà thành công như thế? Thưa, Mẹ đã dùng 4 phương cách sau:

Phương cách thứ nhất: cầu nguyện. Có nhiều người tưởng Mẹ Têrêxa là con người hoạt động. Không phải thế. Trước hết Mẹ là con người cầu nguyện. Những giờ cầu nguyện triền miên phát xuất từ nỗi niềm khao khát Chúa. Cầu nguyện đã đưa Mẹ đến phục vụ người nghèo. Rồi việc phục vụ người nghèo đã đưa Mẹ trở về với kinh nguyện. Dòng chảy cầu nguyện liên lỷ không bao giờ ngừng. Có thể nói cuộc đời Mẹ là cuộc đời chiêm niẹm trong hoạt động.

Phương cách thứ hai: thấm nhuần Lời Chúa. Mẹ tha thiết yêu mến Lời Chúa. Lời Chúa thấm vào tận mạch máu thớ thịt, để Mẹ suy nghĩ, nói năng và hành động theo Lời Chúa. Mẹ thường nói: Lời Chúa phải ở trên đầu ngón tay ta. Theo Mẹ 5 từ ngữ quan trọng khắc ghi tên 5 đầu ngón tay của Mẹ là: You did it for me. Đó là 5 từ tóm tắt 25 chương Tin Mừng theo thánh Mátthêu: “Mỗi lần các con làm những việc này cho một trong những anh em bé nhỏ nhất, đó là các con làm cho Thày”.

Phương cách thứ ba: yêu mến người nghèo. Nơi Mẹ, yêu mến người nghèo không phải là cảm tính nhất thời. Yêu mến người nghèo thực sự phát xuất từ một đức tin sâu xa. Tin thật Thiên Chúa đang ở trong nhưng người nghèo. Vì yêu mến người nghèo Mẹ đã tự nguyện sống nghèo. Mẹ sống trong một căn phòng đơn sơ, chỉ có một chiếc giường, một bàn nhỏ, một ngọn đèn và một chậu nước.

Phương cách thứ tư: phục vụ bằng tình yêu. Vì tin Chúa đang ngự trong người nghèo, nên phục vụ người nghèo chính là phục vụ Chúa. Vì thế, phục vụ người nghèo là một bổn phận phải thực hiện trong khiêm nhường. Phải phục vụ một cách kính cẩn. Phải phục vụ bằng tình yêu.

Giữa thế kỷ 20 tôn trọng vật chất, quay lưng lại với đời sống tâm linh, Mẹ Têrêxa đã trở nên một nhân chứng sống động của thế giới thần linh. Giữa nước Ấn độ xa lạ với Kitô giáo, Mẹ Têrêxa đã trình bày được khuôn mặt dễ thương dễ mến của Chúa, làm cho mọi người yêu mến đạo Cháu. Mẹ xứng danh là nhà truyền giáo của thế kỷ 20. Giữa những bế tắc Mẹ đã khai thông một lối đi. Lối đi vào thẳng trái tim con người. Trong bóng tối dày đặc, Mẹ đã thắp lên một ngọn đèn. Ngọn đèn đó chiếu lên ánh sáng niềm tin. Giữa trần gian lạnh lẽo, Mẹ đã đốt lên ánh lửa yêu mến. Ánh lửa đó sưởi ấm tình người.

Năm 2004 được Hội đồng Giám mục Việt Nam chọn làm Năm Truyền Giáo. Chúng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, biết tha thiết cầu nguyện, biết yêu mến Lời Chúa, nhất là biết yêu mến người nghèo và biết phục vụ bằng tình yêu. Để mỗi người Công giáo thực sự là một ngọn đèn chiếu toả ánh sáng của Chúa. Để mỗi người Công giáo là một niềm vui cho những người chung quanh.

Lạy Thánh Têrêxa, xin cầu cho chúng con. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Mẹ Têrêxa đã truyền giáo bằng những phương cách nào?

2- Trong hoàn cảnh của bạn, bạn có thể thực hiện phương cách nào trong 4 phương cách của Mẹ Têrêxa để truyền giáo?

3- Qua cuộc đời Mẹ Têrêxa, bạn thấy ngày nay còn có thể truyền giáo được không?

10. Tinh thần truyền giáo–Với cả tâm tình–GM. Giuse Vũ Duy Thống

“Không biết khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?”. Trang Tin Mừng hôm nay được kết thúc như thế.

Có thể đó là câu hỏi một thoáng bâng khuâng Chúa Giêsu thốt lên cho riêng mình Người. Cũng có thể đó là câu hỏi dự báo một tình huống không vui Chúa Giêsu cảnh giác cho các môn đệ. Có khi câu hỏi đó đợi chờ một lời đáp tích cực mở ra cho lối sống đức tin lạc quan. Và biết đâu, câu hỏi đó lại chẳng tố giác một thực trạng tiêu cực đang dần dà bào mòn niềm tin tôn giáo?

Nhưng đặt trong bối cảnh của Chúa Nhật cầu cho việc truyền giáo, theo tinh thần của các bài đọc, câu hỏi ấy đã ẩn chứa một lời giải đáp. Đó là: để lòng tin còn mãi trên mặt đất, mọi thành phần của Dân Chúa cần phải sống tinh thần truyền giáo.

1) Tinh thần truyền giáo ấy được nuôi dưỡng bằng sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động.

Nói đến truyền giáo người ta thường nghĩ là phải dấn thân làm việc truyền giáo, và ai càng làm được nhiều, người ấy lại càng được xem là nhà truyền giáo lớn. Thực ra, quan niệm ấy cũng đúng, nhưng không đủ, bởi dù không phủ nhận những kết quả lớn lao trong lịch sử Giáo Hội do hoạt động truyền giáo mang lại, nhưng bao giờ cũng thế, bên trong những hoạt động ấy còn là cả một tinh thần cầu nguyện tích cực của bản thân các nhà truyền giáo cũng như của mọi thành phần Dân Chúa.

Thiếu cầu nguyện, hoạt động sẽ không kết quả, hoặc sẽ lái kết quả sang một hướng khác có nguy cơ “sáng danh tôi, tối Danh Chúa”. Vắng cầu nguyện, hoạt động có thể trở thành nguy hại, nó đồng nghĩa với náo động nếu không muốn nói là khua động ầm ĩ hoặc khuấy động ồn ào. Quên cầu nguyện, hoạt động chỉ là hời hợt mang tính phong trào bùng lên đó nhưng rồi cũng lịm tắt đó. Bạo phát bạo tàn, mau xộp mau xẹp! Bỏ cầu nguyện, hoạt động coi chừng chỉ còn là một việc cá nhân, dẫu bỏ ra nhiều công sức, nhưng vẫn không phải là hoạt động của Hội Thánh vốn luôn được nuôi dưỡng phong phú bởi nguồn ơn Chúa Thánh Thần.

Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động truyền giáo. Nó đem đến cho những hoạt động một sức sống kín múc tận nguồn sứ mạng.

Bài đọc thứ nhất kể lại một hình ảnh sống động cho thấy mối tương liên không thể tách rời giữa việc Môsê giơ tay cầu nguyện và việc Giosuê đánh bại quân Amalếch. Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của ông Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông giơ tay lên, phần thắng đã nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy không riêng của Môsê hay riêng của Giosuê, mà là của Môsê cùng với Giosuê, là dung hòa của cầu nguyện và hoạt động, là tổng hợp của ơn thánh Chúa và nỗ lực con người.

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được mừng kính vào đầu tháng mười này cũng là một hình ảnh khác minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động truyền giáo. Chín năm khuôn mình trong nhà kín Lisieux, chưa hề làm việc truyền giáo bên ngoài, thế nhưng chỉ bằng hy sinh cầu nguyện cho các vị thừa sai và cho công cuộc rao giảng Tin Mừng, thánh nữ đã được Giáo Hội đặt làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê một đời bươn chải giảng giải đạo Chúa đến tận miền xa Châu Á.

Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ Giáo Hội thôi truyền giáo. Bốn phần năm dân số địa cầu chưa biết Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo đã đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết Chúa, Giáo Hội cũng phải tái truyền giáo nữa. Xem như thế, truyền giáo vừa là sứ mạng, vừa là số mạng, tức là sự sống còn của Giáo Hội. Và tinh thần truyền giáo ấy một khi được hun đúc đều đặn bằng cầu nguyện và hoạt động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô đến, Người vẫn thấy niềm tin trên mặt đất.

2) Tinh thần truyền giáo ấy được thể hiện khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.

Được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện dung hòa với hoạt động cây truyền giáo nhất định sẽ vươn lên, nhưng không thể không biết đến yếu tố thời tiết, mưa thuận gió hòa, hoặc nắng hạn mưa giông. “Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống”, đó là kinh nghiệm trồng cây. Song một cây lành như cây truyền giáo phải biết chứng minh bằng phẩm chất của mình. Nói khác đi, tinh thần truyền giáo cũng phải được chứng minh bằng chí bền sứ mạng, nghĩa là vừa kiên tâm thực hiện những điều tốt, vừa kiên gan chịu đựng ngay cả những điều xấu nữa (thánh Augustinô), phải bền chí khi thuận tiện cũng như khi không thuận tiện.

Khi thuận tiện là khi chí bền truyền giáo giúp ta tỉnh táo đừng để mất mình trong hoạt động đến nỗi quên đi cầu nguyện, giúp ta phân biệt rõ ràng đâu là đóng góp nhỏ nhoi của mình và đâu là ơn ban vô cùng to lớn của Thiên Chúa, và còn mãi giúp ta không chạy theo những thành công trước mắt để sau này khỏi phải trả giá đắng cay trắng tay thất vọng. Trong một chừng mực nào đó, biết đâu lối sống của ông thẩm phán bạo ngược “chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì” trong bài Phúc Âm lại chẳng có vài tương đồng với quan niệm háo thắng hoặc đắc thắng của cách truyền giáo thời Trung cổ, vốn xem Kitô giới như một xã hội lý tưởng, nên cố mà đưa người ta vào bằng chinh phục (truyền giáo) hoặc gắng mà ép người ta về bằng cả chinh phạt nữa (thập tự chinh)?

Xem ra kiên tâm thực hiện những điều tốt trong truyền giáo vào thời thuận tiện cũng không ít vấn đề.

Khi không thuận tiện là khi chí bền truyền giáo không chỉ giúp ta chịu đựng những khắc nghiệt thường xuyên, mà còn giúp ta biết tận dụng hoàn cảnh để mà thanh luyện tâm hồn. Nếu những hoạt động phải chấp nhận giới hạn ngoài ý muốn, thì chí bền như một mạch điện tự động “kiểm soát lợi suất” sẽ bù lại những giới hạn ấy bằng một thao thức phong phú của lời nguyện cầu. Và nếu như hoàn cảnh cụ thể không cho phép có một hoạt động bên ngoài nào nữa, thì vẫn còn đó mênh mông một phương tiện truyền giáo bằng gương sáng tình mến, bằng chứng tá đức tin và bằng cách sống tốt đẹp đời Kitô của mình.

Điều đáng sợ không phải là hoàn cảnh khắc nghiệt, mà là chính mình không đủ chí bền mà vượt qua những khắc nghiệt ấy. Trong ý tưởng này, có lẽ rất thích hợp khi đặt hình ảnh người đàn bà góa bụa của bài Phúc Âm, nhiều lần đến quấy rầy ông thẩm phán mong được minh xét minh định minh oan, ở đây như một cổ võ sống động cho chí kiên bền.

Và dầu hoàn cảnh thuận tiện hay không (bài đọc thứ hai), chí truyền giáo thiết tưởng cũng là biểu tỏ của niềm hy vọng, là tình mến khởi đi từ một đức tin sống động vào Thiên Chúa là Cha nhân ái luôn muốn sự tốt lành trong ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Được như thế, chắc chắn khi Chúa Kitô trở lại vẫn thấy niềm tin còn trên mặt đất trong chí bền của Giáo Hội là thân mình Người.

Ước mong rằng suy nghĩ trên sẽ trở nên ý lực cho cuộc sống và trở nên ý nguyện trong Ngày Thế Giới Truyền Giáo hôm nay.

11. Tinh thần truyền giáo–GM. Giuse Vũ Duy Thống

“Không biết khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?”. Trang Tin Mừng hôm nay được kết thúc như thế.

Có thể đó là câu hỏi một thoáng bâng khuâng Chúa Giêsu thốt lên cho riêng mình Người. Cũng có thể đó là câu hỏi dự báo một tình huống không vui Chúa Giêsu cảnh giác cho các môn đệ. Có khi câu hỏi đó đợi chờ một lời đáp tích cực mở ra cho lối sống đức tin lạc quan. Và biết đâu, câu hỏi đó lại chẳng tố giác một thực trạng tiêu cực đang dần dà bào mòn niềm tin tôn giáo?

Nhưng đặt trong bối cảnh của Chúa Nhật cầu cho việc truyền giáo, theo tinh thần của các bài đọc, câu hỏi ấy đã ẩn chứa một lời giải đáp. Đó là: để lòng tin còn mãi trên mặt đất, mọi thành phần của Dân Chúa cần phải sống tinh thần truyền giáo.

1) Tinh thần truyền giáo ấy được nuôi dưỡng bằng sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động.

Nói đến truyền giáo người ta thường nghĩ là phải dấn thân làm việc truyền giáo, và ai càng làm được nhiều, người ấy lại càng được xem là nhà truyền giáo lớn. Thực ra, quan niệm ấy cũng đúng, nhưng không đủ, bởi dù không phủ nhận những kết quả lớn lao trong lịch sử Giáo Hội do hoạt động truyền giáo mang lại, nhưng bao giờ cũng thế, bên trong những hoạt động ấy còn là cả một tinh thần cầu nguyện tích cực của bản thân các nhà truyền giáo cũng như của mọi thành phần Dân Chúa.

Thiếu cầu nguyện, hoạt động sẽ không kết quả, hoặc sẽ lái kết quả sang một hướng khác có nguy cơ “sáng danh tôi, tối Danh Chúa”. Vắng cầu nguyện, hoạt động có thể trở thành nguy hại, nó đồng nghĩa với náo động nếu không muốn nói là khua động ầm ĩ hoặc khuấy động ồn ào. Quên cầu nguyện, hoạt động chỉ là hời hợt mang tính phong trào bùng lên đó nhưng rồi cũng lịm tắt đó. Bạo phát bạo tàn, mau xộp mau xẹp! Bỏ cầu nguyện, hoạt động coi chừng chỉ còn là một việc cá nhân, dẫu bỏ ra nhiều công sức, nhưng vẫn không phải là hoạt động của Hội Thánh vốn luôn được nuôi dưỡng phong phú bởi nguồn ơn Chúa Thánh Thần.

Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động truyền giáo. Nó đem đến cho những hoạt động một sức sống kín múc tận nguồn sứ mạng.

Bài đọc thứ nhất kể lại một hình ảnh sống động cho thấy mối tương liên không thể tách rời giữa việc Môsê giơ tay cầu nguyện và việc Giosuê đánh bại quân Amalếch. Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của ông Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông giơ tay lên, phần thắng đã nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy không riêng của Môsê hay riêng của Giosuê, mà là của Môsê cùng với Giosuê, là dung hòa của cầu nguyện và hoạt động, là tổng hợp của ơn thánh Chúa và nỗ lực con người.

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được mừng kính vào đầu tháng mười này cũng là một hình ảnh khác minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động truyền giáo. Chín năm khuôn mình trong nhà kín Lisieux, chưa hề làm việc truyền giáo bên ngoài, thế nhưng chỉ bằng hy sinh cầu nguyện cho các vị thừa sai và cho công cuộc rao giảng Tin Mừng, thánh nữ đã được Giáo Hội đặt làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê một đời bươn chải giảng giải đạo Chúa đến tận miền xa Châu Á.

Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ Giáo Hội thôi truyền giáo. Bốn phần năm dân số địa cầu chưa biết Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo đã đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết Chúa, Giáo Hội cũng phải tái truyền giáo nữa. Xem như thế, truyền giáo vừa là sứ mạng, vừa là số mạng, tức là sự sống còn của Giáo Hội. Và tinh thần truyền giáo ấy một khi được hun đúc đều đặn bằng cầu nguyện và hoạt động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô đến, Người vẫn thấy niềm tin trên mặt đất.

2) Tinh thần truyền giáo ấy được thể hiện khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.

Được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện dung hòa với hoạt động cây truyền giáo nhất định sẽ vươn lên, nhưng không thể không biết đến yếu tố thời tiết, mưa thuận gió hòa, hoặc nắng hạn mưa giông. “Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống,” đó là kinh nghiệm trồng cây. Song một cây lành như cây truyền giáo phải biết chứng minh bằng phẩm chất của mình. Nói khác đi, tinh thần truyền giáo cũng phải được chứng minh bằng chí bền sứ mạng, nghĩa là vừa kiên tâm thực hiện những điều tốt, vừa kiên gan chịu đựng ngay cả những điều xấu nữa (thánh Augustinô), phải bền chí khi thuận tiện cũng như khi không thuận tiện.

Khi thuận tiện là khi chí bền truyền giáo giúp ta tỉnh táo đừng để mất mình trong hoạt động đến nỗi quên đi cầu nguyện, giúp ta phân biệt rõ ràng đâu là đóng góp nhỏ nhoi của mình và đâu là ơn ban vô cùng to lớn của Thiên Chúa, và còn mãi giúp ta không chạy theo những thành công trước mắt để sau này khỏi phải trả giá đắng cay trắng tay thất vọng. Trong một chừng mực nào đó, biết đâu lối sống của ông thẩm phán bạo ngược “chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì” trong bài Phúc Âm lại chẳng có vài tương đồng với quan niệm háo thắng hoặc đắc thắng của cách truyền giáo thời Trung cổ, vốn xem Kitô giới như một xã hội lý tưởng, nên cố mà đưa người ta vào bằng chinh phục (truyền giáo) hoặc gắng mà ép người ta về bằng cả chinh phạt nữa (thập tự chinh)?

Xem ra kiên tâm thực hiện những điều tốt trong truyền giáo vào thời thuận tiện cũng không ít vấn đề.

Khi không thuận tiện là khi chí bền truyền giáo không chỉ giúp ta chịu đựng những khắc nghiệt thường xuyên, mà còn giúp ta biết tận dụng hoàn cảnh để mà thanh luyện tâm hồn. Nếu những hoạt động phải chấp nhận giới hạn ngoài ý muốn, thì chí bền như một mạch điện tự động “kiểm soát lợi suất” sẽ bù lại những giới hạn ấy bằng một thao thức phong phú của lời nguyện cầu. Và nếu như hoàn cảnh cụ thể không cho phép có một hoạt động bên ngoài nào nữa, thì vẫn còn đó mênh mông một phương tiện truyền giáo bằng gương sáng tình mến, bằng chứng tá đức tin và bằng cách sống tốt đẹp đời Kitô của mình.

Điều đáng sợ không phải là hoàn cảnh khắc nghiệt, mà là chính mình không đủ chí bền mà vượt qua những khắc nghiệt ấy. Trong ý tưởng này, có lẽ rất thích hợp khi đặt hình ảnh người đàn bà góa bụa của bài Phúc Âm, nhiều lần đến quấy rầy ông thẩm phán mong được minh xét minh định minh oan, ở đây như một cổ võ sống động cho chí kiên bền.

Và dầu hoàn cảnh thuận tiện hay không (bài đọc thứ hai), chí truyền giáo thiết tưởng cũng là biểu tỏ của niềm hy vọng, là tình mến khởi đi từ một đức tin sống động vào Thiên Chúa là Cha nhân ái luôn muốn sự tốt lành trong ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Được như thế, chắc chắn khi Chúa Kitô trở lại vẫn thấy niềm tin còn trên mặt đất trong chí bền của Giáo Hội là thân mình Người.

Ước mong rằng suy nghĩ trên sẽ trở nên ý lực cho cuộc sống và trở nên ý nguyện trong Ngày Thế Giới Truyền Giáo hôm nay.

12. Lửa truyền giáo–GM GB. Bùi Tuần

TRUYỀN GIÁO, MỘT ĐẶC ĐIỂM CỦA LINH MỤC VIỆT NAM THỜI NAY

(Bài giảng thánh lễ Truyền Dầu ngày 28 tháng 3 năm 2002)

Một trong những niềm vui lớn của tôi, khi nhìn giáo phận nhà, là thấy số linh mục tương đối đông, đa số còn trẻ, tất cả đều hợp nhất.

Nói chung, tất cả các linh mục của chúng ta đều có thiện chí làm tốt bổn phận của mình.

Hiện nay, bổn phận linh mục tại Việt Nam nói chúng và tại địa phương chúng ta nói riêng không phải dễ dàng.

Ngoài những bổn phận thông thường vốn đi liền với chức linh mục, thì còn một số bổn phận mới.

Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp những giá trị truyền thống với những đổi mới có giá trị. Để sống đạo được nhìn nhận như một mời gọi hấp dẫn, thăng tiến, chứ không phải như một lối sống khép kín, lỗi thời.

Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp những kiến thức tôn giáo với những kinh nghiệm nội tâm. Để sống đạo được nhìn nhận như một chiều kích thiêng liêng đi sâu vào con người, chứ không phải chỉ là một lý thuyết suông.

Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp giáo lý với thực tế cuộc sống. Để sống đạo được coi như ánh sáng của đương thời, chứ không phải như bóng mờ của một cõi xa xôi, lạnh lùng, huyền ảo.

Nhất là bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp mục vụ và truyền giáo. Để linh mục là người ra khơi thả lưới, chứ không phải chỉ là người chủ chăn.

Riêng về bổn phận trên đây, tôi muốn chúng ta cùng nhau dừng lại, để suy nghĩ thêm. Bởi vì truyền giáo là một trách nhiệm quan trọng, một tiếng gọi bức xúc. Nếu coi thường bổn phận này, tôi sợ chúng ta sẽ phạm một lỗi lầm lớn, đạo sẽ cằn cỗi, bản thân ta sẽ chìm sâu xuống thung lũng vô hình cực kỳ nguy hiểm.

Suy nghĩ truyền giáo của chúng ta sẽ được gợi ý bằng mấy việc truyền giáo của Chúa Giêsu, để từ đó chúng ta sẽ thấy việc truyền giáo có thể thực hiện được trong hoàn cảnh mục vụ hiện nay.

Tôi xin nêu lên ba trường hợp của Chúa Giêsu.

Trường hợp thứ nhất là cuộc gặp gỡ với người phụ nữ Samaria (Ga 4,7-42). Bà này là người ngoại giáo. Do đời sống gia đình lôi thôi, bà sống giữa xã hội như kẻ bị loại trừ. Bà không chủ ý đi gặp Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu đã như vô tình gặp bà. Bắt đầu là một đối thoại vắn về đời sống, về khổ đau, rồi sau đó Chúa làm một cử chỉ cứu độ. Chúa giúp bà vượt qua ranh giới mặc cảm tội lỗi. Bà tin vào Chúa. Hơn nữa, bà trở thành người đứng đầu một nhóm loan báo Tin Mừng giữa dân ngoại.

Trường hợp thứ hai là cuộc gặp gỡ với vị sĩ quan thành Caphanaum (Ga 4,46-54). Ông là người Rôma ngoại giáo. Ông thuộc lớp người có chức có quyền. Ông xin Chúa chữa con ông đang hấp hối. Cũng sau một đối thoại về khổ đau, Chúa đã làm một cử chỉ cứu độ. Chúa đã giúp ông vượt qua được biên giới phân biệt giai cấp, tôn giáo và dân tộc. Ông tin vào Chúa. Hơn nữa, ông trở thành người đứng dầu một nhóm loan báo Tin Mừng giữa giai cấp chức quyền.

Trường hợp thứ ba là cuộc gặp gỡ với người bại liệt (Ga 5,1-18). Anh này sống chung với một đám người tật bệnh nghèo khổ. Đã 38 năm anh nằm một chỗ cô đơn, lầm lũi trên bờ hồ Bết-da-tha. Anh là kẻ bị xã hội loại trừ. Chính Chúa đã chủ động đến gặp anh. Cũng bắt đầu bằng một đối thoại về khổ đau, sau đó là cử chỉ cứu độ. Chúa đã giúp anh vượt qua biên giới cùng khổ. Anh tin vào Chúa. Hơn nữa, anh trở thành người đứng đầu một nhóm nhỏ loan báo Tin Mừng ngay giữa những người phản đối Chúa.

Ba trường hợp trên đây gồm một người ngoại đạo trong cảnh bê bối, một người quyền chức trong cảnh khó khăn, một người tật bệnh trong cảnh khốn cùng tuyệt vọng. Chúa đã gặp họ, đã nói chuyện với họ về các vấn đề thuộc về cuộc sống, rồi đã làm cho họ một việc cứu độ.

Tôi thấy các loại người như thế hiện nay vẫn còn rất nhiều trong xã hội chúng ta. Nhiều người công giáo đã gặp họ. Cũng đã có những chuyện trò về cuộc sống, về khổ đau, rồi trong lúc thuận tiện đã có những cử chỉ cứu độ. Kết quả rất bất ngờ: Nhiều người trước đây xa lạ nay nhận được Tin Mừng. Sau đó, chính họ gây dựng nhiều nhóm nhỏ để bàn về Tin Mừng và loan báo Tin Mừng. Có nhóm trong khuôn khổ giáo xứ. Có nhóm ngoài cơ chế giáo phận.

Tất cả những gì tôi vừa nêu trên đều làm chứng rằng: Trong mục vụ có vô số cơ hội để truyền giáo. Hơn nữa, trong sống đạo cũng có vô số dịp để làm việc truyền giáo. Linh mục làm, tu sĩ làm, giáo dân cũng làm. Thậm chí người ngoại giáo cũng làm. Làm qua những nẻo đường cuộc sống. Làm qua những vấn đề bức xúc của con người. Nếu không làm thì thiết tưởng không phải không có dịp để làm, nhưng là không có nhiệt tâm và tỉnh thức.

Như thế, điều quan trọng trong truyền giáo là người truyền giáo phải có hồn truyền giáo. Hồn đầy lửa mến Chúa. Hồn đầy lửa thương người.

Lửa đó là lửa từ trái tim Chúa chia sẻ ra. Lửa đó được chia sẻ cho những hồn khiêm tốn, từ bỏ mình, thiện chí muốn gieo trồng sự thiện.

Lửa đó là lửa thanh luyện, lửa cầu nguyện, lửa canh thức, lửa thương cảm, lửa cháy trong thánh giá.

Nhờ lửa như thế, người truyền giáo mới gần gũi được với con người, mới thương cảm được với thân phận từng người, mới hiểu được các vấn đề luôn mới trong dòng lịch sử đầy chuyển biến của xã hội và con người. Nhờ vậy, mà họ là người đáng tin. Đồng bào Việt Nam thời nay không còn dễ tin vào những người nói mạnh nói khéo. Nhưng họ tin vào những người có cái tâm yêu thương, chân thành, khiêm tốn, vừa sâu về đời sống thiêng liêng, vừa cởi mở thông cảm về phía con người.

Với vài suy nghĩ trên đây, tôi xin anh chị em cầu nguyện cho Hội Thánh Việt Nam được trở thành một Hội Thánh truyền giáo. Xin hãy cầu nguyện cách riêng cho các linh mục của chúng ta, để mọi linh mục và từng linh mục, bất cứ trong chức vụ nào, ở tuổi nào, với hoàn cảnh nào, luôn coi bổn phận truyền giáo là một trách nhiệm mà Chúa đòi phải chu toàn. Chu toàn một cách khôn ngoan theo ý Chúa. Mình có trách nhiệm thì cố gắng chu toàn. Còn kết quả ra sao thì hãy để mặc Chúa. Chúng ta cần nâng đỡ các linh mục của chúng ta trong bổn phận truyền giáo. Bởi vì công việc truyền giáo thường được bắt đầu từ các ngài và được phát triển cũng nhờ các ngài.

Chớ chi thời nay truyền giáo trở thành một đặc điểm sáng chói của mọi linh mục tại Việt Nam chúng ta.

13. Khiêm nhường trong truyền giáo–GM. Gioan Baotixita Bùi Tuần

Người truyền giáo tốt có thể là người không hiểu biết nhiều và sâu sắc về Chúa, nhưng nhất định phải là người có sự sống của Chúa trong mình.

Tôi vẫn nghĩ như vậy. Và tôi có kinh nghiệm như thế.

Người ta không nhìn thấy Chúa trong họ. Nhưng người ta có thể cảm được phần nào sự hiện diện của Chúa trong họ qua một số dấu chỉ. Một trong những dấu chỉ dễ thấy nhưng lại chắc chắn, đó là sự khiêm nhường.

Trước khi khiêm nhường được nâng lên hàng nhân đức siêu nhiên, nó đã là một đức tính nhân bản.

Ngay trên lãnh vực nhân bản, khiêm nhường vẫn được coi là một giá trị cao quí. Văn hoá Việt Nam vốn ca ngợi người khiêm tốn. Lễ giáo Việt Nam vốn đề cao đức khiêm nhường, coi khiêm nhường như một yếu tố của đạo làm người.

Trong xử thế, khiêm nhường là chià khoá mở lòng người ta, gây nên thiện cảm. Nhờ thiện cảm, người ta dễ chấp nhận ta, và dễ nghe ta. Trái lại, kiêu căng dễ gây nên ác cảm. Khi ác cảm đã chớm nở, thì lý luận dù đanh thép đến đâu, chứng từ dù rõ ràng đến mấy, người ta cũng không muốn đón nhận ta và những gì ta trình bày, kể cả khi ta trình bày Tin Mừng cứu độ.

Cái kiêu căng dễ xúc phạm đến người khác nhất, chính là sự tự đắc cho mình là đúng, là đẹp, là đáng kính trọng; còn người khác thì bị coi là sai, là xấu, là phải loại trừ. Nhất là trong việc phê phán tôn giáo, tín ngưỡng và những lựa chọn liên quan.

Người tự tôn, hay khinh miệt người khác rất dễ rơi vào những sai lầm trầm trọng và sự mù quáng thê thảm. Hơn nữa, họ có thể làm cho chính mình lâm vào tình trạng điên rồ. Để rồi, sẽ làm sụp đổ mọi sự nghiệp đạo đức của mình chỉ trong giây phút. Thảm thương nhất là kẻ kiêu căng cứng lòng sẽ vô tình mở rộng cửa lòng mình, rước quỷ Satan là thần kiêu ngạo vào ngự trị trong đó, để rồi lập liên minh với các hình thức kiêu căng khác, chống lại Nước Thiên Chúa.

Đọc Phúc Âm, tôi thấy Chúa Giêsu nhắc bảo chúng ta phải hết sức tránh mọi hình thức kiêu căng như:

Đừng thích tìm địa vị cao trước công chúng, như trong đám tiệc (Lc 14,7). Đừng giả hình đạo đức bằng cái vỏ bề ngoài, còn bên trong thì dơ bẩn (Mt 23,5-25). Đừng căn cứ vào mấy việc đạo đức của mình, để khinh chê người khác (Lc 18,9-14).

Đang khi đó, Kinh Thánh rất khen người khiêm nhường. Đến mức Chúa Giêsu coi họ là những người được Chúa Cha mạc khải cho biết nhiều điều cao siêu, mà Người không cho những người khôn ngoan và thông thái biết (Lc 10,21). Chính bản thân Chúa Giêsu cũng rất khiêm nhường. Ngài nói: “Hãy học với Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Hơn nữa, suốt cuộc đời, từ khi sinh ra trong hang đá cho đến lúc chết trên thánh giá, Chúa Giêsu luôn làm chứng Đấng cứu thế không phải là một quyền lực, nhưng là tình yêu xót thương phục vụ khiêm nhường.

Do đó, sự khiêm nhường của người truyền giáo không phải chỉ là một đức tính nhân bản, mà còn phải là một nhân đức được chia sẻ từ sự khiêm nhường của Đức Kitô. Đức Kitô truyền sang cho họ sự khiêm tốn của Người, để nhờ đó, họ sẽ luôn nhận được thêm chân lý và sự sống cứu độ của Người.

Chính ở điểm này, mà đến lượt mình, chính người truyền giáo cũng là người cần được Chúa Giêsu thường xuyên truyền giáo cho. Và đây chính là một kinh nghiệm quí báu họ có được về người được truyền giáo.

Kinh nghiệm cho thấy người được truyền giáo rất cần có lòng khiêm tốn.

Thuở xưa, các thầy thượng tế, các kỳ lão, các kinh sư, các biệt phái đã nghe tận tai chính Chúa Giêsu giảng, đã xem tận mắt những phép lạ Chúa Giêsu làm. Nhưng không mấy người trong họ đã tin. Hơn nữa, càng nghe thấy và càng nhìn thấy Chúa Giêsu, họ càng đâm ghét. Sau cùng họ đã giết Người.

Sở dĩ Tin Mừng đã không vào lòng họ được, chính là vì sự kiêu căng tự đắc đã khoá chặt lòng họ.

Thời nay cũng thế. Những người đơn sơ, khiêm tốn dễ đón nhận được những cái mới mẻ của Tin Mừng hơn những người tự phụ kiêu căng.

Vì thế, tôi nghĩ rằng: Người truyền giáo cần phải khiêm nhường. Người được truyền giáo cũng cần khiêm nhường.

Để có đức khiêm nhường, chúng ta không thể coi thường việc tập luyện mình về nhiều mặt. Một người không được uốn nắn tập luyện kỹ lưỡng về đức khiêm nhường sẽ dễ trở nên hư hỏng: Hư hỏng do những thất bại và do cả những thành công, do những thực tế cuộc đời và cả do những ước mơ và ảo tưởng của mình, nhất là do sự cố chấp tôn thờ cái tôi và làm nô lệ cho ý riêng mình.

Không những chúng ta cần tập luyện để nên khiêm nhường, mà cũng cần cầu nguyện khẩn xin Chúa ban ơn khiêm nhường.

Ơn khiêm nhường, mà Chúa ban cho kẻ cậy trông nài van Chúa, sẽ đặt ta dưới cái nhìn thánh thiện của Chúa. Nhờ đó ta sẽ nhận ra Chúa nơi người khác và ta là kẻ tội lỗi, bất xứng, mọi sự Chúa ban cho ta đều do tình xót thương nhưng không của Chúa. Càng được ơn khiêm nhường, ta càng hiểu thấm thiá lời thánh Giacôbê: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Gc 4,6). Và chúng ta cũng sẽ càng thấy rõ thói quen tìm đắc thắng, phô trương, trịch thượng, bất bao dung trong truyền giáo không những đang trở nên quá lỗi thời, mà còn gây nhiều thiệt hại cho Hội Thánh. Bởi vì đó là những điều rất trái nghịch với thánh ý Chúa.

Một điều lợi nữa, mà ơn khiêm nhường hôm nay sẽ đem lại cho ta, đó là nó giúp ta biết kiểm điểm lại bổn phận đón nhận Tin Mừng và bổn phận loan báo Tin Mừng. Ai trong chúng ta cũng có hai bổn phận đó.

Trong hoàn cảnh cụ thể ta đang sống, Chúa vẫn gửi cho ta vô số Tin Mừng mới mẻ. Ta đã đón nhận thế nào?

Trong địa vị cụ thể của ta và với những phương tiện cụ thể của ta, ai trong chúng ta cũng vẫn có thể góp phần không nhỏ vào việc loan báo phần không nhỏ vào việc loan báo Tin Mừng, hoặc bằng cách này, hoặc bằng cách khác. Ta đã thực hiện bổn phận đó thế nào?

Nếu khiêm tốn biết mình, khiêm tốn ăn năn, khiêm tốn sửa mình về bổn phận truyền giáo, chúng ta sẽ có một lương tâm truyền giáo đổi mới. Để từ nay, ta biết nhận lãnh, biết sinh lời và biết chia sẻ Tin Mừng cho những người gần xa, mà ta có thể gặp.

Nếu ta ý thức được như vậy và cố gắng làm như vậy, thì đời ta sẽ mang ý nghĩa cao đẹp, đi theo đúng hướng về với Cha trên trời.

14. Tin Mừng cho người ngoại biên–GM. Gioan B. Bùi Tuần

Thuở còn nhỏ, tôi đã sớm nhận thấy sự khác biệt giữa người giàu và người nghèo. Lớn lên, tôi cảm được sâu sắc cảnh nghèo. Nghèo thì hèn. Nghèo thì khổ. Cái Nghèo, cái Hèn, cái Khổ dính vào nhau khăng khít. Đồng thời, tôi cũng nhìn được cảnh giàu. Giàu thì sang. Giàu thì có. Cái Giàu, cái Sang, cái Co đồng hành ung dung.

Khi đi qua nhiều nơi, ở lại nhiều nước, tôi lại thấy giàu nghèo làm thành những giai cấp. Giàu là giai cấp cao. Nghèo thuộc giai cấp thếp. Cấp cao, cấp thấp đều có nhiều bậc. Đôi khi, người nghèo khổ bậc dưới không thể và cũng không dám nhìn người giàu sang ở bậc trên. Vì khoảng cách quá xa về địa lý, nhất là về tâm lý.

Trung tâm và ngoại biên.

Để đơn giản hoá tình trạng chênh lệch giữa giàu và nghèo, tôi tạm chọn cho mình một hình ảnh gợi ý. Hình ảnh đó là Trung tâm và Ngoại biên.

Trung tâm có thể áp dụng về nhiều mặt. Như trung tâm kinh tế, trung tâm văn hoá, trung tâm chính trị, trung tâm tôn giáo. Những ai được ở trong hoặc gần những trung tâm đó thường được coi là những người hưởng nhiều may mắn về phát triển, về danh dự, về cuộc sống.

Ngoại biên cũng được hiểu về nhiều lãnh vực như trên. Những ai ở ngoại biên kinh tế, văn hoá, xã hội, tôn giáo thường phải chịu nhiều mất mát, thua thiệt, kém cỏi.

Trung tâm và ngoại biên không hẳn chỉ là địa lý, mà còn là tâm lý và pháp lý.

Thời Chúa Giêsu giáng thế, theo truyền thống lâu đời, thì Giêrusalem là trung tâm chính trị, văn hoá và kinh tế, còn đền thờ là trung tâm tôn giáo. Đền thờ này cũng toạ lạc tại Giêrusalem.

Giêrusalem là nơi tập trung những người có địa vị, nắm quyền lực, sống trong phẩm trật và được ưu đãi.

Đền thờ là nơi thờ phượng của người có đạo. Gian trên dành cho các chức sắc. Gian giữa dành cho các đàn ông Do Thái. Gian cuối dành cho phụ nữ và trẻ con. Ngoài hè dành cho các người ngoại giáo, các kẻ tội lỗi và những ai tàn tật.

Chúa Giêsu đi về ngoại biên.

Trong một tình hình như thế, Thiên Chúa có những lựa chọn lạ lùng.

Thực vậy, Chúa Giêsu xuất hiện ở Galilêa. Xứ này là vùng biên, xa trung tâm Giêrusalem.

Người sinh ra trong một gia đình làm nghề mộc, thuộc dạng nghèo.

Như vậy, Người mang thân phận kẻ nghèo để chia sẻ với thế giới những người ngoại biên.

Khi đi rao giảng Tin Mừng, Người ưu tiên để ý đến những người nghèo, người người tội lỗi và những người cùng khổ. Người áp dụng vào chính mình những lời tiên tri Isaia xưa đã nói:

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn phong tôi.Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,17-20).

Người cũng đã xác định: “Thầy đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).

Người muốn dạy cho mọi người thấy: Trước mặt Chúa không có vấn đề ưu đãi cho trung tâm và bỏ quên hoặc loại trừ những ngoại biên. Người nói rõ ràng với người phụ nữ ngoại giáo xứ Samaria:

“Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong sự thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,21-24).

Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi những người ngoại biên, Người đến với họ, Người chia sẻ những nỗi đau của họ, Người được kể như người ngoại biên. Người cho họ thấy Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người.

Người hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở điểm hiến thân trên thánh giá, mà Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người được tôn vinh. Người đã nói trước khi tự nạp mình chịu chết: “Lạy Cha, giờ đã đến. Xin Cha tôn vinh Con Cha, để con Cha tôn vinh Cha” (Ga 17,1).

Người muốn các môn đệ Người cũng hãy theo gương Người, mà đem Tin Mừng đến cho người nghèo khổ như vậy. Muốn được thế, các ngài cần đón nhận sẵn tình thương cứu độ của Người. Để đón nhận, các môn đệ phải rất khiêm nhường trong phục vụ. Gương phục vụ khiêm nhường sau cùng Nguời trối lại là chính Người quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Sau đó, Người truyền dạy: “Thầy đã nêu gương cho các con, để các con cũng làm như Thầy đã làm cho các con » (Ga 13,15).

Phục vụ rất khiêm nhường là một cách tốt nhất để mở cửa lòng, đón nhận lửa tình yêu của Chúa, một thứ lửa đầy ánh sáng chân lý và yêu thương. Nhờ đó, môn đệ Chúa có thể ra đi ngoại biên, đem Tin Mừng cho mọi người, ưu tiên cho những người nghèo khổ.

Vui buồn về thực tế truyền giáo.

Đem mấy tư tưởng Phúc Âm trên đây chiếu dọi vào thực tế truyền giáo tại địa phương, tôi thấy có những điều đáng mừng và có những điểm đáng lo ngại.

Những điểm đáng mừng là từng triệu những người nghèo khổ vẫn đón chờ Tin Mừng, và vẫn sẵn sàng đón nhận Tin Mừng. Nhiều nơi, nhiều người đã gặp được Tin Mừng, nhờ gặp được những người môn đệ Chúa đến với họ, thương cảm đời họ, phục vụ họ một cách khiêm nhường, và dấn thân hy sinh vì họ. Các môn đệ như thế thuộc mọi thành phần, trong đó các nữ tu và giáo dân giữ một vai trò quan trọng.

Những điểm đáng buồn là ở nhiều nơi còn thiếu gương sáng về truyền giáo.

Trên đường đời, không thiếu trường hợp, người có đạo chúng ta thuộc đủ cấp bậc, đã xử sự lạnh lùng với người ngoại biên. Thái độ của ta cũng giống thái độ thầy tư tế và Lêvi xưa trước nạn nhân nằm quằn quại bên vệ đường. Mặc người ngoại Samaria lo cho người ngoại biên (Mt 12,41-44). Ta cứ an tâm đi về đền thờ là trung tâm.

Trong cuộc sống, không thiếu trường hợp, người có đạo chúng ta thuộc đủ cấp bậc, cũng đã xua đuổi người ngoại biên, không cho họ đến gần Chúa. Giống như các môn đệ Chúa xưa đã muốn xua đuổi người đàn bà xứ Canaan. Khi bà cứ lẽo đẽo sát lại bên Chúa Giêsu, để xin Người chữa con bà bị quỉ ám (Mt 15,21-28). Ta bảo vệ Chúa là trung tâm bằng cách loại trừ ngoại biên, tức những ai ta coi là bất xứng.

Trong những công việc chung, không thiếu trường hợp người có đạo chúng ta thuộc đủ cấp bậc, cũng đã đánh giá thấp người ngoại biên. Không giống cách Chúa Giêsu xưa đã đánh giá rất cao người đàn bà goá nghèo, đã dâng cúng vào đền thờ chỉ một đồng xu (Mt 12,41-44). Ta tôn vinh con người theo tiêu chuẩn tiền bạc và địa vị, như thể tiền bạc và địa vị là giá trị của trung tâm đạo.

Hiện nay, Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đang được đề cao như một gương mẫu rao giảng Tin Mừng cho người ngoại biên. Mẹ không làm việc gì khác ngoài đi theo đường lối mà Chúa Giêsu đã đi trước. Điều đáng ngợi khen nhất nơi Mẹ là Mẹ làm, chứ không chỉ nói. Với những việc làm yêu thương cụ thể, Mẹ là một người mẹ âm thầm hy sinh, trước khi là thánh vinh quang.

Khi tôn vinh Mẹ Têrêsa, Toà Thánh muốn tôn vinh một tinh thần truyền giáo sáng ngời, một phương cách truyền giáo khôn ngoan, đã rất hữu hiệu, đã gây được nhiều thiện cảm ở các xã hội và tôn giáo đa dạng, tại Ấn Độ nói riêng và Á châu nói chung.

Qua đời sống của mình, Mẹ Têrêsa Calcutta đã giới thiệu dung mạo một Hội Thánh dễ thương, dễ mến. Một Hội Thánh dịu dàng, khiêm tốn phục vụ, đầy tình xót thương, luôn đi tìm những người nghèo khổ, tội lỗi, bị loại trừ, sống trong bế tắc, để đưa họ vào tình Chúa bao la.

Ước gì mọi người truyền giáo chúng ta cũng theo gương Mẹ, để bất cứ ai, nhất là các người ngoại biên, đón nhận được hy vọng là Tin Mừng nơi Chúa là Cha giàu lòng thương xót.

15. Được rửa tội và được sai đi–TGM. Giuse Vũ Văn Thiên

“Được rửa tội và được sai đi, Giáo Hội Chúa Kitô thi hành sứ mạng trong thế giới”, đó là chủ đề cho tháng Mười năm nay (10/2019), được Đức Thánh Phanxiccô tuyên bố là “Tháng Truyền Giáo Ngoại Thường”. Mục đích của Tháng truyền giáo ngoại thường là giúp các tín hữu thấy tính thời sự và cấp thiết của công cuộc loan báo Tin Mừng, vì lời Chúa Giêsu sai các tông đồ ra đi loan truyền Tin Mừng vẫn mang tính thời sự. Công đồng Vantican II khẳng định: “Truyền giáo là bản chất của Giáo Hội lữ hành”. Tuy vậy, trong suy tư và thực hành của số đông những người Công giáo, khái niệm “Truyền giáo” thực sự ít được để ý đến. Làm thế nào để hâm nóng nơi mỗi người tín hữu tinh thần truyền giáo, là căn bản của đời sống Kitô hữu? Đó là một trong những băn khoăn của Giáo Hội, của Đức Thánh Cha và của những vị chủ chăn ở mọi cấp độ.

Khái niệm “được sai đi” gắn liền với Bí tích Thanh tẩy. Bởi lẽ Bí tích này trao cho chúng ta ba sứ mạng quan trọng: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế. Chính vì thế, người giáo dân không được giữ lối suy nghĩ cũ kỹ trước đây coi việc truyền giáo là của “nhà tu” hoặc của một số người được tuyển lựa. Mỗi tín hữu đều có bổn phận thực thi sứ mạng này, tùy hoàn cảnh, khả năng và điều kiện của mình. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, một nữ tu sống trong Đan viện Các-men, không bao giờ ra ngoài và không tiếp xúc với ai. Tuy vậy, thánh nữ có tinh thần truyền giáo, qua những ước ao cháy bỏng để “đem Thánh giá đi trồng tại mọi miền đất trên thế giới” như lời Thánh nữ đã viết. Vì vậy, Thánh nữ cộng tác vào sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội bằng lời cầu nguyện. Nhiệt huyết truyền giáo được thể hiện qua những lời cầu nguyện sốt sắng và những hy sinh trong cuộc sống hằng ngày. Vì lẽ đó, Thánh Têrêsa được đặt làm Bổn mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với Thánh Phanxicô Xaviê, là người rảo khắp vùng Á châu để rao giảng Tin Mừng. Qua việc chọn Thánh Têrêsa làm Bổn mạng các xứ truyền giáo, Giáo Hội khẳng định với chúng ta: hiệu quả của công cuộc truyền giáo không chỉ đến từ những hoạt động bên ngoài, mà còn đến từ lời cầu nguyện và những thao thức làm cho Chúa Giêsu được mọi người nhận biết.

Nhìn lại thực tế các cộng đoàn tín hữu Công giáo tại Việt Nam, một tác giả đã nhận định: “Giáo dân tự hài lòng và an tâm với những sinh hoạt và tổ chức nội bộ, chưa ý thức vận dụng những thuận lợi sẵn có này cho công cuộc truyền giáo. Các linh mục chuyên chăm việc mục vụ hơn là truyền giáo, ưu tiên lo cho giáo dân hơn là đi tìm lương dân, hoạt động nghiêng về điều hành hơn là mở rộng, quản lý hơn là khám phá, suy nghĩ theo lối mòn hơn là tư duy cải biến, chuộng an thân hơn là dấn thân” (Trích bài viết của Lm G.B Trương Thành Công trong buổi gặp gỡ tại Vinh từ ngày 21-23/8/2019 do UB LBTM của HĐGM VN tổ chức). Quả vậy, hầu hết nơi các cộng đoàn và các cá nhân, chúng ta hài lòng với một tổ chức ổn định trong giáo xứ, nên ít để ý tới việc “đi ra các vùng ngoại biên” như Đức Thánh Cha mời gọi.

“Tháng truyền giáo ngoại thường” đã đến phần cuối và sẽ kết thúc. Tuy vậy tinh thần truyền giáo gắn liền với đời sống đức tin của người Kitô hữu. Cũng trong bài viết được nêu trên đây, tác giả nêu ba bước trong lộ trình truyền giáo cho lương dân: tiếp cận, xây dựng yêu thương và kể lại những điều may lành Chúa làm cho bản thân, như chứng từ chân thực về đức tin và vào sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời. Phương pháp này nhằm tạo sự thân thiện đối với anh chị em không cùng tôn giáo, không mang tính chiêu dụ nhưng khiêm tốn và chân thành trình bày đức tin của mình cho người khác.

Điều cần phải thực hiện trước hết khi nói đến truyền giáo, đó là xây dựng gia đình bền vững trong đức tin và trong tình yêu thương. Một gia đình tốt sẽ có sức lan tỏa sức mạnh truyền giáo đến môi trường xung quanh. Tình nghĩa vợ chồng, mối tương quan hài hòa giữa anh chị em và các thế hệ con cháu… tất cả là một chứng từ hùng hồn và hiệu quả cho đời sống đức tin. Khởi đi từ gia đình, chúng ta liên hệ đến khái niệm “gia đình” rộng lớn hơn, tức là giáo xứ, vì giáo xứ là một gia đình lớn gồm nhiều gia đình nhỏ hợp lại. Tình liên đới hiệp thông nơi cộng đoàn giáo xứ là một trong những điều kiện căn bản để thực thi sứ mạng truyền giáo. Tiếc thay đây đó còn tồn tại những chia rẽ nghiêm trọng nơi các cộng đoàn, như phản chứng của Tin Mừng và làm méo mó hình ảnh của Giáo Hội Chúa Kitô. Những hoạt động từ thiện nhằm giúp những người cơ nhỡ, dù là người đồng đạo hay anh chị em lương dân, đều diễn tả sinh động đức Ái là cốt lõi của Tin Mừng và giúp mọi người nhận ra các tín hữu là con của Cha trên trời.

“Có một thuộc tính không thể thiếu đối với những người bước vào đời sống tông đồ. Một điều tối quan trọng và thiết yếu, đó là họ phải có đời sống thánh thiện, Bởi vì ai rao giảng Thiên Chúa thì bản thân họ phải là một người của Thiên Chúa…” (Maximum Illud, số 26). Sự thánh thiện của mỗi chúng ta là điều cần thiết để Tin Mừng của Chúa được lan tỏa trong cuộc sống hôm nay. Đó cũng là điều mỗi người phải thực hiện trước hết, nếu muốn trở nên tín hữu đích thực và những thừa sai loan báo Tin Mừng.

16. Nhân chứng Phúc Âm–GM. Giuse Vũ Văn Thiên

Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo trong Giáo Hội. Bí tích Thanh Tẩy trao cho mỗi Kitô hữu sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu cho anh em đồng loại của mình.

Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo trong Giáo Hội. Bí tích Thanh Tẩy trao cho mỗi Kitô hữu sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu cho anh em đồng loại của mình. Sau mỗi Thánh lễ, vị chủ tế tuyên bố với cộng đoàn tham dự: “Lễ xong, chúc anh em đi bình an!”. Đây không chỉ là lời chào tạm biệt trước lúc chia tay. Đây chính là lời sai đi, mang nội dung và ý nghĩa như lời Chúa nói với các tông đồ trước khi về trời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo…” (Mc 16,15). Như vậy, vào lúc thánh lễ trong phụng vụ kết thúc, cũng là lúc khởi đầu cho một cuộc lên đường mới để loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu.

Hội đồng Giám mục Việt Nam vừa tổ chức Đại hội tại Trung tâm Mục vụ Sài-gòn từ ngày 7 đến ngày 12 tháng 10-2013. Trong Thư Chung gửi cho cộng đoàn Dân Chúa, các Giám mục đã chọn đề tài Tân Phúc-Âm-Hóa như một định hướng cho Giáo Hội công giáo tại Việt Nam. Đó cũng là thao thức của các vị Giáo Hoàng trong thời hiện đại này. Có một nghịch lý hiện nay, đó là ngày càng có nhiều hiệp hội truyền giáo ở cấp quốc tế cũng như cấp địa phương, nhưng số tín hữu công giáo thực hành Đức tin lại ngày càng giảm. Phải chăng đó là hậu quả của não trạng cho rằng việc truyền giáo là của các linh mục và tu sĩ. Chính vì vậy, Giáo Hội luôn khích lệ người tín hữu tham gia cộng tác trong sứ vụ cao cả này, với hy vọng công cuộc truyền giáo sẽ đem lại nhiều kết quả tích cực.

Thế nào là Phúc-Âm-hóa? Đó là “mang Tin Mừng đến mọi môi trường nhân loại và, nhờ sự tác động này, làm biến đổi từ bên trong, đổi mới chính nhân loại: ”Này đây Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21,5; ĐGH Phaolô VI,Tônghuấn Loan Báo Tin Mừng, 18). Phúc-Âm-Hóa là làm cho tinh thần của Phúc Âm được thấm nhuần trong mọi lãnh vực của cuộc sống, từ việc giải trí đến việc lao động; từ đời sống gia đình đến xã hội; từ người già đến người trẻ… Tân Phúc-Âm-Hóa là một cách thức canh tân để loan báo Phúc Âm có hiệu quả hơn. Đức Chân phước Gioan Phao-lô II đã giải thích khái niệm Tân Phúc-Âm-hóa trong bài diễn từ tại Đại hội lần thứ 19 của HĐGM Mỹ Châu năm 1983: “Tân Phúc-Âm-Hóa không phải là loan báo một Phúc Âm mới, nhưng là mới trong nhiệt thành, trong phương cách, trong cách diễn đạt”’. Như thế, mọi thành phần Dân Chúa, từ giáo sĩ đến giáo dân phải kiểm điểm lại cách thức truyền giáo của mình. Phải chăng phương pháp truyền giáo của chúng ta không còn hợp thời, hoặc thiếu lửa truyền giáo nên không đem lại những kết quả như chúng ta mong muốn.

Trong nhiều định nghĩa về truyền giáo, chúng ta thường hay nghe nói đến một khái niệm: truyền giáo là làm chứng cho Chúa. Chúng ta dành ít phút để suy tư về khái niệm này.

“Làm chứng” chính là lệnh truyền của Chúa Giêsu trước khi Chúa về trời: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Trong cuộc sống đời thường, nhiều khi chúng ta đã được mời làm chứng về một vụ việc xảy ra hoặc một tranh chấp quan trọng. Người làm chứng là nhân vật trung gian giữa hai bên. Muốn làm chứng, chúng ta phải biết rõ nội dung vụ việc đã xảy ra, với những chi tiết quan trọng có liên quan. Người làm chứng cũng phải là người có cuộc sống tốt, có uy tín, đáng tin đối với cả hai bên đang tranh chấp.

Truyền giáo là làm chứng cho Chúa. Để làm chứng cho Chúa, trước hết chúng ta phải hiểu Chúa, biết Chúa và tin vào Chúa. Một người không tin Chúa hoặc có một đức tin sơ sài thì không thể “kể về Chúa” được. Tiếp đến, người làm chứng phải có một cuộc sống tốt lành thì chứng của người đó mới đáng tin và có giá trị thuyết phục người khác. Một người nói về Chúa mà chính bản thân họ không sống những lời Chúa dạy thì không thể thuyết phục người khác theo Chúa, thậm chí họ còn làm biến dạng giáo huấn của Chúa và giáo lý của Giáo Hội.

Trở lại với Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Các Giám mục kêu mời các thành phần Dân Chúa, nhất là các linh mục, cộng tác nhiệt thành để truyền giáo theo những sáng kiến và phương pháp hợp với thời đại, được thúc đẩy bởi nhiệt tình mới, nhờ đó, chúng ta hy vọng sẽ đem đến cho Giáo Hội Việt Nam những mùa lúa chín dồi dào. Một cách cụ thể, trong năm 2014 sắp tới, các vị chủ chăn mong muốn chúng ta dành thời giờ và tâm huyết cho việc “Phúc-Âm-hóa gia đình”, tức là việc học giáo lý hôn nhân đối với các bạn trẻ; là trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái; là việc cầu nguyện chung thường xuyên trong gia đình. Những việc làm đó nhằm củng cố tình yêu gia đình và giáo dục Đức tin cho các thế hệ tương lai.

17. Bài giảng của ĐTGM. Phaolô Bùi Văn Đọc

1. Giáo Hội tự bản chất có sứ vụ truyền giáo (x. AG,2). Chúa Giêsu Phục Sinh, khi hiện ra với các Tông đồ, đã trao sứ vụ của Người lại cho Giáo hội: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy sai anh em” (Ga 20,21). “Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hay nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22).

Chúa Giêsu đã trao sứ vụ truyền giáo lại cho chúng ta, và Người cũng đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta, cho tất cả chúng ta, không trừ một ai, cho mọi thành viên của Giáo hội, mọi người đã chịu Phép Rửa và trở thành môn đệ của Chúa.

2. Có lẽ một số đông người Công giáo Việt Nam chưa hiểu mình có sứ mạng truyền giáo, chưa xác tín về sứ mạng, chưa đón nhận sứ mạng từ nơi Chúa. Dịp Đại hội Truyền giáo của Giáo phận Sài Gòn hôm nay, chúng ta hãy nhắc lại cho nhau lệnh truyền của Chúa:

“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” (Mc 16,15-16).

“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền dạy cho anh em” (Mt 28,19-20).

“Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thư ba, từ cõi chết sống lại và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24,46-48).

3. Cả bốn sách Tin Mừng cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa của việc truyền giáo, thấy nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội.

Trước hết, truyền giáo là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người Ngài gặp gỡ, mà còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải tình yêu đó, nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa. Nơi Ngài tình yêu đó đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy vọng cho toàn thể nhân loại.

4. Truyền giáo còn bao gồm việc thiết lập và xây dựng Giáo hội, bắt đầu bằng việc gầy dựng những cộng đoàn các môn đệ của Chúa. Rồi mạnh dạn thúc đẩy các cộng đoàn ấy “làm chứng cho Chúa” hoặc bằng lời nói, hay bằng những việc lành, bằng chính đời sống huynh đệ, đời sống bác ái yêu thương, như lời Chúa dạy: “Cứ dấu này, người ta nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu thương nhau” (Ga 13,35).

5. Dĩ nhiên cách truyền giáo trong thế giới hôm nay không thể nào rập khuôn với những cách làm của cha ông, vì sứ vụ của chúng ta là đưa Tin Mừng của Chúa vào các môi trường khác nhau của xã hội hôm nay. Có những môi trường rất khó thâm nhập, mặc dù chính những nơi ấy rất cần những hạt giống Tin Mừng, như môi trường giáo dục, môi trường y tế, môi trường kinh doanh, môi trường xã hội đen, môi trường của những con người khốn khổ…, cả môi trường chính trị nữa.

Chúng ta không truyền giáo bằng cách áp đặt, cưỡng chế những người khác theo chúng ta. Chúng ta cũng không mua chuộc bằng tiền của, hay bằng quyền lợi, bằng những hứa hẹn. Chúng ta cũng không dụ dỗ, như người ta dụ dỗ vị thành niên.

6. Truyền giáo hôm nay phải là giới thiệu, là trình bày, là minh họa, là thuyết phục. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho những người chúng ta gặp. Chúng ta đừng sơ: sự nhút nhát của chúng ta có hậu quả rất lớn. Nhiều người mất cơ hội để biết Chúa. Hãy mạnh dạn như anh em Tin Lành. Họ ít khi bỏ lỡ cơ hội để nói về Chúa.

Một thống kê khá chính xác ở Trung Quốc cho thấy một sự khác biệt quá lớn giữa sự dấn thân truyền giáo của anh em Tin Lành và người Công Giáo: năm 1815, cách đây gần 200 năm, số người công giáo ở Trung Quốc là 215.000 người, số người Tin lành chỉ có 20 người. Hơn 10.000 người Công giáo mới có 1 người Tin Lành. Nhưng thống kê năm 2006 cho biết ở Trung Quốc có 12 triệu người Công giáo, và có tới 36 triệu người Tin Lành, có nghĩa là 3 người Tin Lành mới có 1 người Công giáo.

7. Hãy dùng mọi phương tiện lành mạnh chúng ta có được để loan báo Tin Mừng, phần còn lại Chúa Thánh Thần sẽ bổ túc cho, vì Chúa Thánh Thần mới là tác nhân chính của việc truyền giáo. Ngài sẽ làm những việc lớn lao mà chúng ta không ngờ, miễn là chúng ta tự nguyện trở nên khí cụ trong tay Ngài. Chính Chúa Giêsu, khi hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ đã nói về sứ mạng làm chứng của Chúa Thánh Thần: “Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Cha. Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầyngay từ đầu” (Ga 15, 26-27).

8. Chúng ta chỉ có thể cùng với Chúa Thánh Thần làm chứng cho Chúa Giêsu, khi chúng ta có “ở với Người”, gần gũi với Người, mặc dù chúng ta không thấy Người. Chính vì thế mà đời sống cầu nguyện rất cần thiết để chúng ta có thể loan báo Tin Mừng. Tất cả chúng ta đều là những con người yếu đuối tội lỗi, hãy cầu nguyện cách khiêm nhường như người thu thuế (Publicano) trong Tin Mừng Luca hôm nay, chắc chắn Thiên Chúa sẽ nhậm lời chúng ta, vì như sách Huấn Ca viết: “Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các từng mây” (Hc 35,16).

Hãy làm sao để có thể nói được ít nhất là một phần nào như Phaolô: “Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng được hoàntất, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng” (2 Tm 4,17).

(Bài Giảng Thánh Lễ Đại Hội Truyền Giáo – tại Trung Tâm Mục vụ Sài Gòn)

18. Thế Giới Truyền Giáo: Đến với muôn dân–”Niềm Vui Chia Sẻ’ – Lc 24,44-53

Anh chị em thân mến,

Ngày 7.12.1990 Đức Giáo Hoàng Phaolô II đã gởi cho toàn thể Giáo Hội Công Giáo một thông điệp mang tựa đề: “Sứ vụ Đấng Cứu Độ” (Redemptoris Missio). Thông điệp được công bố để kỷ niệm 25 năm ngày Công Đồng Vatican II ban hành Sắc lệnh về Hoạt động Truyền Giáo của Giáo Hội: “Đến Với Muôn Dân” (Ad gentes) đồng thời nhân dịp kỷ niệm 500 năm Christophe Colomb tìm ra Tân Thế giới và Tin Mừng được rao giảng ở Châu Mỹ. Thông điệp còn xuất phát từ những đòi hỏi cấp bách của xã hội và Giáo Hội trong những năm cuối của thiên niên kỷ II tiến tới năm 2000. Mới đây, trong Tông thư “Tiến tới Thiên niên kỷ III”, Đức Thánh Cha lại kêu gọi toàn thể Giáo Hoi chuẩn bị mừng Năm Thánh 2000 bằng việc canh tân đời sống thánh thiện trong Giáo Hội để tiến tới công cuộc truyền giáo mới. Đức Thánh Cha không chuẩn bị cho Giáo Hội tiến tới ngày tận thế! Trái lại, Ngài thúc đẩy Giáo Hội nhân dịp bước qua Thiên niên kỷ III, tìm gặp lại sự thánh thiện và lòng nhiệt thành tông đồ mà Giáo Hội cần phải có để theo đuổi sứ mạng của mình trong thế giới nhằm phục vụ Tin Mừng cho Nước Chúa hiển trị.

Đã một thời, hễ nói đến truyền giáo là chúng ta nghĩ đến việc ra đi đến những miền đất xa xôi, những vùng dân cư chưa hề biết Chúa vì chưa bao giờ có các nhà truyền giáo tới với họ. Ngày nay, không phải chúng ta không nghĩ tới những vùng đất nầy nữa, nhưng chúng ta phải quan tâm đến môi trường chúng ta đang sống, vì có những anh chị em chưa biết Chúa đang sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta không cần phải đi đâu xa xôi nữa. Theo Tông huấn “Loan báo Tin Mừng” của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI thì truyền giáo là đem Tin Mừng đến môi trường nhân loại và nhờ tiếp xúc với Tin Mừng, con người được biến đổi từ bên trong, tạo nên một nhân loại mới, bằng bí tích Thánh Tẩy và đời sống theo Tin Mừng. Vì vậy, ngày nay Giáo Hội dùng từ ngữ “Tin-Mừng-hóa” thay cho truyền giáo. Tin Mừng hóa là làm cho Tin Mừng thấm nhập vào mọi thực tại của cuộc sống con người. Không một thực tại nào, không một lãnh vực nào của đời sống con người mà không phải là đối tượng của việc loan báo Tin Mừng.

Như vậy, quan niệm truyền giáo ngày nay bao quát rộng rãi hơn, bao trùm cả cuộc sống con người, tất cả các công cuộc thăng tiến hay phát triển con người toàn diện, bắt đầu từ công cuộc giải phóng con người khỏi đói kém, bệnh tật, mù chữ, nghèo túng, bất công, áp bức, bóc lột. Tất cả các vấn đề đó không phải là điều xa lạ với việc loan báo Tin Mừng (x. LBTM 30,31). Lý do chính là vì bác ái: “Làm sao có thể công bố giới răn mới của Chúa Giêsu tức là giới răn yêu thương, mà không xúc tiến trong công lý và hòa bình, sự phát triển đích thực của con người” (LBTM 31). Thực ra, việc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội từ bao giờ vẫn luôn đi kèm theo những công cuộc thăng tiến con người: như mở trường học, xây cất bệnh viện, tổ chức cứu trợ, khai hoang lập ấp, nâng ca dân trí… Việc thăng tiến con người được xem là thành phân của chính sứ mạng rao giảng Tin Mừng, vì được bao gồm trong ơn cứu độ Chúa Kitô đem đến và Giáo Hội tiếp tục công bố và thực hiện.

Vì vậy, thưa anh chị em, ở đây vai trò của anh chị em giáo dân thật là quan trọng, không thể thay thế được. Giáo Hội quý trọng anh chị em, khuyến khích anh chị em dấn thân vì đồng loại. Ngay trong lúc cố gắng tạo các điều kiện giúp anh em đồng loại sống xứng đáng với nhân phẩm hơn, anh chị em biết rằng, mình cũng đang làm nhiệm vụ loan báo Tin Mừng, đang làm việc tông đồ; dù các môi trường hay các tổ chức, các cơ quan trong đó anh chị em dấn thân không thuộc về Giáo Hội. Tuy nhiên, nhiệm vụ loan báo Tin Mừng nầy không dừng lại ở việc thăng tiến đời sống con người mà thôi, mà cuối cùng phải nhằm đưa con người đến chỗ sống một cuộc sống mới từ bên trong, nhờ lãnh nhận bí tích Rửa Tội và hoán cải cuộc sống theo Tin Mừng.

Nhưng bằng cách nào? Thưa anh chị em,

Hình thức đầu tiên của việc loan báo Tin Mừng là chứng tá đời sống. Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II trong Thông điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu Độ” đã nhất trí với nhận định của Đức Phaolô VI trong Tông huấn “Loan báo Tin Mừng” rằng: “Con người ngày nay tin vào các nhân chứng hơn là các thầy dạy”. Muốn người khác tin, không phải chỉ dạy đạo lýc mà còn phải sống đạo lý mình dạy nữa. Con người hôm nay chờ đợi nơi nhà truyền giáo:

– Một sự quan tâm đặc biệt đến con người nói chung, nhất là những người nghèo, thấp cổ bé miệng, những người đau khổ. Những hoạt động bác ái là những nét son của Giáo Hội trong mọi thời đại.

– Một sự dấn thân phục vụ công lý và hòa bình, thăng tiến phụ nữ, bảo vệ trẻ em và bênh vực quyền con người.

– Một sự hòa nhập vào đời sống của dân tộc mình: trugn thành với đất nước, quyền dân tôc, với nền văn hóa dân tộc mình trong lúc vẫn đề cao tình huynh đệ đại đồng giữa các dân tộc.

– Lòng khiêm tốn để nhìn nhận các giới hạn và sai sót của mình, để mỗi ngày một cải tiến.

– Lòng can đảm để chống lại mọi áp bức, mọi bất công hay bóc lột.

Nếu đáp ứng đủ những sự chờ đợi nầy, lời rao giảng của nhà truyền giáo sẽ có cơ may được đón nhận dễ dàng hơn.

Ngoài ra, nhà truyền giáo phải hết sức thận trọng để luôn trung thành với giáo huấn cả Đức Kitô, hiệp nhất với toàn thể Giáo Hội và ý thức mình chỉ là “người được sai đi”. Trong mọi hoàn cảnh, thuận lợi hay không thuận lợi, nhà truyền giáo luôn xác tín rằng tự đáy lòng mọi người đều mong chờ được đón nhận chân lý về Thiên Chúa, về con người và về con đường cứu độ. Như Đức Kitô xưa, nhà truyền giáo can đảm rao giảng Lời Chúa. Nếu nhà truyền giáo có bị xiềng xích, bị tù đầy hay bị mất mạng sống vì đức tin… thì đó là một lời loan báo Tin Mừng hùng hồn và có sức thuyết phục nhất (x. SVĐCĐ 26-81).

Anh chị em thân mến,

Trong viễn tượng của ngày năm thứ ba sắp đến, chúng ta hãy là những người phát ngôn cho Tin Mừng, hãy phổ biến với hết sức lực của chúng ta lời cứu rỗi, sự thật của Thiên Chúa để biến đổi trọn cả thực tại trần gian theo tinh thần Tin Mừng. Không phải là lúc phải lo sợ, không phải là lúc để dành cho người khác thi hành trách vụ nầy. Mỗi người, xét theo là thành phần của Giáo Hội, cần phải lãnh lấy phần trách nhiệm của mình. Mỗi người trong chúng ta cần phải làm cho những ai sinh sống gần bên, trong gia đình, tại học đường, trong các môi trường lao động, văn hóa, được hiểu rằng: “Chúa Kitô là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” của loài người (Ga 14,6). Cần phải công bố và làm cho từng người biết được sự thật cứu rỗi, vì chúng ta không thể nào sống lãnh đạm trước sự kiện hàng triệu triệu người chưa biết hay biết không đúng về Chúa Kitô và Tin Mừng cứu độ của Ngài.

Hai ngàn năm đã qua đi kể từ khi những lời “Các con hãy ra đi giảng dạy muôn dân” được Chúa Kitô truyền dạy. Công cuộc rao giảng Tin Mừng cho muôn dân tùy thuộc vào chúng ta. Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem Tin Mừng cứu độ đến mọi nẻo đường thế giới. Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng đại và sẵn sàng của chúng ta, cần đến đời sống chứng tá của chúng ta để bày tỏ cho tất cả mọi người tình thương vô biên của Ngài.

19. Sứ Điệp cho ngày Thế Giới Truyền Giáo 2019–Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên

SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ CHO NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN GIÁO 2019

Được Rửa Tội và Được Sai Đi:

Hội Thánh Chúa Kitô thi hành sứ mạng trong thế giới

Anh chị em thân mến,

Hướng đến Tháng Mười 2019, tôi đã xin toàn thể Hội Thánh làm sống lại sự ý thức và dấn thân truyền giáo của Hội Thánh khi chúng ta kỷ niệm một trăm năm Tông Thư Maximum Illud của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XV (30 tháng 11, 1919). Tầm nhìn xa mang tính tiên tri của Tông Thư về hoạt động tông đồ này đã giúp tôi một lần nữa hiểu ra tầm quan trọng của việc đổi mới sự dấn thân truyền giáo của Hội Thánh và tạo sức đẩy Tin Mừng mới cho công cuộc rao giảng và đem cho thế giới ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và phục sinh.

Tựa đề của Sứ Điệp này cũng y hệt tựa đề của Tháng Mười Đ ặc Biệt Truyền Giáo: Được Rửa Tội và Được Sai Đi: Hội Thánh Chúa Kitô thi hành sứ mạng trong thế giới. Cử hành tháng này sẽ giúp chúng ta trước hết tái khám phá chiều kích truyền giáo của lòng tin của chúng ta vào Đức Giêsu Kitô, một lòng tin đã được Thiên Chúa thương ban cho chúng ta trong phép rửa. Mối quan hệ con thảo của chúng ta với Thiên Chúa không phải chỉ đơn thuần là một cái gì riêng tư, nhưng luôn luôn liên quan đến Hội Thánh. Nhờ mối quan hệ con thảo của chúng ta với Thiên Chúa, Cha, Con và Thánh Thần, chúng ta cùng với rất nhiều anh chị em chúng ta được sinh ra cho đời sống mới. Sự sống thần linh này không phải là sản phẩm để bán-chúng ta không làm chuyện chiêu dụ người ta vào đạo-nhưng là một kho báu để cho tặng, truyền thông và công bố: đó là ý nghĩa của truyền giáo. Chúng ta được cho không mòn quà này và chúng ta cũng đem nó cho không người khác (x. Mt 10:8), không loại trừ một ai. Thiên Chúa muốn mọi n gười được cứu rỗi bằng cách nhận biết chân lý và trải nghiệm lòng thương xót của Người nhờ sứ vụ của Hội Thánh, mầu nhiệm phổ quát của ơn cứu độ (x. 1 Tm 2:4; Lumen Gentium, 48).

Hội Thánh đang thi hành sứ mạng trên thế giới. Lòng tin vào Đức Giêsu Kitô giúp chúng ta nhìn mọi sự trong viễn cảnh đúng của chúng, khi chúng ta nhìn thế giới bằng con mắt và trái tim của Thiên Chúa. Đức cậy mở lòng chúng ta ra những chân trời vĩnh cửu của sự sống thần linh mà chúng ta được thông phần vào. Đức ái mà chúng ta được nếm cảm trước trong các bí tích và tình yêu thương huynh đệ, thúc đẩy chúng ta đi đến mọi chân trời góc biển (x. Mk 5:4; Mt 28:19; Cv 1:8; Rm 10:18). Một Hội Thánh quyết tiến tới những vùng biên cương xa xôi nhất thì cần có một sự hoán cải truyền giáo kiên trì và liên tục. Biết bao vị thánh, biết bao người nam người nữ giàu đức tin, làm chứng cho sự thật rằng sự mở rộng vô hạn này, sự đi ra trong tình thương xót này quả thật là khả thi và thực tế, vì nó được thúc đẩy bởi tình yêu và ý nghĩa sâu xa nhất của nó như là một quà tặng, một hi sinh và một sự cho không (x. 2 Cr 5:14-21)! Người rao giảng về Thiên Chúa phải là một người của Thiên Chúa (x. Maximum Illud).

Sứ mạng truyền giáo này chạm tới bản thân chúng ta: Tôi là một sứ mạng, luôn luôn; bạn là một sứ mạng, luôn luôn; mỗi người nam người nữ đã chịu phép rửa là một sứ mạng. Những người đang yêu thì không bao giờ ở yên; họ được kéo ra khỏi con người họ; họ được thu hút bởi người khác và họ thu hút người khác; họ hiến mình cho người khác và xây dựng những mối quan hệ trao ban sự sống. Liên quan đến tình yêu của Thiên Chúa, không ai là vô ích hay vô nghĩa. Mỗi người chúng ta là một sứ mạng cho thế giới, vì mỗi chúng ta là kết quả tình yêu của Thiên Chúa. Cho dù những người cha người mẹ có thể phản bội tình yêu của họ bằng sự dối trá, thù hằn và bất trung đi chăng nữa, Thiên Chúa không bao giờ lấy lại món quà sự sống của Người. Từ thuở đời đời Người đã tiền định ch o mỗi con cái của Người được dự phần vào sự sống thần linh vĩnh cửu của Người (x. Ep 1:3-6).

Sự sống này được ban cho chúng ta trong Phép Rửa, ban cho chúng ta ơn đức tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết. Phép Rửa tái sinh chúng ta theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa, và làm chúng ta thành những chi thể của Thân Thể Chúa Kitô, tức là Hội Thánh. Theo nghĩa này, Phép Rửa thực sự cần thiết để được cứu rỗi vì nó bảo đảm rằng , luôn luôn và mọi nơi, chúng ta là những người con trai con gái trong nhà Cha, chứ không bao giờ là những trẻ cô nhi, những người xa lạ hay nô lệ. Thực tại bí tích nơi người Kitô hữu -được hoàn thành trong Thánh Thể-vẫn là ơn gọi và số phận của mọi người nam người nữ đang tìm kiế m ơn hoán cải và ơn cứu độ. Bởi vì Phép Rửa hoàn thành lời hứa về món quà của Thiên Chúa làm cho mọi người trở thành con cái [của Thiên Chúa] trong Chúa Con. Chúng ta là con cái của cha mẹ ruột chúng ta, nhưng trong Phép Rửa chúng ta nhận được nguồn mạch của mọi tình phụ tử và tình mẫu tử đích thực: Không ai có thể có Thiên Chúa là Cha nếu không có Hội Thánh là mẹ (x. Thánh Cyprianô, De Cath. Eccl., 6).

Do đó, sứ mạng của chúng ta bắt nguồn từ tình cha của Thiên Chúa và tình mẹ của Hội Thánh. Sứ vụ Chúa Giêsu Phục Sinh truyền cho các môn đệ vào ngày Phục Sinh là yếu tố nội tại trong Phép Rửa: Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em, đầy tràn Thánh Thần, để thế gian được giao hoà (x. Ga 20:19-23; Mt 28:16-20). Sứ mạng này là phần thiết yếu của căn tính Kitô hữu chúng ta; nó làm chúng ta có trách nhiệm giúp mọi người thể hiện ơn gọi của họ là làm nghĩa tử của Chúa Cha, nhận ra nhân phẩm của mỗi người và quí trọng giá trị nội tại của sự sống con người, từ lúc thụ thai tới lúc chết. Chủ nghĩa thế tục lan rộng ngày nay, khi nó nhất quyết từ chối tình phụ tử chủ động của Thiên Chúa trong lịch sử của chúng ta, nó là một cản trở cho tình huynh đệ đích thực của loài người, được biểu hiện trong sự kính trọng sự sống của người khác. Không có Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, mọi sự khác biệt đều bị coi là một mối đe doạ nguy hại, khiến người ta không thể nào có sự chấp nhận lẫn nhau trong tình huynh đệ chân thành và sự hiệp nhất hiệu quả giữa loài người.

Tính phổ quát của ơn cứu độ được Thiên Chúa ban cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô đã khiến Đức Thánh Cha Bênêđíctô XV kêu gọi chấm dứt mọi hình thức chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa chủng tộc, hay sự xuất hiện của việc rao giảng Tin Mừng nhằm đạt được các lợi kích kinh tế và quân sự của các cường quốc thực dân. Trong Tông Thư Maximum Illud, Đức Giáo Hoàng lưu ý rằng sứ mạng phổ quát của Hội Thánh đòi hỏi phải gạt bỏ các ý tưởng độc quyền về tư cách thành viên của đất nước hay nhóm sắc tộc của mình. Sự cởi mở của nền văn hoá và cộng đồng trước tính mới mẻ cứu độ của Đức Giêsu Kitô đòi hỏi phải bỏ lại đàng sau mọi hình thức tự kỷ về sắc tộc và giáo hội. Hôm nay cũng vậy, Hội Thánh cần những người nam người nữ, mà vì đã lãnh nhận phép rửa, họ quảng đại đáp lại tiếng gọi bỏ lại nhà cửa, gia đình, xứ sở, ngôn ngữ và giáo hội địa phương của họ, để được sai đến với các dân tộc khác, đến với một thế giới chưa được biến đổi nhờ các bí tích của Đức Giêsu Kitô và Hội Thánh Người. Bằng việc rao giảng Lời Chúa, làm ch ứng cho Tin Mừng và cử hành sự sống của Thần Khí, họ kêu gọi người ta hoán cải, họ làm phép rửa và cống hiến ơn cứu độ của Đức Kitô, với sự tôn trọng tự do của mỗi người và đối thoại với các nền văn hoá và tôn giáo của các dân tộc mà họ được gửi đến. Nhờ đ ó, “sứ mạng đến với muôn dân’, missio ad gentes, vốn luôn luôn cần thiết cho Hội Thánh, góp phần một cách thiết yếu cho tiến trình hoán cải thường xuyên nơi mọi Kitô hữu. Đức tin vào sự phục sinh của Đức Giêsu; sứ mạng Hội Thánh được lãnh nhận trong phép rửa; sự thoát dính bén địa lý và văn hoá với bản thân mình và gia đình mình; nhu cầu cứu thoát khỏi tội lỗi và giải phóng khỏi sự dữ cá nhân và xã hội: tất cả những điều này đòi hỏi sứ mạng phải đạt đến tận cùng cõi đất.

Sự trùng hợp quan phòng của dịp kỷ niệm một trăm năm này với việc cử hành Thượng Hội Đồng Đặc Biệt về các Giáo Hội Vùng Amazôn cho phép tôi nhấn mạnh rằng sứ mạng mà Đức Giêsu uỷ thác cho chúng ta với ơn Thần Khí của Người cũng đến đúng lúc và cần thiết cho các vùng đất ấy và các dân tộc ấy. Một lễ Hiện Xuống mới đang mở rộng cửa cho Hội Thánh, để không một dân tộc nào bị đóng kín trong chính mình và không dân tộc nào bị cắt đứt khỏi sự hiệp thông phổ quát của đức tin. Không một ai phải bị đóng kín trong tình trạng tự kỷ của mình, trong sự q ui chiếu về tư cách thành viên của sắc tộc và tôn giáo của mình. Biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô phá vỡ những giới hạn chật hẹp của các thế giới, các tôn giáo và các nền văn hoá, bằng cách kêu gọi họ lớn lên trong sự tôn trọng nhân phẩm của mọi người nam nữ, và hướng tới một sự hoán cải sâu xa để trở về với sự thật của Chúa Phục Sinh, Đấng ban sự sống đích thực cho mọi người.

Ở đây tôi nhớ đến những lời của Đức Bênêđíctô XVI khi ngài khai mạc Hội Nghị các Giám Mục Châu Mỹ Latinh tại Aparecida, Brazil, năm 2007. Tôi muốn lặp lại những lời này và lấy chúng làm những lời của chính tôi: “Nhưng các quốc gia Châu Mỹ Latinh và vùng Caribê đã hiểu việc chấp nhận đức tin Kitô giáo có nghĩa là gì đối với họ? Đối với họ, nó có nghĩa là biết và đón tiếp Đức Kitô, v ị Thiên Chúa vô danh mà các tổ tiên của họ từng tìm kiếm mà không biết, trong các truyền thống tôn giáo phong phú của họ. Đức Kitô là Đấng Cứu Độ mà họ âm thầm khao khát. Nó cũng có nghĩa là họ đã lãnh nhận, trong nước rửa tội, sự sống thần linh làm cho họ trở thành những nghĩa tử của Thiên Chúa; hơn nữa, họ đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, Đấng đã đến để làm cho các nền văn hoá của họ sinh hoa kết quả, bằng cách thanh luyện các nền văn hoá ấy và phát triển nhiều hạt giống mà Lời Nhập Thể đã gieo nơi họ, nhờ đó dẫn họ đi trên những con đường của Tin Mừng. Lời Thiên Chúa, khi trở thành xác thể nơi Đức Giêsu Kitô, cũng trở thành lịch sử và văn hoá. Cái ảo tưởng quay trở lại để thổi hơi thở sự sống vào các nền tôn giáo thời kỳ tiền -Côlombô, ngăn cách họ với Đức Kitô và với Hội Thánh hoàn vũ, sẽ không thể là một bước tiến tới phía trước: thực ra, nó sẽ là một bước giật lùi. Trên thực tế, sẽ là một bước thụt lùi về một giai đoạn lịch sử bám chặt vào quá khứ” ( Bài Diễn từ khai mạc Hội Nghị, 13 tháng 5, 2007: Insegnamenti III, 1 [2007], 855-856).

Chúng ta phó thác sứ mạng của Hội Thánh cho Đức Maria Mẹ chúng ta. Kết hợp với Con của mình từ lúc Nhập Thể, Đức Trinh Nữ Maria đã khởi sự con đường lữ hành của mình. Mẹ hoàn toàn gắn bó với sứ mạng của Đức Giêsu, một sứ mạng đã trở thành sứ mạng của chính Mẹ khi đứng dưới chân Thánh Giá: sứ mạng cộng tác, với tư cách là Mẹ Hội Thánh, trong việc sinh ra những người con trai con gái của Thiên Chúa trong Thần Khí và đức tin.

Tôi muốn kết thúc sứ điệp này với vài lời về các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo, đã từng được đề nghị trong Maximum Illud như là một nguồn tài nguyên truyền giáo. Các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo phục vụ tính phổ quát của Hội Thánh như là một mạng lưới toàn cầu để hỗ trợ Đức Giáo Hoàng trong cam kết truyền giáo của ngài bằng cầu nguyện, linh hồn của việc truyền giáo, và bằng các việc quyên góp bác ái từ các Kitô hữu trên khắp thế giới. Các khoản quyên góp của họ giúp Đức Giáo Hoàng trong các cố gắng loan báo Tin Mừng của các Giáo Hội địa phương (Hội Giáo Hoàng Truyền Bá Đức Tin), trong việc đào tạo hàng giáo sĩ địa phương (Hội Giáo Hoàng Thánh Phêrô Tông Đồ), trong việc gây ý thức truyền giáo giữa các nhi đồng (Hội Giáo Hoàng Thiếu Nhi Truyền Giáo), và trong việc khích lệ chiều kích truyền giáo của đức tin Kitô giáo (Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo). Trong khi nhắc lại sự ủng hộ của tôi đối với các Hội này, tôi tin tưởng rằng Tháng Mười Đặc Biệt Truyền Giáo 2019 này sẽ góp phần canh tân việc phục vụ truyền giáo của các hội này cho sứ vụ của tôi.

Tôi thân ái gửi phép lành của tôi đến mọi người nam người nữ truyền giáo, và đến tất cả những ai, nhờ Phép Rửa, đang bằ ng cách này hay cách khác tham gia vào việc truyền giáo của Hội Thánh.

Từ Điện Vaticanô, 9 tháng 6, 2019, Đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

PHANXICÔ

20. Truyền giáo hay rao giảng Tin Mừng?–Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Dầu đã được trực tiếp tham gia vào công tác “truyền giáo’ trong thời gian hơn 02 năm tại Mongolia, nhưng khi được nhiều bạn gửi “mail’ khuyến khích viết bài suy niệm nhân Khánh Nhật Truyền Giáo, tôi vẫn cảm thấy ngại ngùng. Lý do là vì suy nghĩ của tôi sau thời gian “truyền giáo’ trở về đã bị thay đổi nhiều quá; tôi cảm thấy lạc lõng và cô đơn trong suy tư, cũng như hụt hẫng trong truyền đạt về đề tài này. Cuối cùng thì sáng nay trong thánh lễ, sau khi lắng nghe lời chia sẻ của các bạn tập sinh, tôi đã quyết định viết, nhưng không phải cho ai khác mà là cho chính mình.

Tôi nhớ là: vào năm 2003 sau khi kết thúc nhiệm kỳ giám tỉnh cuối cùng, tôi vẫn chưa có một định hướng rõ rệt nào cho tương lai phục vụ của mình. Vì Bề Trên trung ương rộng phép cho tôi được hưởng một năm bồi dưỡng tại bất cứ đâu, nên tôi quyết định xin có được một năm trau dồi thêm kiến thức về tu đức, và nghiên cứu các tôn giáo thế giới tại đại học Berkeley – California (Hoa Kỳ); chính trong thời gian này mà tôi đã đi tới quyết định, xin bề trên cho phép đi truyền giáo tại Mongolia (Mông Cổ), nơi mà tôi đã lui tới nhiều lần trong thời gian – trong tư cách giám tỉnh – tôi thành lập các cơ sở giáo dục và truyền giáo cho anh em tỉnh dòng Don Bosco Việt Nam. Hơn nữa, trước khi lên đường đi Mongolia, tôi còn được tham dự một khóa học ba tháng chuyên đề về truyền giáo học tại đại học Universitá Pontificia Salesiana – Roma… Ấy thế mà khi thực sự tới làm việc trực tiếp tại một nơi truyền giáo “Ad Gentes’ thứ thiệt như Mongolia (chưa có ai được rửa tội), cái kinh nghiệm “truyền giáo’ tuy còn rất nông cạn và bé nhỏ mà tôi đã thủ đắc được trong thời gian ngằn ngủi này đã đủ để làm đảo lộn (upside down) mọi suy nghĩ trước đó của tôi về lãnh vực này.

Trước hết, tôi thấy mình dị ứng ghê gớm với cái từ “truyền giáo’ thông dụng, vì thấy nó quá mập mời dễ gây hiểu lầm. Nếu truyền giáo hàm ý làm cho một người “không có đạo’ được rửa tội để gia nhập đạo Công giáo theo nghĩa “cải đạo’ (proselytism), thì rõ ràng là ta đã hiểu sai ẩn ý của Đức Ki-tô mất rồi. May mắn thay nội dung này đã chính thức bị Công Đồng Va-ti-can II phế bỏ! “Missio’ phải được hiểu là sứ vụ được sai đi (“thừa sai’) để “rao giảng Tin Mừng’ (evangelisare), để loan báo Tin Mừng cứu độ, và để loan truyền tình yêu thương xót của Thiên Chúa đã từng được Đức Ki-tô Giêsu thực hiện trong cuộc sống của Người, đặc biệt qua cái chết thập giá. Quan niệm cho rằng: ai đó phải gia nhập đạo, phải được rửa tội thì mới được hưởng nhờ lòng nhân ái cứu độ của Thiên Chúa là một suy nghĩ hoàn toàn sai lầm. Lòng thương xót và ơn cứu độ đã được Chúa ban cho hết thảy mọi người cách vô điều kiện (xem thư Rô-ma chương 5). Như thế “Loan báo Tin Mừng’ không là gì khác hơn: mở mắt cho người ta nhận biết rằng: họ đã được hưởng ơn cứu độ và lòng thương xót, nhờ vào cái chết và phục sinh của Đức Ki-tô Giêsu Và một khi tin nhận điều đó, họ được mời gọi gia nhập cộng đoàn tín hữu để cùng chúng ta dâng lời cảm tạ tri ân lên Thiên Chúa về hồng ân vĩ đại này.

Một suy nghĩ khác mà tôi cảm thấy rất “dội’ đó là: nếu không có ai đi truyền giáo thì các dân ngoại sẽ mất linh hồn hết…, rằng: nhà truyền giáo là những người mang ơn cứu độ tới cho kẻ ngoại…, rằng: ơn cứu độ lệ thuộc vào một lối sống được xây dựng trên nền “luân lý Ki-tô giáo’ mà ta sẽ mở mắt cho họ được biết, để rồi nhờ nắm giữ cặn kẽ các qui định luật lệ đó, họ sẽ được vào hưởng nước thiên đàng. Thiết tưởng, khi Đức Ki-tô sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng Người đâu có ám chỉ điều này: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Ngay câu nói: “Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” đâu có nghĩa là, chính phép rửa sẽ ban ơn cứu độ! Nhìn vào chính Đức Giêsu ta sẽ thấy: Tin Mừng của lòng thương xót cứu độ vẫn có thể được rao giảng và mời gọi ngay cả một người nữ Sa-ma-ri đang sống chung chạ sau năm đời chồng… Khi còn ở Mongolia, cha sở nhà thờ chính tòa Ulaanbataar, một nhà truyền giáo người Ca-mơ-run thuộc Hội Dòng CICM, xin tôi dạy giáo lý cho một nhóm sinh viên. Ngài muốn tôi dạy theo chương trình giáo lý tân tòng mà ngài đã soạn sẵn, khởi đầu bằng nội dung thập giới của Chúa và lục giới của Hội Thánh… Ngài căn dặn: đó là các điều kiện tiên quyết để gia nhập đạo hầu được rỗi linh hồn… Tôi đã quyết định không áp dụng chương trình đó, xác tín rằng “truyền giáo’ tiên quyết phải là rao giảng Tin Mừng, mà Tin Mừng chính là làm cho người ta nhận biết Thiên Chúa xót thương và cứu độ toàn thể nhân loại. Tôi dọn một chương trình riêng, trong đó tôi phân tích cho các sinh viên Mongolia hiểu ra rằng: Thiên Chúa của Đức Giêsu Ki-tô yêu thương họ, không như các thần linh đạo Shaman của người du mục, luôn gieo rắc sợ hãi kinh hoàng khắp nơi. Thế đấy, cái kinh nghiệm rất cụ thể của tôi về sự khác biệt quá lớn giữa “truyền giáo’ và “loan báo Tin Mừng’ đại loại là như thế.

Từ cái kinh nghiệm “thừa sai’ còn rất thô thiển tại Mongolia tôi đã học được một bài học cơ bản: Thiên Chúa không biết từ thuở nào, đã yêu mến và cứu chuộc các người Mông Cổ du mục sinh sống trên vùng thảo nguyên lạnh giá mênh mông tại Trung Á. Cuộc sống du mục nay đây mai đó của họ, với văn hóa và các truyền thống từ bao đời, cho dầu có nhiều điểm khác với nền “luân lý Ki-tô giáo’ mang tính định canh định cư của cựu lục địa, vẫn không hề tách họ ra khỏi lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa đã và đang chủ động thực hiện nơi họ nhờ Đức Ki-tô Giêsu. Công việc của một “thừa sai’ như tôi đích thị phải là rao giảng Tin Mừng, là loan báo cho họ biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ trong chính lối sống và văn hóa của họ…, đồng thời mời gọi họ tin vào Đức Ki-tô Giêsu Cứu Chúa…, mời gọi họ lãnh nhận phép thánh tẩy… và gia nhập vào Hội Thánh, là cộng đoàn những người nhận biết Thiên Chúa từ ái và yêu thương, để không ngừng cất cao lời cảm tạ. Và cũng từ đó tôi nghiệm ra một điều còn quan trọng hơn nữa là: một “người loan báo Tin Mừng’ trước hết phải chính mình có cảm nghiệm sâu sắc về lòng thương xót cứu độ của Chúa. Cảm nghiệm này chính là nền tảng của việc được sai đi, là sức mạnh trong khiêm tốn phục vụ, là hy vọng không hề suy chuyển trước các khác biệt và thách đố, và là chương trình và hành động trong sứ vụ thừa sai.

Mong rằng những suy nghĩ trên cũng hướng dẫn được một số người, trong khánh nhật truyền giáo hôm nay, biết cất cao lời tri ân Thiên Chúa cách đặc biệt vì ơn gọi Ki-tô Hữu vĩ đại của mình, rồi sau đó loan truyền tin vui đó cho bạn bè và những người sống chung quanh.

Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã cho con được tham gia chút ít vào chương trình cứu độ đầy yêu thương của Chúa đối với dân tộc Mongolia. Cảm tạ Chúa đã mở lòng cho con nhận biết Chúa yêu thương họ vô cùng, trước cả khi con được sai tới với họ để nói cho họ biết điều đó. Qua tâm tình tri ân này, xin cho con tiếp tục không ngừng khao khát tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương và cứu độ, và tìm cách làm chứng cũng như loan truyền điều đó cho mọi người con gặp gỡ và tiếp xúc. Con coi đó chính là công việc “truyền giáo = thừa sai’ Chúa đang dành cho con lúc này và trong điều kiện sống cụ thể hôm nay. Amen.

21. Theo Đạo phải chăng là một gánh nặng?–Lm. Giuse Lê Danh Tường

Người bổn đạo gốc sinh ra trong một gia đình Công giáo, được lãnh nhận bí tích Rửa tội từ khi còn nhỏ; lớn lên, học bổn xưng tội lần đầu, chịu phép Thêm sức; rồi khi lập gia đình thì học thêm chút ít về giáo lý hôn nhân. Ta theo đạo là vì gia đình ta có đạo. Ta giữ những luật lệ trong đạo và kể như ta đã là người có đạo. Chính vì thế mà đôi khi đạo trở nên một gánh nặng cho cuộc sống của ta, một cuộc sống vốn đã có quá nhiều khó khăn và nặng nhọc. Nhưng phải chăng theo Đạo là như thế?

Nếu theo đạo mà lại trở nên một gánh nặng thì có lẽ ta nên xem lại. Hoặc là ta đã sai lầm khi theo đạo, hoặc là ta đã sai lầm trong cách sống đạo.

Dù là người có đạo hay không có đạo, ta đều thấy rằng: khi tôi làm điều gì sai trái thì tôi cần được tha thứ, khi ta gặp khó khăn thì ta cần giúp đỡ, khi ta đổ vỡ thì ta cần sự bù đắp. Người ta chạy đến ông thần nọ bà thánh kia là để cầu xin che chở, cầu xin cứu giúp, cầu xin ban ơn, cầu xin chỉ dẫn.

Tìm đến sự trợ giúp của thần thánh là khôn ngoan. Nhưng đâu là nơi ta tìm về, đâu là nơi ta cậy dựa? Đức Giêsu, chính Ngài là Chúa và là người. Chính Ngài là Đấng mà mọi người xưng mình có Đạo đi theo. Chính Ngài là Đạo, là Đường.

Chúa Giêsu là vị thần đích thực, là Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Ngài đã ở với ta để nói cho ta biết Thiên Chúa là thế nào và cũng nói cho ta hay làm người thì phải sống làm sao. Chính Chúa Giêsu, Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Đạo là đường. Ta theo đạo là đi theo con đường của Chúa Giêsu, sống theo cách sống của Ngài, làm theo cách Ngài đã làm, đối xử với người khác theo cách Ngài đối xử. Và hơn thế nữa, chính Ngài nâng đỡ ta trong mọi cảnh huống của cuộc đời.

Khi bạn lầm lỗi hay khi phạm tội bạn cần được tha thứ, bạn đến với Chúa Giêsu. Ngài luôn sẵn sàng tha thứ cho bạn, đón nhận bạn vào trong vòng tay yêu thương của Ngài. Bạn sẽ được bình an.

Khi bạn bị oan ức, bị sỉ nhục, bạn chạy đến với Chúa Giêsu, bạn sẽ được Ngài đồng cảm với bạn, chia sẻ với bạn. Bởi chính Ngài đã bị người ta sỉ vả, bị hiểu lầm đến độ bị kết án tử hình trên cây thập giá một cách oan uổng.

Bạn bị đổ vỡ cần được hàn gắn, bạn đến với Chúa Giêsu bạn sẽ được Ngài yêu thương vỗ về và hàn gắn vết thương cho bạn. Ngài sẽ làm cho bạn trở nên phong phú hơn bạn tưởng.

Khi bạn có những tâm sự mà không biết nói với ai, bạn đến với Chúa Giêsu, Ngài luôn sẵn sàng lắng nghe bạn và cảm thông với bạn.

Nếu bạn đang lâm cảnh túng bấn, đói khổ, bạn đến với Chúa Giêsu, bạn sẽ gặp Ngài, một Đấng vốn là Thiên Chúa nhưng đã sống một kiếp người nghèo khổ tột cùng: sinh ra trong hang đá bò lừa, sống nơi thôn giã, lang thang không nơi gối đầu và chết nhục nhã, tàn tạ trên cây thập giá. Bạn sẽ nhận thấy giá trị đích thực của cuộc sống và tìm ra lối thoát cho cuộc đời.

Khi bạn bị người mà mình hết mực yêu thương quay lại phản bội bạn, bạn đến với Chúa Giêsu bạn sẽ được Ngài yêu thương và chia sẻ với bạn. Bởi chính Ngài đã yêu thương con người ta, yêu đến tột cùng, yêu đến chết vì người yêu. Thế nhưng biết bao con người đã phản bội lại tình yêu của Ngài, quay lại sỉ vả Ngài thậm tệ.

Bạn đang cần sự chỉ dẫn, bạn đến với Chúa Giêsu, Ngài sẽ chỉ dẫn cho bạn. Hơn nữa, Ngài còn tìm cách giúp đỡ bạn, tiếp sức cho bạn để bạn đạt đến điều Ngài chỉ dẫn. Nếu cần một bằng chứng để chứng minh cho sự thật mà Ngài chỉ dẫn thì Chúa Giêsu đã lấy cái chết của mình, lấy chính mạng sống mình để làm chứng cho sự thật ấy.

Theo đạo là thế, là đi theo Đức Giêsu, là gặp gỡ Ngài, là sống với Ngài, là chia sẻ với Ngài, là kết hiệp với Ngài mọi nơi mọi lúc trong cuộc sống của ta, chứ không phải chỉ trong nhà thờ lúc đi lễ mà thôi. Theo đạo không phải chỉ để giữ một số luật lệ trong đạo cho qua. Nhưng theo đạo là sống một cuộc sống gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu.

Thế nhưng, ta thử nhìn xem đã có bao nhiều người gặp gỡ Chúa Giêsu, bao nhiêu người sống gắn bó với Chúa Giêsu. Xung quanh ta còn hàng vạn hàng vạn người chưa được biết về Chúa Giêsu. Nếu ta đã nhận biết Chúa Giêsu mà ta không giới thiệu Ngài cho những người đang sống xung quanh ta thì ta đã sống quá ích kỷ chăng: thấy hay, thấy tốt mà chỉ biết khư khư giữ cho mình.

Trong những câu chuyện hàng ngày với hàng xóm, trong những giờ giải lao nơi công sở với đồng nghiệp, trong những giờ ra chơi với các bạn cùng lớp tại sao lại không nói về Chúa Giêsu? Việc nhận biết Chúa Giêsu sẽ đưa ta đến sự nhận biết nhau là anh em con một Cha trên Trời. Đẹp làm sao khi mọi người cùng sống yêu thương, đùm bọc nhau theo gương Chúa Giêsu, trong tình yêu của Chúa Giêsu. Truyền giáo là ra đi giới thiệu cho người khác biết về Chúa Giêsu để mọi người cùng trở về đón nhận nguồn ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện cho ta.

Lạy Chúa Giêsu, xung quanh chúng con còn hàng vạn, hàng triệu người chưa được biết đến Chúa. Xin Chúa hun đúc tâm hồn chúng con để chúng con biết can đảm nói về Ngài cho mọi người đang sống xung quanh chúng con.

22. Rao Giảng Tin Mừng với Lòng Thương Xót–Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Suy niệm Khánh nhật Truyền giáo (Is 1, 1-5; 1 Tm 2, 4 – 6; Lc 24,44-53)

Tháng 10, tháng truyền giáo

Tháng 10 tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy khám phá lại nét đẹp của lời kinh này và siêng năng đọc kinh Mân Côi cho cầu thế giới được hoà bình. Tháng 10 còn là tháng truyền giáo. Giáo hội cũng kêu gọi con cái mình dấn thân cho những công cuộc truyền giáo, bước theo Chúa Giêsu trong cuộc hành trình Ðức Tin, và có Mẹ Maria Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi Mân Côi và là Nữ Vương truyền giáo đi đầu dẫn đưa tất cả chúng ta đến với Chúa Kitô, và dạy chúng ta mang Chúa đến cho tha nhân.

Giáo hội tự bản chất là truyền giáo.

Nếu như Isaia con trai Amót được thị kiến: “Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa… trong ngày sau hết” (x. Is 1, 1-5). Thánh Phaolô cho người con tình thần của mình biết rằng: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (x.1 Tm 2, 4 – 6). Cả bốn sách Tin Mừng đều nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo. Nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội, chứng tỏ bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Ðây là một sứ mạng duy nhất, một sứ điệp duy nhất, phát xuất từ Thiên Chúa và được gửi đến cho mọi người, ngõ hầu họ được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.

“Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thư ba, từ cõi chết sống lại và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24, 46-48).

Nhân dịp Đại Năm Thánh 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình…nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em”. (Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).

Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là bổn phận của toàn thể Giáo hội, vốn bởi bản chất là thừa sai (x.Ad gentes, số 2). Trích dẫn lời Chân phước Phaolô VI, ngài tiếp: “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”

Lòng thương xót là linh hồn của truyền giáo

Thánh Phaolô viết: “Tình Yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi” (2 Cr 5, 14). Đức Kitô thúc bách những người đã chịu phép Rửa tội nam phụ cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu lẫn người nghèo, khi đã đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng và mang tình yêu cho hết mọi người, bằng lời nói và chứng tá cụ thể của Lòng Thương Xót. Truyền giáo là gì gì nếu không phải là loan báo Tin Mừng về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người, Ngài còn xót thương đến thí mạng để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải và nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của Lòng Thương Xót Chúa. Nơi Ngài, tình yêu và lòng thương xót chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế, sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy Vọng cho toàn thế giới.

Trong sứ điệp nhân ngày thế giới truyền giáo lần thứ 90 với chủ đề “Giáo hội thừa sai, chứng nhân lòng thương xót”, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Khi đón nhận và theo Chúa Giêsu qua Tin Mừng và các bí tích, nhờ tác động của Chúa Thánh Linh, chúng ta có thể trở nên người có lòng thương xót như Cha chúng ta trên trời, học yêu thương như Chúa yêu thương chúng ta và biến cuộc sống chúng ta trở thành một món quà nhưng không, dấu chỉ lòng nhân lành của Ngài” (Misericordiae Vultus 3).

Nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô đề cao vai trò của phụ nữ và các gia đình trong việc biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa rằng “Có bao nhiêu người nam nữ thuộc mọi lứa tuổi và giai tầng xã hội, đã và đang làm chứng về tình yêu thương xót của Chúa, như trong thời kỳ đầu qua kinh nghiệm của Giáo Hội. Dấu chỉ hùng hồn về tình yêu thương từ mẫu của Thiên Chúa là sự hiện diện gia tăng đáng kể của nữ giới trong thế giới truyền giáo, bên cạnh sự hiện diện của nam giới. Các phụ nữ, nữ giáo dân và các người nữ thánh hiến, và ngày nay cũng có nhiều gia đình, đang thực thi ơn gọi truyền giáo của họ dưới nhiều hình thức khác nhau: từ việc trực tiếp rao giảng Tin Mừng cho đến các dịch vụ bác ái.”

Đức Thánh Cha thêm: “Bên cạnh hoạt động loan báo Tin Mừng và cử hành các bí tích do các nam thừa sai đảm nhận, cũng có các phụ nữ và các gia đình hiểu biết một cách thích hợp hơn các vấn đề của dân chúng và biết đương đầu với các vấn đề ấy một cách thích hợp, và đôi khi một cách ”chưa từng có”: qua sự chăm sóc cuộc sống, đặc biết chú ý đến con người hơn là các cơ cấu, tận dụng mọi tài nguyên nhân bản và tinh thần để xây dựng sự hòa hợp, các quan hệ, hòa bình, liên đới, cộng tác và tình huynh đệ, trong lãnh vực các tương quan giữa con người với nhau, cũng như trong lãnh vực rộng hơn lớn của đời sống xã hội và văn hóa, nhất là việc chăm sóc người nghèo”.

Nhờ lời chuyển cầu của thánh Phanxicô Xaviê, thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu là quan thầy các xứ truyền giáo, nhất là của Mẹ Maria Ngôi Sao truyền giáo, mẫu gương loan báo Tin Mừng, cầu thay nguyện giúp cho Hội Thánh trở nên một mái nhà của tình yêu và thương xót mọi người; một người mẹ xót thương cho mọi dân tộc và là nguồn suối tái sinh cho thế giới chúng ta. Amen.

23. Được rửa tội và được sai đi loan báo Tin Mừng–Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Tháng 10, tháng truyền giáo

Tháng 10 tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy khám phá lại nét đẹp của lời kinh này và siêng năng đọc kinh Mân Côi. Tháng 10 năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi toàn thể Giáo Hội cử hành “Tháng ngoại thường về truyền giáo” để cầu nguyện cho hòa bình thế giới và làm mới mẻ lại tinh thần Loan Báo Tin Mừng nơi người Kitô hữu.

Giáo hội tự bản chất là truyền giáo.

Nếu như Isaia con trai Amót được thị kiến: “Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa… trong ngày sau hết” (x. Is 1, 1-5). Thánh Phaolô cho người con tình thần của mình biết rằng: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (x.1 Tm 2, 4 – 6). Cả bốn sách Tin Mừng nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo, nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội, chứng tỏ bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Gn 20,21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo Hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Đây là một sứ mạng duy nhất, một sứ điệp duy nhất, phát xuất từ Thiên Chúa và được gởi đến cho mọi người, ngõ hầu họ được cứu chuộc khỏi tội lỗi và trở nên con cái Thiên Chúa.

“Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền dạy cho các con” (Mt 28,19-20).

“Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” (Mc 16, 15-16).

“Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24, 46-48).

“Như Cha đã sai Thầy, Thầy sai anh em” (Ga 20,21). “Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hay nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22).

Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Rao giảng Tin Mừng là phần cơ bản của các môn đệ Đức Kitô và là một sự dấn thân liên tục giúp sinh động hoá đời sống của Hội Thánh” (Sứ điệp truyền giáo 2013, số 1)

Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là bổn phận của “toàn thể Giáo hội”, vốn “bởi bản chất là thừa sai” (Ad gentes, 2). Trích dẫn lời Đức Phaolô VI, ngài tiếp: “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”

Đức Bác Ái như là linh hồn của sứ mạng truyền giáo.

Thánh Phaolô viết:”Tình Yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi” (x. 2 Co 5, 14). Đức Kitô thúc bách chúng ta những người đã chịu phép Rửa tội nam phục cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu và những người nghèo, khi đã đón nhận Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng Tình yêu ấy và mang đến cho tất cả mọi người Tình yêu ấy, bằng lời nói và bằng chứng tá cụ thể của đức bác ái. Truyền giáo là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người Ngài gặp gỡ, mà còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải tình yêu đó, nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa. Nơi Ngài tình yêu đó đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy vọng cho toàn thể nhân loại.

Nhân dịp Đại Năm Thánh 2000, Chân phước Gioan Phaolô II đã nói: “Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình…nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em”. Ngài cũng đã khuyến khích mọi thành phần Giáo hội, hãy can đảm khởi hành “mùa truyền giáo mới”, vì “Giáo Hội cần đến với con người, với sự tế nhị và tôn trọng của một người phục vụ. Và Giáo Hội tin tưởng rằng công việc phục vụ trước tiên và cao cả nhất là công việc rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô”, ngài kêu gọi: “Anh chị em đừng sợ: hãy mở toang mọi cửa để tiếp đón Chúa Kitô”(Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).

Cử hành ngày Thế giới Truyền giáo năm nay trong khi chuẩn bị bế mạc Năm Đức Tin. Đức Thánh Cha Phanxicô viết trong sứ điệp của mình rằng: ” Đức tin là hồng ân của Chúa. Tuy nhiên đức tin cần được đón nhận. Vì Đức tin là một ân huệ mà không ai được giữ cho riêng mình, nhưng phải được chia sẻ” (số 1)…Nếu chúng ta chỉ muốn giữ lấy nó cho riêng mình, chúng ta sẽ trở thành những Kitô hữu bị cô lập, khô cằn và ốm yếu.

Kỷ niệm 50 năm ngày khai mạc Công đồng Vaticanô II, Năm Đức Tin thúc đẩy toàn thể Hội Thánh hướng tới một ý thức mới về sự hiện diện của mình trong thế giới hôm nay và sứ mạng của mình giữa các dân tộc và các quốc gia. Công đồng Vaticanô II đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ truyền giáo là thế nào: mở rộng các ranh giới của đức tin, và là nhiệm vụ của mọi người đã rửa tội và của mọi cộng đoàn Kitô, bởi vì “dân Thiên Chúa sống trong các cộng đoàn, đặc biệt trong các giáo phận và giáo xứ, và một cách nào đó trở nên hữu hình ở đó. Chính các cộng đoàn này có nhiệm vụ làm chứng về Đức Kitô trước các dân tộc” (Ad gentes, 37). Vì vậy mỗi cộng đoàn được chất vấn và được mời gọi lấy làm của mình sứ mạng đã được Chúa Giêsu uỷ thác cho các Tông đồ, là trở thành “những chứng nhân của Người tại Giêrusalem, trên khắp xứ Giuđêa và Samaria và tới tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Đây là khía cạnh cơ bản của đời sống Kitô hữu: tất cả chúng ta được mời gọi cùng với anh chị em mình đi trên các nẻo đường của thế giới để rao giảng và làm chứng cho đức tin của chúng ta vào Đức Kitô và trở nên những sứ giả Tin Mừng của Người (số 2).

Nhờ lời chuyển cầu của thánh Phanxicô Xaviê, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là quan thầy các xứ truyền giáo, nhất là của Mẹ Maria Ngôi Sao truyền giáo, cầu thay nguyện giúp chúng ta chu toàn sứ mạng của người kitô hữu. Amen.

24. Liên lỉ quấy rầy–JM. Lam Thy ĐVD

Trước đây, Đức Ki-tô đã kể dụ ngôn “Người bạn quấy rầy” (Lc 11, 1-13) nói về một người bạn đến xin bạn bánh vào nửa đêm. Trong bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXIX/TN-C – Lc 18, 1-8), Người lại kể một dụ ngôn về “quấy rầy”. Chuyện lần này không phải là bạn bè ngang vai phải lứa quấy rầy nhau, mà là chuyện một bà goá quấy rầy một ông quan toà. Quan hệ hai bên là quan hệ giai cấp, giữa một bên là giai cấp thống trị và bên kia là giai cấp bị trị. Không có chuyện bạn bè nể tình nhau, và đối tượng bị quấy rầy lại là kẻ “chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì” (Lc 8, 2). Vậy mà cuối cùng cũng đành thua cái đức “lì” của bà goá.

Trong xã hội Do thái thời đó, các bà goá thường bị xã hội đối xử bất công, bị ức hiếp, bóc lột tàn tệ. Chạy đến với quan toà vì bà nghĩ quan toà là những người chuyên xử án công minh và sẵn sàng bênh vực những kẻ cô thế, cô thân. Nhờ niềm tin ấy, bà hy vọng sẽ đạt được ước nguyện, vì thế, bà kiên trì đến cầu xin người mà bà tin sẽ cứu giúp mình. Bà đã thành công nhờ đã hết lòng tin tưởng vào quan toà và liên lỉ “quấy rầy”. Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này: Với một quan phụ mẫu bất lương như thế, nhưng nhờ lòng tin và nhất là sự bền lòng liên tục “quấy rầy” của bà goá, việc bà kêu xin rốt lại cũng được giải quyết. Ngụ ý trong dụ ngôn này đã nổi bật: “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?” (Lc 18, 6-7).

Cả hai dụ ngôn (“Người bạn quấy rầy” và “Quan toà bất chính và bà goá quấy rầy”) đều ngụ ý răn dạy: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7, 7-8). Quả thật, khi xin ai một điều gì thì phải biết nhìn lại mình xem có thực sự là thiếu thốn, nghèo đói hay không và nhất là có thực sự tin tưởng vào người mà mình muốn cầu xin hay không. Một cách cụ thể khi cất tiếng cầu xin Thiên Chúa thì không những cần phải có đức tin vững mạnh, mà đồng thời còn phải biết nhìn lại con người tội lỗi, bất toàn của mình, mà cầu xin ơn tha thứ trước khi xin những ơn khác. Ấy là chưa kể khi cầu xin thì không chỉ cầu xin cho bản thân mà còn phải biết cầu cả cho những “người thân cận” trong khắp tứ phương thiên hạ.

Nói cầu xin Thiên Chúa tức là nói đến cầu nguỵên. Thật vậy, phải hết lòng tin tưởng vào Đấng Công Chính mới liên lỉ cầu nguỵên. Dạy môn đệ phương cách kiên trì cầu nguyện, nhưng đến câu kết thúc, Đức Giêsu lại nói: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18, 8). Thật chua xót khi Người nói câu này lại là Người hiện diện trên mặt đất với mục đích thắp sáng lại niềm tin đã bị lu mờ của nhân loại. Con Người ấy, từ cuộc sống vật chất đạm bạc nơi một làng quê hẻo lánh, đến cuộc sống tinh thần vô vàn phong phú bởi những Lời giảng dạy, những câu chuyện kể, những việc làm, thậm chí đến hy sinh cả tính mạng, chỉ nhằm mục đích củng cố lại niềm tin cho loài người để tiến tới mục đích tối hậu là cứu độ nhân loại cho khỏi sự chết đời đời. Con Người kỳ vĩ ấy chính là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, đã đến thực thi sứ mệnh như vậy đó, nhưng những người được gặp, được tiếp xúc, được dạy dỗ… đã đón tiếp như thế nào, để đến độ Người phải thốt lên câu nói chua xót như vậy? Và quả nhiên đó là một lời tiên tri, bởi cho đến ngày hôm nay, số người được nghe lời chân lý vẫn chỉ là một thiểu số khiêm nhường so với con số người chưa được nghe rao giảng. Ngay trong số những người đã được nghe, được biết Tin Mừng cứu độ, thì chẳng hiểu những người thực lòng tin tưởng có được là bao nhiêu phần trăm?

Rõ ràng, Đức Giêsu Ki-tô đã dùng những hình ảnh thật quen thuộc, thật gần gũi và rất hiện thực trong cuộc sống đời thường để dạy dỗ các tín hữu, nên mới nói đến sự quấy rầy khi cầu xin để đạt hiệu quả. Thiên Chúa không phải là người bị quấy rầy trong dụ ngôn “người bạn quấy rầy”, lại càng không phải là nhân vật quan toà bị quấy rầy trong dụ ngôn “quan toà bất chính và bà goá quấy rầy”. Tấm lòng Người Cha Nhân Hậu luôn rộng mở đối với con cái, chưa cần nghe lời cầu xin thì Người đã sẵn lòng minh xét, ban phát ân huệ. Thật vậy, “Người không coi thường lời khấn nguyện của kẻ mồ côi, hay tiếng than van của người goá bụa” (Hc 35, 14).

Duy chỉ có một điều là con cái tội lỗi, bất toàn, có thực lòng ăn năn, thực lòng tin, thực lòng cầu xin hay không, mà thôi. Lời dạy “kiên trì quấy rầy” của Người là muốn các tín hữu kiên trung trong đức tin và liên lỉ trong việc “nâng tâm hồn và trí khôn lên với Thiên Chúa” (cầu nguỵên). Bởi cuộc sống trần thế có muôn vàn khó khăn, thử thách lòng tin của con người, nên phải vững vàng trong đức tin trước đã, nhiên hậu mới nói đến kiên trì cầu nguyện. Và như thế thì còn lo gì “Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?” (Lc 18, 7), chẳng lẽ con cái lâm cảnh khốn cùng đến cầu xin mà Người Cha Nhân Hậu lại ngoảnh mặt làm ngơ không ban những của tốt lành sao? (Lc 11, 13).

Bài học về “kiên nhẫn cầu xin” đã sáng tỏ, nhưng còn vấn đề tại sao Giáo Hội lại để bài Tin Mừng này vào Chúa nhật Truyền Giáo? Cũng đã có những ý kiến cho rằng không lẽ Truyền Giáo lại là đi cầu xin những người “chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì” (Lc 8, 2) sao? Mới nghe qua vấn nạn này thì thấy có lý, nhưng suy nghĩ cho thấu đáo thì sẽ thấy ngụ ý trong dụ ngôn hôm nay mới thực sự là vấn đề cốt tuỷ của Truyền Giáo. Truyền giáo ư? Chắc cũng không cần phải định nghĩa lại việc truyền giáo, vì nó là sứ vụ duy nhất, nhất quán của Giáo Hội, của mỗi Ki-tô hữu (“Hoạt động truyền giáo không gì khác hơn, cũng không gì kém hơn là biểu lộ hoặc bày tỏ ý định của Thiên Chúa và hoàn tất ý định đó nơi trần thế và trong lịch sử thế trần, chính trong lịch sử này mà Thiên Chúa hoàn thành lịch sử cứu rỗi một cách rõ rệt nhờ việc truyền giáo.” – Sắc lệnh “Truyền Giáo”, số 9)

Sứ vụ chỉ có một, nhưng thể hiện ra bằng việc làm, bằng hành động thì muôn màu muôn vẻ, không nhất thiết phải cứ thế này hay thế khác. Hoạt động truyền giáo không chỉ giới hạn trong việc “giảng đạo” (như trước đây ở Việt Nam vẫn có quan niệm như vậy, và do đó mà cho rằng chỉ có các linh mục, tu sĩ, các vị thừa sai… mới được giảng đạo, còn giáo dân thì chỉ việc nghe và chấp hành). Công việc truyền giáo cũng ví như các cành nho (Ki-tô hữu) hút nhựa từ thân cây nho (Đức Giêsu Ki-tô) và có bổn phận phải trổ sinh hoa trái. Chính vị sứ giả truyền giáo vĩ đại Giêsu Ki-tô cũng nhiều lần răn dạy môn đệ: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15, 5), “Chính anh em là muối cho đời… Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5, 13-14). Là cành nho mà không trổ sinh hoa trái, là muối mà nhạt nhẽo, là ành sáng mà lu mờ (như “đèn để trong thùng”), thì liệu công việc có đạt hiệu quả không?

Với nhãn quan truyền giáo đó, nhìn lại dụ ngôn “Quan toà bất chính và bà goá quấy rầy” sẽ thấy nổi bật 2 điểm: Kiên trì cầu nguyện và khiêm nhường chịu lụy. Cầu nguyện là nâng tâm hồn và trí khôn lên với Thiên Chúa (“tâm hồn” chính là tấm lòng “mến Chúa yêu người”, còn “trí khôn” là phải xét xem mình sẽ xin những gì, những điều xin ấy có lợi cho riêng mình đã đành, nhưng có mưu ích cho người khác hay lại làm hại người khác (“ích kỷ hại nhân”)? Ngoài ra, nếu đời sống tâm linh của người truyền giáo được cắm rễ sâu trong hoạt động cầu nguyện hy sinh (khiêm nhường chịu luỵ), thì mọi việc làm đều có giá trị truyền giáo, đều có khả năng làm cho người khác nhận biết Chúa và đem lại rất nhiều lợi ích cho các linh hồn. Nhờ thế, nhìn thấy gương cầu nguyện, gương hy sinh của những người truyền giáo, người ta sẽ được đánh động, được cảm hoá.

Cứ nhìn lại gương các Tông đồ trong Giáo Hội tiên khởi thì đủ rõ. Trước ngày lễ Ngũ Tuần, hoạt động truyền giáo của các ngài vẫn chưa thật sự thăng hoa. Sau khi Chúa về Trời, “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu.” (Cv 1, 14), và đến ngày Lễ Ngũ Tuần thì Thần Khí Chúa hiện xuống và kết quả là các ngài đã trở thành những nhà Truyền Giáo kiệt xuất. Các ngài không chỉ trở nên những người loan báo Tin Mừng Cứu Độ bằng phong cách rao giảng tuyệt vời, mà còn bằng cuộc sống khiêm nhường chịu luỵ đến độ hy sinh cả tính mạng mình làm chứng nhân anh hùng cho Cứu Chúa Giêsu Ki-tô Phục Sinh.

Trên cánh đồng Truyền Giáotoàn cầu, các Tông đồ tiên khởi đã minh chứng rõ ràng đức tính căn bản của truyền giáo là kiên trì cầu nguỵên và khiêm nhường nhẫn nhục. Cách riêng, trải dài theo lịch sử Giáo Hội Việt Nam, các giáo sĩ và giáo dân trong vai trò rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, đã gặp không ít những đối tượng cỡ như viên quan toà “chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì”. Nếu các ngài không kiên trì nhẫn nhục, thì liệu có được cánh đồng màu mỡ như ngày nay không? Nếu các ngài không liên lỉ cầu nguyện và hy sinh thì có được kết quả 130.000 anh hùng tử vì đạo với 117 vị được tuyên phong hiển thánh hay không?

Tóm lại, tính chất “duy nhất, thánh thiện và tông truyền” của Giáo Hội Công Giáo đã có được vì noi gương truyền thống các Tông đồ tiên khởi (TÔNG TRUYỀN) sống hịêp thông (DUY NHẤT) trong tôn chỉ cầu nguyện (THÁNH THIỆN), nên có thể khẳng định Giáo Hội là “một-cộng-đồng-hiệp-thông-và-truyền-giáo”, vì “Sự hiệp thông và việc truyền giáo gắn liền với nhau, xâm nhập và quấn quít nhau và đã trở nên như nguồn mạch, và là hoa trái của việc truyền giáo. Hiệp thông là truyền giáo, và truyền giáo có mục đích thể hiện sự hiệp thông. Chính một Chúa Thánh Thần kêu gọi và hiệp nhất Giáo Hội và sai Giáo Hội đi rao giảng Phúc âm “khắp trên mặt đất” (Acts. 1, 8).” (Tông Huấn “Ki-tô hữu Giáo dân” – Ch. III, số 32).

Ôi! Lạy Chúa Ki-tô! Xin cho con trưởng thành trong việc cầu nguyện. Xin đừng để đời sống tâm linh của con bị xói mòn, kém phát triển vì cách cầu nguyện ấu trĩ và nhất là đầy ích kỷ của con. Xin dạy con biết cầu nguyện, biết sống khiêm nhường nhẫn nhục trước mọi nghịch cảnh như những thử thách trui rèn cho sứ vụ Truyền Giáo mà Chúa đã trao cho con khi con được nhận lãnh Bí tích Thánh Tẩy (tham dự vào 3 chức vụ của Chúa: “ngôn sứ, tư tế, vương giả”). Ôi! Lạy Chúa!

Cúi xin Chúa ban Thần Khí Tình Yêu cho con để con không chỉ cầu nguỵên cho riêng mình, mà là cầu cho cả những “người thân cận” của con trên khắp năm châu bốn biển, như xưa Chúa đã dạy con cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha. Amen.

25. Truyền lửa yêu thương–Mt 28, 16-20

Thông thường khi cầu xin bất cứ ân huệ gì, chúng ta tha thiết cầu xin cho bản thân, cho gia đình mình trước. Thế nhưng, khi đất nước lâm nguy, cần có người ra biên thuỳ bảo vệ, thì người ta lại sốt sắng cầu xin cho người khác, ngoại trừ bản thân, được can đảm xông ra chiến trường bảo vệ giang sơn. Nếu ai cũng cầu như thế và những lời cầu kiểu nầy được chấp nhận, thì làm gì còn Tổ Quốc!

Trong việc cầu cho công cuộc truyền giáo cũng vậy, chúng ta thường cầu với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin cho có đông người, ngoại trừ con, biết quảng đại lên đường đi khắp muôn phương loan báo Tin Mừng cứu độ.” Nhưng thử hỏi: nếu ai cũng cầu xin thế nầy, thì cánh đồng truyền giáo sẽ vắng bóng thợ gặt, tìm đâu ra người đi loan báo Tin Mừng.

Vậy thì lời cầu nguyện thiết thực nhất mà mỗi người chúng ta phải dâng lên Chúa là: “Lạy Chúa, tuy con bất xứng, nhưng xin hãy sai con đi làm thợ gặt cho Chúa ngay hôm nay.”

Dù muốn dù không, chúng ta cũng là ngôn sứ của Chúa ngay từ ngày lãnh bí tích thánh tẩy. Bí Tích Thánh Tẩy làm cho chúng ta trở thành chi thể Chúa Giêsu, cho thông dự vào vai trò ngôn sứ của Người, nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin Mừng cứu độ của Người.

Chính vì thế, trước khi về trời, Chúa Giêsu long trọng chuyển trao cho chúng ta, là môn đệ Người, tiếp tục thi hành sứ vụ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, …dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)

Vậy thì sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn phận phải làm chứ không phải là việc tuỳ thích. Thánh Phao-lô thú nhận: “Đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng.” (1 Cr 9,16).

Vì đây là bổn phận của mọi chi thể Chúa Giêsu nên chỉ khi nào chúng ta tự tách lìa mình ra khỏi Hội Thánh là Thân Thể Chúa, thì chúng ta mới có thể cho phép mình ngừng loan báo Tin Mừng.

Truyền giáo là truyền lửa yêu thương

Trong đêm Vọng Phục Sinh, lòng nhà thờ hoàn toàn chìm trong bóng tối. Thế rồi, từ cuối nhà thờ, Nến Phục Sinh được thắp sáng lên và được long trọng rước lên cung thánh. Linh mục chủ sự lấy lửa từ Nến Phục Sinh thắp lên cho một vài cây nến nhỏ bé khác trên tay vài người. Những người nầy lại đem lửa phục sinh thắp lên cho người bên cạnh và cứ tiếp tục như thế, chẳng mấy chốc, cả ngàn cây nến nhỏ của các tín hữu tham dự đều được thắp lên.

Loan Tin Mừng cũng là thắp lên lửa yêu thương cho người quanh ta. Lửa đức tin, lửa yêu thương đã được Chúa Giêsu thắp lên trong ta, thì đến lượt mỗi chúng ta cũng hãy thắp lửa đức tin, lửa yêu thương ấy cho người bên cạnh và công việc truyền lửa nầy cần phải được tiếp nối không ngừng.

Thánh Têrêxa Calcutta cũng cho rằng truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm bằng lời nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng chẳng chủ trương yêu thương đại chúng cách chung chung, nhưng là yêu thương từng người đang đối diện.

Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân của Đức Ki-tô… Người đó phải là người duy nhất trên thế gian (mà ta cần yêu thương trọn vẹn) trong giây phút đó.”

Với tâm tình nầy, Mẹ Tê-rê-xa đã thu phục nhân tâm nhiều người trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội công giáo Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mươi năm!

Theo gương Mẹ Tê-rê-xa, mỗi một người công giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem hết lòng yêu thương người đó.

Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với một gia đình lương dân, coi họ như thân quyến của mình, sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi; khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng thông hiệp. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối giây thân ái và qua tình thân nầy, Tin Mừng của Chúa Ki-tô sẽ được lan toả như ánh nến đêm Vọng Phục Sinh.

26. Truyền giáo, hay rao giảng tin mừng?–Lm Ga Nguyễn Văn Ty

Dầu đã được trực tiếp tham gia vào công tác “truyền giáo’ trong thời gian 02 năm tại Mongolia, khi được nhiều bạn gửi mail khuyến khích viết bài suy niệm nhân Khánh Nhật Truyền Giáo, tôi vẫn cảm thấy ngại ngùng. Lý do là vì suy nghĩ của tôi sau thời gian “truyền giáo’ trở về đã bị thay đổi nhiều quá; tôi cảm thấy lạc lõng và cô đơn trong suy tư, hụt hẫng trong truyền đạt về đề tài này. Cuối cùng thì sáng nay, sau thánh lễ và chia sẻ của các tập sinh, tôi đã quyết định viết, không phải cho các bạn đâu, mà là cho chính tôi đấy.

Tôi nhớ là năm 2003, sau khi kết thúc nhiệm kỳ giám tỉnh cuối cùng, tôi vẫn chưa có định hướng nào rõ rệt cho tương lai phục vụ của mình. Bề trên Trung Ương đã rộng phép cho tôi có một năm bồi dưỡng bất kỳ ở đâu…; và tôi đã quyết định xin có một năm để trau dồi tu đức và học hỏi về các tôn giáo thế giới tại đại học Berkeley – California (Hoa Kỳ). Chính trong thời gian này mà tôi đi tới quyết định xin bề trên cho đi truyền giáo Mongolia, nơi mà tôi đã lui tới nhiều lần trong thời gian thành lập các cơ sở truyền giáo cho anh em Don Bosco Việt Nam. Ngay trước khi lên đường đi Mongolia, tôi còn được tham dự một khóa học chuyên đề về truyền giáo tại đại học Universitá Pontificia Salesiana – Roma. Ấy thế mà khi thực sự tới và làm việc trực tiếp tại một nơi truyền giáo thứ thiệt như Mongolia, cái kinh nghiệm “truyền giáo’ nông cạn và bé nhỏ tôi có được đã đủ để làm đảo lộn (upside down) mọi suy nghĩ trước đó của tôi về lãnh vực này.

Trước hết tôi thấy mình dị ứng ghê gớm với từ “truyền giáo’ vì thấy nó dễ gây hiểu lầm quá. Nếu truyền giáo hàm ý làm cho một người “không có đạo’ được rửa tội để gia nhập đạo Công giáo theo nghĩa “proselytism’ thì rõ ràng ta đã hiểu sai ý Đức Ki-tô rồi. May mắn thay nội dung này đã chính thức bị phế bỏ kể từ sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II. “Truyền giáo’ phải được hiểu là “rao giảng Tin Mừng’, là loan báo tin vui cứu độ, là loan truyền tình yêu thương xót của Thiên Chúa đã được Đức Ki-tô Giêsu thực hiện trên thập giá. Quan niệm cho rằng ai đó phải gia nhập đạo, phải được rửa tội, thì mới được hưởng nhờ lòng nhân ái cứu độ của Thiên Chúa là một sai lầm to lớn. Lòng thương xót và ơn cứu độ đã được Chúa ban cho hết thảy mọi người cách vô điều kiện (xem thư Rô-ma chương 5). “Loan báo Tin Mừng’ không làm gì hơn là mở mắt cho người ta nhận biết rằng họ đã được hưởng ơn cứu độ và lòng thương xót nhờ sự chết và phục sinh của Đức Ki-tô Giêsu, và rồi mời gọi họ gia nhập cộng đoàn tín hữu để cùng chúng ta dâng lời cảm tạ tri ân.

Một suy nghĩ khác mà tôi cảm thấy rất dội đó là: nếu không có ai đi truyền giáo thì các dân ngoại sẽ mất linh hồn hết… rằng nhà truyền giáo là những người mang ơn cứu độ tới cho kẻ ngoại… rằng ơn cứu độ lệ thuộc vào một lối sống được xây dựng trên nền “luân lý Ki-tô giáo’… để rồi chỉ những người có đạo nắm giữ cặn kẽ các qui định này mới được vào thiên đường. Thiết tưởng khi Đức Ki-tô sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng, Người đâu có ám chỉ điều này. “Anh em hãy đi khắp từ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. “Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” đâu có ý nghĩa phép rửa sẽ ban ơn cứu độ. Tin Mừng của lòng thương xót cứu độ vẫn có thể được rao giảng và mời gọi ngay cả một người nữ Sa-ma-ri sống chung chạ sau năm đời chồng. Khi còn ở Mongolia, cha sở nhà thờ chính tòa Ulaanbataar, một nhà truyền giáo người Ca-mơ-run, xin tôi dạy giáo lý cho một nhóm sinh viên. Ngài muốn tôi dạy theo chương trình giáo lý tân tòng mà ngài đã soạn, khởi đầu bằng nội dung thập giới của Chúa và lục giới của Hội Thánh… Ngài căn dặn: đó là các điều kiện tiên quyết để gia nhập đạo và được rỗi linh hồn… Tôi đã không áp dụng chương trình đó, xác tín rằng “truyền giáo’ tiên quyết phải là rao giảng Tin Mừng, mà Tin Mừng chính là cho mọi người nhận biết Thiên Chúa xót thương và cứu độ toàn thể nhân loại. Trường hợp cụ thể của tôi là phân tích cho những sinh viên Mongolia hiểu ra rằng Thiên Chúa của Đức Giêsu Ki-tô yêu thương họ, không như các thần linh đạo Shaman của người du mục luôn gieo rắc sợ hãi kinh hoàng. Thế đấy, cái kinh nghiệm rất cụ thể của tôi về sự khác biệt quá lớn giữa “truyền giáo’ và “loan báo Tin Mừng’ là như thế.

Từ cái kinh nghiệm truyền giáo còn rất thô thiển tại Mongolia tôi đã học được bài học cơ bản: Thiên Chúa không biết từ thuở nào đã yêu mến và cứu chuộc các người Mông Cổ du mục sinh sống trên vùng thảo nguyên lạnh giá mênh mông tại Trung Á. Cuộc sống du mục nay đây mai đó của họ, với văn hóa và các truyền thống từ bao đời, cho dầu có nhiều điểm khác xa nền “luân lý Ki-tô giáo’, vẫn không hề tách họ khỏi lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa đã chủ động thực hiện nhờ Đức Ki-tô Giêsu. Công việc của nhà truyền giáo như tôi đích thị phải là rao giảng Tin Mừng, là loan báo cho họ biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ trong chính lối sống và văn hóa của họ…; đồng thời mời gọi họ tin vào Đức Ki-tô Cứu Chúa… đón nhận phép thánh tẩy… và gia nhập vào Hội Thánh là cộng đoàn những người nhận biết Thiên Chúa từ ái và yêu thương để không ngừng cao cao lời cảm tạ. Và cũng từ đó tôi nghiệm ra một điều tối quan trọng là… một “người loan báo Tin Mừng’ trước hết phải chính mình có cảm nghiệm sâu sắc về lòng thương xót cứu độ của Chúa. Cảm nghiệm này chính là nền tảng của việc được sai đi, là sức mạnh trong khiêm tốn phục vụ, là hy vọng không hề suy chuyển trước các khác biệt và thách đố, và là chương trình và hành động trong rao giảng.

Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã cho con được tham gia chút chút vào chương trình cứu độ đầy yêu thương của Chúa đối với dân tộc Mongolia. Cảm tạ Chúa đã mở lòng cho con nhận biết Chúa yêu thương họ vô cùng, trước cả khi con được sai tới với họ để nói cho họ biết điều đó. Qua tâm tình tri ân này, xin cho con tiếp tục không ngừng khao khát tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương và cứu độ, và tìm cách làm chứng cũng như loan truyền điều đó cho mọi người con gặp gỡ và tiếp xúc hàng ngày. Amen.

27. Đừng trở thành chi thể bất động trong thân thể Chúa–Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Thiên Chúa là người Cha giàu lòng yêu thương, hết sức trân quý loài người là đoàn con chí ái mà Ngài đã sinh ra và ấp ủ bằng tình yêu thương thắm thiết. Tiếc thay, hàng tỷ người trên mặt đất hiện nay không nhận ra Ngài là Cha yêu thương, chưa biết mọi người chung quanh là anh chị em ruột thịt con cùng Cha trên trời… Vì thế, họ quay lưng lại với Cha trên trời, họ sống thù nghịch với nhau, gây cho nhau vô vàn đau thương khốn khổ suốt dòng lịch sử loài người.

Trước thảm cảnh này, Thiên Chúa đau lòng vô hạn và Ngài khao khát, khao khát biết bao cho muôn dân nhận biết Ngài là Cha, nhìn nhận nhau là anh chị em một nhà, nhờ đó mới có thể chấm dứt bao cảnh huynh đệ tương tàn, để cùng nhau xây dựng cuộc sống hạnh phúc trong đại gia đình Thiên Chúa.

“Cơn khát” này đã dày vò Thiên Chúa triền miên qua bao thời đại. Để xoa dịu, để giải tỏa “cơn khát” mãnh liệt này, Thiên Chúa không ngừng thôi thúc chúng ta là những đứa con trong nhà hãy lên đường dẫn đưa các anh chị em chưa biết Cha về đoàn tụ.

Lời thôi thúc mời gọi của Thiên Chúa

Rất nhiều lần, lời mời gọi của Chúa Giêsu vang dội trong tâm hồn chúng ta:

“Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá (Lc 5,4)”…

“Các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Mt 28,19)”…

“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy các con hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2)…

Gần đây, qua Đức thánh Cha Phan-xi-cô, Thiên Chúa tiếp tục thúc giục chúng ta cách quyết liệt và khẩn thiết:

“Tôi thà có một Hội thánh bị bầm dập, mang thương tích và lem luốc vì phải lên đường, hơn là một Hội thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình” (Tông huấn Niềm vui Tin mừng số 49).

Thế nhưng những lời thôi thúc mời gọi đó vẫn chưa lay động con tim vô cảm của chúng ta, vẫn chưa khơi lên được ngọn lửa truyền giáo đã tắt ngúm trong tâm hồn chúng ta, mà chỉ như một làn gió thoảng qua rồi tan biến.

Thiên Chúa làm thế nào để đưa những đứa con chưa biết Cha về đoàn tụ?

Để đưa những đứa con chưa biết Cha về đoàn tụ, Thiên Chúa trao cho chúng ta hai nhiệm vụ sau đây:

– Thứ nhất, Ngài muốn chúng ta trở nên môi miệng Ngài để loan báo cho muôn người nhận biết họ có một Người Cha tuyệt vời là Thiên Chúa và mọi người là anh chị em ruột thịt con cùng Cha, để cùng nhau vui sống trong đoàn kết yêu thương.

– Thứ hai, Thiên Chúa muốn dùng chúng ta là những bàn tay của Ngài, phải đưa ra để dẫn dắt anh chị em lưu lạc về với Ngài.

Khi tôi khát nước khô cổ, cháy họng, tôi muốn giơ tay ra để bưng ly nước lên nhưng tay tôi bại xụi, không giơ ra được, không cầm ly nước đưa lên môi được… thì thật khốn khổ cho tôi! Khát lắm… nước sẵn đó, ngay trong tầm tay mà không với tới để uống được, buồn lắm thay!

Hôm nay, Chúa Giêsu đang khao khát đoàn con chưa nhận biết Cha quay về sum vầy đoàn tụ và Ngài muốn dùng chúng ta như đôi tay của Ngài để dẫn đưa những anh chị em này về với Chúa.

Như vậy, nếu chúng ta làm ngơ trước “cơn khát” của Chúa Giêsu. Nếu chúng ta cứ trơ trơ, im lìm, bất động… không đáp ứng nguyện vọng tha thiết của Ngài, cứ để mặc Ngài bị cơn khát hành hạ… thì vô tình, chúng ta trở thành bàn tay bại xụi của Chúa, không đáp ứng “cơn khát” của Ngài! Như thế, chúng ta có xứng đáng là chi thể của Ngài nữa không?

Tự vấn

Giờ đây, xin mời mỗi người trong chúng ta hãy tự hỏi mình:

– Chúa muốn dùng tôi là môi miệng Chúa để loan báo Tin mừng, tôi đã loan Tin mừng cho ai chưa? Và nếu chưa thì chờ đến bao giờ tôi mới bắt đầu?

– Chúa muốn dùng tôi như bàn tay của Chúa để dẫn đưa anh chị em chưa nhận biết về với Chúa, tôi đã làm chưa? Nếu chưa thì đợi đến bao giờ tôi mới khởi sự?

Lạy Chúa Giêsu,

Từ thân phận bụi đất thấp hèn, Chúa đã đoái thương nâng chúng con lên làm chi thể Chúa và cho tham dự vào vai trò ngôn sứ của Chúa để loan Tin mừng cứu độ cho muôn dân.

Xin cho chúng con không bao giờ là bàn tay tê bại, nhưng luôn là bàn tay hoạt động thật nhiệt thành để Chúa sử dụng mà đưa nhiều người về đoàn tụ trong nhà Cha.

28. Đừng trở thành bàn tay bại xụi của Chúa–Lm. Ignatiô Trần Ngà

Khi tôi muốn dùng tay để gắp thức ăn mà cánh tay bị bại xụi, không gắp được thức ăn cho mình, thì thật là điều đáng buồn.

Khi anh hay chị muốn viết một lá thư thăm người bạn xa cách lâu ngày, mà tay bị tê bại, nắm bút lên thì bút lại rơi xuống, cầm tờ giấy lên, giấy cũng rơi xuống luôn, thì cũng thật đáng buồn.

Khi người mẹ muốn đưa tay ra ẵm lấy đứa con thơ rất yêu quý, rất dễ thương, nhưng đôi tay của bà bị bại xụi, nên không ẵm được cháu như ý muốn thì thật là đau lòng.

Thiên Chúa cũng phải chịu một cảnh đau lòng như thế, hết thời này qua thời khác, vì có nhiều “phần thân thể” của Ngài bị bại, bị liệt nên không hoạt động được như ý Ngài mong muốn.

Khao khát mãnh liệt nhất của Thiên Chúa là đưa muôn vàn đứa con yêu quý của Ngài tản mác khắp nơi về đoàn tụ dưới mái nhà chung. Vì lòng khao khát cháy bỏng nầy, vì ước vọng tha thiết nầy, Thiên Chúa đã dùng nhiều cách để đưa loài người về với Ngài.

Thứ nhất: Ngài dùng các ngôn sứ mà phán dạy.

Trước hết, Thiên Chúa dùng các ngôn sứ thời Cựu Ước như Mô-sê, I-sai-a, Ê-li-a, Giê-rê-mi-a, Gioan Tẩy Giả… để giảng dạy cho dân Do-thái nhận biết, tôn thờ Ngài và trở về với Ngài. Nhưng đa số đã không đón nhận các ngôn sứ Chúa gửi đến, lại còn lên án các vị nầy.

Thứ hai: Thiên Chúa sai Người Con Một.

Sau thất bại thứ nhất, Thiên Chúa cho Người Con một xuống thế làm người, trực tiếp dạy dỗ loài người, nộp mình chịu chết để cứu độ loài người. Thư Do-thái viết về sự kiện nầy như sau: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết nầy, Thiên Chúa phán dạy chúng ta qua Người Con.” (Dt 1,1-2)

Thứ ba: Trao cho mỗi người chúng ta tiếp nối sứ mạng của Chúa cứu thế.

Sau 33 năm sống trên dương thế dùng nhiều cách để bày tỏ cho nhân loại nhận biết Thiên Chúa Cha và nộp mình chịu chết đền tội cho loài người, Chúa Giêsu lên trời và chuyển giao công trình cứu độ của Ngài cho Hội Thánh tiếp nối.

Để thực hiện việc nầy, Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Tẩy để nối kết chúng ta vào thân mình Ngài như cành nho liền với thân nho, như cánh tay nối liền cơ thể. Nhờ đó, chúng ta với Chúa Giêsu không còn là hai mà chỉ là một. Thế là từ đây, Chúa Giêsu tiếp tục công cuộc cứu độ của Ngài qua chúng ta là chi thể, là thân mình Ngài.

Đừng để cho đôi tay Chúa bị tê liệt

Thiên Chúa có một đoàn con đông đảo tản mác khắp nơi nhưng chưa hề biết mặt Cha mình là Thiên Chúa Cha, chưa từng quen biết Anh Cả của mình là Chúa Giêsu, không được chung sống và nuôi dưỡng trong gia đình Thiên Chúa. Họ là những anh chị em lương dân đang sống chung quanh chúng ta.

Chúa Giêsu khao khát ngày đêm dẫn dắt đoàn con lưu lạc nầy về đoàn tụ trong gia đình Hội Thánh. Ngài nhờ chúng ta là những bàn tay của Ngài chịu khó đưa ra để dẫn đưa họ về sum họp trong gia đình Thiên Chúa… Nếu chúng ta không chịu làm theo ý Ngài, thì đoàn con của Thiên Chúa là những anh chị em lương dân vẫn còn phải sống xa Cha Mẹ của mình là Thiên Chúa như những đứa con lưu lạc xa nhà. Như thế thì Thiên Chúa phải vô cùng đau khổ và chúng ta vô tình trở thành bàn tay bại xụi của Chúa Giêsu vì không “cử động được” như ý Ngài muốn.

Chúa Giêsu mong muốn ẵm lấy những anh chị em lương dân khắp nơi như người mẹ ẵm lấy những người con bé bỏng dễ thương vào lòng. Ngài nhờ đến chúng ta là đôi cánh tay của Ngài vươn ra, ẵm lấy những anh chị em đó, nhưng chúng ta không thực hiện ý Ngài. Như thế, anh chị em lương dân vẫn còn là những đứa con xa mẹ. Như thế, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục phải đau khổ vì không được bồng ẵm chăm sóc đoàn con; còn chúng ta, chúng ta vô tình trở thành đôi tay bại liệt của Chúa Giêsu, không cho Ngài thực hiện được ước vọng của Ngài qua chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa là Đầu, chúng con là chi thể, là chân tay của Chúa; xin đừng để chúng con trở thành đôi tay bại liệt, chẳng chịu “cử động” theo lệnh truyền của Chúa.

Xin cho chúng con mau mắn đáp lời mời gọi của Chúa, sẵn sàng lên đường, sẵn sàng hy sinh, sẵn sàng phục vụ để đem Tin Mừng của Chúa đến với anh chị em lương dân, để dẫn đưa đoàn con lưu lạc của Chúa về đoàn tụ trong gia đình Chúa.

29. Truyền giáo bằng cách sống–Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Cách chung con người ngày hôm nay thường nóng vội, hấp tấp, làm đại. Nghịch lý ở chỗ thích hoành tránh nhưng lại đòi phải nhanh, phải gọn. Họ chỉ thích làm những chuyện lớn mà bỏ qua chuyện nhỏ. Họ luôn xem việc nhỏ là tầm thường mà quên rằng việc lớn là do tích tiểu thành đại. Không kiên nhẫn trong việc nhỏ thế nên, họ cũng bỏ lỡ cơ hội làm những chuyện lớn lao.

Điển hình là xã hội hôm nay không có những công trình thế kỷ mà chỉ có những kiến thiết hợp thời, model nhưng mau qua. Về sự học dường như học sinh không thể ngồi yên để thuộc một câu thơ hay một bài lịch sử mà chỉ học trên net, trên Iphone…

Người ta kể rằng: Thời Đông hán có một thiếu niên tên Trần Phiên. Hắn cho mình bất phàm nên chỉ làm chuyện lớn mà thôi. Một hôm người bạn tới thăm thấy nhà hắn bẩn thỉu liền nói: Nho tử sao không quét nhà để tiếp đón khách?

Trần Phiên trả lời: Đại trượng phu xử thế. Nên quét thiên hạ sao lo một nhà?

Người bạn đáp lại: Một nhà không quét, sao có thể quét thiên hạ.

Trần Phiên ngộ ra không nói được lời nào.

Xem ra muốn xây dựng giang sơn thì phải xây dựng từ gia đình mình. Muốn làm những điều cống hiến cho đời thì phải rèn luyện mình thành người tốt. Phải khởi đi từ việc nhỏ mới mong làm chuyện đại sự to tát hơn. Muốn canh tân xã hội phải có một kế sách lâu dài và phải khởi đi từ những việc nhỏ nhất mới mong thành đại sự.

Phải chăng Giáo hội hôm nay cũng bị cuốn vào trào lưu thích hoành tráng, rầm rộ? Thích phô trương đánh trống hơn là sống đạo mến yêu? Các lễ nghi, lễ hội thật nhiều nhưng điều đó không quan trọng bằng việc ra đi đến với người nghèo, người già yếu, bệnh tật…?

Giáo hội luôn nói mình có sứ mạng truyền giáo và mời gọi các tín hữu tham gia vào công cuộc truyền giáo, nhưng xem ra chẳng có kết quả, bởi vì ai cũng muốn làm việc lớn nhưng những việc bình thường là canh tân đời sống bản thân, là sống công bình bác ái, là phục vụ yêu thương khởi đi từ gia đình lại bị xem thường.

Thực vậy, làm sao có thể truyền giáo khi chưa tề gia để mang lại cho gia đạo êm ấm thuận hòa?

Làm sao có thể truyền giáo khi bản thân còn nhiều tính hư nết xấu, đôi khi còn trở thành gương mù gương xấu cho tha nhân?

Truyền giáo không phải là một lễ hội để đánh trống khua chiêng. Truyền giáo là đem đạo vào đời qua muôn nẻo đường trần thế. Thế nên, truyền giáo đòi hỏi từng người phải biết sống trở thành nhân chứng cho Chúa, phải mang tin mừng thẩm thấu vào trong trái tim và trao tặng cho anh em, cho bạn bè. Truyền giáo phải như chút muối làm cho thế gian nồng thắm Tin mừng. Truyền giáo phải như chút men làm cho Tin mừng hòa vào thế gian.

Trong bài hát “Một chút” thôi của Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống dường như cũng nói những điều thật đơn giản ấy.

Một chút những viên đá nhỏ hợp thành ngọn núi lớn

Một chút những bước chân đi xa về muôn lối

Một chút những phút ủi an dịu xoa ngàn nỗi sầu

Chỉ một chút khởi đầu tương lai sẽ đẹp màu

ĐK – Một chút trong đời chỉ một chút chút xíu thôi

Nhiều chút chút bé nhỏ mà làm cho đời thêm mới

Một chút trong đời trở thành một chút thật tuyệt vời.

Chắt chiu từng chút ấy cho đời này thêm sáng tươi.

Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, ước gì chúng ta hãy từng chút một chắt chiu những việc làm tốt để sáng danh Chúa, có như vậy chúng ta mới gom thành một làn sóng yêu thương mang tin mừng lan tỏa khắp nơi. Xin Chúa giúp chúng ta biết truyền giáo khởi đi từ việc nhỏ nhất trong đời thường bằng việc nêu gương sáng cho tha nhân trong bổn phận và trong việc bác ái dấn thân xây dựng thế giới ngày một tốt đẹp hơn.

30. Kitô hữu, chứng nhân truyền giáo–”Niềm Vui Chia Sẻ’

“Anh chị em đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng cho muôn dân”. Thưa anh chị em, đó là mệnh lệnh cuối cùng của Chúa Giêsu. Giáo Hội từ thời các Tông đồ trải qua các thời đại cuối cùng của Chúa, bất chấp mọi trở ngại.

Thế nhưng, qua 20 thế kỷ truyền giáo, số người tin theo Chúa Kitô vẫn là một thiểu số đáng lo ngại so với dân số thế giới ngày càng gia tăng. Hiện nay, dân số thế giới đã lên đến trên 5 tỷ người, thế mà số tín hữu công giáo chỉ được 900 triệu, nhưng 50 phần trăm là ở Nam Mỹ, còn triệu kia rải rác ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Châu Úc và Châu Phi.

Riêng tại Châu Á của chúng ta, một lục địa với hơn 3 tỷ người, trong số đó chỉ có 3% là người Công giáo. Tại Trung Quốc chỉ có 4 triệu người Công giáo giữa một tỷ dân. Tại Nhật Bản có lối 500 ngàn người Công giáo giữa 123 triệu dân. Ở Nam Triều Tiên, 5 triệu người Công giáo trên 42 triệu dân. Tại đất nước Việt Nam chúng ta chỉ có hơn 4 triệu rưỡi người Công giáo trên 72 triệu dân, tỷ lệ hơn 6%. Tại TP. Hồ Chí Minh chúng ta có khoảng hơn 450 ngàn (485.584) người Công giáo trên hơn 5 triệu dân, tỷ lệ 13%. (Tại Hạt Tân Định, có 41.105 người Công giáo trên 266,000 dân). Đó là những con số trên giấy tờ, trong sổ Rửa Tội, còn trên thực tế, họ có sống đạo hay không là chuyện khác.

Như chúng ta được biết, ở những miền có đông giáo dân Công Giáo- ở Nam Mỹ chẳng hạn- đời sống dân chúng ở đó lại nghèo đói và thiếu linh mục.Ở Braxil, một nước lớn nhất Nam Mỹ, dân số 107 triệu, đại đa số là Công giáo. Thế mà gần đây người Công giáo đã bỏ Giáo Hội để sang Hội Thánh Tin Lành tính ra có trên 17 triệu người (lý do có lẽ là để được hưởng trợ cấp). Trái lại, ở các nước giàu có, phồn thịnh về vật chất- như ở Châu Âu và Bắc Mỹ- người Công giáo lại đánh mất niềm tin và không còn tôn trọng các giá trị đạo đức tinh thần nữa, coi thường các luật luân lý của Giáo Hội về đời sống hôn nhân gia đình. Sự kiện đó đang trở nên mối lo âu và là một vết thương đau nhức nhối nhất của Giáo Hội ngày nay.

Xin đan cử ra đây một dấu chỉ của thời đại: Đầu năm 1998, tại thành phố Amsterdam ở Hà Lan, Hội Đồng Giáo Mục đã quyết định đóng cửa một loạt 5 ngôi thánh đường đồ sộ của thành phố, vì không có giáo dân lui tới nữa, trong khi đó phí khoản 9dê3 bảo trì các ngôi thánh đường này lại quá lớn. Tại Bắc Mỹ cũng thế, Đức Hồng Y Josef Bernardin, Tổng Giáo Mục Chicago tuyên bố: ngài buộc lòng phải đóng cửa 13 giáo xứ, 2 cơ sở truyền giáo và 6 trường tiểu học Công giáo trong giáo phận của ngài. Còn Đức Hồng y Szoka, Tổng Giám Mục Giáo phận Detroit cũng tuyên bố quyết định đóng cửa 30 giáo xứ thuộc giáo phận của ngài. Lý do đóng cửa là vì thiếu người và thiếu tiền (x. Bùi Tuần, Ơn Trở Về, tr.85).

Nói lên những dấu chỉ thời đại ấy để chúng ta thấy rằng: Con người ngày nay đã bỏ Chúa, không còn tin vào Chúa nữa, hoặc có nhiều người tin, nhưng với một niềm tin hời hợt, hững hờ. Chính vì thảm trạng nầy mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành thông điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu Độ” (Redemptoris Missio, 1990) để đặt toàn thể Giáo Hội trước sứ mạng truyền giáo và tái truyền trong Thiên Niên Kỷ Thứ III.

Hôm nay, ngày Thế Giới Truyền Giáo, Đức Thánh Cha lại gởi đến toàn thể Dân Chúa một sứ điệp với chủ đề: “Tất cả các kitô hữu đều được mời gọi làm người truyền giáo và chứng nhân”. Đức Thánh Cha nói: “Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, Chúa Giêsu quyết liệt lập lại những lời Ngài đã nói với các Tông đồ trước khi về trời, những lời hàm chứa bản chất sứ vụ của người Kitô hữu: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Quả thực, Kitô hữu là ai? Thưa họ là người được Chúa Kitô “chiếm đoạt” (x.Pl 3,12), và vì thế, là người khao khát làm cho Chúa Kitô được mọi người nhận biết và yêu mến ở khắp mọi nơi “cho đến tận cùng trái đất”. Chính niềm tin vào Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta trở thành những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Ngài. Nếu không thực hiện được điều đó, có nghĩa là niềm tin củ chúng ta còn bất toàn, khiếm khuyết và chưa trưởng thành.

Do đó, “Truyền giáo là vấn đề của niềm tin, nó là thước đo niềm tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu và nơi tình yêu của Ngài dành cho chúng ta” (RM số 11). Đức tin và truyền giáo đi đôi với nhau: đức tin càng mạnh càng sâu thì nhu cầu truyền thông, chia sẻ và làm chứng niềm tin càng bức thiết. Ngược lại, nếu đức tin suy yếu thì nhiệt tình truyền giáo cũng suy giảm và khả năng làm chứng cũng mất đi sức mạnh. Đó là điều vẫn xảy ra trong lịch sử Giáo Hội: sự sút giảm lòng nhiệt thành truyền giáo là triệu chứng của sự khủng hoảng đức tin. Điều này phải chăng xảy ra khi người ta đánh mất xác tín sâu xa là: “Đức tin càng vững mạnh khi đem chia sẻ” (RM.2). Vì chính khi loan báo Chúa Giêsu Kitô và làm chứng về Ngài mà đức tin của chúng ta được củng cố và tái khám phá con đường đưa đến một nếp sống đúng theo Tin Mừng của Ngài. Như thế, chúng ta có thể nói: “Truyền giáo là một phương thuốc chắc chắn nhất chống lại cuộc khủng hoảng đức tin. Chính nhờ dấn thân truyền giáo mà mỗi thành phần Dân Chúa củng cố căn tính mà mình và hiểu rõ là: không ai có thể là Kitô hữu đích thực nếu không là chứng nhân” (số 2).

“Mỗi Kitô hữu được sáp nhập vào Giáo Hội nhờ Bí tích Thanh Tẩy, đều được mời gọi làm nhà truyền giáo và chứng nhân. Đó là sự ủy nhiệm rõ ràng của Chúa Kitô. Và Thánh Thần sai mỗi người kitô hữu ra đi loan báo và làm chứng về Chúa Kitô cho muôn dân: đó là nhiệm vụ và đặc ân, bởi vì đó là một lời mời gọi cộng tác với Thiên Chúa để cứu độ mỗi người và cả nhân loại” (số 3).

Truyền giáo bằng đời sống chứng tá Tin Mừng giữa đời, làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống yêu thương, bác ái, công bình, cụ thể trong gia đình, ngoài xã hội, là sứ vụ của mọi người giáo dân. Làm chứng cho sự thánh thiện, như những người sống các Mối Phúc của Tin Mừng, đó là căn tính của người Kitô-hữu-chứng-nhân. Con người ngày nay có vẻ dửng dưng không muốn tìm về Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, họ cảm thấy cần đến Thiên Chúa và họ bị các Thánh thu hút và đánh động, những vị thánh đã biểu lộ khuôn mặt của Thiên Chúa trong đời sống của mình, như những ánh sao trong đêm tối.

Giáo Hội Việt Nam chúng ta ngày nay phải truyền giáo trong môi trường cụ thể chúng ta đang sống, với những con người cụ thể chúng ta đang gặp. Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem Tin Mừng vào lòng dân tộc. Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng đại và sẵn sàng của chúng ta, cần đến đời sống nhân chứng của chúng ta để bày tỏ cho anh em đồng bào tình yêu thương vô biên của Ngài. Tích cực tham gia vào công cuộc Phúc-âm-hóa mới, đó là công việc đặc trưng của những năm chuẩn bị tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của Hồng Ân Cứu Độ.

31. Lễ Khánh Nhật Truyền Giáo

Chúa Nhật trước Chúa Nhật cuối tháng mười là khánh nhật truyền giáo. Năm nay cũng là năm thánh truyền giáo của Giáo Hội Việt Nam, đây cũng là dịp thuận lợi để Kitô hữu Việt Nam tìm hiểu sâu xa về sứ mạng truyền giáo.

Truyền giáo, là giúp người ta tin nhận Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, để họ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, để họ trở nên Kitô hữu. Tại sao phải truyền giáo?

Một số người cho rằng nếu không truyền giáo, nghĩa là nếu không giúp người ta trở lại đạo Công Giáo thì người ta không được cứu độ. Họ tưởng rằng những người ngoại đạo chết sẽ sa hỏa ngục, hoặc ít là không được lên thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời. Công Đồng Chung Vaticanô II dạy rằng, cả những người không biết Đức Giêsu, cả những người không biết Thiên Chúa, thậm chí những người vô thần cũng có thể được cứu độ (Hiến Chế Giáo Hội số 16).

Đứng trên quan điểm của một người không tôn giáo, tất cả các tôn giáo đều như nhau: tất cả các tôn giáo đều tốt, đều dạy ăn ngay ở lành. Có nhiều người Công Giáo sống tốt hơn những người không theo đạo nào hoặc sống tốt hơn một số người theo đạo khác, nhưng cũng có những người sống trong tôn giáo ngoài Kitô giáo hoặc không theo một tôn giáo nào cũng ăn ngay ở lành và thậm chí còn sống tốt hơn một số Kitô hữu. Như vậy, Kitô hữu truyền giáo không phải vì Kitô hữu sống tốt hơn những người không tôn giáo hoặc sống trong các tôn giáo khác.

Tin Mừng theo thánh Matthêu cho thấy Đức Giêsu truyền lệnh cho các tông đồ “dạy muôn dân trở thành môn đệ,” dạy bảo người ta tuân giữ những điều Đức Giêsu đã dạy các môn đệ. Kitô hữu truyền giáo không phải vì sợ người ta nếu không theo đạo Công Giáo thì phải sa hỏa ngục, nhưng bởi vì Đức Giêsu đã truyền lệnh.

Một số Kitô hữu không thích chữ truyền giáo, vì họ cho rằng từ ngữ này mang tính bá quyền, thống trị, độc tôn, tự kiêu, vì nó hàm chứa rằng Kitô giáo là nhất, chỉ có Kitô giáo là đúng. Nhiều người cho rằng, nếu dùng từ ngữ truyền giáo thì rất khó có thể đối thoại với những người sống trong các tôn giáo khác, vì nếu tiếp xúc với ai mà lại nghĩ người đó đang theo một tôn giáo sai lầm, và rồi chỉ tìm mọi cách làm cho người đó vào đạo của mình, thì làm sao có thể trân trọng và trao đổi chân tình một vấn đề.

Một số Kitô hữu thích dùng từ ngữ rao giảng Tin Mừng. Từ ngữ này có thể hiểu khi một người trình bày cho người khác tôn giáo của mình, họ nghĩ rằng điều họ biết họ tin là đúng, nên họ loan báo cho người khác biết, để nếu người đó thấy như họ và tin theo, thì người đó sẽ được hạnh phúc như họ cảm nghiệm. Việc người khác trở lại hay không là tùy do người đó, Kitô hữu chỉ chia sẻ những gì mình thấy là hay là tuyệt, và để người đó hoàn toàn tự do theo điều mà họ thấy đúng nhất hay nhất tuyệt nhất. Kitô hữu luôn tôn trọng tự do tôn giáo của người khác. Tự do tôn giáo là quyền của con người, quyền này đã được công đồng chung Vatican khẳng định. Kitô hữu không được rửa tội cho ai nếu người đó không muốn. Thực ra, từ ngữ “truyền giáo” là từ ngữ được sử dụng “nội bộ” thôi, nghĩa là, chỉ dùng giữa những Kitô hữu với nhau thôi, chứ không thể dùng để nói với những người theo các tôn giáo khác được. Nếu nói với những người ngoài Kitô giáo, từ ngữ loan báo Tin Mừng có lẽ dễ được chấp nhận hơn.

Rao giảng Tin Mừng là nói về Đức Giêsu Kitô. Kể cho người ta nghe Đức Giêsu là ai, Ngài đã làm gì, Ngài thực sự là ai. Tín hữu tin rằng Đức Giêsu chết và phục sinh là Tin Mừng tuyệt đối cho tất cả mọi người, thế nên, họ muốn chia sẻ Tin Mừng cho người khác. Tin Mừng Đức Giêsu Phục Sinh làm cho Kitô hữu hạnh phúc, nên Kitô hữu muốn người khác được bình an, hạnh phúc như họ, nên họ rao giảng Tin Mừng tuyệt vời này.

Đức Giêsu đã chết và đã phục sinh, ai tin vào Ngài sẽ không phải chết, và nếu có chết cũng sống lại. Đức Giêsu đã chết và đã sống lại. Đức Giêsu phải chết, vì Ngài mang thân phận con người. Không có ai là người mà đã không chết. Đức Giêsu đã phục sinh. Sự Ngài phục sinh trở thành dấu chỉ cho người ta nhận ra sự thật về chính Ngài: Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Thiên Chúa đã làm người để chỉ cho con người biết con đường cứu độ, chỉ cho người ta biết cách sống giúp người ta hạnh phúc đích thực.

Đức Giêsu là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa. Ngài là biểu tượng tình yêu Thiên Chúa. Đức Giêsu là chính tình yêu Thiên Chúa cho con người. Biết Đức Giêsu, là biết hơn về Thiên Chúa. Biết Đức Giêsu, là biết Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào; vì nếu không yêu thương, tại sao Thiên Chúa lại nhập thể, lại vĩnh viễn làm người! Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người như một lời mời gọi con người đáp trả tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu đáp trả tình yêu, ân tình đền đáp ân tình. Con người đáp trả tình yêu Thiên Chúa bằng việc phó thác tất cả cho Thiên Chúa trong niềm tin tưởng tuyệt đối.

Bước theo Đức Giêsu, trở nên môn đệ của Ngài, là đã bắt đầu được giải phóng, được an bình hạnh phúc vì biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Kitô hữu muốn người khác biết Đức Giêsu, là để họ được bình an và hạnh phúc thật sự. Đó là lý do tại sao Kitô hữu rao giảng Tin Mừng, rao giảng Đức Giêsu đã chết và đã phục sinh. Đức Giêsu là chính Thiên Chúa nhập thể. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, nên đã sai Con Ngài nhập thể để đưa con người đến với Thiên Chúa, để con người được hạnh phúc đích thực.

Con người ngày nay dường như được đánh động bởi những việc làm hơn là những lời nói xuông. Họ được đánh động bởi chứng từ cuộc sống hơn là bài giảng hay. Nếu Kitô hữu cho người khác thấy niềm tin vào Đức Giêsu chết và sống lại đã chi phối đời sống của họ, giúp họ vượt qua khó khăn và giúp họ chấp nhận cuộc sống đích thực như thế nào, thì chắc có nhiều người sẽ tìm hiểu về Đức Giêsu, Đấng đã làm cho các Kitô hữu những điều tuyệt vời như vậy.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Truyền giáo là gì? Tại sao Kitô hữu phải truyền giáo?

2. Hôm nay tại môi trường bạn sống, phải loan báo Tin Mừng thế nào để người ta tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa?

32. Khánh Nhật Truyền Giáo–Lm. G.B. Văn Hào

Trong cuộc tông du tại Hoa Kỳ vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Thánh lễ ngày 23 tháng Chín năm 2015 tại Đền Thánh Đức Mẹ Vô nhiễm ở Washington DC để tuyên thánh cho Cha Junipero Serra, một vị thừa sai dòng Phanxicô gốc Tây Ban Nha. Vị Thánh đã đến Châu Mỹ làm việc cho thổ dân da đỏ và đã đón nhận cái chết tử đạo để minh chứng đức tin. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nhắc lại câu châm ngôn của vị thánh, đó là “Hãy luôn tiến lên phía trước để rao giảng Tin mừng”. Đức Thánh Cha cũng gợi lại tư tưởng mà Ngài đã viết trong tông huấn ‘Niềm vui của Tin mừng’ (Gaudium Evangelii): ” Từ sâu tận tâm hồn, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy ra đi. Đừng ở lỳ một chỗ để an hưởng một cuộc sống nhàn hạ. Đức Giêsu nói với các Tông đồ: Hãy đi rao giảng. Niềm vui Tin mừng là điều chúng ta phải trải nghiệm cách cụ thể. Chúng ta không có niềm vui đó nếu chúng ta không biết xả thân và trao ban”. Đây cũng là sứ điệp Giáo hội gửi trao đến chúng ta trong ngày Chúa nhật truyền giáo hôm nay.

Truyền giáo là lên đường.

Trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô, Thánh Phaolô đã nói đến bốn phần vụ trong Giáo hội để xây dựng nhiệm thể Đức Kitô, đó là: làm tông đồ, làm ngôn sứ, làm người loan báo Tin mừng, làm người coi sóc và dạy dỗ (Eph 4, 11). Trong bốn chức năng đó, trở thành người loan báo Tin mừng đòi hỏi sự hi sinh và dấn thân hơn cả, bởi vì người đó phải ra đi và lên đường. Người đi rao giảng Tin mừng phải rời bỏ tất cả: từ gia đình, quê hương, đến nơi ăn chốn ở và mọi dính bén khác. Căn gốc của sự ra đi chính là từ bỏ chính mình. Khi sai các học trò đi thực tập truyền giáo, Chúa Giêsu chỉ trang bị cho các ông một món hành trang duy nhất, đó là ‘năng quyền trừ quỷ và chữa lành các bệnh tật’, ngoài ra không tiền bạc, không bao bị, không mặc hai áo, không giầy dép..( Lc 9,3). Vì vậy truyền giáo trước hết là phải sẵn sàng lên đường và ra đi đến mọi ngõ ngách của thế giới, đặc biệt đến những vùng ven (peripheries) như lời Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi. Cuộc ra đi như vậy đòi hỏi phải chấp nhận phiêu lưu cách mạo hiểm, và cao điểm của cuộc hành trình liều lĩnh đó là chấp nhận cái chết như Đức Kitô trên Thập giá. Khi phong Thánh cho Cha Serra cuối tháng Chín vừa qua, Đức Thánh Cha đã nhắc lại đôi nét về sự ra đi của Ngài. Vị Thánh đã quảng đại từ khước địa vị danh giá là ghế giáo sư đại học ở Tây Ban Nha để lên đường sang Tân thế giới, phục vụ cho Tin mừng và ơn cứu độ. Cuộc mạo hiểm của Ngài đã phải trả giá, nhưng là cái giá của vinh thắng. Vừa khi mới đặt chân đến Mexicô, chân của Ngài đã bị sưng tấy vì dị ứng và đau đớn tột cùng, giống như bị ung thư hay bị nhện rừng cắn. Cao điểm của cuộc phiêu lưu này là Ngài đã bị giết chết, để bảo vệ các thổ dân. Một thi sỹ đã viết: ” Ra đi là chết trong lòng một ít”. Nhưng sự ra đi trong hành trình truyền giáo là sao chép lại tận căn chính cái chết của Đức Giêsu, vị truyền giáo đầu tiên, và cũng là nguyên mẫu cho chúng ta trong việc thực thi sứ mệnh rao giảng Tin mừng.

Đức Giêsu, nguyên mẫu của ơn gọi truyền giáo.

Năm mươi năm trước, Công đồng Vaticanô 2 đã ban hành sắc lệnh về truyền giáo ‘Ad Gentes’. Ngay từ chương đầu tiên của giáo huấn này, Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn về Đức Kitô như là nguyên mẫu cho sứ vụ truyền giáo. Công đồng đưa dẫn nhiều trích đoạn kinh thánh để cho chúng ta thấy Đức Kitô là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian hầu thực hiện sứ mạng cứu thế ( Col 1, 13; Cv 10, 38; 2C 8, 9..). Vì vậy khi nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta có thể nghiệm ra rằng, 2000 năm trước Ngài đã đi vào trần thế không phải để sáng lập một tôn giáo, cũng như không phải để quảng bá một học thuyết chính trị. Ngài đến chỉ với sứ mạng duy nhất là công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là Tin mừng về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu đã lập đi lập lại sứ điệp này trong suốt ba năm rao giảng công khai, và cái chết của Ngài trên Thập giá chính là đỉnh điểm của lời công bố Tin mừng vĩ đại ấy. Vì vậy, để sống tinh thần truyền giáo, chúng ta phải học nơi Thập giá Đức Giêsu. Ngài chính là vị truyền giáo đầu tiên, và là mẫu gương trọn hảo cho tất cả chúng ta (trích Tông huấn Evangelii Nuntiandi số 7). Trong các đợt xuất phát truyền giáo, các hội dòng thường trao cho các vị thừa sai Thánh giá truyền giáo cũng với hướng đích này.

Truyền giáo là bản chất của Giáo hội

Trong các phiên họp khoáng đại của công đồng chung Vaticanô 2, Đức Thánh Cha Phaolô đệ lục có nêu ra một câu hỏi rất giản đơn cho các nghị phụ: ” Ta sống ở đời này để làm gì?” Đây cũng là câu hỏi đầu tiên trong các sách giáo lý căn bản mà chúng ta đều biết cũng như đã thuộc lòng câu trả lời, đó là:’Ta sống ở đời này để nhận biết và kính mến Chúa, cho ngày sau được hưởng hạnh phúc đời đời’. Các nghị phụ cũng trả lời như thế. Nhưng Đức Thánh Cha nói rằng câu trả lời còn thiếu. Ngài cắt nghĩa: ” Ta sống ở đời này để nhận biết và yêu mến Chúa, cho ngày sau được cứu rỗi, nhưng chúng ta cũng sống ở trần gian này còn để giúp người khác yêu mến và nhận biết Thiên Chúa, để họ cũng được ơn cứu độ như chúng ta”. Cha Thomas Merton, một tu sỹ dòng Trappist ở Hoa Kỳ có viết một tác phẩm tựa đề: ‘Không ai là một hòn đảo’. Tư tưởng của Ngài rất thâm thúy, và trong dịp viếng thăm Hoa Kỳ vừa qua, khi đọc diễn văn tại lưỡng viện quốc hội, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng gợi nhắc khuôn mặt tiêu biểu này. Cha Thomas Merton lý luận rằng, không ai trong chúng ta có thể sống cô lẻ một mình như một ốc đảo. Khi sống hiệp thông trong Hội thánh, chúng ta liên đới với anh chị em mình trong sự thánh thiện cũng như cả trong tội lỗi. Vì vậy không ai trong chúng ta sẽ lên thiên đàng một mình hoặc cũng không ai xuống hỏa ngục một mình. Chúng ta nên thánh bằng cách giúp người khác nên thánh, và đây cũng là ý nghĩa của sứ mệnh truyền giáo. Sứ mệnh này thuộc bản chất của Giáo hội, gắn liền với Giáo hội và cũng là bổn phận của mọi Kitô hữu. Trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đã chuyển giao sứ mạng cứu thế cho Giáo hội bằng mệnh lệnh: ” Anh em hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân” (Mc 16,15). ‘Cho muôn dân’ tức ” ad gentes”, cũng chính là tựa đề của sắc lệnh về truyền giáo mà công đồng Vaticanô 2 đã để lại cho chúng ta.

Chứng nhân hơn là thầy dạy

Trong một sứ điệp ngày truyền giáo, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 cũng viết: ” Truyền giáo là thước đo đức tin của mọi tín hữu”. Lời khẳng định này cũng tương hợp với giáo huấn của Thánh Giacôbê tông đồ khi Ngài viết: ” Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Việc làm đó được thực hiện rõ nét nhất qua sứ vụ truyền giáo. Rao giảng Tin mừng là một bổn phận của những ai thuộc về Đức Kitô và được Chúa mời gọi trở nên môn đệ Ngài. Thánh Phaolô xác tín mạnh mẽ bổn phận ấy nên Ngài nói: ” Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16). Nhưng, cách thái rao giảng Tin mừng để đạt hiệu quả mới là điều quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm.

Có lần, một số các vị truyền giáo đang làm việc ở Ấn Độ đến gặp ông Mahatma Gandhi và hỏi ông bí quyết làm sao để có thể truyền giáo cho người dân Hindu ở đây. Ông Gandhi mời gọi các vị truyền giáo hãy suy nghiệm bí quyết từ cánh hoa hồng. Người ta thích hoa hồng không phải chỉ vì vẻ đẹp bên ngoài mà còn vì mùi hương quyến rũ từ bên trong tỏa ra. Ông kết luận, muốn truyền giáo thành công, phải học bí quyết ấy, tức là rao giảng không phải bằng lý thuyết xuông nhưng bằng gương sáng cụ thể của cuộc sống. Điều ông ta nói tới cũng giống như giáo huấn của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 khi Ngài diễn tả: ” Ngày nay, Giáo hội cần những chứng nhân hơn là những thầy dạy.”

Kết luận: Chứng tá Tin mừng

Sau biến cố 30 tháng 04 năm 1975, một cán bộ nhà nước thuộc dạng cao cấp có hỏi một anh em tu sĩ dòng Tên ở Thủ Đức: ” Các anh là những người theo tôn giáo, chắc các anh rất sợ chúng tôi là những người vô thần?”. Vị tu sĩ đó bình thản trả lời: “Vâng thưa ông, chúng tôi rất sợ những người vô thần. Nhưng nếu các ông là những người vô thần thực sự và sống đúng với lý tưởng của các ông, thì chẳng có gì đáng sợ cả. Xin chúc mừng các ông nếu các ông thật sự cảm thấy hạnh phúc trong sự xác tín lý tưởng của mình. Nhưng ngược lại, chúng tôi rất sợ những người vô thần trong thực hành. Họ mang danh là Kitô hữu, nhưng lại sống như những người vô thần thực sự và còn tệ hơn cả những con người công khai chối bỏ Thiên Chúa. Bởi vì, cuộc sống của họ đang tàn phá Giáo hội, làm lung lạc đức tin người khác và làm cho Giáo hội của chúng tôi ngày càng suy yếu.”

Nếp sống vô thần trong thực hành như thế chính là một lối sống phản chứng tá. Thay vì rao giảng Tin mừng, thì cuộc sống như vậy lại cản che và bóp chết hạt giống Lời Chúa trong những sỏi đá và gai góc nơi chính tâm hồn của họ. Trong ngày khánh nhật truyền giáo hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống chính mình để duyệt xét xem chúng ta đã thực thi bổn phận quan trọng ấy như thế nào.

33. Truyền giáo bằng chứng tá: Ai cũng có thể làm được–Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

Có lẽ chúng ta đã nghe nói nhiều đến việc truyền giáo. Và thường chúng ta nghĩ rằng đó là việc của các linh mục, các nam nữ tu sĩ, của tiểu ban truyền giáo, hay của một số người có ơn gọi đặc biệt như Thánh Phaolô, Thánh Phanxicô Xaviê,… chứ chẳng phải là việc của mình. Tuy nhiên, truyền giáo là ơn gọi, là trách nhiệm gắn liền với mọi người Kitô hữu. Bao lâu còn là Kitô hữu, bấy lâu còn phải loan báo Tin Mừng. Có thể chúng ta không có khả năng lôi kéo, thuyết phục để cho người khác theo đạo, nhưng “nói” cho người khác biết về đạo bằng chứng tá đời sống thì ai ai cũng có thể làm được. Vậy chứng tá cụ thể đó là gì?

– Trước hết là chứng tá bằng đời sống cầu nguyện hy sinh

Đây là hoạt động đi đầu và không thể thiếu trong việc loan báo Tin Mừng. Nhìn thấy gương chúng ta cầu nguyện, gương chúng ta hy sinh, người ta sẽ được đánh động, được cảm hoá. Nếu đời sống tâm linh của chúng ta được cắm rễ sâu trong đời sống cầu nguyện hy sinh, thì mọi việc ta làm đều có giá trị truyền giáo, đều có khả năng làm cho người khác nhận biết Chúa và đem lại rất nhiều lợi ích cho các linh hồn. Như vậy, ngồi ở nhà, chúng ta vẫn có thể truyền giáo. Về điểm này, Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta noi theo. Ngài nói: “Dù cúi xuống nhặt một cây kim vì lòng yêu mến Chúa, tôi cũng có thể cứu được một linh hồn”.

Không ai có thể nói là tôi không có thì giờ để cầu nguyện. Không ai có thể nói là tôi không có cơ hội để hy sinh. Và để rèn luyện được nếp sống thấm nhuần tinh thần cầu nguyện hy sinh, có sức giới thiệu Đức Kitô cho người khác, thiết tưởng chúng ta có thể nhờ đến Chuỗi Kinh Mân Côi. Nhờ Mẹ dẫn chúng ta bước đi từng bước nhỏ trên đường vâng phục thánh ý Chúa và phục vụ các linh hồn.

– Thứ đến là chứng tá bằng lối sống hiệp nhất yêu thương

Truyền giáo bằng việc giảng dạy, bằng sách báo, bằng các lớp Giáo lý, bằng các lễ nghi, bằng các hoạt động tôn giáo, thực tế là rất cần. Nhưng cách truyền giáo hữu hiệu nữa là chính nếp sống đạo đức nổi trội của chúng ta về sự hiệp nhất yêu thương: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em hãy thương yêu nhau”. Tình yêu thương hiệp nhất ấy được thể hiện qua cách suy nghĩ, cách phán đoán, cách chọn lựa, cách đối xử, cách phản ứng, cách hiện diện, cách phục vụ nói năng, ăn uống, giải trí, cách dùng thời giờ, sức khoẻ, của cải,…

Những dấu chỉ yêu thương hiệp nhất giữa mọi người trong gia đình, trong hội đoàn, trong giáo họ, giáo xứ là dấu chỉ loan báo Tin Mừng hữu hiệu nhất, giá trị nhất. Ngược lại, nếu thiếu tình bác ái yêu thương thì những việc tông đồ truyền giáo sẽ phản tác dụng. Xin dẫn chứng:

Một cô gái ngoại giáo lấy người Công giáo, láng giềng, bà con thấy cô ta đẹp người đẹp nết, nên giục cô ta vào đạo. Cô ta trả lời: “Khi nào cháu thấy đạo Chúa hơn đạo Phật, cháu mới vào”. Tìm hiểu, người ta mới biết được bà mẹ chồng dù rất siêng năng đọc kinh, dự lễ và đã từng bỏ ra gần cả một chục triệu bạc cùng với nhiều bà khác giúp cha sở đi Roma xin ơn Đức Giáo hoàng, nhưng bà đã từng sang giật nồi, lấy niêu của một bà hàng xóm nghèo chưa có tiền trả nợ cho bà. Cô dâu in trong lòng hình ảnh không tốt về mẹ chồng và về đạo. Do đó cô nhất quyết không theo đạo bao lâu chưa thấy người theo đạo sống tốt hơn.

Một khi tất cả nếp sống của chúng ta phảng phất hương thơm của tình hiệp nhất yêu thương thì dù ở đâu, nếp sống ấy cũng là truyền giáo.

– Sau nữa là chứng tá bằng nếp sống có văn hoá, văn minh

Ngày hôm nay, xã hội đang phải đối diện với biết bao tệ nạn, môi trường sống bị ô nhiễm trầm trọng, các giá trị đạo đức luân lý bị băng hoại. Chính vì thế, nỗ lực của xã hội là xây dựng nếp sống lành mạnh, có văn hoá, văn minh. Đi đâu chúng ta cũng thấy có các bảng hiệu “khu phố văn hoá”, “thôn văn hoá, ấp văn hoá”…, lẽ nào chúng ta lại đứng ngoài, lẽ nào chúng ta lại không chung tay góp sức mình vào việc đó. Dĩ nhiên, nền văn hoá mà chúng ta phải xây dựng không phải là văn hoá sự chết, văn hoá tiêu diệt sự sống, mà là nền văn hoá bảo vệ và thăng tiến sự sống, sự sống ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Nền văn minh mà chúng ta phải kiến tạo không phải là văn minh của nền khoa học kỹ thuật khô cứng hay của chủ nghĩa duy vật hưởng thụ cực đoan, mà là nền văn minh của tình thương, nền văn minh của lòng bao dung tha thứ.

Như mọi người khác, người Công giáo cũng đang hiện diện tại mọi môi trường xã hội hôm nay. Chúng ta cũng làm ăn sinh sống trong mọi lĩnh vực: kinh doanh, sản xuất, buôn bán… với mọi hoàn cảnh từ thương gia đến kỹ sư, bác sĩ, giáo viên, công nhân viên. Cũng làm việc, cũng mưu sinh, nhưng chúng ta làm việc với tinh thần khác: tinh thần công bình bác ái và phục vụ hy sinh.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn ý thức được sứ mạng truyền giáo bằng chứng tá của mình, đặc biệt trong Năm Đức Tin, để ra sức sống tinh thần cầu nguyện hy sinh, yêu thương hiệp nhất, đồng thời nỗ lực xây dựng một cuộc sống tốt đạo đẹp đời hầu cho danh Chúa được ngày một cả sáng hơn. Amen.

34. Linh đạo truyền giáo–Lm. Nguyễn Đức Khiết

Hoạt động truyền giáo đòi hỏi một linh đạo đặc biệt. Linh đạo này liên hệ đặc biệt tới những người được Thiên Chúa mời gọi để trở thành những nhà truyền giáo. Đức Phaolô VI phác họa linh đạo truyền giáo trong chương VII của Tông Huấn Loan báo Tin Mừng. Đức Gioan-Phaolô II trực tiếp đề cập tới linh đạo này trong chương VIII của Thông Điệp Sứ vụ Đấng Cứu Thế. Ngài cũng nhắc đến nhiều lần trong Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu và mới đây trong hai Tông Thư Bước vào ngàn năm mới và Kinh Mân côi của Đức Trinh Nữ Maria. Chúng ta chia sẻ với nhau linh đạo này.

1. Để cho Chúa Thánh Thần hướng dẩn

Chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu để “chèo ra chỗ sâu” (Duc in altum) là chủ đề của Tông Thư Bước vào ngàn năm mới (Novo Millennio inuente). Chiêm ngắm Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra chân lý này: Ngài đã là sứ giả Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất, là sứ giả Tin mừng đã để cho Thần Khí hướng dẫn. Thần Khí đã xuống trên Đức Giêsu Nadarét vào lúc Ngài chịu thanh tẩy và được Chúa Cha giới thiệu là Con Chí Aùi của Người (x. Mt 3, 17). Chính vì “được Thần Khí dẫn đưa” (Mt 4, 1), mà Ngài đã trải qua trong sa mạc cuộc chiến đấu quyết liệt và một cuộc thử thách lớn lao nhất trước khi bắt đầu sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Chính “với quyền năng của Thánh Thần” (Lc 4, 14) mà Ngài đã trở về Galilê và mở đầu tại Nadarét công cuộc rao giảng, khi áp dụng đoạn sách tiên tri Isaia cho chính mình: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi”. Ngài công bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh này”(Lc 4, 18.21: x. Is 61, 1). Nhờ quyền năng của Thần Khí, Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân và xua đuổi ma quỷ, như một dấu chỉ Nước Thiên Chúa đã đến (x. Mt 12, 28). Vào buổi chiều Phục Sinh, Ngài thổi hơi trên các môn đệ sắp được phái đi mà nói với họ: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”(Ga 20, 22).

Từ việc chiêm ngắm Đức Giêsu, sứ giả Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất đã để cho Thần Khí hướng dẫn, ta thấy linh đạo truyền giáo được thể hiện trước hết qua việc nhà truyền giáo để cho con người của mình trở nên hoàn toàn dể dạy đối với Chúa Thánh Thần, một sự dễ dạy để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn con người bên trong càng ngày càng nên giống Chúa Kitô. Không thể rao giảng và làm chứng về Chúa Kitô cũng như Tin Mừng của Ngài nếu bản thân nhà truyền giáo không phản ánh gương mặt Chúa Kitô. Gương mặt Chúa Kitô sẽ trở nên sống động trong chúng ta nhờ ân sủng và hoạt động của Thánh Thần

Ngoài ra, sự dễ dạy đối với Thánh Thần còn làm cho chúng ta đón nhận được những ân huệ khác của Ngài, đặc biệt là ơn can đảm và biện biệt. Hai ân huệ này là những nét cốt yếu của linh đạo truyền giáo.

Trường hợp của các tông đồ là một điển hình: trong sứ vụ công khai của Đức Giêsu, dù đã yêu Chúa nồng nàn với một tấm lòng quảng đại, dù đã được Chúa huấn luyện trong nhiều năm, các tông đồ vẫn tỏ ra là những con người tối trí và chậm hiểu. Nhiều lần Chúa giảng dạy mà các ngài chẳng hiểu gì hết, nhất là khiếp sợ theo Chúa trên đường khổ nạn. Biến cố thập giá chiều thứ sáu tuần thánh đã làm tiêu tan niềm tin và hy vọng của các ngài vào Đức Giêsu. Chúa Thánh Thần đã biến đổi các tông đồ trở nên những chứng nhân can đảm cho Đức Giêsu và những người loan báo cách rõ ràng lời Ngài. Chính Thánh Thần đã hướng dẫn các ngài trên những nẻo đường gian khổ và mới mẻ của sứ mạng truyền giáo.

Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh về vai trò của Chúa Thánh Thần trong công cuộc loan báo Tin Mừng khi đọc lại những ngày đầu của Giáo Hội sơ khai:

“Sẽ không bao giờ có thể phúc-âm-hóa được nếu không có tác động của Chúa Thánh Thần…

[…] Thật ra, chỉ sau khi Chúa Thánh Thần đến, ngày Hiện Xuống, các tông đồ mới lên đường đi đến khắp các chân trời trên thế giới để khởi sự công cuộc phúc âm hoá của Giáo Hội, và thánh Phêrô giải thích biến cố như đã thực hiện của lời tiên tri Giôel: “Ta sẽ đổ Thần Khí Ta” (Cv 2, 17). Thánh Phêrô được đầy Thánh Thần để nói với dân chúng về Đức Giêsu Con Thiên Chúa (x. Cv 4, 8). Thánh Phaolô, cũng thế, “được đầy Thánh Thần” (Cv 9, 17) trước khi hiến thân cho sứ mệnh tông đồ; thánh Stêphanô cũng vậy, khi được chọn để làm phó tế và sau đó đã đổ máu làm chứng (x. Cv 6, 5.10; 7, 55). Thần Khí khiến Phêrô, Phaolô hay nhóm Mười Hai lên tiếng và soi sáng cho họ những lời lẽ phải nói, thì cũng ngự xuống “trên tất cả những người đang nghe Lời Thiên Chúa (x. Cv 10, 44). Chính nhờ Chúa Thánh Thần nâng đỡ mà Giáo Hội tăng tiến (x. Cv 9, 31). Ngài là linh hồn của Giáo Hội này. Chính Ngài giải thích cho tín hữu hiểu ý nghĩa thâm sâu của lời Đức Giêsu giảng dạy và mầu nhiệm con người của Đức Giêsu. Ngày nay cũng như vào buổi đầu của Giáo Hội, Ngài là Đấng hoạt động trong mỗi sứ giả Tin Mừng, nếu họ chịu thuộc về Ngài và để Ngài hướng dẫn mình, Ngài đặt nơi môi miệng họ những lời mà một mình họ không thể tìm ra được, và đồng thời chuẩn bị cho tâm hồn người nghe biết cởi mở đón nhận Tin Mừng và Triều Đại được loan báo.

Có những kỹ thuật phúc-âm-hóa là điều tốt, nhưng những kỹ thuật hoàn hảo nhất vẫn không làm sao thay thế được tác động âm thầm của Thần Khí. Không có Ngài thì sứ giả Tin Mừng có sửa soạn hết sức tinh tế cũng chẳng làm được gì cả. Không có Ngài thì biện luận thuyết phục nhất cũng không ảnh hưởng gì được trên trí tuệ con người. Không có Ngài, những lược đồ xã hội học và tâm lý học được soạn thảo kỹ lưỡng nhất cũng chóng tỏ ra vô giá trị.

Chúng ta đang sống trong Giáo Hội những giờ phút đặc biệt của Thần Khí. Đâu đâu người ta cũng tìm biết Ngài hơn, đúng như Thánh Kinh mạc khải. Người ta sung sướng tự đặt dưới quyền lực Ngài. Người ta họp nhau quanh Ngài. Người ta muốn để Ngài hướng dẫn mình.

Vậy, nếu Thần Khí Thiên Chúa có một vị trí ưu việt trong toàn thể đời sống Giáo Hội, thì chính trong sứ mệnh phúc-âm-hóa của Giáo Hội là chỗ Ngài hoạt động hơn cả. Không phải tình cờ mà cuộc khởi đầu vĩ đại đi phúc-âm-hóa đã xảy ra vào sáng ngày Hiện Xuống, dưới hơi thổi của Thần Khí”.

Như vậy, chúng ta có thể nói rằng Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của hoạt động truyền giáo của Giáo Hội, là tác giả đầu tiên của việc đối thoại giữa Giáo Hội và tất cả các dân tộc, văn hoá và tôn giáo. Chính Ngài thúc đẩy mỗi người loan báo Tin Mừng, chính Ngài, từ chiều sâu ý thức, làm cho người ta đón nhận và hiểu Lời cứu độ., và chính Ngài liên tục gieo những hạt giống chân lý giữa các dân tộc, tôn giáo, văn hoá và triết học của họ. Nhờ Chúa Thánh Thần, vị Thầy Nội Tâm, gương mặt và giáo huấn của Chúa Kitô sẽ tỏ hiện lên trong lòng người đón nhận và đặc biệt hơn trong chính cuộc đời và bản thân của nhà truyền giáo.

Ngày nay cũng như ngày xưa, công cuộc truyền giáo vẩn có nhiều khó khăn và phức tạp. Ngày nay cũng như ngày xưa, nó đòi hỏi lòng can đảm và ánh sáng của Thánh Thần. Chúng ta vẫn thường đang sống trong thảm kịch của các Kitô hữu tiên khởi khi họ thấy đám đông bất tín và thù nghịch “đang rập mưu đồ chống lại Đức Chúa và chống lại Đấng Người đã được xức dầu phong vương” (Cv 4, 26). Cũng như ngày xưa, chúng ta phải cầu nguyện để Thiên Chúa ban cho chúng ta lòng can đảm loan báo Tin Mừng, để bước đi trên những nẻo đường huyền nhiệm đầy bất ngờ của Thiên Chúa và để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn đến chân lý vẹn toàn (x. Ga 16, 13).

2. Sống mầu nhiệm Đức Kitô “được sai đi”.

Sống hiệp thông với Đức Kitô là một yếu tố căn bản của linh đạo truyền giáo. Người ta không thể hiểu cũng như không thể sống sứ mạng truyền giáo nếu không quy chiếu về Đức Kitô như Đấng được sai đi để loan báo Tin Mừng.

Thánh Phaolô đã nói về tâm tình của Đức Kitô, Đấng được Thiên Chúa sai đến trong bài thánh thi thời danh: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ là phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 5-8).

Trong bài thánh thi này, thánh Phaolô chiêm ngưỡng và suy tư về mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc. Các mầu nhiệm này được diễn tả như một sự hoàn toàn từ bỏ bản thân, dẫn Đức Giêsu đến việc sống hoàn toàn như con người và gắn bó với chương trình của Chúa Cha cho tới cùng. Đây là mầu nhiệm tự hủy mang dấu ấn của tình yêu và diễn tả tình yêu.

Sứ mạng truyền giáo cũng đi trên con đường này, một con đường cuối cùng dẫn tới chân thập giá. Sứ mạng này đòi hỏi nhà truyền giáo “từ bỏ chính mình và những gì mình có, để trở nên tất cả cho mọi người”. Sự từ bỏ được thể hiện qua nếp sống nghèo khó trong sự thanh thoát của nội tâm. Nếp sống này làm cho nhà truyền giáo được tự do để loan báo Tin Mừng, tự do để trở nên người anh em của tất cả mọi người mà ngài được sai đến để đem Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ cho họ. Đó là linh đạo truyền giáo mà thánh Phaolô đã sống trên những nẻo đường truyền giáo và muốn chia sẻ lại cho chúng ta: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để được phân chia phần phúc của Tin Mừng” (1Cr 9, 22-23).

Rõ ràng vì được sai đi, nhà truyền giáo cảm nghiệm được sự hiện diện đầy an ủi của Đức Kitô đang đồng hành với mình trong mọi giây phút của cuộc đời. “Đừng sợ! Cứ nói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với con” (Cv 18, 9-10).

3. Yêu mến Giáo Hội và con người như Chúa Kitô đã yêu mến.

Linh đạo truyền giáo còn được thể hiện bằng tình yêu của người tông đồ dành cho Giáo Hội và cho con người. Người có tinh thần truyền giáo sẽ chiêm ngắm Đức Giêsu, vị Mục Tử tốt lành biết chiên của mình, tìm kiếm chiên và hy sinh mạng sống vì đàn chiên (Ga 10) mà bày tỏ tình yêu đối với các tâm hồn và đối với Giáo Hội.

Nhà truyền giáo được thúc bách nhờ “lòng nhiệt thành vì các linh hồn”, một khi được tình yêu của chính Đức Kitô soi chiếu, sẽ biết chú tâm, nhẹ nhàng, thương cảm, đón tiếp, có một con tim sẵn sàng và cởi mở, biết lưu tâm đến những vấn đề của người khác. Như Đức Giêsu, nhà truyền giáo tiên vàn là con người của tình thương. Để có thể loan báo cho mỗi người trong anh em mình rằng họ được Thiên Chúa yêu thương và họ có thể yêu thương Thiên Chúa thì nhà truyền giáo phải làm chứng về tình thương đối với mọi người bằng cách hy sinh mạng sống mình vì người khác. Nhà truyền giáo là “người anh em của tất cả” (frère universel), ngài mang trong mình tinh thần của Giáo Hội, sự cởi mở và quan tâm của Giáo Hội đối với mọi dân tộc và toàn thể nhân loại, đặc biệt đối với những người bé nhỏ nhất và nghèo khổ nhất. Ngài phải vượt qua mọi ranh giới và khác biệt về chủng tộc, giai cấp xã hội hay ý thức hệ. Ngài là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa trong thế giới, nghĩa là một tình yêu không loại trừ ai cũng như không thiên vị người nào.

Trong Tông Huấn Loan báo Tin Mừng, Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh rằng thời đại hôm nay chờ đợi những nhà truyền giáo trung thực. Sự trung thực được bày tỏ nơi chính bản thân và trong nếp sống Tin Mừng của nhà truyền giáo: “Ngày nay, người ta thường hay lặp đi lặp lại rằng: thế kỷ này khao khát sự trung thực. Nhất là khi nói tới giới trẻ, người ta quả quyết rằng họ ghê tởm những gì là giả tạo, giả mạo và tìm kiếm chân lý và sự trong sáng trên tất cả.

Chúng ta phải tỉnh táo trước những “dấu chỉ thời đại” ấy. Âm thầm hay lớn tiếng, thiên hạ luôn luôn vặn hỏi chúng ta: Các người có thực sự tin điều các người loan báo không? Các người có sống điều các người tin không? Các người có rao giảng thực sự điều các người sống không? Hơn bao giờ hết, làm chứng bằng đời sống đã trở thành một điều kiện thiết yếu để việc rao giảng có hiệu quả thâm sâu. Bằng ngả này, chúng ta lại chịu trách nhiệm, đến một mức độ nào đó, về bước tiến của Tin Mừng mà chúng ta công bố.

Ở đầu bài suy niệm này, Chúng tôi đã tự hỏi: “Mười năm sau khi Công Đồng kết thúc, Giáo Hội hiện như thế nào?”. Giáo Hội phải chăng đã cắm neo giữa lòng thế giới và phải chăng tuy vậy vẫn khá tự do và độc lập để lên tiếng nói với thế giới? Giáo Hội có chứng tỏ mình liên đới với loài người và có đồng thời làm chứng cho sự Tuyệt Đối của Thiên Chúa không? Giáo Hội có nồng nhiệt hơn trong việc chiêm niệm và thờ phượng, mà cũng nhiệt thành hơn trong công việc truyền giáo, bác ái, giải phóng không? Giáo Hội phải chăng đang dấn thân hơn mãi vào những nỗ lực nhằm tái lập sự hiệp nhất hoàn toàn giữa các kitô-hữu, sự hiệp nhất vốn cần để việc làm chứng thêm hiệu lực “ngõ hầu thế giới tin”. Chúng ta tất cả đều có trách nhiệm về những câu trả lời mà người ta có thể đem lại cho các câu hỏi trên”

Công cuộc truyền giáo giả thiết nhà truyền giáo có một lòng thương yêu ngày càng lớn hơn mãi đối với anh chị em mà mình được sai đến để nói với họ về Thiên Chúa Tình Yêu, về Tin Mừng cứu độ. Thánh Phaolô, sứ giả Tin Mừng mẫu mực đã viết cho tin hữu Thessalônica lời sau đây là một chương trình cho tất cả chúng ta: “Chúng tôi đã thương yêu anh em thắm thiết đến nỗi muốn giao phó cho anh em không những Tin Mừng của Thiên Chúa mà còn chính mạng sống chúng tôi nữa, bởi chưng anh em đã trở nên chí thân chí thiết với chúng tôi” (1 Tx 2, 8; x. Pl 1, 8).

Tình thương yêu mà thánh Phaolô biểu lộ ở đây rõ ràng là tình thương yêu của một người cha, và còn hơn nữa, của một người mẹ (x. 1 Tx 2, 7-11; 1Cr 4, 15; Gl 4, 19). Chắc chắn, Thiên Chúa mong thấy tình thương yêu như thế ở mỗi người rao giảng Tin Mừng.

Chúng ta sống trên lục địa Á châu, một lục địa mà đại đa số là người nghèo, cho nên, ta không ngạc nhiên gì khi Đức thánh cha Gioan-Phaolô II nhấn mạnh đến việc phục vụ người nghèo qua việc đề cao Mẹ Têrêxa Calcutta trong Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu: ” Mẹ là hình ảnh của sự phục vụ mạng sống mà Giáo Hội đang dâng hiến tại Á châu, can đảm đi ngược lại nhiều quyền lực đen tối đang hoành hành trong xã hội “. Ngài suy nghĩ rằng trong bối cảnh của Á Châu với đông dân nghèo và bị áp bức thì ơn gọi đặc thù của Giáo Hội tại Á châu là bầy tỏ cách riêng trong việc phục vụ đầy tình yêu đối với các người nghèo và người cô thế cô thân.

Người ta đễ tin hơn tình liên đới với kẻ nghèo, nếu chính những Kitô hữu sống đơn sơ, theo gương Đức Giêsu. Sự đơn sơ trong cách sống, đức tin sâu xa và tình yêu không giả dối đối với mọi người, nhất là người nghèo và người bị loại trừ, đó là những dấu chỉ Tin mừng trong hành động.

Tinh thương yêu nơi nhà truyền giáo không chỉ được diễn tả qua hình ảnh người bạn, người cha, người mẹ mà còn qua nhiều dấu chỉ khác nữa được Đức Phaolô VI nhắc đến trong Tông Huấn Loan báo Tin Mừng:

“Một dấu chỉ của tình thương yêu là mối quan tâm cho người khác chân lý và đưa vào sự hiệp nhất. Một dấu chỉ nữa là hy sinh trọn vẹn và dứt khoát cho việc loan báo Đức Giêsu-Kitô. Chúng tôi xin kể thêm vài dấu chỉ khác của tình thương yêu kia.

Trước tiên là sự tôn trọng hoàn cảnh tôn giáo và tinh thần của những con người đang được phúc-âm-hóa. Tôn trọng nhịp điệu riêng của họ, không thúc ép quá đáng. Tôn trọng lương tâm và những xác tín của họ, không can thiệp thô bạo.

Một dấu chỉ khác của tình thương yêu kia là biết lo tránh làm tổn thương người khác, nhất là khi họ còn yếu đức tin (x. 1Cr 8, 9-13) bằng những quả quyết có thể là sáng sủa đối với những người đã thông thạo, nhưng đối với các tín hữu thì lại có thể là nguồn dao động và cớ vấp phạm, như một vết thương trong tâm hồn.

Một dấu chỉ nữa của tình thương yêu là biết cố gắng truyền đạt cho các kitô-hữu, không phải những ngờ vực và những điều mập mờ phát sinh từ một sự học rộng mà không tới nơi tới chốn, nhưng là những điều chắc chắn vững vàng vì được neo vào Lời Thiên Chúa. Các tín hữu cần những điều vững chắc ấy cho đời sống kitô-giáo của họ; họ có quyền được những điều chắc chắn ấy, với tư cách là con cái Thiên Chúa phó thác mình hoàn toàn cho những đòi hỏi của tình thương yêu, trong tay Ngài”.

Cuối cùng, như Đức Kitô, “đã yêu thương Giáo Hội và hiến mình vì Giáo Hội” (Ep 5, 25), nhà truyền giáo phải yêu mến Giáo Hội. Tình yêu của Chúa Kitô đối với Giáo Hội, một tình yêu đến nỗi trao ban mạng sống, sẽ là tấm gương soi và điểm quy chiếu cho nhà truyền giáo. Đức Gioan-Phaolô II nhấn mạnh rằng chỉ với một tình yêu sâu xa dành cho Giáo Hội mới có thể nâng đỡ lòng nhiệt thành của nhà truyền giáo, như thánh Phaolô nói về nỗi ray rứt hàng ngày của ngài là “mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh” (2Cr 11, 28).

Đối với mỗi nhà truyền giáo, lòng trung thành với Chúa Kitô không thể tách rời khỏi lòng trung thành đối với Giáo Hội, bởi vì “có một mối liên hệ sâu xa giữa Đức Kitô, Giáo Hội và việc loan báo Tin Mừng. Trong “thời của Giáo Hội” này, chính Giáo Hội có bổn phận phúc-âm-hóa. Bổn phận không thể hoàn tất mà không có Giáo Hội, càng không thể hoàn tất nếu chống lại Giáo Hội”.

4. Nhà truyền giáo đích thực là một vị thánh

Lời mời gọi truyền giáo tự bản chất phát xuất từ lời mời gọi nên thánh. Nhà truyền giáo chỉ thực sự là nhà truyền giáo khi ngài dấn thân trên con đường thánh thiện “Sự thánh thiện là nền tảng cốt lõi và điều kiện không thể thay thế được để chu toàn sứ mạng cứu rỗi của Giáo Hội”.

Ơn gọi phổ quát hướng tới việc nên thánh liên hệ mật thiết với ơn gọi phổ quát hướng tới sứ mạng truyền giáo, bởi vì mỗi người tín hữu được mời gọi nên thánh và truyền giáo. Linh đạo truyền giáo là con đường dẫn tới sự thánh thiện.

Sức năng động mới hướng tới muôn dân (Ad gentes) đòi hỏi các nhà truyền giáo thánh thiện. Đức thánh cha Gioan-Phaolô II nhắc đến điều này với một lòng xác tin: “Thật không đủ khi chúng ta chỉ nghĩ tới việc đổi mới các phương pháp mục vụ cũng như làm thế nào để tổâ chức nhân sự và tài lực tốt hơn hay đào sâu nền tảng kinh thánh và thần học của đức tin. Phải gợi lên một sức năng động mới về sự thánh thiện nơi các nhà truyền giáo và trong từng cộng đoàn kitô hữu, đặc biệt nơi những người cộng tác gần gũi nhất của các nhà truyền giáo.

Chúng ta hãy nhớ lại sức năng động truyền giáo nơi các cộng đoàn tín hữu sơ khai. Mặc dù lúc bấy giớ còn thiếu phương tiện di chuyển và truyền thông, nhưng việc loan báo Tin Mừng đã sớm đi đến mọi miền thế giới. Và cho dù đó là một tôn giáo của một Người đã chết trên thập giá, “một cớ vấp phạm đối với người Do Thái và sự điên rồ đối với dân ngoại” (1Cr 1, 23). Tự nền tảng của sức năng động truyền giáo này, ta thấy có sự thánh thiện của các cá nhân và của các cộng đoàn tín hữu sơ khai”.

Trong mọi trường hợp, rõ ràng là không thể có sự rao giảng Tin Mừng đích thực, nếu người kitô hữu không sống chứng tá phù hợp với sứ vụ rao giảng: “Hình thức chứng tá thứ nhất là chính đời sống của vị thừa sai, của gia đình Kitô hữu và của cộng đồng Giáo Hội, một cộng đồng bày tỏ một nếp sống mới…Mỗi người trong Giáo Hội, khi cố gắng bắt chước Vị Thầy Thần Linh, thì có thể và phải làm chứng theo kiểu này; trong nhiều trường hợp, đó là phương cách duy nhất có thể được, để trở thành nhà truyền giáo”.

Nhà truyền giáo phải là một nhà “chiêm niệm trong hành động”. Khi tiếp xúc với các vị đại diện của các truyền thống thiêng liêng ngoài Kitô giáo, nhất là của Á Châu, Đức thánh cha xác tín rằng tương lai của việc truyền giáo tuỳ thuộc phần lớn vào sự thánh thiện. Nhà truyền giáo, nếu không phải là nhà chiêm niệm thì không thể loan báo Chúa Kitô một cách khả tín được. Điều này chắc chắn đúng trong bối cảnh Á Châu, nơi mà dân chúng được thuyết phục do đời sống thánh thiện hơn là do luận chứng tri thức. Như thế, để là chứng nhân cho kinh nghiệm về Thiên Chúa, nhà truyền giáo phải có kinh nghiệm về Thiên Chúa, “Điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng…về Lời hằng sống… chúng tôi đã loan báo” (1 Ga 1, 1-3).

Đức thánh cha chia sẻ với các Giáo Hội tại Á Châu rằng trong bối cảnh của Á Châu, quê hương của các tôn giáo lớn, nơi mà các cá nhân cũng như toàn dân khao khát cái thiêng thánh, Giáo Hội được kêu gọi trở nên một Giáo Hội cầu nguyện. Tất cả các Kitô hữu cần một tu đức truyền giáo thực sự gồm có cầu nguyện và chiêm niệm.

Đức thánh Cha còn ghi nhận rằng các nghị phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã nhấn mạnh nhiều đến chỗ đứng của chiêm niệm trong công cuộc truyền giáo:: “Việc công bình, bác ái và thương xót phải gắn bó mật thiết với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm đích thực, và thật vậy, chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin mừng của chúng ta”.

Sự thánh thiện nơi bản thân nhà truyền giáo được nhìn thấy trong nếp sống của Tám Mối Phúc. Nhà truyền giáo là con người của Tám Mối Phúc. Trước khi sai các tông đồ đi rao giảng, Đức Giêsu đã huấn luyện nhóm Mười Hai bằng cách cho họ thấy những con đường của truyền giáo: khó nghèo, hiền lành, chấp nhận đau khổ và những bách hại, khao khát sự công chính và hoà bình, bác ái, hay nói khác đi là con đường Tám Mối Phúc (x. Mt 5, 1-12). Trong khi sống Tám Mối Phúc, nhà truyền giáo có kinh nghiệm và cho thấy một cách cụ thể rằng Nước Thiên Chúa đã đến và chính bản thân ngài đã đón nhận Nước ấy.

Sự thánh thiện không chỉ là lời mời gọi của Chúa, nhưng nơi bản thân của nhà truyền giáo, nó còn là sự chờ đợi của thế giới hôm nay, như Đức Phaolô VI nhận định: “Thế giới tuy có vô vàn dấu hiệu từ khước Thiên Chúa, nhưng một cách nghịch thường vẫn tìm kiếm Ngài bằng những đường nẻo bất ngờ và vẫn xót xa cảm thấy cần đến Ngài, thế giới ấy đòi có những sứ giả Tin Mừng nói về một Thiên Chúa mà họ biết và gần gũi như thể họ đã từng thấy Đấng không thể thấy (x. Dt 11, 27). Thế giới đòi hỏi và chờ đợi ở chúng ta đời sống giản dị, tinh thần cầu nguyện, lòng yêu thương đối với mọi người nhất là đối với những kẻ bé mọn và nghèo khó, đức vâng phục và khiêm tốn, sự siêu thoát và từ bỏ chính mình và mọi sự. Không có dấu hiệu về sự thánh thiện như thế, lời chúng ta nói sẽ khó đi vào lòng của con người thời nay. Nó có thể thành vô ích và vô hiệu”.

Một trong những nét đặc sắc của cuộc đời nhà truyền giáo là niềm vui nội tâm phát xuất từ đức tin. Trong một thế giới đầy lo âu và bị áp lực của trăm ngàn vấn đề, một thế giới dễ làm cho con người bi quan, thì người loan báo Tin Mừng phải là người đã tìm thấy nơi Đức Kitô nguồn hy vọng đích thực.

Đức Phaolô VI nhận xét rằng công cuộc truyền giáo trong thời đại chúng ta gặp nhiều trở ngại bởi vì sự thiếu nhiệt tình và niềm vui nơi bản thân người tín hữu. Nó càng trầm trọng bởi lẽ nó phát xuất từ bên trong; nó biểu lộ trong sự mệt mỏi và chán nản, sự làm lấy lệ và hờ hững. Đức thánh cha khuyến khích tất cả những người có nhiệm phúc-âm-hóa với tư cách nào và ở cấp bậc nào cũng vậy, hãy nuôi dưỡng nhiệt tình cho tâm thần mình (x. Rm 12, 11).

“Chúng ta hãy giữ cho tinh thần được nhiệt thành. Chúng ta hãy giữ niềm vui dịu dàng và khích lệ trong công việc phúc-âm-hóa, ngay cả khi phải gieo trong nước mắt. Ước gì đó là một nhiệt tình mà không ai và không gì có thể dập tắt được nơi chúng ta – cũng như nơi thánh Gioan Tẩy Giả, nơi thánh Phêrô và thánh Phaolô, nơi các thánh Tông Đồ khác, nơi vô vàn sứ giả Tin Mừng đáng khâm phục trong suốt cả lịch sử Giáo Hội –. Ước gì đó là niềm vui lớn lao cho những cuộc đời của chúng ta đã được hiến dâng. Và ước gì thế giới thời đại chúng ta, đang tìm kiếm, khi thì trong lo âu, khi thì trong hy vọng, có thể nhận được Tin Mừng, không phải từ những sứ giả Tin Mừng buồn rầu và chán nản, nôn nóng hay bứt rứt, nhưng là từ những thừa tác viên của Tin Mừng có đời sống tỏa ấm nhiệt tình, đã nhận sẵn niềm vui của Đức Kitô trong bản thân mình và chấp nhận đánh đổi mạng sống mình lấy việc Triều Đại được loan báo và Giáo Hội được đưa vào giữa lòng thế giới”.

5. Xây dựng hiệp nhất

Đây là mối ưu tư đặc biệt của Đức Phaolô VI, vị giáo hoàng của đại kết và đối thoại. Mối ưu tư này được nói lên một cách mạnh mẽ trong Tông Huấn Loan báo Tin Mừng:

“Sức mạnh của việc phúc-âm-hóa sẽ bớt đi nhiều nếu những người loan báo Tin Mừng lại chia rẽ nhau bằng đủ thứ gãy vỡ. Phải chăng đó là một trong những vướng víu lớn nhất cho việc phúc-âm-hóa ngày nay? Thật vậy, nếu Tin Mừng mà chúng ta công bố lại cho thấy bị xâu xé bởi những cãi cọ về giáo thuyết, những phân cực ý thức hệ hay những kết án lẫn nhau giữa các kitô-hữu, tùy theo những cách họ nhìn khác nhau về Đức Kitô và về Giáo Hội, và ngay cả vì những cách họ quan niệm khác nhau về xã hội và các thể chế nhân loại, thì làm sao những người được chúng ta rao giảng lại khỏi bị dao động, lạc hướng nếu không nói là bị vấp phạm?

Di chúc thiêng liêng của Chúa nói với chúng ta rằng sự hiệp nhất giữa các môn đồ của Người không phải chỉ là bằng chứng chúng ta thuộc về Người mà còn là bằng chứng Người do Chúa Cha sai đến, là trắc nghiệm về sự đáng tin của các kitô-hữu và của chính Đức Kitô. Là những sứ giảTin Mừng, chúng ta cần hiến cho các tín hữu của Đức Kitô, không phải hình ảnh những con người chia lìa nhau vì những tranh chấp không chút xây dựng, nhưng là hình ảnh những con người chín chắn trong đức tin, có khả năng gặp gỡ nhau bên trên những căng thẳng thực tế, nhờ việc cùng nhau tìm kiếm chân lý một cách chân thành và vô vị lợi. Phải, số phận công cuộc phúc-âm-hóa chắc chắn được gắn liền với việc Giáo Hội làm chứng cho sự hiệp nhất. Đó là một nguồn trách nhiệm mà cũng là một nguồn khích lệ”. Như vậy, nhà truyền giáo là sứ giả của hoà bình và người thợ xây dựng sự hiệp nhất và đối thoại.

6. Nơi trường học của Đức Maria, nhà truyền giáo đầu tiên

Trong thông điệp đầu tiên Redemptor Hominis (Đấng Cứu Chuộc con người), Đức thánh cha Gioan-Phaolô II đã viết rằng chỉ trong một bầu khí cầu nguyện sốt sắng mới có thể “đón nhận Chúa Thánh Thần ngự xuống trên chúng ta và nhờ đó trở nên những nhân chứng của Đức Kitô cho đến tận cùng trái đất, giống như những người ra khỏi phòng Tiệc Ly tại Giêrusalem vào ngày lễ Ngũ Tuần”.

Tháng Mười năm ngoái, khi bước vào năm thứ 25 sứ vụ giáo hoàng, với Tông Thư Rosarium Virginis Mariae (Kinh Mân Côi của Trinh Nữ Maria), Đức thánh cha Gioan-Phaolô đã công bố một Năm đặc biệt, gần như một sự tiếp nối lý tưởng của Năm thánh, dành cho việc tái khám phá kinh Mân Côi, là kinh nguyện rất thân thiết với truyền thống kitô giáo; một năm cần được sống dưới cái nhìn của Đấng, theo kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, nhờ lời “Xin Vâng”, đã làm cho việc cứu độ loài người có thể được thực hiện. Đồng thời ngài đặt Đức Trinh Nữ rất thánh làm Thầy dạy các tín hữu trong việc chiêm ngắm khuôn mặt Chúa Kitô để từ đó ra đi truyền giáo trên đại dương bao la của thế giới.

Đức thánh cha ước mong rằng Năm Mân Côi sẽ tạo nên một cơ hội thuận lợi để các tín hữu trên mọi lục địa đào sâu ý nghĩa của ơn gọi kitô hữu. Dưới mái trường của Đức Trinh Nữ và noi gương ngài, mỗi cộng đoàn sẽ có thể làm nổi bật hơn chiều kích “chiêm niệm” và “truyền giáo” của mình. “Kinh Mân Côi cũng là một con đường loan báo và hiểu biết ngày một hơn, trong đó mầu nhiệm của Đức Kitô được trình bày đi, trình bày lại ở nhiều mức độ khác nhau của kinh nghiệm Kitô giáo. Đó là một trình bày mang tính cầu nguyện và chiêm ngưỡng, có khả năng đào tạo người Kitô hữu theo trái tim của Đức Kitô… Kinh Mân côi vẫn giữ được sức mạnh của nó và tiếp tục là một tài nguyên mục vụ có giá trị tố đẹp cho mọi người loan báo Tin Mừng”.

Đức thánh cha chia sẻ với Giáo Hội rằng sự tin tưởng chạy đến cùng Đức Maria, qua việc đọc kinh Mân Côi hằng ngày và việc suy niệm các mầu nhiệm đời sống Chúa Kitô, sẽ nhấn mạnh rằng sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội trước hết phải được nâng đỡ bằng việc cầu nguyện. Thái độ “lắng nghe” mà kinh Mân Côi gợi lên, đem người tín hữu lại gần Đức Maria, Đấng”hằng ghi nhớ mọi điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Việc siêng năng suy niệm Lời Chúa luyện tập cho chúng ta sống “hiệp thông sống động với Đức Giêsu. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đức Maria giúp chúng ta đạt được “sự dạn dĩ thanh thản” làm cho chúng ta có khả năng thông truyền cho người khác kinh nghiệâm về Đức Giêsu.

Dưới mái trường của Đức Maria, Giáo Hội chiêm ngưỡng dung nhan đầy lòng thương xót của Đức Giêsu nơi những người anh chị em, đặc biệt nơi những người nghèo khó và thiếu thốùn. Với sự ân cần từ mẫu mà Mẹ đã tỏ ra ở tiệc cưới Cana )x. Ga 2, 1-5), Đức Maria dạy nhà truyền giáo biết sống tế nhị, yêu thương và quan tâm đến những vấn đề của con người.

Hình ảnh Đức Maria, nhà truyền giáo đầu tiên đã để cho Thánh Thần thúc đầy mà vội vã tiến bước (x. Lc 1, 39-56) đem Chúa Giêsu trong cung lòng mình đến cho nhà Elizabeth mời gọi các sứ giả Tin Mừng không được để cho nhiệt tình tông đồ suy giảm đi, đặc biệt trong sứ vụ truyền giáo “đến với muôn dân” (Ad gentes).

Vào buổi sáng ngày Hiện Xuống, ai cũng biết là Mẹ Maria đã có mặt với các Tông Đồ, hiệp nhất “cùng một lòng trong lời cầu nguyện” (x. Cv 1,14) trong cộng đoàn tiên khởi được qui tụ sau khi Chúa lên trời, trong khi chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống. Đức Maria đã tham dự vào buổi khởi đầu công cuộc phúc-âm-hóa dưới tác động của Chúa Thánh Thần: ước gì Ngài là Ngôi Sao Sáng của công cuộc phúc-âm-hóa luôn được làm mới lại mãi mà Giáo Hội, thừa lệnh Chúa, phải xúc tiến và thực hiện, nhất là giữa thời buổi vừa khó khăn vừa đầy hy vọng này.

Kết Luận

Chúng ta vừa làm công việc tổng hợp một linh đạo truyền giáo được nói đến trong một số văn kiện của các Đức Giáo Hoàng. Chúng ta hy vọng rằng linh đạo truyền giáo sẽ làm cho lòng chúng ta bừng cháy lên nhiệt tình loan báo Tin Mừng.

Truyền giáo khởi sự bằng cuộc sống và con tim. Cuộc sống và con tim đòi hỏi các môn đệ Chúa Kitô sống có tấm lòng. Tấm lòng với mọi người và với Giáo Hội, một tấm lòng “dễ dạy” đối với Chúa Thánh Thần, một tấm lòng mới như của Đức Maria.

Ký hiệu viết tắt:

EA: Tông Huấn Ecclesia in Asia (Giáo Hội tại Á Châu) của ĐTC Gioan Phaolô II (6 -11-1999)

EN: Tông Huấn Evangelii nuntiandi (Loan báo Tin Mừng) của ĐTC Phaolô VI (8 -12-1975)

NM: Tông Thư Novo Millennio ineunte (Bước vào ngàn năm mới) của ĐTC Gioan-Phaolô II (6-1-2001)

RM: Thông điệp Redemptoris missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế) của ĐTC Gioan Phaolô II (7-12-1990)

RVM: Tông Thư Rosarium Virginis Mariae (Kinh Mân Côi của Đức Trinh Nữ Maria) của ĐTC Gioan-Phaolô II (16-10-2002)

TG: Công Đồng chung Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Truyền giáo của Giáo Hội (Ad gentes)

35. Loan báo Tin Mừng–Gioan Văn Huy

Vì yêu thương, Thiên Chúa đã tạo nên con người và muốn cho tất cả mọi người tham dự vào sự sống của Ngài. Ngài còn muốn liên kết mọi mỗi người thành một đoàn chiên duy nhất.[1] Thật vậy, Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến không chỉ với những con chiên lạc nhà Israel, mà Ngài còn hoà giải cả vũ trụ với Thiên Chúa (x.Cl 1,18-20 ), với dân ngoại, dẹp tan các mối thù địch để tạo ra một nhân loại mới (x.Ep 2,13-18).

Ơn cứu độ của Thiên Chúa mang tính phổ quát (x.Lc 2,30). Máu của Đức Giêsu đổ ra đem lại ơn cứu độ cho muôn người (x.Mc 10,45). Vì vậy, sứ mệnh của Giáo hội được nối kết với sứ mệnh của Chúa Giêsu: “Như Cha đã sai Thầy đến thế gian, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Cho nên, sứ vụ truyền giáo là “bổn phận của toàn thể Giáo hội”, vốn “tự bản chất là thừa sai.”[2] Việc loan báo Tin mừng sẽ không trọn vẹn nếu không quan tâm đến mối quan hệ giữa Tin mừng và cuộc sống: cá nhân và xã hội của con người, công lý, hoà bình, phát triển và việc giải phóng con người thoát khỏi nghèo đói, bệnh tật và những bất công.[3] Giáo hội xem lời của Thánh Phaolô như sứ điệp của mình: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc âm” (1Cr 9,16).

Trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền lại cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20). Lệnh đó đã được tiếp diễn trong suốt chiều dài lịch sử từ thời các Tông đồ cho đến ngày nay và muôn đời sau. Trải qua thời gian, Giáo hội không ngừng ban hành các Tông thư, Tông huấn về truyền giáo, để các tín hữu hiểu rõ hơn và ý thức nhiệm vụ cấp bách này. Qua những dẫn chứng trên, người viết muốn trình bày ba điểm về việc truyền giáo, đó là: Ý thức, thao thức, cách thức truyền giáo.

Thứ nhất: Ý thức việc truyền giáo:

Lời kêu gọi của Chúa Giêsu vẫn còn vang vọng và thúc đẩy chúng ta. Thế nhưng, không ít người Kitô hữu vẫn còn bàng quan cho yên phận, thay vì làm chứng cho Chúa thì chỉ lo giữ đạo, giữ đức tin cho vững là đủ. Là “men”, là “muối”, Giáo hội luôn mang trong mình một “nội lực” nhận lãnh từ Chúa Thánh Thần để tiếp tục biến đổi sao cho phù hợp với sự phát triển không ngừng của thế giới về mọi lãnh vực khoa học kỹ thuật cũng như xã hội nhân văn. Ý thức về sứ vụ của mình, Giáo hội tại Việt Nam cũng đã minh định qua Thư chung của Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010: “Thay vì coi truyền giáo chỉ như một trong những hoạt động của Giáo hội, thì nay cần nhìn sứ mệnh truyền giáo như nắm men thấm nhập, khơi dậy và chi phối mọi khía cạnh đời sống Giáo hội. Do đó, cần dành mọi nỗ lực và hoạt động, từ vật chất đến thiêng liêng và mục vụ, cho mục tiêu này.”[4] Công đồng Vatican II đã mời gọi: “Mọi tín hữu đều có bổn phận rất cao cả là hoạt động để mọi người trên khắp hoàn cầu nhận biết và đón nhận Phúc âm cứu độ của Chúa.”[5] Thật vậy, “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành là truyền giáo.”[6] Cho nên, ta phải ý thức trách nhiệm phận vụ của mình.

Thứ hai: Thao thức truyền giáo:

Dù muốn dù không, mỗi Kitô hữu đều là tông đồ của Đức Giêsu ngay từ ngày lãnh Bí tích Rửa tội. Bí tích này làm cho chúng ta trở thành chi thể của Chúa Giêsu, thông phần vào vai trò ngôn sứ của Ngài, nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin mừng cứu độ của Thiên Chúa. Truyền giáo là một công việc đòi hỏi kiên nhẫn. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tm 4,2). Chúa vẫn luôn mời chúng hãy “ra khơi thả lưới” như các môn đệ xưa kia, vì cánh đồng truyền giáo vẫn còn bát ngát bao la. Muốn vậy, chúng ta phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa và yêu người. Chúng ta mến Chúa và yêu mến tha nhân, nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui và hy vọng với tha nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần nhau hơn. Được kêu gọi trở nên hạt giống hy vọng, bổn phận của chúng ta là tiếp nối sứ vụ của Chúa Kitô trong thế giới. Phạm vi sứ mạng và việc phục vụ của Giáo hội không thuộc lãnh vực vật chất, hay cả những nhu cầu tinh thần giới hạn nơi cuộc sống trần thế, nhưng là ơn cứu độ siêu việt, được hoàn tất trong Nước Thiên Chúa.[7] Sống tinh thần Kitô giáo, nghĩa là không “đóng kín cửa lòng”, mà phải mở ra để trao tặng cho nhân loại ân ban mà ta đã nhận từ Chúa Kitô.

Thứ ba: Cách thức truyền giáo:

Có nhiều cách thức truyền giáo, nhưng sau đây là những cách mà người viết nghĩ có thể thể mang lại hiệu quả cao, đó là: Cầu nguyện, sống gương mẫu, bác ái, tiếp xúc các nhân và đối thoại.

Cầu nguyện: Công trình cứu độ là của Thiên Chúa. Chúng ta chỉ là người cộng tác vào công trình ấy. Thật vậy, “nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 126,1). Chính Thiên Chúa mới làm cho công cuộc truyền giáo sinh hoa kết quả (x.1Cr 3,6-7). Thánh Phaolô cũng nói: “Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin, và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện” (Pl 4,6). Bởi vậy, cầu nguyện cho việc truyền giáo là cách thức rất quan trọng: cầu nguyện cho những người đi truyền giáo, cầu nguyện cho mọi người mở rộng lòng sẵn sàng đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cả đời không đi đâu truyền giáo, chỉ ở trong bốn bức tường dòng kín cầu nguyện cho việc truyền giáo. Thế mà Giáo hội đã tôn phong ngài là quan thầy các nơi truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê.

Sống gương mẫu: Truyền giáo tốt nhất và có hiệu quả nhất là đời sống gương mẫu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo, như lời căn dặn của Chúa Giêsu: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Thật vậy, không ai có thể loan báo Tin mừng cho người khác, nếu tâm hồn chưa được Phúc âm biến đổi, hay “không ai có thể làm chứng cho Chúa nếu không phản chiếu hình ảnh của Ngài.”[8] Kinh nghiệm của các tín hữu sơ khai cho thấy, đời sống tu đức là căn bản, và là nguồn sinh lực của việc truyền giáo. Mặc dù thiếu thốn và nhiều khốn đốn (1Cr 1,23), nhưng các tín hữu vẫn luôn đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện và siêng năng trong nghi lễ bẻ bánh. Họ sống tình yêu thương chan hòa trong sự chia sẻ với nhau, và nêu cao phẩm chất của đời sống Kitô hữu. Do vậy, họ “được toàn dân thương mến” (Cv 2,46). Nhờ đời sống thánh thiện của các cộng đoàn sơ khai, Tin mừng đã lan tràn khắp nơi.

Bởi vậy, đời sống chứng nhân tốt là cách thức truyền giáo hữu hiệu. Việc làm cụ thể và thiết thực đi kèm với lời nói (rao giảng) mới đủ sức thuyết phục con người thời nay và mới chứng minh được những điều được chúng ta rao giảng là chân thật. Đời sống chứng nhân không chỉ là của các cá nhân, mà còn phải là chứng tá của cả gia đình, cộng đoàn của giáo xứ. Muốn vậy, chúng ta phải sống gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu và với Chúa Thánh Thần như cành nho gắn liền với thân nho (x.Ga 15,1-8), vì không có đời sống siêu nhiên và ơn sủng của Thiên Chúa chúng ta không thể làm được điều gì tốt lành. Sự thánh thiện là dấu chỉ đời sống chứng tá hữu hiệu nhất trong việc truyền giáo. Đức Phaolô VI đã nói: “Người đương thời sẵn sàng lắng nghe những nhân chứng hơn là những thầy dạy, hoặc nếu họ có nghe thầy dạy, thì bởi vì chính thầy dạy cũng là những nhân chứng.”[9] Kitô hữu là người được Chúa Kitô “chiếm đoạt” (x.Pl 3,12). Một khi được Ngài chiếm đoạt, Chúa Thánh Thần sẽ thúc đẩy làm chứng nhân cho Chúa.

Sống bác ái: Hoạt động tông đồ của Giáo hội phải khởi đi từ đức ái, bởi vì đức ái, theo thánh Phaolô, là một điều gì đó còn lớn lao hơn là một hoạt động: “Giả như tôi có đem hết tài sản mà bố thí, hay nộp thân thể tôi để chịu thiêu đốt, mà không có lòng mến, thì cũng không ích gì cho tôi” (1Cr 13,3). Cũng vậy, thánh Matthêu cho biết: “Anh sáng của anh em phải chiếu toả trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

Mục đích của truyền giáo không dừng lại ở việc “cứu các linh hồn”, nhưng đúng hơn là sống đời sống của một Kitô hữu, sống theo Tin mừng và dấn thân làm cho thế giới trở thành một ngôi nhà chung: “Sự hiện diện của các Kitô hữu giữa các nhóm người phải được sống động bằng chính tình bác ái mà Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và muốn chúng ta cũng yêu thương nhau bằng tình bác ái đó. Bác ái Kitô giáo thực sự lan tràn tới mọi người không phân biệt chủng tộc, hoàn cảnh xã hội hay tôn giáo.”[10] Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu (x.Lc 10,25-37) mang đến cho chúng ta tiêu chuẩn để đo lường lòng bác ái. Giới răn yêu thương phải vượt qua những ranh giới địa lý vùng miền, để mở rộng ra cho tất cả những ai cần đến sự trợ giúp của chúng ta. Giáo hội muốn mọi người biết thế giới thật sự là một “ngôi làng chung’, ở đó người ta cảm nhận được mình là thành phần của gia đình nhân loại. Với gia đình này người ta chia sẻ với nhau những niềm vui và những đau khổ, những hy vọng và thử thách. Thật vậy, Giáo hội là cộng đoàn chỉ có một nền tảng duy nhất đó là tình yêu, tình yêu là nội dung và là phương thức về sự hiện diện và sứ vụ của Giáo hội. “Thiên Chúa là tình yêu. Nơi đó, chân lý này có thể được nhìn ngắm như lời Đức Bênêđíctô XVI đã nói: “Việc bảo vệ Thiên Chúa và con người cách tốt nhất nằm ngay trong tình yêu.”[11]

Tiếp xúc cá nhân: Chúng ta không được diễm phúc như các Tông đồ là rao giảng lời Chúa một cách hùng hồn và làm nhiều phép lạ. Sống trong thời đại ngày nay, chúng ta chỉ có thể loan báo Tin mừng cho người khác bằng tiếp xúc cá nhân qua đời sống hằng ngày. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari (Ga 4,1-42) là một minh chứng. Việc Đức Giêsu muốn làm là xây dựng lòng tin tưởng. Tin nhau mới có thể cộng tác với nhau, mới có thể chia sẻ mọi sự cho nhau. Một trong những cách Đức Giêsu xây dựng lòng tin nơi người khác là thể hiện sự quan tâm. Đức Giêsu quan tâm đến chị, thấu hiểu hoàn cảnh của chị và cảm thông với nỗi khổ tâm của chị. Thật vậy, một khi người khác lấy được niềm tin nơi chúng ta, lúc ấy chúng ta sẵn sàng chia sẻ niềm tin và hy vọng của chúng ta nơi Đức Kitô. Muốn cho việc tiếp xúc cá nhân đạt được thành quả, điều cốt yếu là sự cầu nguyện và hi sinh. Ta nói với Chúa về người bạn trước khi nói với bạn về Chúa. Sự học hỏi trau dồi kiến thức thần học giáo dân là một khía cạnh cần cố gắng. Thái độ khiêm cung, nhã nhặn, lịch thiệp, vồn vã và chân tình là những đức tính cần có của chúng ta mỗi khi giao tiếp, để qua đó, mọi người cùng nắm tay nhau phục vụ anh chị em và phụng sự Chúa. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới cho lớn lên” (1Cr 3,6). Chúng ta hãy gieo niềm tin và hy vọng nơi những người mà chúng ta gặp gỡ, việc còn lại, hãy để Chúa Thánh Thần tác động nơi họ. Muốn thế, ta phải biết cách đối thoại.

Đối thoại: Đối thoại là một phần thiết yếu trong sứ mạng của Giáo hội, “vì nó xuất phát từ chính sự đối thoại yêu thương ban ơn cứu độ của Chúa Cha với nhân loại qua Chúa Con và trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.”[12] Đối thoại là để mở lòng, đón nhận, sống với, phục vụ mọi người bằng tình yêu thương theo gương Chúa Giêsu. Đó là ơn gọi của mỗi Kitô hữu, một ơn mời gọi phải tích cực đi đến với mọi anh chị em để lắng nghe, chia sẻ, hiểu biết, cảm thông, và loan báo Tin mừng bằng chính đời sống mình. Đức Phanxicô kêu gọi: “Tôi muốn thấy một Giáo hội bị bầm giập, tổn thương và lấm lem trên đường dấn thân, chứ không phải là một Giáo hội “xanh xao vàng vọt’ vì sống đóng khung và bám víu vào chu vi hàng rào an toàn của riêng mình…”[13] Đối thoại là khiêm tốn nhận ra sự hiện diện kín đáo của Thiên Chúa trong cuộc tranh đấu của người nghèo, trong sự phong phú về văn hóa, trong sự đa dạng về truyền thống tôn giáo và trong thẳm sâu cõi lòng mỗi người. Ðối thoại như thế là lối sống và phương cách truyền giáo của chúng ta. Ðối thoại trở thành nền tảng cho nền linh đạo hiệp thông nhằm canh tân sứ giả Tin mừng.[14]

Tóm lại, lời kêu gọi của Đức Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho muôn loài thọ tạo” (Mc 16,15) đang thúc bách chúng ta. Nhìn cánh đồng truyền giáo vẫn còn bát ngát bao la đang chờ đợi mỗi người chúng ta. Vì vậy, chúng ta phải thao thức, ý thức và tìm cách cách thức truyền giáo là bổn phận và nghĩa vụ của của chúng ta. Chúng ta phải tận dụng mọi cơ hội, trong mọi hoàn cảnh để đưa Tin mừng của Chúa đến cho mọi người. Sứ mạng truyền giáo là nhiệm vụ ưu tiên của Giáo hội, như lời Đức Gioan Phaolô II đã nói: “Nhìn vào số đông nhân loại chưa biết Chúa cũng đủ cho thấy rằng sứ mệnh này mới chỉ đang ở những bước đầu tiên và chúng ta còn cần phải dồn hết mọi nỗ lực của mình cho công trình này.”[15] Vì vậy, lòng nhiệt thành truyền giáo luôn là dấu chỉ sức sống của các Giáo hội chúng ta.

________________________

[1] Cf. Ad Gentes, số 2 trong Công đồng Vaticanô II, (Phân Khoa Thần Học Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, 1972 – Đà Lạt dịch).

[2] Ad Gentes, op. cit., 2.

[3] Cf. Paul VI, Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi, no. 29-38 (8 December 1975).

[4] Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Thư chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010, số 31.

[5] Apostolicam Actuositatem, số 3 trong Công đồng Vaticanô II, (Phân Khoa Thần Học Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, 1972 – Đà Lạt dịch).

[6] Ad Gentes, op. cit., 2.

[7] Cf. Paul VI, Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi, op. cit., 27.

[8] John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio, op. cit., 87.

[9] Francis, Evangelii Nuntiandi, op. cit., 41.

[10] Ad Gentes, op. cit., 12.

[11] Benedict XVI, Encyclical Letter Deus Caritas Est, no. 31 (December 25, 2005): AAS 98 (2006), 245.

[12] John Paul II, Ecclessia in Assia, op. cit., 29.

[13] Francis, Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium, no. 49 (24 November 2013): AAS 105 (2013).

[14] Cf. Sứ điệp Hội nghị toàn thể lần thứ X của Liên Hội đồng giám mục Á châu, số 5.

[15] John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio, op. cit., 1.

36. Khánh Nhật truyền giáo–Lm. GB. Trần Văn Hào

Trong cuộc tông du tại Hoa Kỳ năm 2015, , Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Thánh lễ ngày 23 tháng Chín tại Đền Thánh Đức Mẹ Vô nhiễm ở Washington DC để tuyên thánh cho Cha Junipero Serra, một vị thừa sai dòng Phanxicô gốc Tây Ban Nha. Vị Thánh đã đến Châu Mỹ làm việc cho thổ dân da đỏ và đã đón nhận cái chết tử đạo để minh chứng đức tin. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nhắc lại câu châm ngôn của vị thánh, là “Hãy luôn tiến lên phía trước để rao giảng Tin mừng”. Đức Thánh Cha cũng gợi lại tư tưởng mà Ngài đã viết trong Tông huấn “Niềm vui của Tin mừng’ (Gaudium Evangelii): “ Từ sâu tận tâm hồn, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy ra đi. Đừng ở lỳ một chỗ để an hưởng một cuộc sống nhàn hạ. Đức Giêsu nói với các Tông đồ: Hãy đi rao giảng. Niềm vui Tin mừng là điều chúng ta phải trải nghiệm cách cụ thể. Chúng ta không có niềm vui đó nếu chúng ta không biết xả thân và trao ban”. Đây cũng là sứ điệp Giáo hội gửi trao đến chúng ta trong ngày Chúa nhật truyền giáo hôm nay.

Truyền giáo là lên đường.

Trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô, Thánh Phaolô đã nói đến bốn phần vụ trong Giáo hội để xây dựng nhiệm thể Đức Kitô, đó là: làm tông đồ, làm ngôn sứ, làm người loan báo Tin mừng, làm người coi sóc và dạy dỗ (Eph 4, 11). Trong bốn chức năng đó, trở thành người loan báo Tin mừng đòi hỏi sự hy sinh và dấn thân hơn cả, bởi vì người đó phải ra đi và lên đường. Người đi rao giảng Tin mừng phải rời bỏ tất cả: từ gia đình, quê hương, đến nơi ăn chốn ở và mọi dính bén khác. Căn gốc của sự ra đi chính là từ bỏ chính mình. Khi sai các học trò đi thực tập truyền giáo, Chúa Giêsu chỉ trang bị cho các ông một món hành trang duy nhất, đó là “năng quyền trừ quỷ và chữa lành các bệnh tật’, ngoài ra không tiền bạc, không bao bị, không mặc hai áo, không giầy dép..( Lc 9,3). Vì vậy, truyền giáo trước hết là phải sẵn sàng lên đường và ra đi đến mọi ngõ ngách của thế giới, đặc biệt đến những vùng ven (peripheries) như lời Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi. Cuộc ra đi như vậy đòi hỏi phải chấp nhận phiêu lưu cách mạo hiểm, và cao điểm của cuộc hành trình liều lĩnh là chấp nhận cái chết như Đức Kitô trên Thập giá. Khi phong Thánh cho Cha Serra cuối tháng Chín năm 2015, Đức Thánh Cha đã nhắc lại đôi nét về sự ra đi của Ngài. Vị Thánh đã quảng đại từ khước địa vị danh giá là ghế giáo sư đại học ở Tây Ban Nha để lên đường sang Tân thế giới, phục vụ cho Tin mừng và ơn cứu độ. Cuộc mạo hiểm của Ngài đã phải trả giá, nhưng là cái giá của vinh thắng. Vừa khi mới đặt chân đến Mexicô, chân của Ngài đã bị sưng tấy vì dị ứng và đau đớn tột cùng, giống như bị ung thư hay bị nhện rừng cắn. Cao điểm của cuộc phiêu lưu này là Ngài đã bị giết chết, để bảo vệ các thổ dân. Một thi sỹ đã viết: “ Ra đi là chết trong lòng một ít”. Nhưng sự ra đi trong hành trình truyền giáo là sao chép lại tận căn chính cái chết của Đức Giêsu, vị truyền giáo đầu tiên, và cũng là nguyên mẫu cho chúng ta trong việc thực thi sứ mệnh rao giảng Tin mừng.

Đức Giêsu, nguyên mẫu của ơn gọi truyền giáo.

Năm mươi năm trước, Công đồng Vaticanô 2 đã ban hành sắc lệnh về truyền giáo “Ad Gentes’. Ngay từ chương đầu tiên của giáo huấn này, Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn về Đức Kitô như là nguyên mẫu. Công đồng đưa dẫn nhiều trích đoạn kinh thánh để cho chúng ta thấy Đức Kitô là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian hầu thực hiện sứ mạng cứu thế ( Col 1, 13; Cv 10, 38; 2C 8, 9..). Vì vậy khi nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta có thể nghiệm ra rằng, 2000 năm trước Ngài đã đi vào trần thế không phải để sáng lập một tôn giáo, cũng như không phải để quảng bá một học thuyết chính trị. Ngài đến chỉ với sứ mạng duy nhất là công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là Tin mừng về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu đã lập đi lập lại sứ điệp này trong suốt ba năm rao giảng công khai, và cái chết của Ngài trên Thập giá chính là đỉnh điểm của lời công bố Tin mừng vĩ đại ấy. Vì vậy, để sống tinh thần truyền giáo, chúng ta phải học nơi Thập giá Đức Giêsu. Ngài chính là vị truyền giáo đầu tiên, và là mẫu gương trọn hảo cho tất cả chúng ta (Tông huấn Evangelii Nuntiandi số 7). Trong các đợt xuất phát truyền giáo, các hội dòng thường trao cho các vị thừa sai Thánh giá truyền giáo cũng với hướng đích này.

Truyền giáo là bản chất của Giáo hội

Trong các phiên họp khoáng đại của công đồng chung Vaticanô 2, Đức Thánh Cha Phaolô đệ lục có nêu ra một câu hỏi rất giản đơn cho các nghị phụ: “ Ta sống ở đời này để làm gì?” Đây cũng là câu hỏi đầu tiên trong các sách giáo lý căn bản mà chúng ta đều biết cũng như đã thuộc lòng câu trả lời, đó là:”Ta sống ở đời này để nhận biết và kính mến Chúa, cho ngày sau được hưởng hạnh phúc đời đời’. Các nghị phụ cũng trả lời như thế. Nhưng Đức Thánh Cha nói rằng câu trả lời còn thiếu. Ngài cắt nghĩa: “ Ta sống ở đời này để nhận biết và yêu mến Chúa, cho ngày sau được cứu rỗi, nhưng chúng ta cũng sống ở trần gian này còn để giúp người khác yêu mến và nhận biết Thiên Chúa, để họ cũng được ơn cứu độ như chúng ta”. Cha Thomas Merton, một tu sỹ dòng Trappist ở Hoa Kỳ có viết một tác phẩm tựa đề: “Không ai là một hòn đảo’. Tư tưởng của Ngài rất thâm thúy, và trong dịp viếng thăm Hoa Kỳ, khi đọc diễn văn tại lưỡng viện quốc hội, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng gợi nhắc khuôn mặt tiêu biểu này. Cha Thomas Merton lý luận rằng, không ai trong chúng ta có thể sống cô lẻ một mình như một ốc đảo. Khi sống hiệp thông trong Hội thánh, chúng ta liên đới với anh chị em mình trong sự thánh thiện cũng như cả trong tội lỗi. Vì vậy không ai trong chúng ta sẽ lên thiên đàng một mình hoặc cũng không ai xuống hỏa ngục một mình. Chúng ta nên thánh bằng cách giúp người khác nên thánh, và đây cũng là ý nghĩa của sứ mệnh truyền giáo. Sứ mệnh này thuộc bản chất của Giáo hội, gắn liền với Giáo hội và cũng là bổn phận của mọi Kitô hữu. Trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đã chuyển giao sứ mạng cứu thế cho Giáo hội bằng mệnh lệnh: “ Anh em hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân” (Mc 16,15). “Cho muôn dân’ tức “ ad gentes”, cũng chính là tựa đề của sắc lệnh về truyền giáo mà công đồng Vaticanô 2 đã để lại cho chúng ta.

Chứng nhân hơn là thầy dạy

Trong một sứ điệp ngày truyền giáo, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 cũng viết: “ Truyền giáo là thước đo đức tin của mọi tín hữu”. Lời khẳng định này cũng tương hợp với giáo huấn của Thánh Giacôbê tông đồ khi Ngài viết: “ Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Việc làm đó được thực hiện rõ nét nhất qua sứ vụ truyền giáo. Rao giảng Tin mừng là một bổn phận của những ai thuộc về Đức Kitô và được Chúa mời gọi trở nên môn đệ Ngài. Thánh Phaolô xác tín mạnh mẽ bổn phận ấy nên Ngài nói: “ Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16). Nhưng, cách thái rao giảng Tin mừng để đạt hiệu quả mới là điều quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm.

Có lần, một số các vị truyền giáo đang làm việc ở Ấn Độ đến gặp ông Mahatma Gandhi và hỏi ông bí quyết làm sao để có thể truyền giáo cho người dân Hindu ở đây. Ông Gandhi mời gọi các vị truyền giáo hãy suy nghiệm bí quyết từ cánh hoa hồng. Người ta thích hoa hồng không phải chỉ vì vẻ đẹp bên ngoài mà còn vì mùi hương quyến rũ từ bên trong tỏa ra. Ông kết luận, muốn truyền giáo thành công, phải học bí quyết ấy, tức là rao giảng không phải bằng lý thuyết xuông nhưng bằng gương sáng cụ thể của cuộc sống. Điều ông ta nói tới cũng giống như giáo huấn của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 khi Ngài diễn tả: “ Ngày nay, Giáo hội cần những chứng nhân hơn là những thầy dạy.”

Kết luận: Chứng tá Tin mừng

Sau biến cố 30 tháng 04 năm 1975, một cán bộ nhà nước thuộc dạng cao cấp có hỏi một anh em tu sĩ dòng Tên ở Thủ Đức: “ Các anh là những người theo tôn giáo, chắc các anh rất sợ chúng tôi là những người vô thần?”. Vị tu sĩ đó bình thản trả lời: “Vâng thưa ông, chúng tôi rất sợ những người vô thần. Nhưng nếu các ông là những người vô thần thực sự và sống đúng với lý tưởng của các ông, thì chẳng có gì đáng sợ cả. Xin chúc mừng, nếu các ông thật sự cảm thấy hạnh phúc trong sự xác tín lý tưởng của mình. Nhưng ngược lại, chúng tôi rất sợ những người vô thần trong thực hành. Họ mang danh là Kitô hữu, nhưng lại sống như những người vô thần thực sự và còn tệ hơn cả những con người công khai chối bỏ Thiên Chúa. Bởi vì, cuộc sống của họ đang tàn phá Giáo hội, làm lung lạc đức tin người khác và làm cho Giáo hội của chúng tôi ngày càng suy yếu.”

Nếp sống vô thần trong thực hành như thế chính là một lối sống phản chứng tá. Thay vì rao giảng Tin mừng, thì cuộc sống như vậy lại cản che và bóp chết hạt giống Lời Chúa trong những sỏi đá và gai góc nơi chính tâm hồn họ. Trong ngày khánh nhật truyền giáo hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống chính mình để duyệt xét xem chúng ta đã thực thi bổn phận quan trọng ấy như thế nào.

37. Truyền giáo.

Công đồng Vat. II trong sắc lệnh về truyền giáo có viết: Được Thiên Chúa sai đến với muôn dân để nên bí tích cứu độ phổ quát, Giáo Hội vì những đòi hỏi căn bản của mình và vì mệnh lệnh của Đấng sáng lập, nhất quyết loan báo Tin Mừng cho mọi người. Việc loan báo này được thực hiện bằng nhiều phương thế khác nhau của toàn thể dân Chúa vẫn luôn được Giáo Hội cổ võ, khuyến khích và chỉ dẫn. Vì vậy hàng năm Giáo Hội đã chọn một ngày vào Chúa nhập áp cuối tháng 10 để thúc đẩy mọi linh mục tu sĩ và giáo dân ý thức hơn về việc rao giảng Tin Mừng. Việc này không dành cho riêng ai và không thể một cá nhân, một đoàn thể nào làm được hết. Trái lại mọi thành phần dân Chúa phải có trách nhiệm để thực hiện lời Chúa đã truyền dạy trước khi về trời: Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.

Vì thế, theo lệnh truyền của Chúa, từ ngày chịu bí tích Rửa Tội, chúng ta đã trở nên con cái Chúa, rồi từ ngày lãnh nhận bí tích Thêm Sức, chúng ta đã lãnh nhận sứ vụ tông đồ để thi hành đúng chức năng ngôn sứ của mình. Vì vậy, bổn phận đòi buộc hết mọi người giáo dân trong bất kỳ lãnh vực nào cũng phải là chứng nhân cho Đức Kitô. Hơn thế nữa, người giáo dân có một lợi thế hơn hẳn hàng giáo sĩ là sống giữa các môi trường xã hội khác nhau với đủ ngành nghề, địa vị xã hội để có thể cảm hoá cảnh vực và trở nên như men, như ánh sáng, như muối cho những người chung quanh.

Lời thánh Phaolô tông đồ mời gọi chúng ta suy nghĩ: Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Giáo Hội luôn ý thức điều đó và hôm nay nhắc nhở chúng ta luôn tích cực thi hành sứ mạng truyền giáo cả những lúc bận tâm lo lắng công việc trần thế. Tất cả mọi người đều phải cộng tác vào việc mở mang Nước Chúa trên trần gian và trở thành chứng nhân cho Ngài. Lời Chúa nói: Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít, sẽ nhắc nhở chúng ta phải trở nên là những thợ gặt trên cánh đồng nhân loại, và trở nên ngư phủ trên đại dương trần thế.

Tuy nhiên, như chúng ta đã nói, có nhiều phương thế để góp phần vào công cuộc trọng đại này, chẳng hạn cầu nguyện và rao giảng như các tông đồ, các vị thừa sai, sống đức tin và đức ái phục vụ như Mẹ Têrêsa Calcutta. Thực vậy, tục ngữ cũng đã bảo: Lời nói như gió lung lay việc làm như tay lôi kéo. Chính đời sống gương mẫu của chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn nhất có sức lôi cuốn và hấp dẫn người khác đến cùng Chúa. Chính nhờ những việc làm cụ thể trong khi dấn thân để phục vụ, chúng ta sẽ trở nên là những chứng nhân sống động cho Đức Kitô.

Để kết luận, chúng ta hãy ghi nhớ lời nói sau đây của Đức Phaolô VI: Con người thời đại thích lắng nghe các nhân chứng hơn là những nhà giảng thuyết. Và nếu họ có nghe những nhà giảng thuyết chỉ vì những nhà giảng thuyết này đã là những chứng nhân.

38. Sứ điệp Truyền giáo năm 2012–“Được kêu gọi làm rạng ngời Lời Chân Lý”

(Tông Thư Porta Fidei, 6)

Anh chị em thân mến!

Cuộc cử hành Ngày Thế giới Truyền giáo năm nay mang một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Việc kỷ niệm 50 năm Sắc Lệnh Ad Gentes của Công đồng, việc khai mạc Năm Đức Tin và Thượng Hội đồng Giám mục về đề tài Tân Phúc Âm Hoá là các sự kiện cùng diễn ra trong năm nay để tái xác nhận ý muốn của Hội Thánh là dấn thân một cách hăng say và can đảm hơn vàomissio ad gentes (sứ vụ đến với muôn dân) hầu đem Tin Mừng đến tận cùng trái đất.

Với sự tham dự của các Giám mục Công giáo từ khắp nơi trên thế giới, Công đồng Chung Vatican II đã là một dấu chỉ sáng ngời về tính phổ quát của Hội Thánh, qua việc lần đầu tiên quy tụ một con số đông đảo như thế các Nghị phụ đến từ Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ Latinh, và Châu Đại Dương. Các giám mục truyền giáo và các giám mục bản xứ, các mục tử của các cộng đoàn rải rác khắp nơi giữa các dân không Kitô giáo, tất cả các vị ấy đã đem đến cho các phiên họp của Công đồng hình ảnh của một Hội Thánh hiện diện trên mọi châu lục và đã trở thành những người cắt nghĩa về thực tại phức tạp mà thời ấy được gọi là “Thế Giới Thứ Ba”. Là những người giàu kinh nghiệm thực thi sứ vụ mục tử tại các giáo hội non trẻ đang hình thành, và đầy nhiệt huyết loan truyền Nước Thiên Chúa, các ngài đã góp phần rất quan trọng vào việc tái xác nhận nhu cầu và sự cấp bách của việc loan báo Tin Mừng cho các dân tộc, từ đó đưa bản chất truyền giáo của Giáo Hội vào trung tâm của khoa Giáo hội học.

Khoa Giáo hội học hướng đến truyền giáo

Ngày nay, quan điểm trên vẫn còn nguyên giá trị, hơn nữa còn được tiếp nhận những suy tư thần học và mục vụ phong phú, và đồng thời lại càng tỏ ra cấp bách, vì số người chưa biết Chúa Kitô ngày càng nhiều thêm. “Những người mong chờ Đức Kitô vẫn còn đông vô kể”, như lời khẳng định của Chân phước Gioan Phaolô II trong Thông điệp Redemptoris Missio về giá trị muôn đời của huấn lệnh truyền giáo, và ngài thêm: “Chúng ta không thể ngồi yên khi nghĩ tới hàng triệu anh chị em chúng ta đang sống trong tình trạng không biết đến tình yêu của Thiên Chúa, chính họ cũng được cứu chuộc bằng máu Chúa Kitô” (số 86). Phần tôi, khi công bố Năm Đức Tin, tôi đã viết rằng Đức Kitô “hôm nay cũng như hồi ấy, sai chúng ta đi khắp các nẻo đường trên thế giới để loan báo Tin Mừng của Người cho mọi dân tộc trên mặt đất” (Tông Thư Porta Fidei, 7); việc loan báo này, như lời Vị Tôi tớ Chúa Phaolô VI trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, “đối với Hội Thánh không phải là một sự cống hiến tuỳ ý, nhưng là một bổn phận Hội Thánh phải thực thi theo lệnh truyền của Chúa Giêsu, để loài người có thể tin và được cứu rỗi. Quả thế, đây là sứ điệp cần thiết. Đây là sứ điệp độc nhất. Sứ điệp không thể thay thế” (số 5). Vì vậy chúng ta cần phải lấy lại cùng một nhiệt huyết tông đồ như các cộng đoàn Kitô hữu sơ khởi, tuy chỉ là một nhóm ít người và không thể tự vệ, nhưng bằng lời loan báo và chứng tá, họ đã có thể loan truyền Tin Mừng trên toàn thế giới được biết đến thời bấy giờ.

Vì vậy không lạ gì khi Công đồng Vaticanô II và Huấn quyền sau Công Đồng của Hội Thánh luôn nhấn mạnh một cách đặc biệt về nhiệm vụ truyền giáo mà Đức Kitô đã uỷ thác cho các môn đệ của Người, và là nhiệm vụ mà toàn thể Dân Thiên Chúa: các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân phải dấn thân thực hiện. Nhiệm vụ loan báo Tin Mừng trên khắp thế giới trước tiên là nhiệm vụ của các giám mục, vì trong tư cách là thành viên của Giám mục đoàn cũng như là Mục tử của các Giáo Hội địa phương, các ngài là những người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc rao giảng Tin Mừng trên thế giới. Thực vậy, các ngài “đã được tấn phong không chỉ cho một giáo phận, mà cho sự cứu rỗi của toàn thế giới” (Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio, 63), “các ngài là những người rao giảng đức tin dẫn đến cho Đức Kitô những người môn đệ mới” (Ad Gentes, 20) và làm cho mọi người “thấy được tinh thần và nhiệt huyết truyền giáo của Dân Chúa, để toàn giáo phận trở thành những nhà truyền giáo” (nt., 38).

Địa vị ưu tiên của rao giảng Tin Mừng

Vì vậy, đối với một Chủ Chăn, nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng không chỉ giới hạn vào việc chăm lo cho thành phần Dân Chúa được giao phó cho ngài chăm sóc về mục vụ, cũng không chỉ là sai một số linh mục hay giáo dân đi truyền giáo như là fidei donum (quà tặng đức Tin). Nhiệm vụ ấy phải bao gồm toàn thể hoạt động của Hội Thánh địa phương, mọi lĩnh vực của Hội Thánh ấy, tóm lại, phải bao gồm toàn thể đời sống và hoạt động của Hội Thánh ấy. Công đồng Vaticanô II đã nói rõ điều này và Huấn quyền sau Công đồng đã mạnh mẽ xác nhận lại. Điều này đòi hỏi rằng các bậc sống, các kế hoạch mục vụ và việc tổ chức giáo phận phải không ngừng được thích nghi với chiều kích nền tảng này của Hội Thánh, đặc biệt trong thế giới không ngừng biến đổi của chúng ta ngày nay. Điều này cũng đúng với các Hội Dòng và các Tu đoàn Tông đồ, cũng như các Phong trào trong Giáo Hội: mọi thành phần trong bức tranh lớn của Hội Thánh phải cảm thấy lệnh truyền rao giảng Tin Mừng của Chúa chất vấn mình mãnh liệt, để Đức Kitô được rao giảng khắp nơi. Là những mục tử, tu sĩ nam nữ và tất cả các tín hữu trong Đức Kitô, chúng ta phải tiếp bước Thánh Phaolô Tông Đồ, là “tù nhân của Đức Kitô vì anh em, những người dân ngoại” (Ep 3, 1), ngài đã chịu đau khổ và chiến đấu để đem Tin Mừng đến giữa dân ngoại (x. Cl 1, 24-29), không ngại tiêu hao sức lực, thời giờ và của cải để loan báo Sứ điệp của Đức Kitô.

Ngày nay cũng thế, sứ mạng ad gentes –đến với muôn dân– phải không ngừng là chân trời và khuôn mẫu cho mọi hoạt động của Hội Thánh, vì chính căn tính của Hội Thánh được tạo thành bởi đức tin vào Mầu Nhiệm Thiên Chúa, Đấng đã tỏ mình ra cho chúng ta trong Đức Kitô để đưa chúng ta đến ơn cứu độ, và bởi sứ mạng làm chứng và loan báo Người cho thế giới, cho tới khi Người trở lại. Cũng như Thánh Phaolô, chúng ta phải quan tâm tới những người ở xa, những người chưa biết Đức Kitô và chưa cảm nghiệm được tình phụ tử của Thiên Chúa, và chúng ta phải ý thức rằng “sự hợp tác truyền giáo hôm nay phải mở ra những hình thức mới để bao gồm không chỉ việc trợ giúp kinh tế, mà cả sự tham gia trực tiếp vào việc rao giảng Tin Mừng” (Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 82). Việc cử hành Năm Đức Tin và Thượng Hội đồng Giám mục về Tân Phúc Âm hoá sẽ là những cơ hội thuận lợi để phát động sự hợp tác truyền giáo, nhất là trong khía cạnh thứ hai này.

Đức Tin và việc loan báo

Mối quan tâm loan báo Đức Kitô cũng thúc đẩy chúng ta đọc lịch sử để từ đó nhận ra những vấn đề, những khát vọng và hi vọng của nhân loại mà Đức Kitô phải chữa lành, thanh tẩy và kiện toàn bằng sự hiện diện của Người. Thực vậy, Sứ điệp của Người luôn mang tính thời sự, đi vào giữa lòng lịch sử và có khả năng đáp lại những mối lo lắng thâm sâu nhất của mỗi người. Vì vậy mọi thành phần trong Hội Thánh phải ý thức rằng “các chân trời bao la của sứ mạng Hội Thánh và tình hình phức tạp hiện nay đòi hỏi những phương thức mới để có thể truyền đạt hiệu quả Lời Thiên Chúa” (Bênêđictô XVI, Tông huấn hậu THĐGM,Verbum Domini, 97). Điều này trước hết đòi hỏi phải gắn bó với Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô bằng đức Tin được canh tân nơi mỗi cá nhân cũng như các cộng đoàn “lúc nhân loại đang sống giữa những thay đổi sâu xa như hiện nay” (Tông thư Porta Fidei, 8).

Thực vậy, một trong các trở ngại cho việc đẩy mạnh hoạt động rao giảng Tin Mừng chính là cơn khủng hoảng đức tin, không chỉ của thế giới phương Tây, mà của phần lớn nhân loại; họ cũng đói khát Thiên Chúa và phải được mời gọi và dẫn đưa tới bánh sự sống và nước hằng sống, như người phụ nữ Samaria đến giếng Giacóp và nói chuyện với Đức Kitô. Như tác giả Tin Mừng Gioan đã kể lại, câu chuyện về người phụ nữ này có một ý nghĩa đặc biệt (x. Ga 4,1-30): bà gặp Chúa Giêsu, Người xin bà nước uống, nhưng sau đó Người nói về một thứ nước mới, có khả năng làm cho bà không bao giờ còn khát nữa. Thoạt đầu bà không hiểu, bà vẫn dừng lại trên bình diện vật chất, nhưng dần dần bà được Chúa dẫn đi trên con đường đức tin giúp bà nhận ra Người chính là Đấng Mêsia. Về điểm này, Thánh Augustinô quả quyết: “Sau khi đã đón nhận Chúa Kitô vào tâm hồn mình, [người phụ nữ này] còn có thể làm gì khác hơn là bỏ lại thùng nước ở đó để chạy đi loan báo Tin Mừng?” (Bài giảng 15, 30). Một khi gặp được Đức Kitô hằng sống, là Đấng làm thỏa cơn khát của trái tim, người ta không thể không mong muốn chia sẻ với người khác niềm vui có Đức Kitô đang hiện diện và giúp họ nhận ra Người để tất cả đều cảm nghiệm được sự hiện diện ấy. Cần phải đổi mới niềm hăng say loan truyền đức tin để cổ vũ một cuộc tân phúc âm hoá các cộng đoàn và các nước vốn có truyền thống Kitô giáo lâu đời mà nay chẳng còn màng đến Chúa, để họ tìm lại được niềm vui của đức tin. Không bao giờ được gạt mối quan tâm loan báo Tin Mừng ra khỏi mọi hoạt động của Giáo Hội cũng như đời sống cá nhân của người Kitô hữu, nhưng phải ý thức rõ mình là đối tượng đón nhận Tin Mừng, đồng thời cũng là những thừa sai của Tin Mừng. Tâm điểm của lời loan báo vẫn luôn như thế: đó là Kerygma (lời rao giảng cơ bản) về Đức Kitô chịu chết và phục sinh để cứu độ thế giới,Kerygma về tình yêu tuyệt đối và trọn vẹn của Thiên Chúa đối với mọi người nam cũng như nữ, đạt đến tột đỉnh trong việc Thiên Chúa sai Con Một hằng hữu của Người là Chúa Giêsu, Đấng không ngại nhận thân phận nghèo hèn của bản tính loài người chúng ta, yêu thương và cứu chuộc bản tính ấy khỏi tội lỗi và sự chết, bằng việc hiến mình trên thập giá.

Trong kế hoạch yêu thương được thể hiện nơi Đức Kitô, đức tin vào Thiên Chúa trước hết là một hồng ân và một mầu nhiệm mà chúng ta phải đón nhận trong lòng và trong cuộc sống, và phải luôn luôn tạ ơn Chúa vì hồng ân ấy. Đồng thời đức Tin còn là một ân huệ được ban cho chúng ta để chia sẻ cho người khác; là một nén bạc chúng ta nhận được để sinh lời; là ánh sáng không được đem giấu đi, nhưng phải soi sáng cho cả nhà. Đức Tin là ân huệ quan trọng nhất được ban cho cuộc đời chúng ta mà chúng ta không được phép giữ lại cho riêng mình.

Loan báo trở thành bác ái

“Khốn thân tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng!”, Thánh Phaolô nói như thế (1 Cr 9, 16). Lời này vang dội với sức thúc bách mỗi người Kitô hữu và mỗi cộng đoàn Kitô hữu trên mọi châu lục. Ngay cả đối với các giáo hội tại các xứ truyền giáo, phần lớn là các giáo hội non trẻ, mới lập, hoạt động truyền giáo đã trở thành một chiều kích tự nhiên, cho dù chính các giáo hội này vẫn còn cần đến các nhà truyền giáo. Nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ từ khắp nơi trên thế giới, rất đông giáo dân và thậm chí cả gia đình sẵn lòng rời bỏ quê hương mình, rời bỏ các cộng đoàn mình và đi đến các giáo hội khác để làm chứng và loan báo Danh Chúa Kitô, nhờ Người mà nhân loại tìm được ơn cứu độ. Đây là một biểu hiện của sự hiệp thông sâu xa, sự chia sẻ và bác ái giữa các giáo hội, để mọi người có thể nghe và nghe lại lời loan báo có sức chữa lành, và có thể đến với các Bí Tích, nguồn mạch đời sống đích thực.

Cùng với dấu chỉ siêu vời của đức tin được biến đổi thành đức ái này, tôi ghi nhận và biết ơn các Hội Giáo hoàng Truyền giáo, công cụ của sự hợp tác trong sứ vụ phổ quát của Hội Thánh trên thế giới. Qua hoạt động của các Hội truyền giáo này, việc loan báo Tin Mừng còn trở thành hành động giúp đỡ tha nhân, thúc đẩy đối xử công bằng với những người nghèo khổ nhất, đưa giáo dục về tận những thôn làng xa xôi nhất, trợ giúp y tế tại các vùng sâu vùng xa, giải phóng khỏi cảnh khốn cùng, giúp những người bị gạt ra lề xã hội tìm lại được quyền sống, nâng đỡ sự phát triển các dân tộc, khắc phục những chia rẽ sắc tộc, tôn trọng sự sống ở mọi giai đoạn của nó.

Anh chị em thân mến, tôi khẩn cầu Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy trên việc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc, đặc biệt trên những ai đang loan báo Tin Mừng, để Ân Sủng của Thiên Chúa làm cho công cuộc rao giảng Tin Mừng tiến bước vững vàng trong lịch sử thế giới. Cùng với Chân phước John Henry Newman, tôi muốn cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin đồng hành với các nhà truyền giáo tại các xứ truyền giáo, xin đặt trên môi miệng họ những lời lẽ chính đáng, xin làm cho công lao khó nhọc của họ sinh nhiều hoa trái.” Lạy Trinh Nữ Maria, Mẹ là Mẹ Hội Thánh và là Ngôi Sao dẫn đường loan báo Tin Mừng, xin đồng hành với tất cả các thừa sai Tin Mừng.

Vatican, ngày 6 tháng 1 năm 2012.

Đại lễ Chúa Hiển Linh

Bênêđictô XVI, giáo hoàng

(Bản dịch của Ủy ban Loan Báo Tin Mừng / HĐGMVN)

39. Ưu tiên bốn hạng người–Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Thư mục vụ Năm Đức Tin của HĐGMVN viết:

Cùng một nhịp bước với Giáo Hội toàn cầu, Năm Đức Tin phải là cơ hội thuận lợi cho mọi thành phần Dân Chúa tại Việt Nam củng cố đức tin của mình, hoán cải và đổi mới đời sống, trở về với Chúa là Đấng Cứu độ duy nhất của thế giới. Khi chúng ta tái khám phá niềm vui đức tin, chúng ta sẽ hăng say dấn thân cho công cuộc Tân Phúc Âm hoá loan báo Tin Mừng cho 93% người Việt Nam chưa biết Chúa, đem tinh thần Phúc Âm thấm nhập mọi lĩnh vực đời sống, góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh theo những giá trị Tin Mừng và truyền thống văn hoá của dân tộc. (Số 5).

Năm Đức Tin giúp cho Giáo Hội trở về cội nguồn của mình là chính Chúa Kitô và Tin Mừng của Chúa. Nhờ đó có thể canh tân đời sống và cách làm việc, nhằm thể hiện tốt đẹp hơn Sứ vụ Loan báo Tin Mừng.

Truyền giáo là chia sẻ cuộc sống, một cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, và yêu thương đến cùng (x. Ga 13,11), yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu (x. Ga 15,13). Truyền giáo đồng nghĩa với làm chứng cho Chúa Kitô (x. Lc 24, 47, 48, Cv 1,8) bằng đời sống theo gương của Người.

A. Truyền Giáo theo gương Chúa Giêsu

Giáo Hội luôn trong nỗ lực loan báo Tin mừng của Chúa Giêsu cho toàn thể thế giới. Công đồng Vatican II đã phác họa hướng đi mục vụ truyền giáo: “Vui mừng và hy vọng, buồn sầu và lo sợ của con người ngày hôm nay, nhất là của người nghèo khổ, bị ruồng bỏ quên lãng, cũng là niềm vui, hy vọng, nỗi buồn sầu lo lắng của môn đệ Chúa Kitô…”( Hiến chế Giáo hội, số 1).

Sứ vụ truyền giáo của Giáo hội thời nào và ở đâu cũng bắt đầu từ mẫu gương Chúa Giêsu.

Khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu ưu tiên để ý đến những người nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Chúa Giêsu áp dụng vào chính mình những lời tiên tri Isaia xưa đã nói: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn phong tôi.Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,17-20). Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Thầy đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).

Chúa Giêsu nói với người phụ nữ ngoại giáo Samaria: “Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong sự thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,21-24).

Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi với 4 hạng người: người nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Chúa Giêsu đến với họ, cho họ thấy, Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người. Chúa Giêsu hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở điểm hiến thân trên thánh giá mà Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người được tôn vinh. Chúa Giêsu đã nói trước khi hiến tế: “Lạy Cha, giờ đã đến. Xin Cha tôn vinh Con Cha, để con Cha tôn vinh Cha” (Ga 17,1).

Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng hãy theo gương Thầy, đem Tin Mừng đến cho 4 hạng người đó.

Đây cũng là sứ mạng truyền giáo của mỗi kitô hữu.

ĐGH Gioan Phaolô II đã khẳng định trong Thông điệp ‘Sứ Vụ Đấng Cứu Độ’: “Truyền giáo là trình bày tình yêu của Thiên Chúa được tỏ bày trong Đức Giêsu Kitô.” (số 2)

Nói cách khác, truyền giáo là yêu như Chúa Giêsu yêu. Chúa dành tình yêu đặc biệt cho 4 hạng người: người ngoại, người tội lỗi, người bệnh tật và người nghèo.(x.Nhật ký truyền giáo, Lm Piô Phúc Hậu).

1) Yêu thương Lương dân

Chúng ta phải yêu thương và kính trọng Lương dân theo gương Chúa Giêsu.

– Chúa Giêsu về thăm quê hương Nazareth. Đồng hương đang niềm nở đón tiếp Chúa thì bổng dưng đổi thái độ. Họ đã đảo và đòi giết Chúa vì Chúa đề cao người ngoại, coi người ngoại hơn người đạo (Do Thái Giáo).”Vào thời Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà góa trong nước Itrael, thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa thành Sarépta miền Siđôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Itrael, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman người xứ Syri thôi” (Lc 4, 25-37).

– Tại Caphanaum, Chúa đã đề cao một viên sĩ quan người ngoại, đề cao đến mức độ có thể bị hiểu lầm: “Tôi chưa thấy một niềm tin nào như thế trong dân tộc Israel” (Lc 7,9). Tại miền Tia và Xiđon, Chúa đề cao niềm tin người đàn bà xứ Canaan: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”(Mt 15,21-28). Chúa Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).Giờ đây Chúa đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin, khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Chúa Giêsu,và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Chúa.

Thật ra ttrong nước Israel có nhiều người có niềm tin lớn hơn ông sĩ quan, người mẹ Canaan ấy nhiều. Bà Êlisabeth, Gioan Tẩy Giả, thánh Giuse và Đức Mẹ đều là người Israel. Chúa cường điệu lời khen để ta thấy Người thương người ngoại đến mức độ nào.

– Dụ ngôn người Samari tốt lành (Lc 10, 29-37) đề cao người ngoại hơn cả mấy ông trợ tế và tư tế. Đặc biệt là khi Chúa nói với ông kinh sư bậc thầy của Do Thái giáo: “Ông hãy về và làm như thế!”. Làm như thế tức là noi gương một người ngoại.

– Khi Chúa cho 10 người phong cùi được khỏi, chỉ có một người trở lại cám ơn Chúa. Chúa bảo: “Không phải cả mười người được sạch sao? Thế thì 9 người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại đạo này?” (Lc 17,17-18).

2) Yêu thương người tội lỗi.

Trong lịch sử loài người, từ trong gia đình ra ngoài xã hội, từ trong đạo ra tới ngoài đời, Chúa Giêsu yêu thương trìu mến người tội lỗi nhất.

Thánh vịnh 100, đòi “quét sạch thành đô, những đứa làm điều ác, không sót một tên”. Luật Do Thái loại trừ người tội lỗi, không cho tín đồ liên hệ với họ.

Còn Chúa Giêsu:

– Đề cao người phụ nữ tội lỗi hơn ông Simon biệt phái.

– Dụ ngôn con chiên bị mất (Lc 15,4-7) cho thấy chủ chăn khi tìm được con chiên lạc (người tội lỗi), không mắng, không đánh, mà còn âu yếm vác lên vai đưa về và còn mở tiệc mừng.

– Dụ ngôn người cha nhân từ (Lc 15,11-32) cho thấy, Chúa yêu người tội lỗi tới mức nào. Chỉ thấy đứa con sám hối và trở về mà người cha quên hết bao tội lỗi của nó. Cha làm tiệc mừng vì con trở về. Cha đã quên con ngỗ nghịch phá tan tài sản với bọn đàng điếm.

– Yêu người tội lỗi, để cứu họ, Chúa đã phải trả giá rất cao. Khi Chúa vào nhà ông Giakêu, thánh Luca đã ghi lại: “mọi người xầm xì với nhau: ông này lại vào trong nhà người tội lỗi”.

3) Yêu người bệnh tật

Bệnh tật là một trong bốn nỗi khổ của kiếp người. Nó gắn liền với đời người vốn là hữu hạn.

Chúa Giêsu luôn tỏ ra đặc biệt quan tâm tới những người yếu đau. Nhiều câu chuyện chữa lành tuyệt vời được kể lại:

– “Thiên hạ đem đến cho người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người đã chữa họ.” (Mt 4, 24).

– “Chúa Giêsu trên núi đi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Người. Và kìa, một người phong hũi tiến lại…Người giơ tay đụng vào anh và bảo, tôi muốn, anh sạch đi. Lập tức, anh được sạch bệnh phong hủi.” (Mt 8, 1-3) -“Chúa Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa các bệnh hoạn tật nguyền.” (Mt 9, 35) -“Ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ”. (Mt 14, 14) -“Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành… (Mt 15, 30) -“Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.” (Mc 1, 34)

– “Chính giờ ấy, Chúa Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám và ban cho nhiều người mù được thấy…” (Lc 7, 21)

Quan niệm của Cựu Ước cho rằng bệnh gắn liền với tội. Bệnh tật như là một sự trừng phạt bởi tội lỗi gây ra. Vì thế, người ta xa lánh bệnh nhân, nhất là bệnh phong cùi. Đó là một bệnh nan y bị mọi người kinh tởm, không chỉ vì sự dơ bẩn “ô uế theo luật Do thái”, hay lây nhiễm, mà còn bị xa lánh như kẻ tội lỗi. Chính các Tông đồ vẫn còn mang cái nhìn ấy khi hỏi Chúa, người mù từ khi mới sinh là do tội của anh hay gia đình anh.(x. Ga 9, 2-3). Chúa đã trả lời không bởi tội, nhưng để làm vinh danh Thiên Chúa.

Chúa yêu người bệnh tật, và cứu họ khỏi nỗi đau thân xác tâm hồn. Thần học Do thái giáo cho rằng bệnh tật là hậu quả của tội. Chúa phản đối điều đó. Cứ mỗi lần Chúa chữa bệnh, Chúa lại gánh lấy nỗi khổ nhân loại.

Chúa đã thông truyền khả năng chữa lành cho các tông đồ: “Rồi Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10, 1). Khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Chúa cũng ra lệnh chăm sóc bệnh nhân: “Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch và khử trừ ma quỷ”. (Mt 10, 8). Sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu gắn liền với sứ vụ chăm sóc bệnh nhân. Chính các tông đồ nối tiếp công việc của Chúa Giêsu, vừa truyền giáo vừa chữa lành.

4) Yêu người nghèo

Chúa yêu người nghèo và kêu gọi người giàu chia cơm sẻ áo cho người nghèo. Ai giúp người nghèo thì Chúa bảo là đã giúp Chúa. Ai từ chối người nghèo, thì Chúa bảo là từ chối Chúa (Mt 25, 31-46). Người giàu mà chỉ lo ăn xài, chứ không lo chia cơm xẻ áo thì Chúa gọi là đồ ngốc (Lc 12,20).

Yêu người ngoại, yêu người tội lỗi, yêu người nghèo và người bệnh tật như thế là truyền giáo theo gương Chúa Giêsu.

B. Truyền Giáo như Mẹ Maria

Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Hội Thánh và là Ngôi Sao dẫn đường loan báo Tin Mừng (x.Sứ điệp Truyền Giáo 2012).

Truyền giáo là đem Chúa Giêsu đến cho tha nhân. Mẹ Maria là nhà truyền giáo đúng nghĩa nhất. Mẹ đã đón nhận Con Thiên Chúa và đưa Người vào trong thế gian. Đó là Tin Mừng.

Sứ vụ truyền giáo là sứ vụ của người mang tin vui, tin cứu độ, tin được Thiên Chúa đoái thương.

Người truyền giáo là người được Chúa Thánh Thần tác động và làm trổ sinh hoa trái giống như Mẹ: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ ngự xuống trên Bà” (Lc 1, 35). Hoa trái của Chúa Thánh Thần là “hoan lạc, bình an…”. Hân hoan trong Thánh Thần, từ đó: “Đức Maria lên đường vội vã” thăm Êlisabet (Lc 1,39), gợi lại hình ảnh ngôn sứ Isaia tiên báo: “Đẹp thay trên núi đồi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị” (Is 52,7). Đức Maria mang trọn niềm vui Đấng Cứu Độ mà nhân loại đón đợi. Đức Maria trở nên người loan báo Tin Mừng vì Mẹ mang trọn niềm vui Chúa Thánh Thần. Ai để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời của mình cũng là người mang trọn niềm vui loan báo.

Đức Maria còn là người công bố Tin Mừng: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn” (Lc 1, 49). Thấy được tình thương Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời mình nên lời công bố mang một niềm tin xác tín, đã gặp và đã thấy.

Để trở thành người loan Tin Mừng, Đức Maria đã “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 3,51). Cầu nguyện là chiêm ngắm những điều Thiên Chúa đã thực hiện nơi mình. Cầu nguyện là cuộc trao đổi, đối thoại giữa những khó khăn và thử thách. Đức Maria trở thành người công bố Tin Mừng, bởi Mẹ đã chiêm ngắm công trình của Thiên Chúa thực hiện cho dân tộc, cho chính Mẹ.

Đối với Đức Maria, truyền giáo là đem chính Chúa Giêsu cho nhân loại.

Chúa Giêsu là lẽ sống, là hạnh phúc, là niềm vui của cuộc đời mỗi kitô hữu. Chúng ta phải xác tín như Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1, 46). Tràn ngập niềm hân hoan bởi Mẹ đã gặp thấy và cưu mang chính niềm vui có Chúa Giêsu trong lòng Mẹ. Đức Maria reo ca: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 47). Đức Maria đã cưu mang chính Chúa Giêsu, quà tặng tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa, nguồn ơn cứu rỗi duy nhất, công bố, trao tặng cho nhân loại.

Đức Maria luôn đặt mình dưới sự bảo trợ hoạt động của Chúa Thánh Thần.

Đức Maria là công trình tuyệt hảo của Chúa Thánh Thần.

Người truyền giáo cũng như thế, không thể tách rời Chúa Thánh Thần với hoạt động của mình được. Ai có thể chinh phục sự sâu thẳm của lòng người quy hướng về Thiên Chúa, nếu đó không phải là tác động của Chúa Thánh Thần?

Giáo Hội không truyền giáo bằng cách áp đặt, cưỡng chế những người khác theo mình. Giáo Hội cũng không mua chuộc bằng tiền của bằng quyền lợi hay bằng những hứa hẹn. Giáo Hội cũng không dụ dỗ người khác theo đạo.

Truyền giáo hôm nay phải là giới thiệu, là trình bày, là minh họa, là thuyết phục. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho những anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày nơi môi trường mính sống và làm việc.

Truyền giáo là giới thiệu Chúa cho anh chị em mình bằng chính đời sống chứng tá yêu thương dưới sự bảo trợ của Mẹ Maria. Hy vọng mỗi người chúng ta cũng có thể nói được như người Công Giáo Hàn Quốc với đồng bào lương dân của mình: “Anh chị em cứ nhìn chúng tôi sống thế nào, thì anh chị em bắt chước mà sống như thế”.

C. Vài gợi ý thực hành.

Đức Tin là một ân huệ được ban cho chúng ta để chia sẻ cho người khác; là một nén bạc chúng ta nhận được để sinh lời; là ánh sáng không được đem giấu đi, nhưng phải soi sáng cho cả nhà. Đức Tin là ân huệ quan trọng nhất được ban cho cuộc đời chúng ta mà chúng ta không được phép giữ lại cho riêng mình. (Sứ điệp Truyền Giáo 2012).

Cách riêng, trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, đức tin của người Công giáo cần được thể hiện qua việc thực thi bác ái. Đức Tin và Đức Mến cần đến nhau và hỗ trợ cho nhau: “Chính đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thôi thúc chúng ta chạy đến phục vụ Chúa mỗi khi Người trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống”. Được Lời Chúa soi sáng và tình yêu Chúa thấm nhập trong suy nghĩ cũng như hành động, chúng ta sẽ trở nên những chứng tá đáng tin trong xã hội ngày nay. (Thư Năm Đức Tin HĐGMVN, số 7).

Thực thi sứ vụ truyền giáo trong Năm Đức Tin bằng cách:

– Mỗi Giáo xứ khởi động phong trào: mỗi thành viên phải làm sao giúp cho một người khác theo đạo.

– Mỗi giáo dân nên kết thân với một Lương dân. Mỗi gia đình kết thân với một gia đình bên Lương. Kết thân để cầu nguyện, nâng đỡ nhau.

– Các hội đoàn đi tìm người tội lỗi và người nghèo trong địa phương của mình. Nên có một danh sách cụ thể. Sau đó sẽ cùng nhau thăm viếng, an ủi và giúp đỡ.

40. Cánh cửa truyền giáo–Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Trong bài báo: “Khi các sao Việt quy y cửa Phật”, tác giả Ngọc Hoa đã viết: là một trong những nữ diễn viên hàng đầu thời phim “Mỳ ăn liền” còn hoàng kim. Thế nhưng, Việt Trinh lại luôn lận đận về chuyện tình duyên. Những người đàn ông đã từng yêu Việt Trinh sau này đều dính đến pháp luật, chính điều đó đã khiến có người dành những lời không thiện cảm cho người đẹp này. Cùng thời gian đó, dòng phim “mỳ ăn liền” xuống dốc, Việt Trinh trở nên hụt hẫng, tuyệt vọng, có những lúc chị cảm thấy bi quan và chán nản cuộc sống.

Thế nhưng, chính trong những lúc tuyệt vọng nhất, một cánh cửa khác đã mở ra cho người phụ nữ đa truân này. Đó chính là Phật pháp. Vô tình đến với đạo Phật, Việt Trinh ngộ ra nhiều điều, chị tìm hiểu rõ hơn về đạo Phật, về nhân quả, nghiệp báo, bỏ tính nóng này, thậm chí còn làm phim liên quan đến đề tài này. Chính xác là từ năm 2001, chị quyết định đi theo đạo Phật bằng sự thành kính. Cô tâm sự:

“Cách đây không lâu, trong lúc tôi đang còn ngụp lặn trong biển khổ ái tình, tôi rất buồn, lúc nào cũng chỉ biết khóc, không biết làm sao để giải thoát khỏi mối tình cay nghiệt. Khi lồng tiếng cho phim Duyên Trần Thoát Tục, đọc tới đoạn Hòa thượng dạy cho Thường Chiếu: “Còn duyên thì hợp hết duyên thì tan”, tự nhiên tôi rùng mình, tự hỏi rằng tại sao mình phải ngụp lặn trong sự đau khổ của ái tình? Từ đó, tôi không vướng bận vào chuyện tình cảm đau khổ nữa”

Đối với những người theo đạo Phật thì Cửa Phật là nơi ẩn náu bình yên sau những vật lộn của thế gian. Họ sẽ tìm đến cửa Phật một khi không còn thấy hạnh phúc nơi phong trần. Họ quy y cửa Phật như nói lên quyết tâm của họ rũ bỏ đường trần để tìm sự thanh thoát bình yên nơi cửa Phật.

Còn đối với đạo Công giáo thì lý do nào khiến người ta trở về với Chúa? Chúng ta sẽ giới thiệu Chúa như thế nào để những người ngoại trở lại để náu nương, và những người lạc bước được sớm quay trở về? Chúng ta có con đường nào cho anh em quay trở về như cửa Phật đã từng rộng mở cho thiện nam tín nữ của họ?

Có lẽ điều này thì nơi đạo Phật dễ dàng hơn. Cửa Phật luôn rộng mở miễn là con người muốn quay trở về. Còn với đạo Công Giáo chúng ta thì còn phải trải qua rất nhiều thử thách trong thời kỳ dự tòng, phải học giáo lý, phải thể hiện ý hướng ngay lành, phải có lý lịch rõ ràng . . .

Có một người bạn ngoại đạo hỏi tôi: Người ta ai cũng muốn tự do thoải mái, vậy đi đạo làm gì cho mệt vì phải giữ quá nhiều luật lệ?

Và anh ta còn thêm: Luật lương tâm là đủ rồi, tại sao còn phải thêm biết bao luật do con người quy định hoặc thêm thắt vào?

Thực ra, ở đời, ai cũng muốn được tự do thoải mái, nhưng không phải vì thế mà mình muốn làm gì thì làm. Đối với chính bản thân, mình cũng cần có những nguyên tắc phải tuân thủ để bảo vệ và phát triển sự sống; trong tương quan với tha nhân (gia đình và xã hội) mình có những bổn phận, những trách nhiệm phải chu toàn nên cũng cần có những quy định ràng buộc. Đạo Thiên Chúa qui định những luật lệ đối với bản thân, gia đình, xã hội và Giáo hội là để giúp cho mọi người được sống an vui hạnh phúc. Ngoài ra, chúng ta còn có bổn phận tôn thờ Thiên Chúa, nên mỗi ngày bỏ ra 10 phút, mỗi tuần bỏ ra một tiếng đồng hồ để thờ phượng Thiên Chúa và cứu rỗi linh hồn thì đâu có gì là quá đáng, là mất tự do!

Phân tích như vậy thì đúng lắm! Nhưng làm sao để cho anh em lương dân cảm thấy nhẹ nhàng khi theo đạo thay vì sợ hãi vì cha quá khó, luật quá nhiều . . .? Luật Chúa, luật Giáo hội thì ít mà luật giáo xứ lại quá nhiều?

Chúa luôn mời gọi con người hãy đến với Chúa vì “ách của Chúa thì êm ái và gánh của Chúa thì nhẹ nhàng”, sao chúng ta lại chồng chất lên nhau quá nhiều những gánh nặng khiến đạo trở thành nặng nề, khó khăn cho biết bao người. Chúng ta sợ quá dễ dãi người ta sẽ bỏ đạo. Thế nhưng, quá khó khăn có chắc để họ giữ được đạo hay không? Bởi vì có rất nhiều người “nín thở qua sông”, học giáo lý, học kinh cho thật thuộc để lấy được vợ là thôi nhà thờ! Vậy phải làm thế nào để những người lương dân cảm thấy bình an khi đến với Chúa mà không cảm thấy khó khăn bởi những yếu tố bên ngoài tác động?

Hãy nhìn vào cung cách sống của Chúa Giêsu, Ngài đã sống hòa mình vào mọi hạng người để nâng đỡ, cảm thông và chia sẻ với họ. Ngài tạo mọi điều kiện cho con người đến với Chúa từ trẻ nhỏ, người già, người tội lỗi, tật nguyền đều có thể tìm thấy bình an khi đến với Chúa. Chính vì thế, mà Ngài luôn có một số rất đông đi theo Người.

Hãy nhìn vào Giáo hội sơ khai họ đã thành công khi sống bác ái huynh đệ với nhau, họ gom của cải vào của chung và chia sẻ cho nhau đến nỗi không một ai thiếu thốn trong cộng đoàn của họ, nhờ đó mà họ được toàn dân thương mến.

Cánh cửa Giáo hội công giáo luôn rộng mở nhưng quan yếu vẫn là thái độ của từng người công giáo chúng ta có rộng mở với anh em qua đời sống bác ái huynh đệ, luôn chia sẻ, cảm thông với mọi hạng người, luôn sẵn lòng đến với anh em trong tinh thần hiệp thông bác ái? Cuộc sống của người tín hữu chúng ta phải là cánh cửa của hiệp thông, của bác ái để có thể đón nhận và hòa nhập với mọi hạng người. Cuộc đời của chúng ta thực sự có bình an khi sống đạo mới có thể mang bình an chia sẻ cho tha nhân.

Nét son của đạo Phật là tại tâm. Nét son của Kytô giáo là yêu thương. Liệu rằng chúng ta có trở thành dấu chỉ tình yêu, của bình an và hy vọng cho anh em mình không?

Xin cho đời truyền giáo của chúng ta phải khởi đi từ những nghĩa cử yêu thương nhân hậu với tha nhân. Xin đừng là vật cản trở anh em đến với Chúa vì đời sống thiếu bác ái, thiếu lòng nhân từ của chúng ta. Amen.

41. Yêu thương những người con lưu lạc–”Cùng Đọc Tin Mừng’–Lm. Ignatiô Trần Ngà

Hùng và Cường là hai anh em trong một gia đình hạnh phúc và êm ấm tại một thôn làng nhỏ ở miền Trung. Đời sống an bình bên luỹ tre xanh kéo dài chưa được bao lâu thì chiến tranh nổ ra dữ dội khiến gia đình Hùng và Cường phải theo đoàn người sơ tán.

Trên con đường lánh nạn, bom đạn vô tâm đã trút xuống đầu dân lành vô tội, gây nhiều cái chết đau thương. Dưới lằn bom đạn kinh hoàng, ai nấy cắm đầu chạy trối chết và rồi sau đó, khi đến nơi an toàn, cha mẹ của Cường không thấy Cường đâu nữa. Thế là cả ba người – cha, mẹ và Hùng – quay quắt tìm kiếm Cường suốt cả mấy ngày nhưng cũng hoài công. Bị lạc mất con, cha mẹ Cường gặm nhấm nỗi đau buồn suốt ngày nầy qua tháng khác.

Vì quá thương nhớ Cường, nên trong mỗi bữa ăn, khi dọn cơm lên, ngoài những chén cơm của hai ông bà và Hùng, cha mẹ còn dọn thêm cho Cường một chén, mặc dù Cường không hiện diện. Rồi khi dựng lại ngôi nhà mới, cha mẹ cũng dành riêng cho Cường một phòng, có cả giường, gối hẳn hoi, dù hiện thời không biết Cường lưu lạc phương nao.

Thường ngày, ông bà vẫn nhắc nhở Hùng hãy cố gắng cất bước tìm em: “Con ơi, lòng cha mẹ rất buồn đau, ngồi đứng không yên khi vắng bóng em con trong ngôi nhà nầy. Con đã khôn lớn rồi, con hãy lên đường tìm em về cho cha mẹ”.

Nghe lời cha mẹ nỉ non, Hùng cảm thấy chột dạ, nên cũng dạ dạ vâng vâng nhưng rồi mãi lo vui chơi với bạn bè, nên cũng chẳng cất bước tìm em.

Qua những lần sau, cha mẹ Hùng lại năn nỉ: “Xưa rày ở cùng cha mẹ, con được ăn ngon mặc đẹp, được cắp sách đến trường… nhưng em con có thể đang phải đói khát, thất thểu bơ vơ, không người săn sóc… Con hãy tìm kiếm và đưa em con về đoàn tụ dưới mái nhà nầy. Được thế, cha mẹ có nhắm mắt cũng an lòng thoả dạ…”. Lần nầy cũng như bao lần trước, Hùng cứ dạ dạ vâng vâng rồi để đó. Cậu cứ mãi lo việc mình, lo vui đùa với chúng bạn, không màng gì đến em…

* * *

Người cha người mẹ trong câu chuyện trên đây là biểu tượng của Thiên Chúa nhân lành. Hùng tượng trưng cho những người con trong gia đình Thiên Chúa. Cường tượng trưng cho những anh chị em còn đang ở ngoài.

Thiên Chúa là Cha chung của hết mọi người. Ngài yêu thương tất cả không trừ ai và đặc biệt yêu thương những người con lưu lạc. Đã bao lần Ngài van lơn và thúc giục chúng ta, những đứa con trong nhà, hãy đi tìm đứa em lưu lạc và đem nó trở về, nhưng chúng ta cứ dạ dạ vâng vâng… rồi để đó!

Là con cái trong nhà, hằng ngày chúng ta được Thiên Chúa cho ăn ngon mặc đẹp. Lời Chúa là thức ăn bổ dưỡng được Chúa trao ban hằng ngày. Chúa lại còn trao ban cả Mình Máu thánh Ngài để bồi bổ, tăng cường sức sống cho chúng ta. Chúa trang điểm chúng ta bằng bao lời khuyên dạy khôn ngoan giúp chúng ta trở thành người có phẩm chất cao đẹp. Chẳng có gì cần thiết cho đời sống tâm linh mà Chúa lại không cung cấp cho chúng ta.

Thế nhưng khi Chúa truyền dạy chúng ta lên đường tìm đứa em lưu lạc, đưa em về sum họp với gia đình để cùng chia sẻ cuộc sống ấm no hạnh phúc với mình thì chẳng mấy ai quan tâm.

Như thế, việc loan Tin Mừng, giới thiệu Đức Ki-tô cho lương dân và đưa họ về với Chúa là bổn phận phải làm vì đức ái, vì tình huynh đệ. Ai thoái thác là lỗi đức ái đối với anh em mình.

Ngoài ra, tất cả chúng ta, nhờ bí tích rửa tội, được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu, được trở thành chi thể của Ngài.

Là chi thể của Chúa Giêsu, chúng ta không thể từ khước tham gia vào công việc hệ trọng nhất của Ngài là Đầu và của Thân Mình Ngài là Hội Thánh.

Một chi thể không làm theo mệnh lệnh của đầu là một chi thể tê bại và một chi thể tê bại thì luôn gây cản trở cho hoạt động của toàn thân.

Vậy, lý do thứ hai khiến chúng ta phải tham gia truyền giáo vì đây là đòi buộc tất yếu đối với các chi thể của Chúa Giêsu. Chi thể nào không tham gia vào sứ mạng tối thượng nầy là tự tách mình ra khỏi Đầu là Chúa Giêsu và Thân Mình Ngài là Hội Thánh.

* * *

Lạy Chúa, con chỉ muốn yên thân, yên phận trong căn nhà ấm cúng với đầy đủ tiện nghi. Phải ra đi, phải cất bước lên đường đến những nơi xa lạ, đương đầu với bao nhọc nhằn vất vả để đi tìm người anh em lưu lạc quả là một thách thức rất lớn đối với con.

Xin cho con có đủ nghị lực để đáp lại tiếng gọi khẩn thiết phát xuất từ nghĩa vụ và từ lòng yêu thương.

42. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

THÁNH TÊRÊXA HÀI ĐỒNG GIÊSU, BẬC THẦY TRONG NGHỆ THUẬT TRUYỀN GIÁO

Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã được phong thánh năm 1925, tức 28 năm sau khi từ trần. Ngài được chọn làm bổn mạng các xứ truyền giáo cùng với thánh Phanxicô Xaviê năm 1927 và được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nâng lên hàng Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 19 tháng 10 năm 1997.

Khi tuyên bố thánh Têrêxa là tiến sĩ Hội Thánh, là bậc thầy trong đời sống đức tin, điều đó cũng có nghĩa Đức Giáo Hoàng muốn nói với các tín hữu toàn cầu rằng: Têrêxa là bậc thầy trong nghệ thuật truyền giáo.

Khi chiêm ngắm thánh nữ Têrêxa như là bậc thầy nghệ thuật truyền giáo chúng ta sẽ thấy xuất hiện một nghịch lý. Nghịch lý ở chỗ tại sao một nữ tu nhà kín suốt đời sống trong bốn bức tường mà lại được chọn làm bổn mạng cho các xứ truyền giáo?

Nói đến truyền giáo là nói đến hai động từ Đi và Nói.

Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em hãy đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân”. Sách Ngôn sứ Isaia viết: “Vinh quang thay, những bước chân đi truyền rao Tin Mừng ơn cứu độ”. Phải đi, nhưng Têrêsa không đi đâu cả, 15 tuổi đã vào dòng kín. Người nữ tu trẻ tuổi qua đời lúc mới 24 tuổi, sau 9 năm vào dòng Cát minh.

Thánh Phaolô bảo rằng: “Làm sao người ta tin nếu không nghe nói. Làm sao người ta nghe nói nếu không có người đi rao giảng. Làm sao có người rao giảng nếu không có ai được sai đi”. Nhưng Têrêsa lại không nói gì với ai. Đời sống của các nữ tu Dòng Kín thì rất nghiêm ngặt.

Như thế xem ra rất nghịch lý. Một nữ tu Dòng Kín chẳng đi đâu, chẳng nói với ai mà lại được chọn làm bổn mạng các xứ truyền giáo.

Chính từ cái nghịch lý ấy mà chúng ta khám phá ra điều này: Giáo Hội mời gọi hãy thay thế câu hỏi truyền giáo làm gì? bằng câu hỏi là gì? Nếu nói làm gì với Têrêxa thì không đúng, vì thánh nữ Têrêsa chẳng làm gì cả. Nếu đặt câu hỏi Têrêxa là ai thì lập tức ta sẽ khám phá ra chiều sâu trong đời sống của thánh nữ. Ngài trở thành bậc thầy trong nghệ thuật truyền giáo nhờ sống trọn vẹn tình yêu và đi bằng con đường nhỏ.

1. Tình yêu là tất cả

Khi đọc thư thánh Phaolô, Têrêxa khám phá ra điều này: Giữa lòng Giáo Hội có một trái tim rực cháy tình yêu. Nếu không có tình yêu các tông đồ sẽ không ra đi loan báo Tin Mừng. Nếu không có tình yêu các vị tử đạo đã chối từ đổ máu. Cho nên tình yêu là tất cả. Tôi cảm thấy tình yêu thấm vào trái tim tôi. Tôi cảm thấy cần phải quên mình để làm đẹp lòng tha nhân. Và kể từ đó, tôi sống hạnh phúc. Và Ngài nói thêm: Giữa lòng Hội Thánh tôi sẽ là tình yêu. Vì thế tôi sẽ là tất cả. Têrêxa đã sống và âm thầm loan truyền sứ điệp của mình là yêu và chấp nhận được yêu. Càng ngày càng trở nên nhỏ bé để được Thiên Chúa bồng bế trên tay Người. Đời sống tận hiến làm hy lễ tình yêu lân tuất của Thiên Chúa. Tận tụy làm vinh danh Giáo Hội bằng cách cứu vớt các linh hồn. Nghệ thuật truyền giáo của Têrêsa chính là tình yêu. Không đi đến đâu, không nói với ai, nhưng chỉ yêu thôi. Chính Têrêxa đã sống một tình yêu mãnh liệt đối với Thiên Chúa, đối với tất cả mọi người. Têrêxa cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con mong ước được yêu mến Chúa như chưa từng bao giờ Chúa được yêu mến như thế. Con ước mong làm cho mọi người cũng yêu mến Chúa như thế “. Biết mình nhỏ bé, Ngài luyện tập những nhân đức bé nhỏ. Thích âm thầm chuyên lo làm vui lòng Chúa bằng những hy sinh nhỏ mọn mà chỉ một mình Chúa biết. Ngài không bỏ qua một dịp hy sinh nào có được và cố gắng làm cho đời mình thành một cuộc tử đạo vì tình yêu Chúa. Chẳng hạn: uống thuốc đắng từng giọt để “kéo dài một việc hãm mình nhỏ mọn”; trong công việc chung, chọn những phần khó nhọc hơn, hay khi trời nóng, chọn nơi ngồi bất tiện hơn cho mình để dành chỗ mát mẻ cho chị em; chấp nhận cho kẻ khác đến quấy rầy mình; tránh tìm kiếm tiện nghi, v.v. Có tình yêu thì việc nhỏ sẽ trở thành việc có giá trị lớn. Thánh nữ gọi làm những việc như thế là “tung hoa” cho Chúa: “Vâng lạy Đấng lòng con yêu mến, cuộc đời con sẽ tiêu hao như vậy đó … Con không có phương pháp nào khác để minh chứng với Chúa tình yêu của con ngoài việc tung hoa, nghĩa là không để mất một hy sinh nhỏ nào, một cái nhìn nào, một lời nói nào; con sẽ lợi dụng tất cả mọi việc nhỏ nhặt nhất và làm chúng với cả một tâm tình yêu mến… Con muốn chịu đau khổ vì yêu mến, như vậy con sẽ tung hoa trước ngai Chúa; hễ gặp bất cứ bông hoa nào là con cũng rứt cánh dâng cho Chúa … rồi tay thì tung hoa, miệng thì ca hát (làm sao có thể khóc được khi làm một việc vui như thế), và con sẽ hát ngay cả khi phải hái những bông hoa giữa gai góc, mà gai góc càng dài càng đâm đau bao nhiêu, tiếng hát của con càng du dương bấy nhiêu…. Ôi Giêsu của con, con mến Chúa, con yêu Giáo Hội Mẹ con; con nhớ rằng “hành động nhỏ bé nhất mà do tình yêu tinh tuyền sẽ có ích hơn là tất cả những công trình khác hợp lại với nhau’ (Thủ bản Tự Thuật).

Khi Têrêxa chọn một lối sống như thế thì chính tình yêu đã chắp cánh cho Ngài đi khắp nơi và nói chuyện với mọi người. Tình yêu làm nên như thế, không đi bằng bước chân nhưng đi bằng trái tim. Không nói bằng lời nhưng nói bằng cầu nguyện. Thiên Chúa đã ban cho Têrêxa một huyền nhiệm về tình yêu. Têrêxa đã đến với mọi người, đến với mọi trái tim. Têrêxa đã sống nghệ thuật truyền giáo theo nghĩa như thế.

2. Con đường nhỏ

Chẳng bao lâu, sau khi Têrêxa qua đời, tiếng tăm của Ngài đã vang lừng khắp Giáo Hội làm dấy lên một phong trào rầm rộ những người đi theo “con đường thơ ấu thiêng liêng” của Ngài. Đó là một trong những “trường tu đức” (linh đạo) quan trọng nhất của Giáo Hội thời hiện đại. Theo thánh nữ, làm thánh không phải là những chuyện phi thường mà đơn giản chỉ là chấp nhận để Thiên Chúa yêu thương mình. “Con đường thơ ấu thiêng liêng” là một sứ điệp phù hợp với thời đại, nhất là với giới trẻ.

Thánh Têrêxa đã khám phá lại chân lý trọng tâm của Phúc Âm, đó là: trong Đức Giêsu Kitô, chúng ta được làm con cái Thiên Chúa, và chúng ta phải yêu mến Cha chúng ta trên trời như những đứa con thảo đầy tin tưởng và phó thác. Thánh Têrêxa bám chắc vào giáo lý này với tất cả sức lực của Ngài và cố gắng thực hành nó gần như sát mặt chữ. Sống thật sự như trẻ thơ là cách chắc chắn nhất, đơn giản nhất để làm đẹp lòng Chúa Cha. Ngài vui mừng vì mình bé nhỏ bởi vì Chúa Giêsu đã dạy chỉ các trẻ em và những ai giống như chúng mới được vào Nước Trời. Đứa bé càng nhỏ, càng yếu đuối thì lại càng phải và có thể cậy dựa vào lòng thương xót, sự giúp đỡ và chăm sóc tận tình của cha mẹ và những người khác chung quanh.

Têrêxa viết trong Thủ Bản gởi Mẹ bề trên Mari Gôngdaga năm 1897: “Thưa Mẹ, như Mẹ biết, con hằng ước ao được nên thánh, nhưng than ôi, mỗi lần sánh mình với các thánh, con đều nhận thấy giữa các ngài và con có một khoảng cách như giữa một ngọn núi cao chót vót và một hột cát ti tiện dưới chân khách bộ hành. Nhưng thay vì thối chí, con lại tự nhủ: Chúa không khơi dậy những ước muốn không thể thực hiện được; dù thấp hèn, con cũng vẫn có thể khao khát nên thánh. Tự làm cho mình lớn lên thì không được, nên con có thế nào thì đành phải chịu như vậy với tất cả những khuyết điểm của con. Nhưng con muốn tìm ra một phương pháp lên trời bằng một con đường nhỏ vừa thẳng lại vừa ngắn, một con đường nhỏ hoàn toàn mới. Chúng ta đang ở trong thế kỷ phát minh, bây giờ không phải leo từng bậc thang nữa; những nhà giàu có đã thay những thang cổ điểm bằng thang máy, thật là tiện lợi. Phần con, con cũng muốn kiếm một cái thang máy để nâng con lên tới Chúa Giêsu, vì con bé nhỏ quá, chả sao lên được cái thang trọn lành dốc dác. Thế rồi con đi tìm trong Sách Thánh … và con đã đọc những lời sau đây phát xuất từ miệng Đấng Khôn Ngoan muôn đời: ‘Ai thật bé nhỏ thì hãy đến với Ta’ (Cn 9,4)…. Thế rồi con đã đến vì con đoán con đã gặp được điều con đang tìm kiếm … Chiếc thang máy đưa con lên tận trời là chính đôi cánh tay Chúa đấy, Chúa Giêsu ôi! Vì thế mà con chả cần phải lớn lên, trái lại con cần phải cứ bé hoài và càng ngày sẽ càng bé dần đi mãi. Ôi lạy Chúa, Chúa đã ban cho con hơn sự con mong đợi, và con, con muốn ca ngợi lòng thương xót của Chúa…” (Thủ bản Tự Thuật).

Áp dụng “phương pháp lên trời” hay sử dụng “chiếc thang máy” này, thánh Têrêxa không cần phải tìm kiếm những việc cao siêu, to tát, nổi bật, chỉ cần rèn luyện cho mình thái độ làm con, và làm con bé nhỏ của Cha trên trời, ấy là hết lòng yêu mến, tin tưởng, phó thác. Mọi sự đều để mặc Cha lo, dù đầy khuyết điểm hay tội lỗi cũng không sợ! Càng tiến sâu vào con đường này, Ngài càng được tình yêu Chúa chiếm đoạt trọn vẹn hơn. Thánh nhân đưa tình yêu đó thấm nhuần mọi việc làm, mọi khó khăn thử thách gặp phải, mọi sự khó chịu của cuộc sống chung. Biến tất cả thành những lễ vật dâng lên Chúa. Thánh Têrêxa đã đưa lý tưởng nên thánh đến gần và vừa tầm với mọi người.

Nghệ thuật truyền giáo của Thánh Têrêxa là tình yêu và con đường nhỏ.Tình yêu là tâm điểm, là nguyên tắc, là tận cùng của con đường thơ ấu thiêng liêng. Sống tâm tình con thảo với tất cả tình yêu, người Kitô hữu thực thi sứ vụ truyền giáo của mình theo Gương Thánh Têrêxa.

Đức Giáo Hoàng Piô XII, hồi còn là Hồng y Pacelli, năm 1925 là đại diện Tòa Thánh sang Pháp nhân dịp phong Thánh cho Têrêxa và làm phép đền thờ Lisieur được xây cất kính Thánh nữ, đã nói: “Hỡi Thánh nhỏ, Người lớn lắm, ngay lúc này đây, từ đầu thế giới này sang đầu thế giới kia, con cái của Người nhiều như cát biển sao trời. Bốn vị Giáo hoàng đã quỳ cầu khẩn dưới chân Người, các nhà tiến sĩ luật học đã trở lại thiếu thời vì học với Người… Xin Người hãy mưa hoa hồng xuống nữa, xuống thế giới chúng tôi… Hỡi Thánh nhỏ, Người lớn lắm”.

Đức Giáo Hoàng Piô X đã chỉ vào chân dung Têrêxa và nói: Đây là vị Thánh lớn nhất hiện đại.

Con đường nên thánh của Têrêxa khởi đi từ Phúc Âm. Con đường nhỏ của một vị Thánh lớn. Nhiều người đã đi và đã nên hoàn thiện đời mình. Nhiều người đã sống và trở nên những nhà truyền giáo cho muôn dân.

43. Khánh nhật truyền giáo–Lm Trần Ngà.

Mến Chúa và yêu người là hai giới răn trọng nhất. Điều đó thì trẻ con cũng thuộc. Nhưng điều quan trọng là làm sao thực thi lòng mến Chúa qua việc yêu thương con người là hiện thân của Thiên Chúa.

Yêu Chúa mà lại ghét người thân cận thì thật là điều trớ trêu như câu chuyện sau đây:

Có một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên.

Hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến và rồi anh khẩn khoản xin vua cha cưới nàng cho bằng được.

Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực hay không, vua cha dạy cho hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái…

Thế là hoàng tử hoá thành người nông dân, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.

Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và mong được kết hôn với hoàng tử, nhưng cô tạ không nhận ra hoàng tử nơi người nông dân nghèo khổ nầy. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh.

Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lai.

Như vị hoàng tử kia hoá thân thành nông dân để thử lòng cô gái, Thiên Chúa cũng hoá thân thành người phàm để thử thách tình yêu của chúng ta. Ngài đã từ trời xuống thế, hoá thân làm người, cắm lều ở giữa loài người, trở nên người thân cận của mỗi người.

Thế nên, khi yêu thương người thân cận là chúng ta yêu thương Chúa, và khi chúng ta từ khước hay bạc đãi người thân cận là bạc đãi Chúa. Tình yêu thương người thân cận là thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa.

Mẹ Têrêxa là người giữ điều răn yêu thương nầy cách tuyệt hảo. Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người phong cùi, trong những người bần cùng khốn khổ và mẹ tận tình yêu thương săn sóc những người ấy hết sức tận tình.

Mẹ dạy nữ tu của mẹ: “Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ.”

Mẹ là người vừa yêu mến Thiên Chúa trên trời lại vừa yêu mến Chúa hịên diện trong những người khốn khổ. Mẹ không tách rời hai giới răn mến Chúa và yêu người, nhưng mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người.

Khi hỏi tại sao người công giáo chúng ta truyền đạo mà không thu hút được nhiều người về với Hội Thánh?

Chắc chắn là vì chúng ta chưa sống theo đạo yêu thương. Nếu chúng ta theo phương cách sống đạo của mẹ Têrêxa Calcutta, tha thiết yêu mến Thiên Chúa nơi con người, thì đạo chúng ta trở thành hấp dẫn, và bản thân chúng ta cũng có sức thu hút được nhiều người như mẹ Têrêxa đã minh chứng bằng đời sống của mẹ: Mẹ được người đời xem là bà thánh sống, được mọi người yêu mến, cả những người Hồi Giáo, Ấn giáo, Bà La Môn và các đạo khác đều vô cùng quý mến mẹ.

Nhân ngày Truyền Giáo, xin cho chúng ta biết áp dụng phương thế truyền giáo tuyệt hảo của mẹ Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa trong con người, hy vọng nhờ đó, đạo Chúa trở thành một tôn giáo rất đẹp, rất hấp dẫn và nhiều người sẽ quay về với đạo yêu thương nầy.

44. Xin hãy sai con–Lm. Ignatiô Trần Ngà

Thông thường khi cầu xin bất cứ ân huệ gì, chúng ta tha thiết cầu xin cho bản thân, cho gia đình mình trước. Thế nhưng, giả như khi đất nước lâm nguy, cần có người ra biên thuỳ bảo vệ, thì người ta lại sốt sắng cầu xin cho người khác, ngoại trừ bản thân, được can đảm xông ra chiến trường gìn giữ giang sơn. Nếu ai cũng cầu như thế và những lời cầu kiểu nầy được chấp nhận, thì làm gì còn Tổ Quốc!

Trong việc cầu cho công cuộc truyền giáo cũng vậy, chúng ta thường cầu với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin cho có đông người, ngoại trừ con, biết quảng đại lên đường đi khắp muôn phương loan báo Tin Mừng cứu độ”. Nếu ai cũng cầu xin kiểu đó, nghĩa là cầu cho người khác lên đường, ngoại trừ bản thân mình, thì cánh đồng truyền giáo sẽ vắng bóng thợ gặt, tìm đâu ra người đi loan báo Tin Mừng.

Vậy thì lời cầu xin thiết thực nhất mà mỗi người chúng ta phải cầu xin với Chúa là: “Lạy Chúa, tuy con bất xứng, nhưng xin hãy sai con đi làm thợ gặt cho Chúa ngay hôm nay.”

Dù muốn dù không, chúng ta cũng là tông đồ của Chúa ngay từ ngày lãnh bí tích thanh tẩy. Bí Tích Thanh Tẩy làm cho chúng ta trở thành chi thể Chúa Giêsu, cho thông dự vào vai trò ngôn sứ của Người, nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin Mừng cứu độ của Người.

Chính vì thế, trước khi về trời, Chúa Giêsu long trọng chuyển trao cho chúng ta, là môn đệ Người, tiếp tục thi hành sứ vụ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)

Vậy thì sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn phận phải làm chứ không phải là việc tuỳ thích. Thánh Phao-lô thú nhận: “đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng.” (1 Cr 9,16).

Việc loan Tin Mừng là một bổn phận bắt buộc. Chỉ khi nào chúng ta tự khai trừ mình ra khỏi Hội Thánh, tự tách mình ra khỏi Thân Thể Chúa Giêsu, thì chúng ta mới có thể cho phép mình ngừng loan báo Tin Mừng.

Truyền giáo bằng chia sẻ tình thương

Phải truyền giáo cách nào?

Đối với Mẹ Têrêxa Calcutta, truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm bằng lời nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng chẳng chủ trương yêu thương đại chúng cách chung chung, nhưng là yêu thương từng người đang đối diện.

Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân Đức Kitô, mà chỉ có một Chúa Giêsu thôi. Người đó phải là người duy nhất trên thế gian trong giây phút đó.”

Với tâm tình nầy, Mẹ Têrêxa đã thu phục nhân tâm rất nhiều người khắp nơi trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội công giáo Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mươi năm!

Theo gương Mẹ Têrêxa, mỗi một người công giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem hết lòng yêu thương người đó.

Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với một gia đình lương dân, coi họ như thân quyến của mình, sẵn sàng chia sẻ buồn vui sướng khổ; khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng thông hiệp. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối giây thân ái và qua tình thân nầy, Tin Mừng của Chúa Kitô sẽ được lan toả.

Giáo Hội Hàn Quốc đã chứng tỏ đây là phương thức truyền giáo rất hiệu quả mà mỗi tín hữu đều có thể thực hiện trong đời mình.

45. Chứng nhân trong sự hiệp nhất yêu thương–Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

Thế giới ngày hôm qua cũng như hôm nay luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình yêu. Một Têrêsa thành Calcutta nhỏ bé nhưng có một trái tim lớn lao đã làm cho cả thế giới kính phục. Ở Việt Nam, người công giáo hay không công giáo họ vẫn nói với nhau về một vị giám mục dám bỏ ngai tòa để đến ở cùng những người cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là Đức Giám mục Cassien. Ngài đã dùng tình yêu để xoa dịu những những đau đớn cho người cùng khổ. Ngài đã chết cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi dương thế qua mọi thời đại.

Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, thiết tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn lại tinh thần chứng nhân tin mừng của giáo hội sơ khai. Một giáo hội non trẻ nhưng có sức mạnh biến đổi trần gian. Một giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan tỏa đến tận cùng thế giới. Một giáo hội nhỏ bé nhưng ai cũng có tinh thần truyền giáo, khiến thánh Phaolô đã từng nói rằng: “Tôi trồng, Apolo tưới, Thiên Chúa mới cho mọc lên”. Vậy đâu là điểm son để giáo hội có thể vượt qua mọi trở ngại để phát triển và canh tân bộ mặt trái đất? Thưa đó chính là tinh thần hiệp nhất yêu thương.

Theo sách tông đồ công vụ, thời giáo hội sơ khai, các tín hữu “sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự là của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu” (Tđcv 2, 44). Họ hợp nhất với nhau không chỉ về niềm tin mà còn hiệp nhất trong tình liên đới chia sẻ của cải vật chất cho nhau. Sự liên đới này tạo nên một cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người đều được cộng đồng quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu của từng người.

Chính đời sống yêu mến nhau nơi các tín hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân thương mến. Sự thương mến đó đã đem nhiều người về với Chúa. Sự thương mến đó cũng là nơi bảo vệ các tín hữu khỏi những cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn. Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn Giáo hội sơ khai đã được “toàn dân thương mến” (Tđcv 2,47a), thì đời sống của xứ đạo chúng ta hôm nay, cũng phải là một cộng đoàn được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến thân thương. Đó cũng là cách chúng ta ca tụng Chúa và giúp cho “càng ngày càng có nhiều người gia nhập Giáo hội” (Tđcv 2, 47b).

Thế nên, tinh thần truyền giáo mời gọi chúng ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả về vật chất, không chỉ là những người có đạo mà còn cả những người lương dân. Đồng thời sự chia sẻ này cũng nói lên sự xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét trong cộng đoàn để đón nhận nhau trong tinh thần bác ái huynh đệ. Lấy “dĩ hòa vi quý” để sống hài hòa, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một cộng đoàn chan hòa yêu thương, bác ái, chia sẻ, cảm thông. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu, là chứng nhân của Tin mừng giữa lòng dân tộc Việt Nam.

Vì chưng, giới luật quan trọng nhất của Kitô giáo chính là Mến Chúa – yêu người, thì người người Kitô hữu chúng ta phải thể hiện điều đó qua từng lời nói, từng việc làm, luôn được cân nhắc cho vừa ý trời và phù hợp với luân thường đạo lý làm người. Vì vậy, một đời sống chứng nhân Tin mừng cũng phải thể hiện bằng một đời sống hòa hợp với cộng đồng, với tha nhân. Nhất là biết thể hiện sự tương thân tương ái nơi cộng đồng giáo xứ, sự hiệp nhất yêu thương trong tình huynh đệ với tha nhân, nhờ đó mà Tin mừng mới nở hoa trên từng môi trường sống của người tín hữu. Chúng ta không thể là một người Kitô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ với anh chị em chung quanh. Lối sống này không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho những người chưa biết Chúa. Nhà lãnh tụ Ganhi của An Độ đã từng nói: “Nếu những người Kitô giáo sống đúng tinh thần giáo lý của họ. Tôi sẽ mời gọi cả dân tộc Ấn trở lại”. Chúng ta không thể truyền giáo mà còn mang nặng tính bè phái, tỵ hiềm, chia rẽ. Lối sống này đã không thu góp về cho giáo hội những tín đồ mới mà còn đẩy biết bao người ra khỏi giáo hội bởi lối sống ích kỷ, độc đoán của chúng ta. Thực tế đã có rất nhiều những cộng đoàn, những xứ đạo đổ vỡ vì sự bè phái đã phá đổ tình hiệp nhất yêu thương. Đã có rất nhiều người bỏ đạo, chối đạo vì sự bất khoan dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo hội, khỏi cộng đoàn. Và cũng có rất nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em lương dân nhìn đến chúng ta, chỉ vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng bác ái, thiếu lòng bao dung.

Thế nên mỗi người tín hữu phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa, yêu người nơi mỗi người chúng ta. Chúng ta mến Chúa nên chúng ta hăng say truyền giáo. Chúng ta yêu mến tha nhân nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với tha nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta đi đến với tha nhân bằng một tình yêu chân thành, không khoe khoang, không giả dối. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần nhau.

Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã từ trời xuống để gieo tin mừng yêu thương vào cho nhân thế, nâng đỡ và giúp chúng ta sống ơn gọi truyền giáo bằng một tình yêu mến nồng nàn. Ước gì đời sống chúng ta cũng trở thành một lời chứng sống động cho tin mừng khi chúng ta dám sống triệt để theo những đòi hỏi của tin mừng là mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Amen.

46. Cầu nguyện cho việc truyền giáo–Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

Có người nói với tôi: “Thưa cha gia đình ông B sống trong giáo xứ bao nhiêu năm mà chẳng chịu theo đạo?” Tôi hỏi lại: “Bạn đã bao giờ cầu nguyện cho ông B đó theo đạo chưa? Nếu không làm gì mà họ theo đạo mình cũng khó phải không?”. Cũng có người nói: “anh C đó hay đi chơi với chúng con mà chẳng thấy theo đạo?”. Tôi nói: “Chúng con có ai  cầu nguyện cho anh C theo đạo chưa mới là vấn đề?”.

Thực vậy, việc truyền giáo không dựa theo khả năng của chúng ta mà dựa vào sức mạnh của quyền năng Thiên Chúa. Chúa Giê-su khi sai 72 môn đệ ra đi thì Ngài đã nhắc các ông việc làm đầu tiên là cầu nguyện : “các con hãy cầu nguyện xin chủ ruộng sai thợ đến gặt”. Chúa muốn nhắc chúng ta việc truyền giáo không thể dựa vào sức mình mà phải dựa vào quyền năng của Chúa. Thế nên phải cầu  nguyện để ơn Chúa tác động, lôi kéo, còn chúng ta chỉ là khí cụ nhỏ bé trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa mà thôi.

Vậy cầu nguyện là gì?

Cầu nguyện theo thánh Augstinô là thưa chuyện với Chúa, như một người con hiếu thảo thưa chuyện với cha mẹ, hoặc như hai người bạn chân tình tâm sự với nhau.

Và cầu nguyện như thế nào?

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cầu nguyện trong kiên trì và tín thác. Thiên Chúa sẽ không bỏ rơi những ai kêu cầu Người, nhất là những người thấp hèn, bé nhỏ, miễn là biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa.

Bà goá  mà Phúc âm nhắc tới là một phụ nữ nghèo và “thấp cổ bé miệng”, bà ta chẳng hy vọng được xét theo lẽ công bằng. Nhưng bà có khí giới là sự kiên trì. Sự kiên trì đã đánh gục tính kiêu ngạo của ông quan, trời chẳng sợ, người chẳng nể, thế mà phải nhượng bộ xử tốt cho bà.

Việc truyền giáo cũng phải khởi đi từ lời cầu nguyện của mọi thành phần dân Chúa. Cầu nguyện trong kiên trì để Chúa sẽ làm những điều tốt nhất cho giáo hội của Chúa.

Mỗi năm chúng ta tổ chức ngày khánh nhật truyền giáo rất linh đình nhưng thử hỏi con số theo đạo được bao nhiêu? Chúng ta tự hào có một lực lượng rất đông tông đồ giáo dân nhiệt thành thăm viếng, tặng quà cho anh chị em lương dân, nhưng thử hỏi được mấy người đã nhờ những cuộc thăm viếng phát quà của chúng ta mà họ theo đạo? Chúng ta tự hào là Đạo chúng ta là đạo yêu thương, nhưng thử lắng nghe lương dân họ nói gì về người có đạo? Người có đạo vẫn sống thiếu tình yêu, vẫn sống lỗi công bằng và bác ái? Nơi xứ đạo vẫn còn nhiều tệ nạn xì ke ma tuý, băng nhóm “Đức ma tuý” hay “Huy cần sa” mà không ai dám ý kiến chỉ làm ngơ cho cái xấu lộng hành? Nơi xứ đạo vẫn còn tụ điểm cờ bạc, cá độ làm sao có thể thu hút người ngoại theo đạo? . . .

Thế nên, chúng ta cần phải nhắc lại với nhau rằng việc truyền giáo không dựa trên con người mà là dựa vào quyền năng của Thiên Chúa. Các tông đồ năm xưa từng cầu nguyện và khi tràn đầy Chúa Thánh Thần họ mới ra đi loan báo Tin mừng. Các ngài đã ra đi dưới bóng của Chúa Thánh Thần nên đã mang lại mùa xuân cứu độ trải rộng khắp mọi nơi trên địa cầu.

Thiết tưởng việc truyền giáo phải khởi đi bằng một cuộc hiệu triệu cho toàn thể tín hữu về bổn phận cầu nguyện trong việc truyền giáo. Cầu nguyện không chỉ cho có nhiều nhà truyền giáo để đến với lương dân. Cầu nguyện một cách cụ thể cho ông A, anh B mà mình quen biết được ơn trở về với Chúa. Cầu nguyện kèm theo những dịp thăm viếng chia sẻ bác ái sẽ làm cho muôn dân cảm mến Thiên Chúa và khao khát tìm kiếm Ngài. Đó mới là cách chúng ta đang biến mình làm khí cụ của Chúa để mang tin mừng đến cho mọi nơi. Chúng ta đừng nói “tại sao anh A không theo đạo?”, mà phải nói: “tại sao tôi không cầu nguyện cho anh A, người bạn thân của tôi được gặp Chúa?”. Đó mới là cách thức truyền giáo hữu hiệu nhất.

Xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức việc truyền giáo và sống tinh thần truyền giáo trong lời cầu nguyện và đời sống chứng nhân hằng ngày của mình. Amen.

47. Cách thức truyền giáo–Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta nghe âm vang lời mời gọi của Chúa vẫn còn vang vọng tới hôm nay: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Chúa không nói riêng một ai. Chúa mời gọi tất cả. Chúa không đòi hỏi khả năng, bằng cấp, học vị mà chỉ cần có nhiệt huyết làm tông đồ cho Chúa. Chúa cũng không đòi hỏi người truyền giáo phải hiểu biết tín lý thần học sâu xa, hay luân lý uyên thâm, Chúa chỉ cần có lòng quảng đại dấn thân mở mang nước Chúa. Chúa đã sai 72 môn đệ ra đi với đôi bàn tay trắng, thế mà khi trở về ai cũng vui mừng vì thành quả họ đã đạt được. Chúa đã thưởng công cho mỗi người như nhau, không phân biệt người đến sớm, kẻ đến muộn, người đạo gốc hay mới theo đạo. Từ người thợ giờ thứ 9 cho tới giờ thứ 11 đều được ân thưởng theo lòng nhân từ của Chúa.

Vậy đâu là cách thức truyền giáo hữu hiệu nhất cho người tông đồ của Chúa?

Thánh Gioan Tông đồ đã viết: “Ngôi lời đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta”. Chúa Giêsu là Lời hằng sống gieo vào thế gian, nhưng Lời đã mang lấy xác phàm giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngôi Lời đã trở thành nguồn ơn cứu độ để những ai tiếp xúc với Ngài đều có thể nhận lãnh được sự sống dồi dào cả tinh thần lẫn thể xác. Ngôi Lời đã mặc lấy thân phận con người, để có thể gần gũi, cảm thông và chia sẻ với những khổ đau của con người. Cuộc sống của Ngài đã trở thành trở thành lẽ sống cho con người, “Sống để yêu thương”, và Ngài đã đi trọn con đường tình yêu là “dám chết cho người mình yêu”. Vì vậy, cách thức duy nhất mà Chúa trối lại cho chúng ta là “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Lời Chúa và giáo huấn của Chúa phải trở thành cung cách sống của người tín hữu. Một đời sống bác ái yêu thương mới thực sự là phương thế hữu hiệu nhất để giới thiệu về Chúa cho tha nhân. Lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau. Mang danh Kitô hữu và sống đời Kitô hữu phải nên một trong con người có đạo mới thực sự trở thành chứng nhân cho Chúa.

Vì vậy, Truyền giáo không thể chỉ đi lễ, đọc kinh cầu nguyện là xong bổn phận chứng nhân cho Chúa. Nếu như thế mới chỉ là hành vi trả lại công bằng cho Chúa, vì việc tạ ơn là hành vi đền đáp lại ân ban của Thiên Chúa dành cho con người. Truyền giáo không phải là việc tuân giữ các giới răn của Chúa. Nếu như thế mới là giữ đạo chứ chưa truyền đao. Truyền giáo không phải là nói thật hay, thuyết trình thật hùng hồn là có thể đem nhiều người về với Chúa. Nếu như thế mới chỉ là tiếp thị chứ chưa mang đạo vào đời như muối như men ướp mặn trần gian.

Trong thông điệp “khánh nhật truyền giáo 2006”, Đức Thánh Cha Bênedictô 16 đã viết: “Sứ mạng truyền giáo, nếu không được định hướng bởi Lòng mến, nếu không phát sinh từ một hành động sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng đó liền bị rút gọn về chỉ còn như là một hành vi nhân ái và xã hội không hơn không kém. Tình yêu mà Thiên Chúa có đối với mỗi người, kết thành trung tâm của kinh nghiệm sống và loan báo Phúc Âm”.

Như vậy, Đức Thánh Cha đã tái khẳng định cách thức mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đi đó là thực hành bác ái. Không có lòng mến thì không thể trở thành nhân chứng cho niềm tin của mình. Yêu Chúa luôn đi liền với yêu mến tha nhân. Và thánh Phaolô còn quả quyết “Lòng mến chính là sợi giây ràng buộc chúng ta nên một với Đức Kitô”.

Hôm nay nhân ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta hãy rà xét lại lòng mến của chúng ta đã trở nên dấu chỉ của người Kitô hữu hay chưa? Ngày xưa cộng đoàn tín hữu tiên khởi họ đã sống thật hiệp nhất với nhau, ngày ngày họ đến hội đường để nghe các tông đồ rao giảng. Họ chia sẻ đời sống hằng ngày với nhau, để không ai phải thiếu thốn. Họ được toàn dân thương mến và ngày càng có thêm nhiều người gia nhập Giáo Hội. Ước gì cộng đoàn xứ đạo chúng ta cũng được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến, đầy thiện cảm và tôn trọng, và ngày càng có những người muốn sống đời Kitô hữu như chúng ta. Amen.

48. Nối bước các thừa sai–Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

Trong tông huấn Ecclesia in Asia, Đức Cố Gioan Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi: “Thiên niên kỷ thứ nhất truyền giáo cho Châu Âu. Thiên niên kỷ thứ hai truyền giáo cho Châu Mỹ. Thiên niên kỷ thứ ba phải truyền giáo cho Á Châu “.

Cách riêng với Giáo Hội việt Nam năm 2003 mừng 470 năm Tin Mừng được rao giảng trên quê hương đất nước chúng ta, các Đức Giám mục Việt Nam đã hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha, công bố thư mục vụ mang tựa đề “Sứ Mạng Loan báo TinMừng Của Hội Thánh Việt Nam Hôm Nay” đã khẳng định: “Đầu thiên niên kỷ mới, sứ mạng loan báo Tin mừng được đặc biệt trao vào tay chúng ta. Chúng ta hãy tiếp bước các vị thừa sai đầy nhiệt tình tông đồ, hãy phát huy truyền thống kiên cường của các bậc tiền nhân anh hùng tử đạo. Ta hãy đáp lại kỳ vọng của Hội thánh đem Tin mừng cho anh em trên lục địa mênh mông này. Và đặc biệt đem Tin mừng cho anh chị em sống ngay trên quê hương Việt nam”. (Thư chung 2003)

Hơn nữa, Giáo hội Việt Nam ngày nay là con cháu của 117 vị thánh Tử Đạo và của hàng chục ngàn người Việt Nam đã chết vì đạo. Nhưng gần 5 thế kỷ trôi qua, Giáo hội Việt Nam xem ra vẫn còn bé nhỏ giữa lòng dân tộc Việt nam. Theo thống kê năm 2006 thì Giáo hội việt nam có 26 Giáo Phận, gồm khoảng 7 triệu giáo dân, trên tổng số hơn 80 triệu người Việt Nam, chiếm tỉ lệ 6,62%.

Là người con của dân tộc Việt Nam, là dòng máu các anh hùng Tử đạo Việt Nam chúng ta cần phải có bổn phận loan báo Tin mừng cho chính quê hương, dân tộc của mình. Đạo làm người dạy chúng ta phải “thương người như thể thương thân”, thì đạo làm con Chúa đòi hỏi chúng ta chia sẻ tất cả những gì mình có cho tha nhân, cho đồng loại. Các thánh Tông Đồ, các vị Thừa Sai đã đem niềm vui lớn nhất là Tin mừng Chúa Giêsu được công bố cho toàn thế giới. Các Ngài đã không quản ngại hy sinh tính mạng để đổi lấy niềm vui ơn cứu độ được trao ban tới muôn triệu tâm hồn. “Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau đem Tin mừng đến tận cùng thế giới”. (Thư chung 2003)

Nhờ các vị thừa sai tràn đầy nhiệt huyết, quê hương Việt Nam đã được đón nhận Tin mừng. Nhờ đời sống đức tin anh dũng của các bậc tiền nhân mà thế hệ chúng ta được thừa hưởng một gia tài đức tin vô cùng quý giá. Gia sản này chúng ta không có quyền lưu giữ cho riêng mình, nhưng phải có bỗn phận chia sẻ cho con người thời đại hôm nay. Chúa Giêsu sau khi phục sinh, Ngài đã uỷ thác cho Hội Thánh nhiệm vụ loan báo tin mừng khi Ngài nói: “Anh em hãy đi tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin mừng” (Mc 16,15). Lệnh truyền này đã trở thành sứ mạng chính yếu của Hội Thánh Chúa Kitô. Hội thánh hiện hữu là để loan báo Tin mừng và làm cho những ai thành tâm đón nhận Tin mừng trở nên môn đệ Chúa Kitô, đồng thời quy tụ cho Thiên Chúa mọi con cái tản mác khắp nơi về một mối (Ga 10,52). Thế nên, là người công dân của Nước Trời, chúng ta phản có bỗn phận chu toàn sứ vụ đó cho anh chị em chung quanh chúng ta, cụ thề là cho chình đồng bào và dân tộc Việt Nam.

Vậy, truyền giáo là gì?

Theo công đồng Vat II: “Việc truyền giáo là tất cả những công tác đặc biệt qua đó các nhà rao giảng Phúc âm được Giáo hội sai đi khắp thế gian, thi hành nhiệm vụ rao giảng Phúc âm và vun trồng Giáo hội nơi các dân tộc cũng như giữa những nhóm người chưa tin vào Chúa”. (TG 6c)

Trước đó, cha Pierre Charles cũng cho rằng: “mục tiêu truyền giáo không phải là cứu rỗi các linh hồn”, hoặc “làm cho dân ngoại trở về với Chúa”…; song là “mở rộng biên cương Giáo hội hữu hình, nhằm hoàn tất tiến trình lớn lên, hầu bao phủ toàn thế giới với lời cầu nguyện và việc phụng tự, tức là để mang cho Đấng Cứu Thế toàn bộ gia sản của Ngài”.

Như vậy, việc truyền giáo là “đưa Thiên Chúa đến với con người và đưa con người trở về với Thiên Chúa”. Đó chính là mục tiêu chính của việc truyền giáo và cũng là sứ mạng cấp bách của Giáo hội Chúa Kitô. Vì Giáo hội được hình thành để tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, Đấng sang lập Giáo hội. Khi hoàn tất sứ mạng của mình ở trần gian, Chúa Giêsu đã sai phái các tông đồ tiếp tục sứ mạng đó cho đến tận cùng trái đất. “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sia anh em” (Ga 20, 21″. “Anh em hãy làm chứng cho Thầy khởi đầu từ Giêrusalem đến tận cùng trái đất” (Lc 24, 47)

Vì vậy, là người công giáo chúng ta phải có bổn phận mang Tin mừng của Chúa đến cho anh em minh. Hãy tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô đưa muôn người đang còn tản mác khắp nơi về với Chúa. Hãy tiếp nối truyền thống của các Thừa sai Việt Nam mang Tin mừng đến cho những anh em nghèo đói, đến những phận người bị bỏ rơi.. Hãy tiếp nối tinh thần quả cảm hy sinh, kiên cường của các tiền nhân mà mạnh dạn làm chứng cho Chúa, cho dù có bị thua thiệt trước mặt người đời, cho dù có bị hiểu lầm, ngược đãi… nhưng cùng chịu chết với Đức Kitô là một mối lợi mà không có một gia sản nào trên trần gian có thể sánh bằng.

Nguyện xin Chúa Giêsu là người thợ lành nghề được sai đến trần gian để gặt lúa của Người, xin giúp chúng con biết dấn thân quảng đại vào cánh đồng truyền giáo Việt Nam hôm nay. Amen.

49. Đức Maria, mẫu gương truyền giáo–Lm. Hoàng kim Toan

Đôi khi tôi tự hỏi, tại sao Chúa Nhật Truyền Giáo lại được nhắc trong tháng Mân Côi, tháng dâng kính Đức Mẹ, cùng với Đức Mẹ chiêm ngắm tình thương của Thiên Chúa, bằng những tràng chuỗi đơn sơ và thành kính nhất qua lối cầu nguyện theo Tin Mừng. Những dòng suy niệm này trả lời cho tôi câu hỏi đó.

Những trang Tin Mừng về Đức Maria thật là phấn khởi cho trần thế chúng ta. Có một người phụ nữ, mang trọn vẹn sứ điệp Tin Mừng của Thiên Chúa vào trong lòng nhân thế. Nhân loại vui mừng bởi sự đón nhận này của Mẹ Maria, “để từ nay mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Thiên Chúa đã làm cho Mẹ những kỳ công lớn lao nơi Mẹ và còn làm những điều lớn lao ấy cho nhiều tâm hồn nhân thế chúng ta.

Sự chuẩn bị một tâm hồn vô tì tích là sự chuẩn bị của Thánh Thần, Chúa Thánh Thần thực hiện nơi Đức maria những điều lớn lao, bởi Mẹ là người đã để Chúa Thánh Thần hoạt động và làm phát sinh hoa trái của Người. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ ngự xuống trên Bà” (Lc 1, 35), hoa trái của Chúa Thánh Thần là hoan lạc và bình an. Mẹ đã mang hoan lạc và bình an của Thiên Chúa cắm rễ vào trong trái đất. Maria, công trình tuyệt diệu của Chúa Thánh Thần, nhân thế có một con người được Chúa Thánh Thần chuẩn bị cho sự toàn vẹn để xứng đáng đón nhận Đức Giêsu, Con thiên Chúa vào trong lòng nhân thế, lịch sử đã đổi hướng đi về nguồn ơn cứu độ, về niềm vui của Thiên Chúa đã hứa từ ngàn xưa, và trở nên hiện thực trong sự cưu mang này. Đức Maria trở nên người diễm phúc là nhờ sự chuẩn bị của Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần có thể làm cho con người tội nhân của Eva cũ, xuất hiện một Eva mới vô tì tích, trong trắng đẹp lòng trước mặt Thiên Chúa. Maria, công trình của Chúa Thánh Thần thực hiện cho nhân loại.

Maria, là người Mẹ truyền giáo đúng nghĩa nhất, bởi sự tinh tuyền của Mẹ, bởi Mẹ là kỳ công của Chúa Thánh Thần hoạt động trên trái đất này. Mẹ đã đón nhận Con Thiên Chúa cho thế gian và đưa Con Thiên Chúa vào trong thế gian và đó là Tin Mừng đúng nghĩa nhất cho trần thế. Từ nay, nhân loại nhận ra rằng: Sứ vụ truyền giáo là sứ vụ của người mang tin vui, tin cứu độ, tin được Thiên Chúa đoái thương. Đức Giêsu Con lòng Mẹ, một Người Con của nhân loại, một người Con của Thiên Chúa là nguồn ơn cứu độ, suối trào niềm vui cho nhân thế.

Người loan báo Tin Mừng là người được Chúa Thánh Thần tác động cách đặc biệt trên cuộc đời của họ. “Đức Maria lên đường vội vã” (Lc 1, 39). Sự vội vã của con người mang niềm vui khôn tả, thúc đẩy mau mắn lên đường, nhắc lại hình ảnh xưa Isaia đã tiên báo: “Đẹp thay trên núi đồi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị” ”. (Is 52, 7). Đức Maria mang trọn niềm vui Đấng Cứu Độ mà nhân loại đón đợi, không thể không vui và niềm vui chất ngất, thúc đẩy lên đường loan báo tin vui. Nếu trong lòng tôi và trong lòng bạn mang niềm vui ngập tràn như thế tôi và bạn cũng sẽ vội vã lên đường loan báo. Đức Maria trở nên người loan báo Tin Mừng đúng nghĩa bởi vì Mẹ mang trọn niềm vui Chúa Thánh Thần. Ai để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời của mình cũng là người mang trọn niềm vui loan báo.

Không chỉ là loan báo mà thôi, Đức maria còn là người công bố Tin Mừng. Người công bố là người đã xác tín một cách chắc chắn về những gì Thiên Chúa đã làm cho mình. Đức Maria đã nghiệm thấy như thế trong cuộc đời của Mẹ: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn” (Lc 1, 49). Thấy được tình thương Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời mình, người loan báo sẽ đi xa hơn nữa để, công bố Tin Mừng Thiên Chúa đã làm cho mình. Sự công bố mang một niềm tin xác tín, đã gặp và đã thấy. Sứ vụ loan báo Tin Mừng hôm nay, cần chứng nghiệm nơi người loan báo Tin Mừng như thế, bởi vì người ta đang cần chứng nhân hơn thày dạy. Đức Maria nhận ra bàn tay Toàn Năng của Thiên Chúa thực hiện trong cuộc đời của Mẹ, nên Mẹ là người công bố sứ điệp chắc chắn về Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa cho nhân loại.

Niềm xác tín của Đức Maria mang một chiều kích rất riêng tư, nhờ Mẹ đã “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 3, 51). Cầu nguyện là chiêm ngắm những điều Thiên Chúa đã thực hiện nơi mình, là cuộc trao đổi, đối thoại giữa nhưng khó khăn, thử thách. Đức Maria trở thành người công bố Tin Mừng, bởi Mẹ đã chiêm ngắm công trình của Thiên Chúa thực hiện cho dân tộc, cho chính Mẹ. Sự chiêm ngắm, đối thoại dẫn đến một xác tín riêng tư chắc chắn để đi đến một công bố cho muôn người. Con đường cầu nguyện của Đức maria đã đi qua là con đường mời gọi những người truyền giáo hôm nay thực hiện.

Truyền giáo không là công cuộc cày xới những mảnh đất hoang, cũng không là công cuộc cải đạo cho những người khác niềm tin. Đối với Đức Maria truyền giáo có nghĩa là đem chính Đức Giêsu cho nhân loại. Đức Giêsu có là niềm vui cho bạn không? trước khi là niềm vui công bố cho người chung quanh bạn, trở lại niềm xác tín này chúng ta trở lại niềm xác tín của Đức Maria, khi Mẹ xác tín: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1, 46). Tràn ngập niềm hân hoan bởi Mẹ đã gặp thấy và cưu mang chính niềm vui của Đức Giêsu trong lòng Mẹ. Đức Maria không mang niềm vui nào khác ngoài niềm vui: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 47). Niềm vui của Thiên Chúa trong ngày Thiên Chúa đoái thương, ngày nào không là ngày Thiên Chúa đoái thương, nhưng đôi lúc chúng ta lại quên mất cảm nghiệm thực sự điều này, để rồi sứ vụ truyền giáo của mỗi thành viên chúng ta cứ hoài dang dở. Đức Maria đã mang chính Đức Giêsu, quà tặng tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa, nguồn ơn cứu rỗi duy nhất, công bố, trao tặng cho nhân loại.

Dù là người loan báo, dù là người công bố Tin Mừng đi chăng nữa, Đức Maria luôn đặt mình dưới sự bảo trợ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Không thể tách rời Đức Maria khỏi hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đức Maria là công trình tuyệt hảo của Chúa Thánh Thần. Dù Đức Maria có được như thế nào chăng nữa, Mẹ cũng luôn đặt mình trong tâm khảm của người: “phận nữ tỳ hèn mọn, Người đã đoái thương nhìn tới” (Lc 1, 48). Người truyền giáo cũng thế, không thể tách rời Chúa Thánh Thần với hoạt động của mình được. Ai có thể chinh phục sự sâu thẳm của lòng người quy hướng về Thiên Chúa, nếu đó không phải là tác động của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần mời gọi con người theo nhiều nẻo đường khác nhau, để quy tụ cho Thiên Chúa một Dân được hiến thánh. Chúng ta là những dụng cụ Thiên Chúa dùng, và hãy đặt cuộc đời mình vào bàn tay của Thiên Chúa.

Không có công trình nào là thua mất cả với ánh mắt nhìn đức tin của Đức Maria, đôi khi gặp những người cứng cỏi quá sức, hãy phó dâng cho Thiên Chúa, như người gieo giống chỉ biết chờ đợi cho hạt giống nảy mầm. Đức Maria đã thấy nghiệm điều này trong cuộc đời của Mẹ: “Chúa biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng” (Lc 1, 51). Chúng ta cần biết chờ đợi điều Thiên Chúa sẽ cho mọc lên, sự chờ đợi là một bài học cuối kết thúc cho sứ vụ truyền giáo chúng ta học nơi Đức Maria.

Kính dâng Mẹ những suy nghĩ này, bởi hơn ai hết Mẹ là vị Thày tốt nhất dạy chúng con sống sứ vụ truyền giáo.

50. Truyền giáo

“Không biết khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?” Lời kết của bài Tin Mừng hôm nay gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Câu hỏi đó hướng đến một lời mời gọi tích cực, nhưng cũng có thể nói lên một thực trạng tiêu cực của niềm tin không chỉ cho các đồ đệ khi xưa nhưng còn cho chính con người ngày nay.

“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Sứ mạng truyền giáo loan báo Tin Mừng tình yêu cứu độ mà Chúa Giêsu đã khai mở và thực hiện, Ngài đã truyền lại cho Giáo Hội tiếp tục sứ mạng ấy. Đã 2000 năm qua đi và trong bối cảnh của Chúa nhật cầu nguyện cho việc truyền giáo, cộng đoàn chúng ta qui tụ nơi thánh đường này để cùng nhìn lại sứ mạng Kitô hữu của mình.

Trong sứ điệp của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II về Ngày Quốc Tế Truyền Giáo, Ngài nhấn mạnh đến hai ý nghĩa của việc cử hành ngày quốc tế truyền giáo, đó là: mời gọi canh tân về ý thức truyền giáo, nhắc lại tính cấp bách của hoạt động truyền giáo. Đây là sứ vụ liên quan đến mọi Kitô hữu. Quả vậy, ngay từ ngày được lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, mỗi Kitô hữu đã đón nhận sứ mạng tư tế, vương đế và tiên tri. Nói theo lối trình bày của Hiến Chế Anh Sáng Muôn Dân (Lumen Gentium) thì truyền giáo là bản chất của Giáo Hội. Giáo Hội tồn tại là vì sứ vụ, nghĩa là lý do hiện diện của Giáo Hội là truyền giáo. Và như vậy lệnh truyền của Đức Giêsu về truyền giáo là lệnh truyền cho mỗi Kitô hữu, là bổn phận trách nhiệm của mỗi Kitô hữu.

Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Rôma viết: “Tất cả những ai kêu cầu danh Chúa sẽ được cứu thoát. Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng?”

Nhìn vào thực tế hôm nay số người Kitô hữu chỉ chiếm một phần năm dân số thế giới. Lục địa Á Châu gần bốn tỷ người mà trong đó người tín hữu chỉ là một con số quá bé nhỏ với 2,7/o. Còn trong đất nước chúng ta với dân số hơn 70 triệu trong đó người Công giáo chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 6/o (chưa được một phần mười). Đây phải là nỗi thao thức của mỗi Kitô hữu chúng ta. Cụ thể hơn nhìn vào giáo xứ, vào khu vực địa phương chúng ta đây còn bao nhiêu người chưa được nghe nói về Chúa, về Tin Mừng của Ngài, chưa tin theo Chúa? Lý do nào vậy? Trong đó có trách nhiệm của tôi không? Sẽ không thừa khi nói lên hiện trạng không ít người vẫn còn cho rằng việc truyền giáo là của các Đức Giám mục, Linh mục, Tu sĩ; mà quên rằng chính mình cũng có bổn phận đó. Bên cạnh đó, không thiếu những người Công giáo lý luận: “Ôi thôi, đạo nào cũng là đạo, đạo nào cũng dạy người ta ăn ngay ở lành. Và nếu một người ăn ngay ở lành theo tiếng lương tâm ngay thẳng của họ thì dù họ không được rửa tội, họ vẫn có thể được cứu rỗi. Vậy thì tại sao tôi phải mời gọi họ tin vào Tin Mừng cứu độ, mời gọi họ lãnh nhận Bí tích Rửa tội, gia nhập Giáo Hội.

Để trả lời cho lập luận trên, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin xác nhận lại một cách rõ ràng rằng bổn phận truyền giáo của Kitô hữu là cần thiết. Mọi người đều mắc tội nguyên tổ, lương tâm con người có thể sai lầm. Họ vẫn cần nghe Tin Mừng, cần ơn thánh Chúa để có sức mạnh lướt thắng…

Mọi tôn giáo đều có những tia sáng mà chúng ta không được phép coi thường hay dập tắt. Mọi tôn giáo đều là tia sáng khởi đầu của đức tin mà chúng ta mong đợi những tia sáng đó khai triển thành bình minh huy hoàng và dẫn đưa vào ánh sáng rực rỡ của đức khôn ngoan Kitô.

Nói đến truyền giáo, trong suy nghĩ của chúng ta thường là dấn thân làm việc truyền giáo và ai càng làm được nhiều thì người ấy càng được xem là nhà truyền giáo lớn. Lịch sử Giáo Hội qua từng thời kỳ xuất hiện những gương mặt vĩ đại trong hoạt động truyền giáo mà tiêu biểu là thánh Phanxicô Xavier, một đời bươn chải, lặn lội đem Tin Mừng đến vùng xa xôi. Tuy nhiên, bao giờ cũng vậy, ẩn bên trong những hoạt động, động lực cho những hoạt động, kim chỉ nam cho mọi hoạt động ấy là cả một tinh thần cầu nguyện của các nhà truyền giáo cũng như mọi tín hữu. Có thể nói cầu nguyện là linh hồn của hoạt động truyền giáo. Nếu thiếu cầu nguyện thì hoạt động chỉ là những thanh la inh ỏi, hời hợt bên ngoài. Thiếu cầu nguyện cũng là thiếu nền tảng giáo lý cho việc rao giảng.

Trong bài đọc 1, sách Xuất hành thuật lại việc Môsê giơ tay cầu nguyện và Giosuê đánh bại quân Amalech. Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông giơ tay lên thì phần thắng nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy là của Môsê cùng với Môsê: một sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động.

Một hình ảnh minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động trong hoạt động truyền giáo đó là thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu. Chưa từng bước ra ngoài hoạt động truyền giáo, nhưng chỉ bằng hy sinh và cầu nguyện cho các nhà thừa sai trong việc rao giảng Tin Mừng vậy mà thánh nữ đã được tôn phong làm thánh Tiến sĩ Hội thánh, bổn mạng các xứ truyền giáo.

Gần chúng ta hơn có mẹ Têrêsa Calcutta, một người mà cả thế giới đều biết đến với những hoạt động cho tình yêu thương. Mẹ không chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng lời nói nhưng mẹ nói về Chúa Giêsu, bày tỏ gương mặt của Ngài bằng chính cuộc sống yêu thương của mẹ. Mẹ đã định nghĩa về một nhà truyền giáo, đó là: “Một tín hữu Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”.

Truyền giáo chúng ta tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa, một Đức Giêsu Kitô, Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại, Đấng đã hiến thân để cứu chuộc mọi người. Và truyền giáo là sứ vụ của Giáo Hội và là một nghĩa vụ mà đức bác ái đòi buộc mỗi Kitô hữu phải thực hiện cho anh em đồng loại mình.

Con người ngày nay cần nhân chứng hơn thầy dạy. Và như thế, truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà cần thiết là chia sẻ một cuộc sống yêu thương. Đây chính là cốt lõi mà Chúa Giêsu đã cô đọng trong giới luật mến Chúa yêu người. Chúng ta thường nói “giữ đạo”. Giữ để khỏi mất. Nhưng giữ cũng còn nghĩa là không muốn cho đi. Bước chân truyền giáo không bao giờ được phép “giữ” mà luôn luôn là “cho” đi.

Khi sống yêu thương tôi luôn mở lòng ra để cho đi, để ban tặng. Tình yêu như một nghịch lý: khi tình yêu càng cho đi thì càng được đầy tràn, càng cho nhiều càng được nhiều, trao ban trọn vẹn sẽ nhận lãnh trọn vẹn. Như thế, truyền giáo chính là truyền tình yêu mà chúng ta đã kín múc từ nơi Thiên Chúa và đem trao lại cho anh em mình.

Trong một xã hội mà người tín hữu chỉ là thiểu số thì việc truyền giáo hiện nay chính là quyết tâm sống để người khác nhận ra Chúa Giêsu là Đấng đã đến chỉ để rao giảng về một thứ đạo của tình yêu thương. Mỗi người chúng ta trong khả năng, hoàn cảnh của mình đều có thể truyền giáo vì không ai nghèo đến nỗi không có gì để ban tặng. Như thế sống yêu thương là một hành động truyền giáo thiết thực nhất có thể kín múc được tình yêu Thiên Chúa.

51. Truyền giáo

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Ấn Độ hồi tháng 11.1999. Cao điểm của chuyến viếng thăm này là nghi thức công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu. Tông Huấn này là một đúc kết kết quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Á Châu nhóm họp tại Rôma hồi tháng 4.1999. Việc chọn Ấn Độ làm nơi công bố Tông Huấn mang một ý nghĩa đặc biệt. Những nơi mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong mỏi đến viếng thăm nhất hẳn phải là Đài Loan, Hồng Kông, Trung Hoa Lục Địa và đặc biệt là Việt Nam. Thế nhưng, cho đến nay người ta vẫn cứ nại đến lý do chính trị và quan hệ ngoại giao để không cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Giáo Hội ở phần đất này. Dĩ nhiên đằng sau những lý do chính trị và quan hệ ngoại giao ấy, ai cũng thấy rõ chủ trương bài trừ tôn giáo và nhất là chống lại Giáo Hội. Tựu trung linh hồn của bất cứ một chế độ độc tài ý thức hệ nào cũng là tinh thần bất khoan nhượng. Người dân không những bị cưỡng bách phải tuyên xưng ý thức hệ của chế độ mà còn bị kỳ thị loại trừ và bách hại về niềm tin tôn giáo của mình.

Tuy là một quốc gia có nền dân chủ lớn nhất thế giới hiện nay, Ấn Độ đang bị xâu xé vì tinh thần bất khoan nhượng. Tại một quốc gia với một tỷ dân này, liên minh cầm quyền gồm những người theo chủ nghĩa Ấn Giáo, trong đó có một số thành phần cực đoan lại tái cử thêm nhiệm kỳ nữa, tinh thần bất khoan nhượng ngày càng gia tăng tại Ấn Độ. Trong những năm gần đây, người ta ước tính là đã có gần 150 vụ tấn công nhắm vào nhân sự và các cơ sở của Kitô Giáo, nhiều vị mục sư và linh mục bị sát hại, nhiều nữ tu bị bạo hành, nhiều nhà thờ bị đốt phá.

Một nhóm Ấn Giáo cực đoan đã tổ chức cuộc biểu tình phản đối nhân dịp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Ii viếng thăm Ấn Độ. Họ đòi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lên án các cuộc trở lại Công Giáo cũng như xin lỗi người Ấn Độ về những phương pháp truyền giáo cho người Ấn trong quá khứ. Chính trong bầu khí đầy bất khoan nhượng ấy mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm Ấn Độ, đúng hơn chính bầu khí bất khoan nhượng ấy đã khiến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chọn Ấn Độ làm nơi để công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu.

Trong bầu khí đó chúng ta thấy rằng, sứ điệp mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ với các tín hữu Kitô tại Ấn Độ và toàn thể Á Châu, cũng như với tất cả mọi người Ấn Độ là sứ điệp về lòng khoan nhượng. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trưng dẫn cuộc cách mạng bất bạo động vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại do Mahatma Gandhi chủ xướng, Ngài cũng nói đến tấm lòng khoan dung độ lượng của biết bao nhiêu nhà hiền triết Ấn Độ.

Quả thật, tôn giáo nào cũng tốt trong một mức độ nào đó, câu nói này nói lên tinh thần khoan nhượng vốn là yếu tính của tất cả mọi tôn giáo. Thật thế, tôn giáo nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành; tôn giáo nào cũng lên án ích kỷ, bạo động, hận thù và tinh thần bất khoan nhượng.

Trong tuyển tập có tựa đề “Con Đường Đơn Sơ” của Mẹ Têrêsa Calcutta, vị Sáng Lập Dòng Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái đã viết như sau: “Chỉ có một Thiên Chúa và Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Do đó, cần phải nhận ra mọi người bình đẳng trước mặt Chúa. Tôi vẫn luôn luôn nói rằng, chúng ta phải giúp cho một người Ấn Giáo trở thành người Ấn Giáo tốt hơn; một người Hồi Giáo được trở thành một người Hồi Giáo tốt hơn và một người Công Giáo trở thành một người Công Giáo tốt hơn.” Lễ quốc táng mà chính phủ Ấn Độ đã dành cho Mẹ cách đây 4 năm chứng tỏ rằng, sứ điệp mà Mẹ mang đến cho dân tộc này đã được mọi người đón nhận. Sứ điệp ấy không chỉ được Mẹ Têrêsa nói lên bằng những lời nói suông mà còn bằng cả cuộc sống của Mẹ nữa.

Hôm nay là ngày thế giới truyền giáo, chúng ta hiệp nhau cầu nguyện cho công việc truyền giáo của Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện cách đặc biệt cho các nhà thừa sai trên cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội. Chúng ta tuyên xưng rằng, Chúa Giêsu Kitô là Đấng duy nhất cứu rỗi nhân loại, nhưng quan trọng hơn cả là chúng ta được Giáo Hội mời gọi mỗi người ý thức về sứ mệnh truyền giáo của mình, nhất là hiểu được ý nghĩa đích thực của việc truyền giáo trong thế giới hôm nay.

Mẹ Têrêsa Calcutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo: “Đó là một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Têrêsa không những chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêsa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu.

Truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương. Đây chính là cốt lõi mà Chúa Giêsu cô đọng trong giới răn mến Chúa và yêu người được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay. Trong xã hội mà Kitô giáo chỉ là thiểu số thì truyền giáo đối với Kitô hữu hiện nay là quyết tâm sống như thế nào để cho mọi người nhận biết Chúa Giêsu là Đấng đã đến chỉ để rao giảng một thứ đạo, đó là đạo của tình thương. Trong một chế độ chối bỏ những quyền tự do cơ bản nhất của con người, thì truyền giáo đối với các tín hữu Kitô hiện nay chính là biểu lộ được bộ mặt đích thực của Đạo là yêu thương và khoan nhượng.

52. Chứng tá

Truyền giáo là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu. Đây là điều công đồng Vaticanô II nhắc đi nhắc lại nhiều lần: việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận chính yếu. Bổn phận căn bản của Giáo hội và mỗi Kitô hữu. Công đồng đã làm nổi bật vấn đề truyền giáo và đã định nghĩa Giáo hội là Giáo hội truyền giáo và coi việc truyền giáo là nghĩa vụ tông đồ của mỗi Kitô hữu. Theo công đồng, không một tín hữu nào đáng gọi là tín hữu mà có thể khước từ nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không thể là một việc tùy sở thích, nhưng mỗi tín hữu phải coi đây là vấn đề sống đạo, vấn đề sinh tồn của Giáo hội và là trách nhiệm của chính mình.

Đối với người giáo dân, qua sắc lệnh về tông đồ giáo dân. Công đồng còn cho thấy vai trò quan trọng của người giáo dân trong việc truyền giáo, vai trò là men, là muối, là ánh sáng, là chứng nhân giữa đời. Bởi vì giáo sĩ không thể sống chân bùn tay lấm nơi đồng ruộng với những nông dân; giáo sĩ không thể gồng gánh theo chân những người buôn bán đi vào đầu đường xó chợ; giáo sĩ không thể đầu tắt mặt tối làm việc trong những cơ xưởng, nhà máy, công trường… nhưng chính những giáo dân nhà nông, những giáo dân buôn bán, những giáo dân công nhân, có nhiệm vụ đem Chúa đến cho anh em mình nơi đồng ruộng, chợ búa, xí nghiệp, nhà máy, nghĩa là những nơi mà giáo sĩ không thể có mặt và không thể đi đến, thì giáo dân sẽ đóng vai trò chủ chốt và chủ động. Bởi đó, không những giáo dân đóng vai trò yểm trợ cho giáo sĩ mà còn đóng vai trò chính yếu, thay thế cho giáo sĩ trong những nơi hay những hoàn cảnh đó.

Như vậy cách truyền giáo tốt nhất và có hiệu quả nhất là đời sống gương mẫu, đời sống Công giáo đích thực, nhất là đời sống thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những bạn tốt, những công nhân gương mẫu trong nhà máy, những công nhân gương mẫu ngoài công trường. Tóm lại, chúng ta hãy nắm lấy những cơ hội đi lại đây đó, khi thi hành công tác, khi làm ăn sản xuất, khi xê dịch thăm viếng… để nói hay làm chứng về Chúa qua lời nói, thái độ và cách đối xử đầy tình yêu thương của chúng ta.

Mẹ Têrêxa Cancutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo như sau: đó là “một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêxa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu, truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương.

Có người đã kể lại lý do và động lực thúc đẩy ông theo đạo như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đưa tôi vào bệnh viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và tận tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”. Chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu không biết Chúa, bây giờ được biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy. Giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.

Câu chuyện trên cho chúng ta thấy gương sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, vì họ có đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu lộ tình thương với họ hay với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo Chúa, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những người bạn tốt của nhau.

Trong thư mục vụ năm 2003 của các giám mục Việt Nam, số 10 cũng nói đến cách truyền giáo này: cầu nguyện cho việc truyền giáo là việc quan trọng hàng đầu, việc truyền giáo phải đặt nền tảng trên lời cầu nguyện: cá nhân, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ. Trước khi rao giảng bằng lời nói, hãy rao giảng bằng đời sống, chúng ta hãy nêu gương về đời sống hiệp nhất yêu thương, không có lời rao giảng nào có sức thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình, xóm làng, trong giáo xứ, trong giáo phận, như lời Chúa phán: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy, ấy là nếu anh em thương yêu nhau”.

Tóm lại, ngày thế giới truyền giáo hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy luôn ý thức về sự quan trọng của việc truyền giáo và nhắc nhở chúng ta hãy góp phần mình vào công cuộc truyền giáo của Giáo hội bằng việc cầu nguyện và bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta.

53. Truyền giáo

“Mỗi người ở ngoài Chúa là một cánh đồng truyền giáo, và mỗi người ở trong Chúa là một nhà truyền giáo”. Câu nói trên rất đúng và cũng rất hay.

“Mỗi người ở ngoài Chúa là một cánh đồng truyền giáo”. Điều đó rất đúng. Như vậy, cánh đồng truyền giáo vẫn còn bao la, mênh mông. Mặc dầu Tin Mừng đã được loan truyền và đạo Chúa đã được thiết lập cả hai ngàn năm rồi mà số đông vẫn chưa được nghe biết Tin Mừng, hay nói ngược lại, chưa được một phần ba nhân loại nhận biết Chúa Kitô. Với đà gia tăng dân số kinh khủng hiện nay, thì một ngày kia số ngày tin theo Chúa sẽ trở thành thiểu số đáng ngại.

Các nước được mệnh danh là “Công giáo” như Tây Ban Nha, Pháp, Ý… có tới 70-80 phần trăm dân số được rửa tội, nhưng được mấy chục phần trăm sống theo đức tin? Từ hơn nửa thế kỷ rồi, ngay giữa Âu Châu đã vang lên những lời cảnh tỉnh: “Nước Pháp, xứ truyền giáo”. Nước Pháp mà còn gọi là xứ truyền giáo thì nói gì đến những xứ truyền giáo chính hiệu như ở Á Châu, Phi Châu. Hai nước có dân số lớn nhất nhì thế giới là Trung Quốc và An độ, chỉ có không tới một phần trăm là Công giáo. Nếu đất nước chúng ta đã thấm nhiều máu tử đạo và đang có một cộng đồng Công giáo tương đối đông đảo, thì sát cạnh nước chúng ta, hai nước Lào và Campuchia kể như vẫn chưa được rao giảng Tin Mừng.

Ngay tại Việt Nam chúng ta, tính đến ngày 31-12-2004, số người Công giáo trên toàn quốc là 5.776.972 người trên tổng số dân cả nước là 82.032.300 người, chiếm tỷ lệ khoảng 7,04% dân số. Việt Nam vẫn còn là xứ truyền giáo, và việc truyền giáo vẫn luôn là vấn đề cấp bách. Chính vì sự cấp bách đó nên Giáo Hội luôn luôn cổ võ tinh thần truyền giáo, nhất là trong những văn kiện gần đây của Công đồng Vaticanô II cũng như của các Đức Giáo Hoàng. Cũng nhằm mục tiêu đó, mỗi năm Giáo Hội dành riêng một Chúa Nhật để cầu cho công cuộc truyền giảng Tin Mừng, kêu gọi các tín hữu cầu nguyện, hy sinh, đóng góp, đồng thời thúc giục mọi người tham gia vào công cuộc cao quý vĩ đại ấy.

Truyền giáo là bổn phận của mọi người và mỗi người, việc truyền giáo không của riêng ai, và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được, đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc, không ai có quyền trốn tránh và không ai có lý do nào tự miễn chuẩn cho mình hay tự bào chữa cho mình được. Từ một em bé đến một cụ già, từ một bệnh nhân đến một lực sĩ, từ một người buôn bán đi khắp đó đây đến một người nội trợ, từ một người bình dân đến một người trí thức… trong mỗi hoàn cảnh sinh sống, ai cũng phải truyền giáo, người nào cũng có thể tìm thấy cách thức truyền giáo thích hợp với khả năng của mình. Do đó, “Mỗi người ở trong Chúa là một nhà truyền giáo”, câu nói đó rất đúng, mỗi người chúng ta phải là một nhà truyền giáo.

Đành rằng không phải ai cũng có thời giờ hoặc khả năng làm công việc truyền giáo trực tiếp, nhưng tất cả mọi người đều có thể và phải thực hiện cách gián tiếp. Chẳng hạn, cầu nguyện cho việc truyền giáo; đóng góp vào việc truyền giáo bằng những hy sinh; bớt tiêu xài một chút trong gia đình hay cho cá nhân mình để đóng góp vào công cuộc truyền giáo, nhưng trên hết là truyền giáo bằng đời sống chứng nhân. Đây là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất: Truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta, một đời sống đạo đức chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người.

Cách đây ít năm, có một cuốn Phim Việt Nam gây được nhiều chú ý ở ngoại quốc là phim “Chuyện Tử tế” của đạo diễn Trần văn Thuỷ, phim được hãng truyền hình Pháp mua và trình chiếu trong chương trình có tên là Đại Dương. Sau khi xem cuốn phim này, một ký giả ngoại quốc đã hỏi đạo diễn Trần văn Thuỷ: “Những người Kitô Việt Nam có thể làm gì để truyền giáo cho dân tộc họ?” Nhà đạo diễn đã trả lời: “Với tôi, điều người ta mong đợi ở các Kitô-hữu là niềm tin của họ và họ phải sống điều họ tin”. Lời phát biểu trên đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một đất nước còn nhiều khó khăn, sống trong một dân tộc còn nhiều người chưa biết Chúa, sống trong một xã hội còn nhiều tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và sống niềm tin của mình là phải sống, phải tin thật tử tế, tức là tin và sống tình nhân loại, sống quảng đại, tóm lại là sống tình người. Tin và sống như thế không phải chỉ là cách sống dành cho các nữ tu, các linh mục mà cũng chính là sứ mạng và ơn gọi của mỗi Kitô hữu.

Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu không chỉ sai 12 tông đồ đi rao giảng nhưng Ngài sai tất cả 72 môn đệ. Điều này có nghĩa là việc rao giảng Tin Mừng không phải chỉ dành cho một số thành phần trong Giáo Hội: Giám mục, linh mục, tu sĩ, nhưng là bổn phận của mọi người và mỗi người. Điều đáng chú ý nữa là khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu không mấy chú trọng đến phương tiện. Phương tiện mà Chúa trao cho họ là đừng mang theo túi tiền, bao bị gì cả, phương tiện duy nhất và tiên quyết là đem lại bình an cho mọi người, là sống chia sẻ, sống trọn tình người với họ. Tóm lại là sống tử tế với mọi người.

Sống tử tế là sống vui tươi, sống lạc quan, sống biết điều, sống lịch sự, sống cảm thông, sống yêu thương với mọi người, sống như thế là chúng ta đang góp phần làm cho danh Chúa được cả sáng và nước Chúa được trị đến, tức là chúng ta đang truyền giáo vậy.

54. Đời sống chứng nhân

Hôm nay, ngày thế giới truyền giáo. Chúng ta cùng tìm hiểu xem: Truyền giáo là gì? Chúng ta phải truyền giáo thế nào?

Trước hết, truyền giáo là gì? Truyền là truyền bá, truyền thông, chuyển giao, rao giảng, loan truyền… Giáo là giáo lý, đạo giáo, Tin Mừng, Phúc âm… Truyền giáo là truyền bá đạo, là rao giảng Phúc âm, là loan truyền chân lý của Chúa cho người khác. Đó là ý nghĩa thứ nhất, nghĩa hẹp, nghĩa chặt và chính xác. Đàng khác, truyền giáo còn có nghĩa là lập những cộng đoàn Kitô hữu trong đức tin, trong phụng tự Thánh Thể, bác ái như Giáo hội mong muốn. Nói khác đi, truyền giáo là “trồng” Giáo hội vào các dân tộc, các địa phương, cho đến khi những người trong địa phương ấy trở nên tín hữu, thành một đoàn chiên. Theo ý nghĩa này, truyền giáo không phải chỉ là truyền bá một số giáo lý, nhưng là truyền thông sự sống của Chúa cho anh em khác, vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống, đạo Chúa là đạo sự sống, là nguồn sống, có khả năng thay đổi, biến cải những con người từ không có Chúa trở thành có Chúa, từ mất Chúa trở thành tìm lại được Chúa. Truyền giáo theo nghĩa này là truyền sự sống của Chúa Kitô mà chúng ta đã có sang cho anh em mình, như thân cây nho chuyển nhựa sống sang cho cành nho. Sau hết, truyền giáo còn có một nghĩa nữa là củng cố, tăng cường, huấn luyện đức tin cho một cộng đoàn, cho các tín hữu, để họ lại ra đi truyền giáo cho những người khác.

Những ý nghĩa trên đây cho thấy hai chiều của việc truyền giáo: chiều rộng và chiều sâu. Nếu làm cho những người chưa biết Chúa hoặc những người biết mà đã bỏ Chúa, được nhận biết và yêu mến Chúa. Đó là truyền giáo theo chiều rộng, là mở rộng nước Chúa và làm tăng thêm số người thờ phượng Chúa. Còn nếu làm cho những người đã biết và yêu mến Chúa được hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, để rồi họ lại tiếp tục làm những công việc ấy nơi những người khác. Đó là truyền giáo theo chiều sâu, vì làm cho nước Chúa được vững chắc hơn và làm tăng thêm số người Công giáo sốt sắng, đạo đức.

Việc phân biệt ý nghĩa như trên đây rất quan trọng để chúng ta hiểu rõ hơn việc truyền giáo, vì truyền giáo không phải chỉ có nghĩa là làm cho những người ngoại, những người lương, những người chưa biết được biết và yêu mên Chúa, nhưng còn có nghĩa là truyền giáo cho cả những người Công giáo sống trong một họ, một xứ với chúng ta nữa. Chúng ta phải sống một đời đạo đức, sốt sắng, thánh thiện để làm gương tốt cho họ, để giúp cho họ thêm lòng yêu mến và tôn kính Chúa.

Đó là ý nghĩa của việc truyền giáo. Và như vậy tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không của riêng ai và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được. Nhưng đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc. Mỗi người chúng ta phải coi đây là vấn đề sống đạo, là vấn đề sinh tồn của Giáo Hội và là trách nhiệm của chính mình.

Vậy chúng ta phải truyền giáo thế nào? Có rất nhiều cách. Chúng ta muốn dùng cách nào cũng được, nhưng nhất thiết phải thi hành hai cách này là cầu nguyện và đời sống chứng nhân: Cầu nguyện cho việc truyền giáo là cách thức rất quan trọng: cầu nguyện cho những người đi truyền giáo, cầu nguyện cho mọi người mở rộng lòng sẵn sàng đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa. Cụ thể như thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cả đời không đi đâu truyền giáo, chỉ ở trong bốn bức tường dòng kín cầu nguyện cho việc truyền giáo. Thế mà Giáo Hội đã tôn phong ngài là quan thầy các nơi truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê. Xin anh chị em hãy suy nghĩ: Chúng ta có thường xuyên thi hành việc này không? Chúng ta có cầu nguyện cho việc truyền giáo không? Nếu không thì đó là tội thiếu sót, bỏ việc phải làm. Thứ hai là truyền giáo bằng chính đời sống chứng nhân của mình: Đây là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất, đó là truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa, cho đạo không?

55. Suy niệm từ bản báo cáo tình hình Giáo Hội VN.

I. KHỞI ĐI TỪ HIỆN TÌNH GIÁO HỘI VIỆT NAM

Theo báo cáo tổng kết tình hình 25 giáo phận của các vị giám mục trong Hội nghị Thường niên 2005 tại Đền thánh Đức Mẹ Bãi Dâu, Vũng Tàu. Những dữ liệu trong bản báo cáo như phản ánh phần nào hiện tình của Giáo hội Việt Nam. Chúng ta sẽ căn cứ vào những dữ liệu ấy để xác định bước tiến của Giáo hội Việt Nam trong thời điểm vừa qua.

1. Dân số Công giáo

Tính đến ngày 31-12-2004, số người Công giáo trên toàn quốc là 5.776.972 người trên tổng số dân cả nước là 82.032.300 người, chiếm tỷ lệ khoảng 7,04% dân số. So với 45 năm trước (1960), lúc đó dân số cả nước là 29.200.000 người, số giáo dân là 2.094.540 người, chiếm tỷ lệ khoảng 7,17%. Như thế, trong 45 năm qua dân số Công giáo Việt Nam không tăng triển.

2. Tình trạng nhân sự

Số linh mục là 3.126 người, so với 1.914 người vào năm 1960.

Số chủng sinh là 1.249 người.

Tổng số tu sĩ là 14.413 người, trong đó có 2.072 nam và 12.341 nữ, so với 5.789 người vào năm 1960. Đây là dấu hiệu tốt, biểu lộ ơn gọi đời thánh hiến khá dồi dào trong Giáo hội Việt Nam, khiến nhiều dòng tu nước ngoài tìm đến để tuyển chọn.

Số giáo lý viên là 53.887 người.

Vấn đề nhân sự: Nếu tổng cộng số linh mục, chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên là 75.353 người trong tổng số 5.776.972 tín hữu, chúng ta tự hỏi số nhân sự này đã được đào tạo ra sao, đã sống Tin Mừng thế nào để thu hút người khác tin theo Đức Kitô? Một vấn đề khác là những người ấy có biết liên đới và cộng tác với nhau để hình thành nên một sức mạnh tổng hợp hay bị chia rẽ bởi sự khác biệt về giáo phận, giáo xứ, dòng tu, linh đạo và đủ loại quan niệm cá nhân.

Chúng ta thử so sánh Giáo hội Việt Nam với một vài Giáo hội trong khu vực, như Giáo hội Hàn Quốc vào năm 2004 có 3.042 linh mục, 4.325.000 giáo dân trong tổng số 47.640.000 dân, chiếm 8,8% dân số, mà vào năm 1949 dân số Công giáo lúc đó mới chỉ chiếm 1% dân số toàn quốc. Có lẽ chúng ta phải nhìn lại cách đào tạo nhân sự cho Giáo hội Việt Nam hiện nay.

3. Tình trạng truyền giáo

– Số người rửa tội là 147.127 người, trong đó có 31.519 người lớn, 11.090 trẻ em (từ 1-7 tuổi) và 104.511 trẻ sơ sinh.

– Qua số người được rửa tội, chúng ta có thể suy đoán phần nào về kết quả của Năm Truyền Giáo vừa qua. Nếu số người rửa tội trong năm là 147.127 người, nhưng thực tế số người Công giáo tăng thêm cả năm so với năm trước là 109.544 người, ta có thể thấy số hao hụt là 37.583 người. Chúng ta phải giải thích thế nào về số người hao hụt này? Có thể họ là những người chết chưa được tính vào hay trừ ra trong tổng số dân Công giáo? Có thể họ là những người bỏ đạo?

– Nếu chỉ căn cứ vào số nhân sự tích cực cho công cuộc truyền giáo, dựa vào các linh mục, tu sĩ, chủng sinh, giáo lý viên là 75.353 người, trong khi tổng số người lớn và trẻ em từ 1-7 tuổi được rửa tội là 42.609 người, thì trung bình mỗi người ưu tuyển đó chưa cuốn hút được 2 người theo đạo một năm. Vậy thì gần 6 triệu tín hữu khác truyền giáo như thế nào? Điều này cho thấy kết quả truyền giáo năm nay không cao hơn bao nhiêu so với năm trước (34.469 người) cũng như so với nhiều năm liên tiếp gần đây. Chúng ta đừng quên rằng rất nhiều người lớn theo đạo cũng chỉ để lập gia đình với người có đạo. Vậy đời sống đạo của chúng ta có thực sự thu hút được nhiều người khác tin theo Đức Kitô không? Tỷ lệ phát triển dân số Công giáo trong 45 năm qua hình như không xác định điều đó.

Như thế, xét về mặt truyền giáo, Giáo hội Việt Nam hình như chưa có bước tiến đáng kể.

4. Các cơ sở hoạt động mục vụ và bác ái xã hội

* Giáo hội Việt Nam có 1.552 giáo xứ và giáo họ có linh mục đảm nhận mục vụ và còn 890 giáo xứ, giáo họ chưa có linh mục phụ trách.

Như vậy, dù số linh mục là 3.126 người, nhưng chỉ có hơn một nửa đảm nhận chức vụ trong các xứ đạo. Số còn lại vì tuổi cao sức yếu nên không thể quản trị xứ đạo. Trong vòng 10 năm nữa, số linh mục vẫn còn thiếu tại nhiều giáo phận.

* Có tất cả 698 nhà trẻ mẫu giáo, 94 trường cấp I và 5 trung tâm văn hoá.

Trong tình hình mới của đất nước, chính quyền chủ trương xã hội hoá ngành giáo dục. Nhưng các xứ đạo cũng như các tổ chức dòng tu chỉ tập trung cho nhà trẻ mẫu giáo và ít quan tâm đến trường học các cấp, một phần do không còn quản lý các cơ sở giáo dục đã có từ trước năm 1975, một phần không còn đủ nhân sự để quản lý các cơ sở ấy. Tuy nhiên, nếu muốn thúc đẩy công cuộc Tin Mừng hoá xã hội, Giáo hội Việt Nam và cụ thể là các dòng tu, các tổ chức giáo dân nên quan tâm hơn cho công tác giáo dục các cấp, ngay cả cấp đại học bằng cách chuẩn bị đào tạo nhân sự ngay từ bây giờ.

* Người Công giáo, nhất là các tu sĩ, đang làm việc hoặc điều hành tại 99 trạm xá, bệnh viện, 8 trại phong, trung tâm dành cho người tâm thần, người nghiện ma tuý và nhiễm HIV/AIDS, 82 cơ sở khuyết tật, cô nhi viện và nhà dưỡng lão. Trong chủ trương xã hội hoá hoạt động y tế, người tín hữu Công giáo có nhiều điều kiện dễ dàng hơn để trực tiếp thành lập và quản lý các cơ sở từ thiện xã hội. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra vẫn là tình trạng thiếu hụt trầm trọng những người có khả năng chuyên môn để làm việc trong các cơ sở đó.

Ở Việt Nam, nhu cầu về công tác từ thiện xã hội rất cao, với hàng chục triệu người nghèo khổ, khuyết tật, mồ côi, goá bụa, nghiện ngập (rượu, ma tuý, thuốc lá)… nhưng nhiều tín hữu Công giáo dường như chỉ nghĩ đến việc bố thí, giúp đỡ chút ít về vật chất, mà không hiểu được rằng công tác xã hội, gồm thăng tiến con người toàn diện và phát triển cộng đồng, đòi hỏi phải được đào tạo kỹ lưỡng và tổ chức chặt chẽ hơn nhiều.

Những số liệu trên đây tuy không nói hết được tình trạng của Giáo hội Việt Nam nhưng có thể gợi ý cho ta suy nghĩ về bước phát triển và hướng tiến trong tương lai của Giáo Hội này. Chúng ta tự hỏi Giáo hội Việt Nam có thật sự bước đi dưới ánh sáng của Công đồng và Thư chung năm 1980 không?

II. CÔNG ĐỒNG VATICAN II VÀ CUỘC CANH TÂN GIÁO HỘI VIỆT NAM

1. Ảnh hưởng của Công Đồng

40 năm qua như mời gọi chúng ta nhìn lại đoạn đường Giáo hội Việt Nam dưới ánh sáng Công đồng Vatican II để lượng định xem mình đã đi được bao nhiêu, căn cứ vào những tiêu chuẩn và sự thay đổi từ khi mới có Công đồng.

Chúng ta nhận thấy rằng, trong khoảng thời gian 1965 đến 1975, Giáo hội Việt Nam ở miền Nam đã tích cực đổi mới theo chiều hướng Công đồng trong nhiều lĩnh vực như phụng vụ, đào tạo linh mục, đời sống tu sĩ, giáo dục Kitô giáo, tông đồ giáo dân, và các phương tiện truyền thông xã hội, dù tình trạng chiến tranh có làm chậm bước tiến đôi chút so với các giáo hội khác. Bước tiến này tương đối đồng đều và trải rộng trên toàn khu vực, khác với nhiều giáo hội ở châu Âu và châu Mỹ, đã bị những áp lực nặng nề của các khuynh hướng đối nghịch sau Công đồng.

Thật vậy, Công đồng như thổi một luồng gió mới trên các giáo hội địa phương. Đi đến đâu người ta cũng nhắc đến: cải cách, cải thiện, thích nghi, đối thoại, hoà đồng, dấn thân, cập nhật hoá, cởi mở và đón nhận, làm việc tập thể và cộng đồng… Nhưng do hiểu theo ý riêng mình, thay vì theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, nên những ý niệm trên dẫn tới những thái độ, hành động thái quá, hay bất cập mà không tìm được sự quân bình. Từ đó, ta thấy có nhiều khuynh hướng khác nhau: thụ động, cấp tiến, thủ cựu và trung dung…

Nhóm thụ động, chiếm đa số, tỏ ra lãnh đạm trước những thay đổi của Công đồng. “Họ ngờ vực những nghị quyết của Công đồng và chỉ chấp nhận cái mà họ cho là giá trị” (Đức Thánh Cha Phaolô VI, Diễn văn ngày 28-9-1965). Nhóm cấp tiến muốn đảo lộn và phá bỏ tất cả quá khứ, gây hoang mang, chia rẽ trong Giáo Hội với những đòi hỏi như cho phép linh mục được lập gia đình, phụ nữ được làm linh mục, được tự do ngừa thai bằng mọi phương tiện… khiến Đức Thánh Cha Phaolô VI phải báo động: “Giáo Hội đang phải trải qua một thời kỳ lo âu, tự chỉ trích, có thể nói là tự phá hoại. Gần như đó là một cuộc khuynh đảo bên trong, trầm trọng và phức tạp, không ai ngờ xảy ra sau Công đồng” (Diễn văn ngày 7-12-1968). Nhóm thủ cựu đã phản ứng ngược lại tất cả những đổi mới của Công đồng khi thấy số linh mục, tu sĩ sút giảm kinh khủng và các xáo trộn tiếp theo, nên muốn tìm về quá khứ như các cộng đoàn theo Đức cha Lefèbre dâng lễ bằng tiếng Latinh… May mắn thay vẫn còn có những người thiện chí, biết canh tân theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, dựa trên những truyền thống thánh thiện và kinh nghiệm quý báu ngàn đời của Giáo Hội.

Tuy nhiên, dường như cuộc canh tân tốt đẹp của Giáo hội Việt Nam đã bị ngừng lại từ năm 1975 cho đến một vài năm gần đây. Người ta hầu như quên hẳn Công đồng sau những xáo trộn trầm trọng từ năm 1975. Thậm chí nhiều bản văn Công đồng đã bị đốt bỏ vì nỗi sợ hãi nào đó, nhất là ở các xứ đạo miền quê. Nhiều linh mục, tu sĩ, do công tác mục vụ bận rộn hoặc do đời sống kinh tế khó khăn, nên không có thời giờ đọc những văn kiện Công đồng. Đôi khi trong bài giảng hay giờ học, người ta nhắc đến Công đồng như một thứ gia vị thêm thắt vào cho vui hơn là một sự học hỏi nghiêm túc. Còn giáo dân thì hầu như không cần để ý đến Công đồng vì chẳng có tài liệu học hỏi, và dù có muốn cũng không biết học hỏi ở đâu.

Kết quả là đời sống đạo không mấy thay đổi hay tiến triển đối với nhiều thành phần Dân Chúa. Người ta vẫn giữ đạo theo kiểu sáng lễ, chiều kinh trong khuôn viên của nhà thờ, xứ đạo, chứ chưa đem đạo vào đời để đưa Tin Mừng thấm nhập vào mọi lĩnh vực xã hội như Công đồng đã khuyến khích và định hướng qua 16 văn kiện của mình. Dấu hiệu cụ thể nhất là số người trở lại đạo rất ít so với dân số Công giáo. Tỷ lệ người có đạo càng ngày càng giảm so với dân số cả nước. Tỷ lệ dân số Công giáo của Việt Nam trước Công đồng Vatican II được xếp vào hàng thứ 2 ở châu Á, chỉ thua Philippines. Bây giờ tụt xuống hàng thứ 4 sau cả Hàn Quốc và Đông Timor.

Từ cột mốc so sánh này, chúng ta có thể nói ánh sáng Công đồng còn khá mờ nhạt nơi tâm trí người tín hữu Việt Nam, nhất là ở miền Bắc. Hy vọng những buổi hội thảo về Công đồng nhân dịp kỷ niệm 40 năm sẽ giúp chúng ta thích thú đọc và học hỏi các văn kiện Công đồng, đồng thời tìm ra câu trả lời cho việc đổi mới Giáo hội và dân tộc Việt Nam theo đường hướng Công đồng Vatican II.

2. Tìm lại ánh sáng của Công Đồng

Công đồng Chung Vatican II là tác động kỳ diệu của Chúa Thánh Thần để hướng dẫn cộng đồng Dân Chúa trong cuộc lữ hành đức tin và những văn kiện Công đồng có giá trị tuyệt đối trong lĩnh vực đức tin và phong hoá. Vì thế, việc học hỏi các văn kiện Công đồng rất đáng cho chúng ta quan tâm để ta có thể đi đúng con đường canh tân Giáo hội và xã hội Việt Nam. Thật vậy, Công đồng “không chỉ ngỏ lời riêng với những người con của Giáo Hội và tất cả những ai kêu cầu danh Chúa Kitô, mà còn không ngần ngại nói với tất cả mọi người. Công đồng ao ước trình bày cho mọi người biết mình quan niệm thế nào về sự hiện diện và hành động của Giáo Hội trong thế giới ngày nay” (HC Mục vụ Gaudium et Spes, số 2).

Việc học hỏi này nên bắt đầu ngay trong các chủng viện, dòng tu để đào tạo nhân sự cho tương lai, rồi tiếp tục với những khoá thường huấn cho các linh mục, tu sĩ đã tốt nghiệp hay đang hoạt động mục vụ. Việc học hỏi về Công đồng nên mở rộng cho giáo dân, nhất là các giáo dân ưu tuyển là những người đang giữ vai trò lãnh đạo trong các cộng đoàn như các thành viên của Hội đồng Mục vụ Giáo xứ, các huynh trưởng của các đoàn thể Công giáo Tiến hành… Nếu được, chúng ta cũng nên tổ chức các khoá hội thảo để trình bày cho cả những người ngoài Kitô giáo về các đề tài họ quan tâm.

Cần phải đánh tan quan niệm sai lầm nơi một số người cho rằng học hỏi về Công đồng là hoài cổ, là học một thứ gì đã lỗi thời, trong khi hiện nay có nhiều văn kiện của Toà Thánh cập nhật hơn, mới mẻ hơn và thực tế hơn. Văn kiện Công đồng thật ra chính là nền tảng cho tất cả những văn kiện sau này để xây dựng nên toà nhà giáo thuyết của Giáo Hội. Nếu không có nền tảng này, những gì xây dựng sau đó có thể dễ dàng sụp đổ.

Trong việc học hỏi và trình bày về Công đồng, chúng ta cần nhấn mạnh đến trục chính là Giáo hội học mà tất cả các văn kiện Công đồng nối kết vào đó để Giáo Hội nhìn lại mình và nhìn ra thế giới. Vì thế, 2 văn kiện nền tảng cần được nghiên cứu kỹ lưỡng hơn các văn kiện khác đó là Hiến chế Tín lý Lumen Gentium và Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes.

Để trợ giúp và thúc đẩy việc học hỏi cũng như nghiên cứu, HĐGM VN cần sớm hoàn thành bản dịch chính thức và yểm trợ tài chính để in các tài liệu, tổ chức các khoá hội thảo, các buổi thi đố vui cho các em thiếu nhi, thi tìm hiểu về Công đồng cho các bạn thanh niên…

Tuy nhiên, trong công cuộc tìm lại ánh sáng của Công đồng Vatican II để soi dọi cho bước tiến của mình, Giáo hội Việt Nam xác tín rằng ánh sáng thật sự soi chiếu cho mọi người chỉ phát ra từ Ngôi Lời Thiên Chúa (x. Ga 1,9.3-5).

III. TIẾN BƯỚC TRONG ÁNH SÁNG CỦA LỜI CHÚA

1. Từ Thư chung 1980

Có thể nói rằng Thư Chung năm 1980 của HĐGMVN gửi toàn thể dân Chúa ngày 1-5-1980 trong Hội nghị Thường niên đầu tiên của các giám mục hai miền Nam-Bắc kể từ ngày nước nhà được thống nhất, được xem là kim chỉ nam cho đường hướng mục vụ của HĐGM trong một số năm vừa qua. Phần thứ nhất của thư chung này giới thiệu một Hội Thánh vì loài người như một nguyên tắc nền tảng của Công đồng Vatican II (số 5-7). Phần thứ hai giới thiệu Hội Thánh trong lòng dân tộc như một sự áp dụng nguyên tắc trên đây vào hoàn cảnh đặc biệt của Giáo hội Việt Nam lúc đó để mời gọi người tín hữu gắn bó với Đức Giêsu Kitô (số 8), gắn bó với dân tộc và đất nước (số 9), cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng tổ quốc (số 10), xây dựng trong Hội Thánh một nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp với truyền thống dân tộc (số 11).

Khẩu hiệu hay phương châm rất ý nghĩa của thư chung này thường được nhắc đi nhắc lại nhiều lần: sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào (số 14). Phương châm ấy cũng gợi hứng cho các tổ chức, đoàn thể trong và ngoài Giáo hội Việt Nam có những hoạt động hữu ích để phục vụ đồng bào trong thời gian qua.

2. Đến ánh sáng Lời Chúa

Trong Hội nghị Thường niên của HĐGMVN vừa qua, các vị lãnh đạo trong Giáo hội đã công bố thư mục vụ với chủ đề Sống Lời Chúa mà không nhắc đến Thư Chung 1980 và phương châm sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc trên đây. Không phải là các thành viên của hội nghị không nhớ đến năm kỷ niệm này hay muốn phân biệt sống Phúc Âm khác với sống Lời Chúa, nhưng muốn mời gọi toàn thể cộng đồng dân Chúa tiến bước nhanh hơn, xa hơn để phục vụ hữu hiệu hơn, không phải chỉ mang lại hạnh phúc cho đồng bào mà còn cho cả gia đình nhân loại và toàn thể vũ trụ. Điều này chúng ta thấy được trình bày sống động trong ba phần chính của lá thư mục vụ năm nay.

Khi dùng từ Sống Lời Chúa thay cho Sống Phúc Âm, HĐGMVN như muốn nhắc nhở Lời Chúa không phải chỉ là những âm thanh, những câu Kinh Thánh, đặc biệt là các lời Tin Mừng trong bốn Phúc Âm, nhưng là một ngôi vị sống động của Thiên Chúa làm người nơi Đức Giêsu Kitô. Chúng ta không chỉ tìm hiểu, học hỏi, giải thích lời yêu thương này của Chúa Cha (số 2) mà còn phải tiếp xúc, gặp gỡ, yêu thương và cuối cùng hoà nhập trọn vẹn để trở thành một với Ngôi Lời Thiên Chúa (số 3) nhờ tác động của Chúa Thánh Thần (số 4).

Trong một thế giới đang bị tác động bởi của toàn cầu hoá, bị lôi kéo chạy theo nền văn minh hưởng thụ vật chất, bị xâu xé bởi sự phân hoá giữa người giàu và người nghèo, bị xáo trộn khắp nơi vì chủ nghĩa khủng bố… thì việc sống Tin Mừng không chỉ giới hạn giữa lòng dân tộc mà người tín hữu còn được mời gọi để loan báo Tin Mừng cho đại gia đình Thiên Chúa hầu xây dựng một nền văn hoá sự sống và văn minh tình thương.

Trong một đất nước mà dân số có đến 60% thuộc về giới trẻ đang khao khát sống đúng, sống tốt, sống đẹp, sống hào hùng nhưng lại không biết nguồn của chân thiện mỹ là ai. Một đất nước gần 51% dân số là phụ nữ nhưng nhiều người còn bị bạo hành trong gia đình, chưa được hưởng sự bình đẳng về giới. Một đất nước với 26% dân số sống dưới mức nghèo khổ trong khi một thiểu số giàu có ăn chơi phung phí. Một đất nước có hơn 20 triệu người uống rượu và nghiện rượu, hơn 5 triệu người khuyết tật với nhiều dạng khác nhau, trong đó có 1,2 triệu là trẻ em, hơn 3 triệu người goá bụa, đa sống là phụ nữ sống trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, 263.000 người nhiễm HIV/AIDS và dịch bệnh càng ngày càng lan rộng, 160.000 người nghiện ma tuý hầu như chưa tìm được cách phục hồi cho khỏi tái nghiện…

Trong một đất nước như thế thì việc sống Lời Chúa không đơn giản chỉ là sáng lễ chiều kinh với những câu Tin Mừng chú giải cách này hay cách khác. Sống Lời Chúa trên con đường đi tới của Giáo hội Việt Nam chính là gặp gỡ được Đức Kitô, gắn bó với Ngài và trở thành hình ảnh sống động của Ngài để có sức mạnh và tình yêu chữa lành những người bệnh tật, giúp đỡ những người đói khát và giải thoát cho những con người đang bị trói buộc bởi đủ loại xích xiềng (số 9-11). Sống Lời Chúa hôm nay còn là tìm đủ mọi phương cách, nhất là sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, để chia sẻ cho người khác những gì ta đón nhận được từ Đức Giêsu, giúp họ sống trọn vẹn giá trị của con người và của con Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa sự cứu độ mà Đức Giêsu muốn thể hiện qua chúng ta.

KẾT LUẬN

Con đường đi tới của Giáo hội Việt Nam cũng như của mỗi người chúng ta dưới ánh sáng của Lời Chúa như đang mở ra cho chúng ta những chân trời mới, chân trời của hy vọng, hoà bình và yêu thương cho con người, đồng thời cũng mang lại sự phồn vinh, tiến bộ và hạnh phúc cho đất nước.

56. Kỹ thuật 3 giảm 3 tăng trong truyền giáo

Để hỗ trợ kỹ thuật làm lúa có hiệu quả cho người nông dân, gần đây các nhà khuyến nông đã khuyến khích nông dân áp dụng kỹ thuật 3 giảm, 3 tăng.

(3 giảm: giảm mật độ gieo xạ, giảm phân bón thuốc sâu, giảm chi phí đầu tư; 3 tăng: tăng năng suất, tăng chất lượng hạt giống, tăng giá cả bán ra thi trường). Nhờ áp dụng kỹ thuật này trên cánh đồng lúa, người nông dân giảm được chi phí đầu tư rất lớn nhưng hiệu quả kinh tế lại khá cao.

Hơn 2000 năm trước, Chúa Giêsu cũng đã triển khai mô hình kỹ thuật “3 giảm 3 tăng” trong chương trình mục vụ truyền giáo của Ngài.

1. KỸ THUẬT 3 TĂNG

Bằng cách áp dụng kỹ thuật 3 tăng, Chúa Giêsu đưa ra mô hình truyền giáo với ba tác động: Tăng đồng, tăng công, tăng lúa.

Để tăng đồng: Chúa truyền: “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng tin mừng cho mọi loài thụ tạo.”. (Mc 16,15).

Để tăng công: Chúa không những chỉ thị riêng cho các tông đồ đi rao giảng tin mừng mà Chúa Giêsu còn tuyển chọn và sai 72 môn đệ ra đi truyền giáo nữa (x Lc 10,1). Như thế, một cách nào đó, Chúa không chỉ kêu gọi 12 tông đồ và 72 môn đệ truyền giáo mà còn cho tất cả chúng ta. Bởi lẽ, truyền giáo là bản chất của Giáo hội.

Trải qua các thế hệ, Giáo hội đã thực hiện lệnh truyền của Chúa cách triệt để mà người tin và theo Chúa ngày càng đông, điều này đồng nghĩa với việc tăng lúa.

Áp dụng kỹ thuật này vào cánh đồng truyền giáo hôm nay

Để tăng đồng, ta không chỉ lưu tâm việc truyền giáo quanh quẩn khu vực chung quanh Họ đạo mình mà còn phải bận tâm lo mở rộng ra những khu vực xa hơn nữa.

Để tăng công, ta phải nổ lực tập trung đào tạo nhân sự về tinh thần cũng như năng lực, nhằm có thêm nhiều người tích cực cộng tác trong việc truyền giáo.

Khi làm tốt chính sách tăng đồng, tăng công này chắc chắn số người tin theo Chúa sẽ ngày càng đông, ấy là lúa đã gia tăng.

2. KỸ THUẬT 3 GIẢM

Song song với chỉ thị cho các môn đệ áp dụng kỉ thuật 3 tăng trong việc truyền giáo, Chúa Giêsu còn nhấn mạnh đến ứng dụng kỉ thuật 3 giảm:

Giảm cậy vào sức mình cũng như giảm trừ chủ nghĩa cá nhân.

Để giảm bớt đi tính kiêu căng tự mãn ỷ lại vào sức mình nên điều đầu tiên mà Chúa Giêsu căn dặn khi sai các môn đệ đi loan báo tin mừng đó là phải cầu xin: “ Vậy anh em hãy hãy xin chủ mùa gặt…”. (Lc 10,2).

Tiếp đến, để trách óc cục bộ và giảm trừ chủ nghĩa cá nhân, Chúa Giêsu đã chỉ thị các môn đệ: “cứ từng hai người một” (Lc 10,1) khi sai các ông ra đi rao giảng tin mừng.

Ý thức những lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu, mỗi chúng ta phải luôn tự nhủ lòng rằng: Thành công trong việc truyền giáo không hệ tại bởi tài năng của cá nhân một ai, mà hệ tại ở việc nương tựa vào sức mạnh quyền năng của Chúa. Chúa mới là Đấng đánh động lòng người và thuyết phục con người tin theo Chúa, người phàm chỉ là dụng cụ Chúa dùng chứ không phải là chủ ruộng.

Do truyền giáo là nhiệm vụ chung của Giáo hội nên chúng ta cần phải cộng tác và phối hợp với nhau dưới sự điều phối chung của Giáo hội nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, nhờ thế mời có thể tạo nên một khối thống nhất, làm thành sức mạnh lớn lao cho lời rao giảng.

Giảm nương tựa và bám víu vào của cải vật chất

Khi sai các môn đệ ra đi truyền giáo, Chúa Giêsu mong muốn các môn đệ phải sống tinh thần siêu thoát khi truyền dạy các ngài: “đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép.” (Lc 10,3). Với tinh thần siêu thoát, Chúa khuyến cáo các môn đệ đừng quá bám víu vào của cải vật chất, nhưng phải bám víu vào sức mạnh của Chúa; với hành trang nhẹ nhàng không mang theo gánh nặng vật chất, Chúa ý thức người môn đệ phải đặt mối ưu tư truyền giáo lên hàng đầu. Bằng đời bấp bênh nghèo khó, người môn đệ sẽ dễ dàng đến người nghèo, sống với người nghèo. Sống nghèo chính là lời rao giảng hùng hồn nhất về Tin mừng của Chúa. Chấp nhận sống nghèo cũng là cách minh chứng cụ thể cho mọi người thấy niềm tin, lòng cậy trông phó thác vào tình thương Chúa nơi người môn đệ.

Giảm dính bén đến tình cảm cá nhân

Một trong những trở ngại dễ làm chùn bước cho việc truyền giáo là nhiều cán bộ của Chúa quá bận tâm và dính bén với tình cảm cá nhân.

Nơi nào sung sướng thì muốn bám trụ để hưởng thụ, còn nơi nào nghèo khó thì ngại không muốn đến và ở lại đó. Bởi đến với người nghèo họ có gì mà thết đãi hay biếu xén; ngược lại đến với người giàu thì được ăn uống no say, lắm khi được quà bíu xén. Nên Chúa Giêsu căn dặn rất kỉ: “ Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó…, đừng đi hết nhà nọ sang nhà kia.”. (Lc 10,7)

Đáng buồn hơn là không ít những cán bộ truyền giáo của Chúa lại dính bén vào chuyện tình cảm cá nhân, thích tham gia vào những cuộc chuyện trò vô bổ làm mất giờ, mất sức lắm khi quên đi nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết cho việc truyền giáo.

Tóm lại truyền giáo là nhiệm vụ cấp bách và là nhiệm vụ sống còn của Giáo Hội. Vì thế mọi thành phần dân Chúa phải tích cực góp phần cho việc truyền giáo; đồng thời phải tận dụng hết những khả năng Chúa ban và sử dụng triệt để mọi kỉ năng Chúa dạy để thi hành nhiệm vụ truyền giáo. Nhờ ý thức trách nhiệm và áp dụng đúng những kỹ năng Chúa chỉ dạy, hy vọng cánh đồng truyền giáo ngày càng được mở rộng và số lượng người tin theo Chúa mỗi ngày được gia tăng.

(WGP.Cần Thơ 19.10.2013)

57. Lên đường truyền giáo–Huệ Minh

Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ Giáo Hội thôi truyền giáo. Bốn phần năm dân số địa cầu chưa biết Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo đã đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết Chúa, Giáo Hội cũng phải tái truyền giáo nữa. Xem như thế, truyền giáo vừa là sứ mạng, vừa là số mạng, tức là sự sống còn của Giáo Hội. Và tinh thần truyền giáo ấy một khi được hun đúc đều đặn bằng cầu nguyện và hoạt động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô đến, Người vẫn thấy niềm tin trên mặt đất.

Hôm nay cùng với Giáo Hội ta dâng Lễ cầu nguyện cho việc truyền giáo, chúng ta nghe âm vang lời mời gọi của Chúa vẫn còn vang vọng tới hôm nay: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Chúa không nói riêng một ai. Chúa mời gọi tất cả. Chúa không đòi hỏi khả năng, bằng cấp, học vị mà chỉ cần có nhiệt huyết làm tông đồ cho Chúa.

Việc truyền giáo, Chúa không đòi hỏi người truyền giáo phải hiểu biết tín lý thần học sâu xa, hay luân lý uyên thâm, Chúa chỉ cần có lòng quảng đại dấn thân mở mang nước Chúa. Chúa đã sai 72 môn đệ ra đi với đôi bàn tay trắng, thế mà khi trở về ai cũng vui mừng vì thành quả họ đã đạt được. Chúa đã thưởng công cho mỗi người như nhau, không phân biệt người đến sớm, kẻ đến muộn, người đạo gốc hay mới theo đạo. Từ người thợ giờ thứ 9 cho tới giờ thứ 11 đều được ân thưởng theo lòng nhân từ của Chúa.

Sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn phận phải làm chứ không phải là việc tuỳ thích. Thánh Phao-lô thú nhận: “đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng.” (1 Cr 9, 16).

Việc loan Tin Mừng là một bổn phận bắt buộc. Chỉ khi nào chúng ta tự khai trừ mình ra khỏi Hội Thánh, tự tách mình ra khỏi Thân Thể Chúa Giêsu, thì chúng ta mới có thể cho phép mình ngừng loan báo Tin Mừng.

Truyền giáo là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người Ngài gặp gỡ, mà còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải tình yêu đó, nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa. Nơi Ngài tình yêu đó đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy vọng cho toàn thể nhân loại.

Truyền giáo không thể chỉ đi lễ, đọc kinh cầu nguyện là xong bổn phận chứng nhân cho Chúa. Nếu như thế mới chỉ là hành vi trả lại công bằng cho Chúa, vì việc tạ ơn là hành vi đền đáp lại ân ban của Thiên Chúa dành cho con người. Truyền giáo không phải là việc tuân giữ các giới răn của Chúa. Nếu như thế mới là giữ đạo chứ chưa truyền đao. Truyền giáo không phải là nói thật hay, thuyết trình thật hùng hồn là có thể đem nhiều người về với Chúa. Nếu như thế mới chỉ là tiếp thị chứ chưa mang đạo vào đời như muối như men ướp mặn trần gian.

Trong thông điệp “khánh nhật truyền giáo 2006”, Đức Thánh Cha Bênedictô 16 đã viết: “Sứ mạng truyền giáo, nếu không được định hướng bởi Lòng mến, nếu không phát sinh từ một hành động sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng đó liền bị rút gọn về chỉ còn như là một hành vi nhân ái và xã hội không hơn không kém. Tình yêu mà Thiên Chúa có đối với mỗi người, kết thành trung tâm của kinh nghiệm sống và loan báo Phúc Âm”.

Như vậy, Đức Thánh Cha đã tái khẳng định cách thức mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đi đó là thực hành bác ái. Không có lòng mến thì không thể trở thành nhân chứng cho niềm tin của mình. Yêu Chúa luôn đi liền với yêu mến tha nhân. Và thánh Phaolô còn quả quyết “Lòng mến chính là sợi giây ràng buộc chúng ta nên một với Đức Kitô”.

Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chúa dạy ta: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” để ta biết sống khó nghèo. Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.

Truyền giáo là một công việc đòi hỏi kiên trì. Vì việc truyền giáo có nhiều thất bại hơn thành công, có nhiều mệt nhọc hơn vui thích, nên việc truyền giáo đòi hỏi rất nhiều kiên trì. Kiên trì khi đã gặp thất bại. Kiên trì khi đã chán nản, mệt mỏi rã rời. Kiên trì khi gặp những trắc trở. Như lời thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tim 4,2).

Các Tông đồ thật kiên trì, mặc dù đã thất bại sau suốt một đêm vất vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi theo lệnh Chúa truyền. Trong quá khứ, ta đã gặp nhiều thất bại trong việc truyền giáo. Hôm nay Chúa lại mời gọi ta hãy ra khơi, hãy lên đường truyền giáo. Ta hãy mau mắn đáp lời Chúa mời gọi, kiên nhẫn làm việc trên cánh đồng truyền giáo, bất chấp mọi thất bại, bất chấp mọi chán nản.

Trong việc cầu cho công cuộc truyền giáo cũng vậy, chúng ta thường cầu với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin cho có đông người, ngoại trừ con, biết quảng đại lên đường đi khắp muôn phương loan báo Tin Mừng cứu độ”. Nếu ai cũng cầu xin kiểu đó, nghĩa là cầu cho người khác lên đường, ngoại trừ bản thân mình, thì cánh đồng truyền giáo sẽ vắng bóng thợ gặt, tìm đâu ra người đi loan báo Tin Mừng.

Nhà truyền giáo phải hết sức thận trọng để luôn trung thành với giáo huấn cả Đức Kitô, hiệp nhất với toàn thể Giáo Hội và ý thức mình chỉ là “người được sai đi”. Trong mọi hoàn cảnh, thuận lợi hay không thuận lợi, nhà truyền giáo luôn xác tín rằng tự đáy lòng mọi người đều mong chờ được đón nhận chân lý về Thiên Chúa, về con người và về con đường cứu độ. Như Đức Kitô xưa, nhà truyền giáo can đảm rao giảng Lời Chúa. Nếu nhà truyền giáo có bị xiềng xích, bị tù đầy hay bị mất mạng sống vì đức tin… thì đó là một lời loan báo Tin Mừng hùng hồn và có sức thuyết phục nhất

Vậy thì lời cầu xin thiết thực nhất mà mỗi người chúng ta phải cầu xin với Chúa là: “Lạy Chúa, tuy con bất xứng, nhưng xin hãy sai con đi làm thợ gặt cho Chúa ngay hôm nay.”

58. Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng–Huệ Minh

“Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9, 16) Đó không chỉ là tiếng kêu của thánh Phaolô mà còn là lời mợi gọi khẩn thiết được gởi đến mỗi người chúng ta, vì khi khoác trên mình chiếc áo Kitô hữu là chúng ta bước vào trong mối tương quan với Thiên Chúa, ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa, nhờ đó chúng ta có thể đến với mọi người mang theo vẻ đẹp của Thiên Chúa mà lấp đầy những cơn đói của kiếp người.

Qua câu đầu tiên của trang Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta điểm khởi đầu căn bản của mọi hoạt động truyền giáo: trước hết là nhận thức nhu cầu của anh chị em chung quanh, thứ hai là đưa nhu cầu đó vào trong lời cầu nguyện của chính mình và thứ ba là sẵn sàng để được sai và hăng say ra đi khi được trao phó cho sứ mạng. Chúng ta hãy tự vấn xem chính mình đã có những tư tưởng căn bản này chưa? Những quan tâm truyền giáo làm chứng cho Chúa có được chúng ta đưa vào trong lời cầu nguyện của chính mình chưa? Trong cuộc đối thoại giữa mình với Thiên Chúa chưa?

Khi sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng, Chúa muốn các ông phải là những sứ giả bình an. Lời đầu tiên Chúa truyền cho các ông phải nói là lời chúc bình an. Lời chúc bình an được gửi đến một cách vô điều kiện, không phải là kết quả của những cuộc thương thuyết lâu dài; cũng không tuỳ thuộc ở hoàn cảnh bên ngoài: người môn đệ vẫn nói lời bình an dù trong tư thế của “con chiên ở giữa bầy sói”. Dù lời chúc bình an có được đón nhận hay không, trước hết sự bình an ấy vẫn “quay về với người môn đệ” và tồn tại nơi họ, và như thế biến họ thành những nhân tố xây dựng một “môi trường hoà bình”. Tuyên ngôn Tám Mối Phúc Thật gọi đó là đặc điểm nhận biết người môn đệ đích thực của Chúa Kitô: “Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con cái Thiên Chúa” (Mt 5,9).

“Thầy sai các con như chiên ở giữa soi rừng’. Lại một nghịch lý khác! Chiên vào giữa sói rừng mà không bị sói ăn thịt mới là lạ. Đi mà lại không có hành trang: “đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép’ thì càng lạ hơn. Chính những nét khác thường này kéo chúng ta trở lại với nguyên tắc đầu tiên: “hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người’.

Như vậy, ông chủ mới là nhân vật chính của mùa gặt chứ không phải thợ gặt. Ai được ông sai vào cánh đồng của ông là một vinh dự. Vì ông đã lo liệu mọi nhu cầu cho người đó đến độ không phải mang theo cái gì cho bản thân. Công việc có nguy hiểm như chiên vào giữa sói rừng đi nữa thì cũng an tâm, vì đã có ông bảo vệ. Vì thế chúng ta hãy xin ông nhìn đến ta, nhận ta vào làm thợ gặt cho ông, để ông sai ta vào cánh đồng lúa đã chín vàng.

Được Chúa chọn để sai vào cánh đồng truyền giáo của Người thật là một vinh dự. Thánh Luca đã được chung phần vinh dự này mà hôm nay Giáo Hội mừng kính. Ai không được vinh dự này thì đúng là mối họa như thánh Phaolô nói: “khốn cho tôi, nêu tôi không rao giảng Tin mừng’. Thánh Luca đã đồng hành với thánh Phaolô trong nhiều chặng đường truyền giáo, và nhất là trong giai đoạn cuối đời, lúc mà nhiều người rời bỏ thánh Phaolô thì thánh Luca vẫn ở lại với Ngài (2Tm 4, 9-17).

Dù là làm thợ thì đáng được trà công nhưng người môn đệ trung tín của Đấng chịu đóng đinh không thể là một kẻ say mê thế tục, tìm sự dễ dãi mà cần ý thức mình là người được Chúa sai đi, sai đi để làm “thơ gặt” chứ không phải để “nghỉ mát”, đi để “phục vụ” chứ không phải để “được phục vụ”. Ngài muốn môn đệ của Ngài noi gương Ngài đi ra tìm và cứu kẻ hư mất, chứ không phải xây dựng trung tâm nào đó và chờ mong người chưa được cứu đến với mình. Ngài muốn môn đệ của Ngài cầu nguyện để có nhiều người ra đi đến với người ngoại chứ không phải cầu nguyện để người ngoại kéo đến nhà thờ.

Những lời dặn dò trên của Chúa Giêsu thật là cặn kẽ, cụ thể, với những chi tiết hết sức thực tế. Dĩ nhiên, tinh thần phải có khi thực hiện những việc làm trên là điều quan trọng hơn. Thời đại đã thay đổi, thời chúng ta đang sống khác với thời của Chúa Giêsu.

Những hành động cụ thể của một thời đã thay đổi, chẳng hạn như ngày xưa đi bộ, cầm gậy thì ngày nay đã có các phương tiện giao thông liên lạc khác, nhưng tinh thần của những hành động cụ thể mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ có không bao giờ thay đổi. Trong những giây phút ngắn ngủi suy niệm này chúng ta không thê nào suy niệm tất cả mọi khía cạnh của tinh thần truyền giáo nơi môn đệ của Chúa.

Ta hãy nhớ lại những lời đầu tiên Chúa Giêsu nói trong đoạn Phúc Âm hôm nay: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người, các con hãy ra đi”.

Hơn bao giờ hết, trong thời đại của chúng ta, Lời Chúa Giêsu thôi thúc: “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa Người’. Việc quan trọng nhất và ưu tiên hàng đầu là cầu nguyện cho việc truyền giáo. “Việc xin chủ ruộng’ nằm trong tầm tay của mọi thành phần dân Chúa. Như Teresa Hài Đồng Giêsu ở trong Dòng kín mà được kể là quan thầy của các xứ truyền giáo vì chị đã tích cực cầu nguyện cho công việc truyền giáo. Không chỉ là lời cầu nguyện suông, nhưng là những lễ vật hy sinh, hãm mình với tình yêu lớn lao dành cho các nhà truyền giáo cũng như những linh hồn đang khao khát tìm biết Chúa.

Xin Chúa đốt lên trong ta ngọn lửa của “khát vọng truyền giáo”, khát vọng giới thiệu Chúa cho mọi người với một con tim tươi trẻ, con tim tư do không bị lợi lộc trần thế làm cho mù quáng, con tim quả cảm dám đương đầu với những thách đố của thời đại, dám xả thân lo việc truyền giáo. Xin Chúa đồng hành với ta và chúc lành cho những “khát vọng” của ta.

59. Truyền giáo trong thế giới hôm nay–Lm Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Trong bài Tin mừng của thánh Mát-thêu hôm nay, Đức Giê-su Phục Sinh hẹn các Tông đồ đến một ngọn núi tại miền Ga-li-lê. Ở đó sau khi tuyên bố được Chúa Cha trao toàn quyền trên trời dưới đất, Chúa Phục Sinh đã chỉ thị cho các Tông đồ đi khắp thế gian thâu nạp môn đồ cho Người, làm phép rửa cho họ “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Người cũng hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.

CHÚ THÍCH:

– C 16-17: + Mười một môn đệ: Đây là Nhóm Mười Hai, nhưng thiếu Giu-đa, kẻ phản bội, và lúc đó Mát-thi-a chưa được bổ sung vào danh sách để thế chỗ Giu-đa (x. Cv 1,15-26). Nhóm này là Tông Đồ Đoàn được trao quyền lãnh đạo Hội Thánh. Còn về Giu-đa Ít-ca-ri-ốt: khi thấy Thầy Giê-su sắp bị kết án tử hình, anh ta đã hối hận, liền đem ba mươi quan tiền trả lại cho các đầu mục Do thái nhưng bị từ chối. Giu-đa thất vọng ném tiền vào gian cung thánh Đền thờ rồi đi thắt cổ tự tử (x. Mt 27,3-5). + Đi tới miền Ga-li-lê: Tức là đến miền đất dân ngoại theo chỉ thị của Chúa Phục Sinh, qua bà Ma-ri-a Mác-đa-la (x. Mt 28,10), và cũng để noi gương Đức Giê-su đã khởi đầu rao giảng Tin Mừng Nước Trời tại xứ Ga-li-lê (x. Mt 4,12-17), + Đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến: Ngày nay người ta không thể xác định đây là núi nào. Nhưng có lẽ Mát-thêu chỉ muốn nói đến ngọn núi với ý nghĩa tượng trưng: Núi là nơi Thiên Chúa gặp gỡ và mặc khải cho loài người. Chẳng hạn: Đức Chúa đã trao Thập Giới cho Mô-sê trên núi Khô-rép (x. Xh 24,13.15.18). Đức Giê-su cũng đã công bố Hiến Chương Nước Trời hay Tám Mối Phúc Thật trên núi, gọi là “Bài Giảng Trên Núi” (x. Mt 5,1-7,27). +Thấy Người, các ông bái lạy: Sau nhiều lần hiện ra để củng cố niềm tin cho môn đệ, trước khi về trời Chúa Phục Sinh đã hiện ra để trao cho các ông sứ mệnh loan Tin mừng đi khắp thế gian. Cử chỉ bái lạy nói lên các ông đã tin Chúa Giê-su là “Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa”. + Nhưng có mấy ông lại hoài nghi: Câu này xem ra mâu thuẫn với thái độ bái lạy vừa nói. Thực ra, hoài nghi là thái độ phải xảy ra nơi các môn đệ trước khi các ông đạt được đức tin hoàn hảo. Chắc là Mát-thêu muốn nói đến sự hoài nghi đã xảy ra trước đó mà ngài chưa lần nào đề cập đến. Như vậy đây chỉ là một sự trục trặc về lối hành văn, chứ không mâu thuẫn về mặt tư tưởng. Ngoài ra cũng có người cho rằng: Vì đây là cuộc hiện ra để “trao sứ mệnh” cho Nhóm Mười Một đại diện Hội Thánh, nên sự hoài nghi ở đây ám chỉ sự hòai nghi nói chung của Hội Thánh xưa nay: Mầu nhiệm Phục Sinh tuy là một sự thật hiển nhiên, nhưng bao giờ cũng vẫn có kẻ còn hoài nghi.

– C 18-19: +Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất: Lúc khởi đầu sứ mệnh, cũng trên núi cao, Đức Giê-su đã từ chối quyền hành trên các nước thế gian do Xa-tan hứa ban (x. Mt 4,8-10). Nhưng giờ đây Người tuyên bố đã được Thiên Chúa trao toàn quyền trên trời dưới đất, ứng nghiệm lời tuyên sấm của Ngôn sứ Đa-ni-en về sứ mệnh của Con Người như sau: “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; Muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; Vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong, khác hẳn với mọi vương quốc. Nó sẽ ăn hết toàn cõi đất, sẽ dẫm nát và nghiền tan” (Đn 7,14). + Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Hội Thánh phải dùng quyền Đức Giê-su ban để nhân danh Người mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người. Trước hết là dân Do Thái (x. Mt 10,5-6), rồi đến mọi dân nước trên thế giới (x. Mt 8,11). +Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Để người ta trở nên môn đệ Đức Giê-su, các Tông đồ phải làm phép rửa tái sinh họ bằng nước và Thần Khí (x. Ga 3,3.5). Phép rửa được cử hành nhân danh Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (x. Mt 28,19).

– C 28,20: +Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em: Sứ mệnh các Tông đồ gồm cả quyền dạy dỗ các tín hữu cho tới khi Hội Thánh đạt tới tình trạng viên mãn (x. Ep 1,23).+Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Phục Sinh hứa sẽ luôn ở trong Hội Thánh cho đến ngày tận thế nhờ Chúa Thánh Thần và qua các vị mục tử, để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh “được sai đi”. Qua đó Đức Giê-su chứng tỏ là “Đấng Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23).

CÂU HỎI:

1) Tại sao chỉ có mười một Tông đồ hiện diện lúc Chúa lên trời?

2) Số phận của Giu-đa Ít-ca-ri-ốt thế nào sau khi phạm tội phản nộp Thầy?

3) Tại sao Chúa Phục Sinh truyền cho các Tông đồ trở về Ga-li-lê?

4) Ngọn núi Chúa truyền cho các Tông đồ đến là núi nào?

5) Mấy kẻ còn hoài nghi gồm những ai và họ hoài nghi điều gì?

6) Đức Giê-su đã từ chối quyền hành trên các nước thế gian do Xa-tan hứa ban vào lúc nào?

7) Đức Giê-su đã được ai trao toàn quyền trên trời dưới đất, ứng nghiệm sấm ngôn của vị Ngôn sứ nào và nội dung lời sấm đó thế nào?

8) Sau khi thâu nạp môn đệ, Hội Thánh phải tiếp tục làm gì cho họ?

9) Làm thế nào để loan báo Tin Mừng cách hữu hiệu cho lương dân hôm nay?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.

2. CÂU CHUYỆN: Thánh Têrêxa Hài Đồng truyền giáo bằng cầu nguyện:

Tê-rê-xa sinh ngày 02 tháng 01 năm 1873 tại Alecon, Normandie, Pháp. “Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su” là tên nhận khi khấn Dòng. Tê-rê-xa mồ côi mẹ từ năm bốn tuổi, được cha là ông Louis Martin săn sóc và giáo dục chu đáo. Dù ở tuổi vị thành niên chưa được phép tu Dòng, nhưng Tê-rê-xa năm 15 tuổi đã được Ðức Giáo Hoàng Lêô 13 đặc cách cho vào tu trong Dòng kín Carmêlô thành Lisieux, nước Pháp.

Tê-rê-xa chỉ là một nữ tu hèn mọn quanh năm suốt tháng đóng khung trong bốn bức tường tu kín cho đến khi lìa trần ngày 30-9-1897 và thời gian tu mới được 9 năm. Vậy mà chỉ 28 năm sau, năm 1925, Tê-rê-xa đã được Ðức Giáo Hoàng Piô XI tôn phong lên bậc Hiển Thánh. Hai năm sau, lại được đặt làm Quan Thày các Nhà Truyền Giáo và các Xứ Truyền Giáo, cùng với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê. Gần đây Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II còn nâng Tê-rê-xa lên hàng Tiến Sĩ Hội Thánh vào năm 1997.

Thánh nữ Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su chỉ là một thiếu nữ hèn mọn, không lập được thành tích gì nổi bật. Nhưng “đằng sau những việc nhỏ bé ấy lại ẩn chứa một tình yêu cao cả”: Yêu mến Chúa, rồi từ Chúa, yêu thương các nhà truyền giáo và các xứ truyền giáo. Làm việc truyền giáo bằng lời cầu nguyện, bằng những hy sinh hãm mình giống như “những bông hồng nhỏ” dâng lên Chúa Hài Ðồng để cầu xin cho lương dân sớm được ơn nhận biết Chúa.

Thánh Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su, Tiến Sĩ Hội Thánh, Bổn Mạng các Xứ Truyền Giáo chính là tấm gương sáng cho giới trẻ về cách truyền giáo cho con người thời đại hôm nay. Đó là truyền giáo bằng một cuộc sống tin yêu như “Con thơ phó thác” trong tay Chúa quan phòng.

3. THẢO LUẬN: Theo các cách truyền giáo của thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê, thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su, thánh nữ Tê-rê-xa Can-quýt-ta… Bạn thích cách truyền giáo của vị thánh nào nhất? Tại sao?

4. SUY NIỆM:

1) Sứ vụ truyền giảng Tin Mừng:

a) Chúa Giê-su đã truyền cho các môn đệ trước khi lên trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Đây là một sứ vụ đẹp lòng Thiên Chúa như ngôn sứ I-sai-a đã thốt lên: “Đẹp thay, những bước chân đi truyền rao Tin Mừng ơn cứu độ”. Thánh Phao-lô Tông đồ dân ngoại cũng viết: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao rao giảng, nếu không được sai đi?” (Rm 10,14-15). Nơi khác, ngài còn khẳng định: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16).

b) Các tông đồ phải rao truyền mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su: Người là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, đã từ trời xuống thế làm người, để dạy đường lên trời cho nhân loại là ”Qua đau khổ vào trong vinh quang”. Tông đồ Phao-lô cũng viết: “Trước hết, tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như Lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như Lời Kinh Thánh” (1 Cr 15,3-4).

2) Phải truyền giảng Tin Mừng theo cách nào?:

a) Cách truyền giảng của thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su:

– Thánh nữ Tê-rê-xa đã truyền giáo bằng lời cầu nguyện và các việc bác ái hãm mình: Tê-rê-xa không giảng bằng lời nói nhưng bằng lòng ước ao của một con tim cháy lửa yêu mến Chúa, bằng cách làm các việc bổn phận thường ngày bằng một cách thức phi thường, nghĩa là nhằm để làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn.

– Mỗi người chúng ta hôm nay cần noi gương thánh Tê-rê-xa: năng dâng những lời nguyện tắt kèm theo nhưng việc bác ái hãm mình để cầu cho việc truyền giáo: “Lạy Chúa, con xin làm việc hãm mình này để cầu cho một người lương sớm nhận biết tin yêu Chúa và hy vọng sẽ được hưởng ơn cứu độ của Chúa giống như con”.

b) Cách truyền giảng của Mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta:

– Thánh TÊ-RÊ-XA CAN-QUÝT-TA đã âm thầm loan báo Tin Mừng bằng những cử chỉ nhân ái với những người bệnh tật cùng khổ và bị bỏ rơi. Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để thành lập nhiều cộng đoàn tu viện theo lý tưởng thừa sai bác ái của Mẹ, lập ra nhiều nhà mở để tiếp đón các bệnh nhân gần chết đang bị bỏ rơi, không phân biệt tôn giáo mầu da tiếng nói… Việc bác ái từ thiện của Mẹ đã đánh động lương tâm của nhiều người trên thế giới, để cùng xây dựng Trời Mới Đất Mới. không còn đau khổ bệnh tật thù hận chết chóc…

– Mỗi người chúng ta hôm nay cũng phải thể hiện lòng bác ái yêu thương ngay trong gia đình ruột thịt, khu xóm, xứ đạo và môi trường xã hội chung quanh. Không nhất thiết phải làm những việc lớn lao tốn phí nhiều tiền bạc, mà chỉ cần làm những việc nhỏ bé vừa tầm tay của mình như ân cần thăm hỏi, chia sẻ giúp đỡ vật chất tinh thần, phục vụ những người cụ thể bằng những gì mình đang có, hợp tác với những người thiện chí dù khác biệt về chính kiến, tôn giáo… để xây dựng thế giới mới an lành hạnh phúc.

c) Cách truyền giảng của thánh Phan-xi-cô Xaviê:

– Thánh PHAN-XI-CÔ XA-VI-Ê đi truyền giáo ở vùng Đông Á bên Ấn Độ. Trong suốt 10 năm truyền giáo ngài đã đi cả trăm ngàn cây số. Đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Cuối cùng ngài đã đến đảo Thượng Xuyên Trung quốc. Tại đây ngài ngã bệnh và qua đời ngày 3.12.1552, được phong thánh và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Ngài là vị truyền giáo vĩ đại cho cuộc truyền giáo thời mới: Ngài hòa nhập vào dân mà ngài muốn mang Tin Mừng đến ; sống nghèo với những người lao động. Ngài hoạt động thật năng nổ cho cuộc truyền đạo và kích thích được tinh thần này ở Âu Châu. Hàng nghìn người đã theo gương ngài để mang Tin Mừng đi muôn phương.

– Mỗi người chúng ta hôm nay cần trang bị cho mình vốn liếng Lời Chúa, nhờ Lời Chúa soi dẫn, chúng ta sẽ đi đến các vùng sâu vùng xa của đồng bào dân tộc, đến với các trại nuôi người già, trại cùi, cô nhi viện, v.v… để thi hành sứ vụ loan Tin Mừng của Chúa, noi gương thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê.

d) Cách truyền giảng của Chúa Giê-su và các Tông đồ:

– Giới thiệu Chúa cho người khác: An-rê sau khi gặp Thầy Giê-su đã dẫn em là Si-mon đến với Đức Giê-su; Phi-lip-phê đã đưa bạn là Na-tha-na-en đến với Đức Giê-su…

– Đi bước trước tiếp cận người lương: Đức Giê-su đã mở lời trước xin người phụ nữ Sa-ma-ri cho uống nước và từ đó đã nói với chị về Nước Hằng Sống. Rồi người phụ nữ này đã về làng đưa dân làng ra gặp Đức Giê-su và mời Người vào giảng Tin Mừng cho cả làng.

– Cần xin ơn Thánh Thần trợ giúp: Noi gương các Tông đồ xưa đã hăng say loan báo Tin Mừng và đem lại nhiều thành quả tốt đẹp nhờ được Thánh Thần biến đổi trong ngày lễ Ngũ Tuần. Còn chúng ta hôm nay cũng cần được ơn Thánh Thần thôi thúc mới hy vọng chu toàn sứ vụ giới thiệu Chúa cho anh em lương dân chung quanh chúng ta.

3) Chu toàn sứ vụ truyền giáo hôm nay?

– Cần năng cầu nguyện bằng những lời nguyện tắt để được kết hiệp mật thiết với Chúa.

– Góp phần thánh hóa gia đình và xã hội mình đang sống ngày một tốt đẹp hơn: Nhờ biết sống tình bác ái yêu thương cụ thể, chúng ta sẽ làm cho môi trường sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn. Cúng cần ý thức đưa đức tin thấm nhập vào phim ảnh, bài hát, kịch nghệ, văn chương, hội họa, điêu khắc… hầu giúp anh em lương dân nhận biết tin yêu Chúa.

– Mỗi ngày quyết tâm đọc kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô để xin Chúa biến đổi chúng ta nên khí cụ bình an của Chúa, thành chứng nhân tình yêu của Chúa trước mặt mọi người.

– Hằng tuần dành ít nhất hai giờ để đi thăm những trại mồ côi, nhà dưỡng lão để chia sẻ tình thương cụ thể cho họ, sẵn sàng dấn thân phục vụ những bệnh nhân liệt giường cô đơn, để làm chứng cho Chúa như lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

Ðức Phao-lô VI đã dạy: “Con người thời đại ngày nay thích nghe các chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ có nghe thầy dạy thì cũng bởi vì những thầy dạy này là các chứng nhân”.

5. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất là trái tim, một trái tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình…

Lạy Chúa Giêsu, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong lòng Hội Thánh: Nơi trái tim Hội Thánh con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả. Vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con chắc chắn sẽ được thực hiện.

(Dựa theo lời cầu nguyện của thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su)

60. Bổn phận Truyền Giáo–Lm Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang

1. Bổn phận Truyền Giáo của chúng ta

Hôm nay, ngày Chúa Nhật Truyền Giáo lần thứ 87, Giáo Hội dạy chúng ta phải ý thức về bổn phận hết sức quan trọng của mình, là bổn phận truyền giáo.

Hoài bảo lớn nhất của Chúa Giêsu khi xuống trần gian nầy, là giải phóng tất cả mọi người khỏi ách nô lệ của ma quỷ, xác thịt, thế gian, và giành lại cho họ quyền được làm người con của Chúa.

Hoài bảo nầy được Chúa nói ra trước khi đi chịu chết: “Đây là máu đổ ra để cứu chuộc nhiều người”.

Hoài bảo nầy cũng được Chúa nói ra trước khi Ngài ngự về trời: “Các con hãy đi khắp thế gian, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”.

2. Giáo Hội dạy chúng ta phải Truyền Giáo.

Vì thế, thay mặt Chúa Giêsu, Giáo Hội đã long trọng tuyên bố trong Công Đồng Vatican II rằng: “Hoạt động truyền giáo của Giáo Hội là bổn phận căn bản của Dân Chúa”, là “bổn phận cao cả và thánh thiện nhất của Giáo Hội” (Sắc Lệnh Truyền Giáo).

Nghe như vậy thì biết rằng: từng cá nhân, từng đoàn thể, từng giáo xứ, từng địa phận, từng Giáo Hội địa phương và cả Giáo Hội khắp toàn cầu, đều phải xem bổn phận truyền giáo của mình là quan trọng nhất.

3. Người công giáo nào cũng phải làm việc truyền giáo.

Làm cho người khác biết Chúa, tin Chúa, yêu Chúa, đó là bổn phận của tất cả mọi người công giáo không trừ ai, vì Chúa đã phán rõ: “Các con hãy nên muối ướp thế gian, các con hãy nên ánh sáng soi chiếu thế gian”. Chúa dạy đức tin chúng ta phải nên như muối để làm cho thế gian khỏi ương thối. Chúa dạy đức tin chúng ta phải là ánh sáng để soi sáng cho kẻ khác biết con đường đi về với Chúa.

Trên núi Ôlivêtê, trước khi ngự về trời, Chúa đưa ra lệnh truyền giáo: “Hãy đi khắp thế gian, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo… Hãy dạy người ta giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”. Khi phán những lời nầy, Chúa không phán riêng cho các tông đồ mà thôi, nhưng còn phán cho nhiều môn đệ khác nữa. Như vậy, lời Chúa dạy, bắt buộc tất cả mọi người trong Giáo Hội phải làm việc truyền giáo.

4. Bí tích Rửa Tội và Bí Tích Thêm Sức bắt buộc chúng ta phải làm việc Truyền Giáo.

Khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta được in vào linh hồn một dấu thiêng liêng làm cho mình được thuộc về Chúa, được dâng hiến cho Chúa, được sát nhập vào Chúa, được nên giống hình ảnh Chúa, được thông chia đời sống và chức vụ của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu thi hành 3 chức vụ: một là chức vụ tư tế (dâng hiến mình làm của lễ đền tội thay cho nhân loại, và đưa nhân loại về với Đức Chúa Cha); hai là chức vụ tiên tri (nói lên những lời hằng sống để cứu rỗi nhân loại); ba là chức vụ hướng dẫn (dẫn đưa nhân loại đi trên con đường cứu rỗi để về với Chúa).

Ai đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, cũng phải làm ba nhiệm vụ nầy: phải làm tư tế, nghĩa là phải hy sinh cầu nguyện để cho người ta trở lại với Chúa; phải làm tiên tri, nghĩa là phải nói Lời Chúa cho người ta nghe để họ biết Chúa mà tin Chúa; phải làm người hướng dẫn, nghĩa là phải sống đời sống gương tốt để cho người ta bắt chước sống theo mà đi về với Chúa. Bởi thế, ai đã đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội để trở thành con Chúa, mà không thi hành ba chức vụ trên đây để làm việc truyền giáo, thì họ không còn xứng đáng là con của Chúa nữa.

Và khi nhận lãnh thêm phép Bí Tích Thêm Sức, mỗi người chúng ta được trở nên mạnh mẽ nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần để can đảm thi hành ba chức vụ trên.

5. Chúng ta phải Truyền Giáo thế nào và phải sống đời Truyền Giáo ra sao?

Mỗi người chúng ta có bổn phận phải xây dựng Nước Chúa theo chiều rộng, nghĩa là phải lôi kéo nhiều người vào Đạo Chúa, làm cho họ thuộc về Nước Chúa, trở thành dân của Chúa, trở thành môn đệ của Chúa.

Mỗi người chúng ta có bổn phận phải xây dựng Nước Chúa theo chiều cao, nghĩa là phải làm sao cho người ta vâng giữ luật Chúa và sống theo những điều Chúa truyền dạy.

Mỗi người chúng ta có bổn phận phải xây dựng Nước Chúa theo chiều sâu, nghĩa là phải làm sao cho Đạo Chúa thấm nhập vào đời sống xã hội, ăn sâu vào tư tưởng, vào tập quán của xã hội, để xã hội trở nên môi trường thuận lợi cho Đạo Chúa nẩy nở.

Việc truyền giáo, việc làm tông đồ cho người ta trở lại, là công việc siêu nhiên. Người ta trở lại là nhờ ơn Chúa ban. Mà Chúa chỉ ban ơn khi thấy chúng ta cầu nguyện. Bởi đó, trong vấn đề truyền giáo, điều quan trọng nhất, là sự cầu nguyện.

Lời cầu nguyện, muốn được Chúa nhậm lời, phải có sự hy sinh đi kèm theo. Chúng ta càng hy sinh, càng chịu khó, càng hãm mình nhiều chừng nào, thì lời cầu nguyện của chúng ta càng dễ được Chúa nhậm lời chừng đó.

Gương tốt của chúng ta lôi kéo người khác trở lại với Chúa, vì họ được đánh động khi thấy cách ăn nết ở xứng đáng của chúng ta. Gương các bổn đạo đầu tiên trong Giáo Hội là một bằng chứng rõ ràng: họ chỉ là thiểu số, họ thiếu thốn mọi sự, họ bị Nhà Nước loại bỏ, nhưng họ vẫn sống đức tin mạnh mẽ, vẫn treo cao gương tốt khắp nơi, làm cho nhiều người cảm phục Đạo Chúa và xin theo Đạo càng ngày càng đông. Lời nói bay đi, chỉ có gương lành ở lại và lôi kéo kẻ khác.

Chúng ta hãy cầu nguyện nhiều để cho người ta biết Chúa!

Chúng ta hãy hy sinh nhiều để Chúa nhậm lời chúng ta cầu nguyện cho người ta biết Chúa!

Chúng ta hãy luôn luôn treo cao gương tốt để cho người ta bắt chước chúng ta mà đến với Chúa!

(Nguồn: gplongxuyen.org)