Thứ Năm, ngày 25 tháng 04 năm 2024

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN NĂM C. – KÍNH TRỌNG THỂ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Chuyên mục: Suy niệm Chúa Nhật - Ngày đăng: 13.11.2022
Chia sẻ:

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN NĂM C. – KÍNH TRỌNG THỂ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Lời Chúa: Mt 10, 17-22

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ.

Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì.

Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì: vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con. Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết.

Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ”.

CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN năm C.

PHÚC ÂM: Lc 21, 5-19

“Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: “Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá”. Bấy giờ các ông hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?” Người phán: “Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối. Vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: ‘Chính ta đây và thời giờ đã gần đến’. Các con chớ đi theo chúng. Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ, vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu”.

Bấy giờ Người phán cùng các ông ấy rằng: “Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi; sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể. Nhưng trước những điều đó, người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt các vua chúa quan quyền vì danh Thầy; các con sẽ có dịp làm chứng.

Vậy các con hãy ghi nhớ điều này trong lòng, là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào. Vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con. Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết.

Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con”.

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN – C

Lời Chúa: Ml 3,19-20a; 2Tx 3,7-12; Lc 21,5-19

1. Kiên trì trước sức tàn phá – ViKiNi–‘Xây Nhà Trên Đá–Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

Trong tác phẩm ngư ông và biển cả, văn hào Hemingway mô tả một ông lão nghèo khổ, khô gầy, chân tay nứt nẻ vì cọ sát dây câu… Hàng chục ngày câu cá, không được con nào. Lão còn bị bọn dân chài chế nhạo. Lão không nản chí, quyết câu được cá to. Lão ra tít mù khơi, thả câu, chờ tới chiều, bỗng dây câu giựt mạnh. Lão xuýt té, bám lấy mạn thuyền, thuyền bị kéo chạy phăng phăng. Lưng, vai, tay lão bị dây xiết chặt, lão vừa đói khát, vừa mệt lử. Có lúc lão thiếp đi. Ba ngày sau, cá đuối sức, lão đâm, chém, đập xiên xọc cho cá chết, rồi buộc vào mạn thuyền, lôi về. Con cá kiếm dài hơn thuyền, nặng tới sáu bảy tấn. Lão vui mừng, khỏe hẳn lại. Ngờ đâu bọn cá mập đánh hơi thấy mùi máu tanh nhào lại rúc rỉa. Lão chống trả quyết liệt với bọn sư tử biển này. Bọn cá mập bỏ chạy. Nhưng cá kiếm của lão chỉ còn lại bộ xương. Lão kéo lên bờ. Người ta trầm trồ trước bộ xương vĩ đại với đuôi cá khổng lồ. Còn lão, lão ngủ thiếp đi trong giấc mộng lởn vởn lũ sư tử biển.

Mỗi người chúng ta là một lão ngư ông trên biển đời mà Đức Giêsu đãdiễn tả trong bài Tin Mừng cho chúng ta thấy những sức mạnh tàn phá kinh khủng của nó.

1- Trước hết là sức mạnh tàn phá của thời gian: thời gian sẽ tàn phá hết mọi sự trên đời, mà đền thờ Giêrusalem là một điển hình. Người ta trầm trồ khen ngợi đền thờ Giêrusalem kiên cố, đồ sộ, còn mới nguyên, được trang hoàng bằng cẩm thạch bóng loáng, chạm vàng óng ánh và trầm hương thơm ngát. Nhưng Đức Giêsu bảo: “Những gì anh em chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết. Không còn tảng đá nào trên tản đá nào”.

Lịch sử đền thờ Giêrusalem đã trải qua những bước thăng trầm để rồi bị tàn phá hết. Đền thờ thứ nhất được Vua Salômôn xây cất kỳ công kiệt tác để rồi Vua Nabucôđônôsô kéo quân đến tàn phá và bắt dân Do Thái đi đầy ở Babilon. Đến thời Vua Kyrô và Darius nước Ba tư cho dân về xây cất lại đền thờ dưới quyền chỉ huy của Zorababen (năm 520-515), đây là đền thờ thứ hai rất sơ sài, sau lại bị quân Anticô IV chiếm cứ tế thần Zeus Olympic, năm 169 anh em Juda Macabê nổi lên đánh đuổi bọn xâm lăng tà thần và tẩy uế đền thờ năm 164.

Đến thời Hêrôđê đại đế xây lại nguy nga lớn hơn đẹp hơn, để rồi quân Rôma do tướng Titus đến đốt sạch, phá hết vào năm 70 sau Đức Giêsu.

Cuộc đời con người còn mong manh, mỏng dòn, dễ bị tàn phá hơn đền thờ rất nhiều.

2- Thứ đến là sức tàn phá của lừa gạt, giả dối, giả mạo. Mấy anh Việt kiều kể: Có giáo phái giúp đỡ những Việt kiều rất tử tế để theo họ, khi theo rồi phải đóng thuế nặng như đóng thuế cho nhà nước. Nhiều người đã mắc bẫy lừa gạt như vậy.

Lịch sử còn cho biết: Bao nhiêu dân lành đã thiêu thân trong những cuộc chiến đẫm máu vì những lời lừa gạt; chiến đấu vì bảo vệ tôn giáo, chiến đấu để bảo vệ tổ quốc, bảo vệ dân tộc, chiến đấu cho tự do, dân chủ … Những khẩu hiệu đẹp đẽ lừa gạt đó ngầm chứa những tham vọng cá nhân làm bá chủ, độc tài, gia đình trị như Napolêon, Hitler, Polpôt…

Thời xưa, tiên tri Mikayahu cảnh báo Vua Akhab chớ xâm chiếm thành Ramat Galaat. Akhab không nghe, ông triệu tập được bốn trăm tiên tri giả đã nịnh bợ bảo vua: “Tiến lên, Đức Chúa sẽ nộp thành trong tay đức vua”. Akhab đi đánh bị quân Ramat bắn chết (1V. 22, 5-37)

Tiên tri Gêrêmia cũng nói thật với vua Sêđêquia chớ liên minh với Ai Cập. “Nhưng các tiên tri giả vô đạo, ngoại tình, dối trá, chúng củng cố lũ ác ôn của nhà vua bằng những lời lừa gạt rằng: “Thành Giêrusalem sẽ được bình an vô sự, không có tai họa nào cả”. Chẳng bao lâu quân của vua Nabucôđônôsô kéo đến phá tan thành vì đã liên minh với Ai Cập chống lại Babilon. Và tất cả dân chúng bị bắt đi đầy sang Babilon.

Người ta vẫn nói: “Nhất ngôn hưng bang, nhất ngôn tán bang” – Một lời nói làm cho đất nước hưng thịnh, một lời nói có sức phá tan nát đất nước. Trước sức mạnh tàn phá của lời nói lừa gạt, Đức Giêsu dậy các môn đệ và chúng ta phải hết sức đề phòng những tiên tri giả, những lời dụ dỗ đường mật, những lời mị dân, những lời nịnh bợ, lôi cuốn chúng ta vào mê hồn trận, khiến chúng ta kiêu ngạo, lầm lạc nâng mình lên, sẽ bị ngã nhào: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: Chính Ta đây, anh em chớ theo họ”.

3- Sức tàn phá thứ ba là sự khủng bố của con người: Sau giai đoạn lừa gạt thì đến khủng bố. Theo kẻ lừa gạt hay không theo thì cũng chết: “Anh em sẽ bị mọi người thù ghét”. Người ta sẽ bắt và ngược đãi anh em … Họ sẽ giết một số trong anh em. Sự khủng bố này được mô tả bằng thù ghét, bắt bớ, ngược đãi, xét xử, tù đầy và giết đi. Sự khủng bố này do tất cả mọi hạng người từ vua chúa quan quyền, các người của hội đường, của nhà tù, và đau xót hơn nữa, có cả những người thân yêu ruột thịt như cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu nhúng tay vào bắt nộp. Họ khủng bố anh em chỉ vì lý do anh em đã được theo Thầy, vì danh Thầy. “Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy”. Đây là cơ hội bằng vàng để anh em nên giống Thầy: Thầy đã biến thân xác loài người nên thân xác Đấng Cứu thế, đã biến khổ giá thành giá cứu chuộc, khiến lưỡi đòng thâu qua trái tim cho máu và nước chảy ra rửa sạch tội loài người, cho trái tim mở ra yêu thương loài người, cho mạo gai thành triều thiên, cho sự chết thành sự sống lại. Anh cũng phải biến thân xác mình thành của lễ hy sinh, biến ngược đãi thành yêu thương, biến khổ hình thành Thánh giá, để làm chứng về Thầy. Cố kiên trì làm chứng như thế, anh em mới giữ được mạng sống mình trong vinh quang.

Lạy Chúa Giêsu cuộc đời con lênh đênh giữa những sức tàn phá của biển đời. Xin cho con luôn nghe được tiếng Chúa nói: “Thầy đây đừng sợ” để con vững tin sống xứng đáng là chứng nhân của Người. Amen.

2. Học hỏi Phúc Âm Chúa Nhật 33 thường niên Năm C–Lc 21,5-19–dongten.net

1. Bài Tin Mừng này diễn ra ở đâu? Ai là người gợi cho Đức Giêsu nói về chuyện Đền thờ?

2. Đền thờ Giêrusalem thời Đức Giêsu đã được xây bởi ai, từ năm nào đến năm nào mới xong? Đọc Ga 2,20. Đền thờ thời Đức Giêsu là Đền thờ thứ mấy của người Do-thái? Khi nào Đền thờ thời Đức Giêsu bị sụp đổ? Đâu là lý do?

3. Đọc Lc 21,6. Khi Đức Giêsu nói câu này, bạn hãy tưởng tượng xem đâu là phản ứng của các môn đệ? Bao nhiêu năm sau thì lời Đức Giêsu nói được ứng nghiệm?

4. Đọc Lc 21,8-11. Trước khi Giêrusalem sụp đổ, có những điềm gì báo trước?

5. Đọc Lc 21,12. Hãy cho thấy Lc 21,12 có những điểm giống với các đoạn văn sau đây trong sách Tông đồ công vụ: Cv 4,3; 5,18; 8,3; 12,4; 9,2; 22,4; 26,10; 12,1; 5,40-41; 21,13.

6. Đọc Lc 21,13. Ra trước tòa lại trở nên cơ hội làm chứng cho Thầy Giêsu. Các môn đệ có làm được điều này không? Đọc Cv 4,5-12; 7,1-60.

7. Đọc Lc 21,14-15. Đâu là thái độ nội tâm của người môn đệ khi bị tố cáo trước tòa án? Đọc 1 Pr 3,14-16; Cv 6,10.

8. Đọc Lc 21,16-18. Có gì mâu thuẫn khi Đức Giêsu nói rằng các môn đệ có thể bị giết, rồi sau đó lại nói một sợi tóc của họ cũng không mất? Đọc Lc 12,4-7.

CÂU HỎI SUY NIỆM: Bạn thấy các thánh tử đạo Việt Nam có thái độ đĩnh đạc, bình an khi bị xử án hay khi ra pháp trường không? Bạn có biết những câu trả lời đanh thép của một số vị tử đạo Việt Nam khi đứng trước các quan không?

PHẦN TRẢ LỜI

Câu chuyện trong bài Tin Mừng này diễn ra trong khuôn viên Đền thờ. Đức Giêsu bàn về chuyện Đền thờ vì có mấy người, không phải là môn đệ, trầm trồ trước vẻ đẹp của những khối đá được chạm trổ công phu nơi Đền thờ, và những đồ sang trọng người ta dâng cúng được trưng bày ở đó. Có lẽ Đức Giêsu đã nghe được lời thán phục của họ, nên Ngài mới nói về số phận tương lai của Đền thờ.

Đền thờ Giêrusalem vào thời Đức Giêsu có thể gọi là Đền thờ thứ ba. Đền thờ thứ nhất được xây bởi vua Salomon, bị phá hủy bởi quân Babylon năm 587 trước Công nguyên. Một thời gian sau khi lưu đày trở về, người ta đã xây Đền thờ thứ hai từ 520 trước Công nguyên). Đến thời vua Hêrôđê Cả, từ năm 20 hay 19 trước Công nguyên, Đền thờ thứ hai này được xây lại và các khuôn viên quanh Đền thờ được nới rộng (xem Ga 2,20). Việc trùng tu này kéo dài đến khoảng năm 62 sau Công nguyên, nhưng đến năm 70 sau Công nguyên, Đền thờ đẹp đẽ và tráng lệ này đã bị quân Rôma thiêu hủy.

Đức Giêsu nói về sự sụp đổ trong tương lai của ngôi Đền thờ mà họ đang trông thấy trước mắt và hiện vẫn còn đang xây dựng dở dang: “Sẽ có ngày không còn khối đá nào trên khối đá nào, tất cả sẽ bị phá đổ” (Lc 21,6). Chắc chắn ai nghe Ngài nói đều thấy thật là kinh khủng, không thể tưởng tượng nổi. Ngôi Đền thờ đẹp đẽ và vững chắc đã được xây trong 46 năm (Ga 2,20) sẽ bị phá hủy tan tành. Khoảng 40 năm sau, lời tiên tri này được ứng nghiệm. Nay Đền thờ xưa chỉ còn lại một bức tường phía tây làm bằng những khối đá lớn.

Đức Giêsu trả lời câu hỏi và cho thấy những dấu hiệu báo trước sự sụp đổ của Đền thờ này (Lc 21,8-11 ). Đó là có những kẻ mạo danh Đức Giêsu xuất hiện, có chiến tranh loạn lạc, có xung đột giữa các dân các nước, có động đất lớn, đói kém và ôn dịch, và có những hiện tượng kinh khủng trên trời… Nhưng đây chưa phải là những dấu hiệu của ngày tận thế, hay ngày quang lâm của Con Người.

Trong Lc 21,12-19 Đức Giêsu tiên báo cuộc bách hại mà các môn đệ sẽ phải chịu trước khi xảy ra sự sụp đổ của Đền thờ vào năm 70 sau Công nguyên. Khi đọc sách Công vụ Tông đồ, ta thấy các môn đệ đầu tiên đã phải chịu những hình khổ được Lc 21,12 nhắc đến: bị tra tay hại (Cv 4,3; 5,18); bị ngược đãi (Cv 5,41; 12,1); bị nộp cho hội đường (Cv 9,2); bị bỏ tù (Cv 4,3; 5,18; 8,3; 12,4; 22,4; 26,10); bị điệu đến trước mặt vua quan vì danh Thầy (Cv 21,13). Đây là những hình khổ họ phải chịu trước khi Đền thờ sụp đổ.

Khi bị điệu ra trước vua chúa quan quyền vì danh Thầy, người môn đệ lại thấy mình có cơ hội làm chứng cho Thầy. Trong Cv 4,5-12, Phêrô và Gioan đã làm chứng về sự phục sinh của Đức Giêsu trước “các thủ lãnh, kỳ mục và kinh sư họp tại Giêrusalem” (Cv 4,5), và làm chứng rằng nhờ Danh Ngài mà anh què được lành mạnh. Dù bị cấm không được nói hay giảng dạy về Danh Đức Giêsu, nhưng hai ông cương quyết làm chứng: “Những gì đã thấy, đã nghe, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,20). Trong Cv 7,1-60, chúng ta lại thấy ông Stêphanô làm chứng về Đức Giê su trước Thượng Hội Đồng của Do-thái giáo (Cv 6,15). Ông làm chứng về Đức Giêsu mà ông gọi là Chúa đang đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông đã bị ném đá chết vì lời chứng này.

Luca 21,14-15 là lời khuyên của Đức Giêsu dành cho những ai sắp bị đưa ra tòa. Ngài căn dặn họ đừng chuẩn bị trước phải biện hộ như thế nào, vì Ngài hứa sẽ cho họ miệng lưỡi khôn ngoan để có thể đối đáp với những người kết án họ. Như thế thái độ của môn đệ khi bị xử án là bình an thanh thản, đĩnh đạc, không lo âu hay sợ hãi. Họ biết Đấng phục sinh ở bên mình, soi sáng cho mình khiến kẻ thù không thắng được khi phải tranh luận. Sau này thánh Phêrô cũng khuyên các tín hữu như thế (1 Pr 3,14-16; x. Cv 6,10).

Trong Lc 21,16-18, một mặt Đức Giêsu cho thấy các môn đệ có thể bị chính những người thân bắt nộp, thậm chí gây ra cái chết; mặt khác, Đức Giêsu lại hứa một sợi tóc trên đầu họ cũng bị mất. Không có gì mâu thuẫn trong lời Đức Giêsu. Lối nói “một sợi tóc trên đầu cũng không mất” cho thấy Thiên Chúa bảo vệ họ trong cả những điều nhỏ nhất như sợi tóc (x. Cv 27,34). Nhưng việc bảo vệ đó lại không làm họ tránh khỏi những cực hình mà chính Thầy của họ đã chịu trước đây. Nói cách khác, Chúa Giêsu vẫn bảo vệ họ trong lúc họ chịu khổ vì Danh Ngài. Điều lớn nhất mà họ không thể mất đó là chính mạng sống ở đời sau (Lc 21,19).

3. Ngày của Chúa–Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ Ðề: Ngày của Chúa

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Sống theo năm Phụng vụ giống như làm một cuộc hành trình. Hôm nay đã gần hết năm Phụng vụ, Hội Thánh mời gọi chúng ta nghĩ đến lúc tận cùng của thời gian, còn được gọi là ngày tận thế.

Chúng ta thường nghe người ta bàn tán về ngày tận thế, với những hiện tượng khủng khiếp và những tai ương rất đáng sợ. Nhưng thực ra ngày đó có khủng khiếp không, khi nào nó đến và chúng ta phải chuẩn bị đón ngày đó ra sao? Đó là những vấn đề mà Lời Chúa hôm nay sẽ giải thích cho chúng ta.

Nhưng trước hết, như thường lệ, chúng ta hãy bắt đầu Thánh lễ bằng tâm tình sám hối lội lỗi chúng ta.

II. Gợi ý sám hối

Chúng ta sống như đám lục bình trôi, nghĩa là không nghĩ đến chặng cuối của cuộc hành trình đời mình.

Nhìn lại một năm phụng vụ sắp hết, chúng ta thấy mình đã có rất nhiều thiếu sót.

Trước những hoàn cảnh khó khăn, chúng ta đã chán nản và hầu như mất lòng tin.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Ml 3, 19-20a)

Trích đoạn này nói về “Ngày của Chúa”. Thuật ngữ này được Thánh Kinh dùng khá nhiều, với ý nghĩa là lúc Thiên Chúa chính thức ngự trị. Thánh Kinh mô tả ngày đó bằng những hình ảnh của văn thể khải huyền với ý nghĩa ám chỉ, nên ta không nên hiểu theo nghĩa đen. Ý nghĩa chính của những hình ảnh đó là:

Khi đó Thiên Chúa sẽ tiêu diệt những thế lực gian tà.

Và Khi đó Ngài sẽ cho những người công chính được vinh quang.

2. Đáp ca (Tv 97)

Tv này cũng nói tới Ngày Thiên Chúa đến. Đó không phải là một ngày khủng khiếp – có khủng khiếp chăng là chỉ đối với những kẻ gian ác – mà là một ngày hân hoan. Bởi đó tác giả Thánh vịnh kêu mời mọi người – và cả vũ trụ vạn vật – hãy đàn hát lên để mừng đón Chúa.

3. Tin Mừng (Lc 21, 5-19)

Đoạn này mở đầu một đơn vị văn chương được gọi là “diễn từ chung luận” (Lc 21, 5-36), trong đó Chúa Giêsu bàn đến những vấn đề “chung kết” của lịch sử là: sự sụp đổ của thành Giêrusalem, ngày tận thế, và ngày Đức Kitô quang lâm. Diễn từ này khó hiểu, một phần vì được viết theo văn thể khải huyền, phần khác vì 3 biến cố trên được nhắc đến xen lẫn nhau khiến người đọc không biết rõ những câu nào nói đến biến cố nào.

* các câu 5-6: Chúa Giêsu tiên báo thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá.

* câu 7: thính giả liên tưởng tới ngày tận thế nên hỏi Chúa Giêsu khi nào thì tận thế và có dấu nào báo trước không.

* câu 8-11: Chúa Giêsu không muốn cho biết những dấu chỉ rõ ràng về ngày tận thế. Bởi đó trước tiên Ngài khuyên người ta chớ tin vào những dấu chỉ mà người này người nọ đưa ra cho rằng sắp tận thế. Kế đó Ngài dùng những hình ảnh khải huyền khó hiểu để nói một cách úp úp mở mở rằng khi tận thế thì những gì xưa nay người ta cho là chắc chắn đều sẽ lung lay.

* các câu 12-19: Chúa Giêsu báo trước cho môn đệ mình biết rằng có một thời kỳ Hội Thánh sẽ bị bắt bớ. Rồi Ngài dạy họ phải sống thế nào trong thời kỳ đó: hãy coi những khốn khó đó là dịp để ta làm chứng cho Chúa (câu 13); đừng sợ phải bào chữa thế nào, vì Ngài sẽ ban cho họ sự khôn ngoan mà kẻ thù không thể nào thắng được (cc 14-15); đừng sợ khi bị bắt bớ và thù ghét, vì vẫn có Chúa quan phòng trong tất cả những hoàn cảnh éo le đó (cc 16-18); phải kiên trì (câu 19).

4. Bài đọc II (2 Tx 3, 7-12)

Nhiều tín hữu trong giáo đoàn Thêxalônica nghĩ rằng sắp đến ngày tận thế, cho nên họ lười biếng không muốn làm gì nữa cả.

Thánh Phaolô khiển trách điều đó. Ngài lấy chính bản thân ngài ra làm gương: không bao giờ sống vô kỷ luật, không ăn bám vào ai, trái lại luôn làm lụng vất vả. Phaolô đã nói một câu rất nặng: “Ai không làm việc thì đừng ăn”

IV. Gợi ý giảng

* 1. Thời gian

Trong kho tàng văn hóa phong phú của Trung Quốc, người ta đọc thấy một câu truyện răn đời sau đây: Ngày xửa ngày xưa có một vị hoàng đế, tuổi đã quá bát tuần, mà vẫn chưa đọc được một quyển sách nào của các bậc thánh hiền. Bộ sách mà nhà vua thèm khát được đọc là Bộ Sách Lịch Sử Loài Người

Nhưng khốn nỗi cuộc đời nhà vua, từ mái đầu xanh đến lúc tóc đã bạc phơ, răng đã long, không lúc nào được rảnh rỗi thư nhàn. Cuộc đời nhà vua luôn luôn sống trên lưng ngựa, nằm sương gối tuyết trên bãi chiến trường của thời chinh chiến loạn lạc. Nay chinh phục nước này, mai ngăn chặn nước kia xâm lăng. Đôi mắt của nhà vua chỉ nhìn thấy có gươm giáo và máu lửa. Nhà vua rất ân hận vì trong suốt cuộc đời chưa có hân hạnh được đọc một trang sách của các bậc thánh hiền.

Nay chiến tranh đã tạm yên, đất nước đã thanh bình. Nhà vua muốn dành thời gian còn lại để đọc cho kỳ được Bộ Sách Lịch Sử Loài Người, để tìm hiểu xưa nay con người sống để làm gì, chết đi về đâu?! Nhưng phiền một nỗi, tuổi của nhà vua đã quá cao, mà bộ sách lại quá dầy. Biết sức mình không thể đọc hết bộ sách, nhà vua ra lệnh cho viên quan ngự sử làm thay mình công việc khó khăn ấy. Với sự giúp đỡ của một ủy ban 50 ngườiø, viên quan ngự sử bắt đầu miệt mài đọc sách.

Sau 10 năm cắm cúi đọc, viên quan ngự sử và ủy ban đã có thể tóm tắt Bộ Sách Lịch Sử Loài Người thành 10 cuốn và mang vào triều đình dâng lên nhà vua. Nhưng vừa nhìn thấy 10 cuốn sách và đo lường tuổi tác sức khỏe của mình, nhà vua lại cảm thấy không còn đủ sức đọc hết bộ sách, dù đã được rút ngắn thành 10 cuốn!! Nhà vua bèn ra lệnh cho viên quan ngự sử và ủy ban tiếp tục làm việc thêm một thời gian nữa.

Sau 5 năm làm việc thêm, viên quan ngự sử và ủy ban đã tóm lược Bộ Sách Lịch Sử Loài Người thành 5 cuốn. Nhưng khi ủy ban và viên quan ngự sử mang 5 cuốn sách vào cung ra mắt nhà vua thì cũng chính là lúc nhà vua đang hấp hối trên giường bệnh. Biết mình không còn sống bao lâu, cũng không thể nào đọc được dù chỉ một trang sách, nhà vua mới thều thào nói với viên quan ngự sử hãy tóm tắt Bộ Sách Lịch Sử Loài Người chỉ trong một câu thôi.

Lúc đó viên quan trưởng ban tu sử mới tâu trình nhà vua như sau: “Hạ thần xin vâng mệnh. Lịch Sử Loài Người từ khai thiên lập địa đến giờ là con người sinh ra để khổ rồi chết!!” Nhà vua gật đầu. Đôi môi khô héo của nhà vua bỗng nở một nụ cười mãn nguyện rồi tắt thở!! Giữa lúc ấy, viên quan ngự sử cũng nấc lên mấy tiếng rồi trút hơi thở cuối cùng!!

Nhìn lại một năm sắp qua, với biết bao nhiêu biến cố vì khổ đau, bệnh tật, tai nạn, động đất, lũ lụt, chiến tranh, chết chóc đã xảy ra với loài người cũng như cho gia đình và bản thân, có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng muốn đi đến kết luận bi quan như viên quan ngự sử của nhà vua trong câu truyện răn đời trên đây: “Con người sinh ra để khổ rồi chết! “.

Chúng ta có bi quan nhìn đời như viên quan ngự sử không? Hoàn toàn không!! Chúng ta không chối bỏ thực tại của khổ đau, của bệnh tật, của chết chóc. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa tạo dựng nên thế giới, tạo nên chúng ta là để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Cho nên hướng đi lịch sử của loài người không phải là ngõ cụt của sự chết mà là sự sống. Bên kia của thất bại khổ đau, bên kia của bệnh tật chết chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.

Vì thế không có tâm tình nào thích hợp cho chúng ta trong những ngày cuối năm này cho bằng Cảm Tạ và Phó Thác. Cảm Tạ và Phó Thác tất cả cho Thượng Đế, vì Ngài là Cha của chúng ta, luôn yêu thương và quan phòng cuộc đời chúng ta. Cảm Tạ và Phó Thác vì Ngài là Thượng Đế của Tình Thương, của sự Sống. Cảm Tạ và Phó Thác vì Ngài là Đường, là Sự Thật và là Lẽ Sống của chúng ta. Cảm Tạ và Phó Thác cho Thượng Đế, vì nhờ Ngài cuộc sống này vẫn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.

Trong muôn vàn khổ đau của cuộc sống, chúng ta hãy hân hoan lập lại: Thượng Đế Yêu Thương Tôi Như Chỉ Có Một Mình Tôi Trên Cõi Đời Này. Đừng bao giờ chúng ta quên một chân lý căn bản soi sáng cho đời ta: “ Chúng ta không chỉ sinh ra cho cuộc sống đời tạm này mà cho cuộc sống vĩnh cửu đời sau “. Đó chính là Niềm Tin của Bạn, của tôi và của mọi người. (Linh mục Trần Quý Thiện)

* 2. Trắc nghiệm đức tin

Một hôm vua Ai Cập đang đứng chiêm ngưỡng những công trình mà ông cho xây dựng tại thành phố Êliôpôli, bỗng có cụ già râu tóc bạc phơ không biết từ đâu tới đã cười ngạo nghễ và thách thức nhà vua:

– Hãy bỏ lại tất cả và cút đi!

Nhà vua giận tím gan, nhưng ông ta đã nén giận và hỏi:

– Hỡi lão già, ngươi là ai mà dám ra lệnh cho ta cách hỗn xược như thế? Không lẽ ngươi quyền thế hơn ta?

Ông lão quả quyết:

– Đúng thế! Vì ta là thời gian.

Nghe đến tên thời gian, vua Ai Cập tái mặt, té nhào khỏi ngai vàng. Cùng với ông, cả đế quốc Ai Cập cũng sụp đổ.

Lão già Thời Gian cũng rảo qua khắp các đế quốc trên địa cầu. Lão đi đến đâu, các đế quốc đều rơi như sung rụng.

Nhưng ngày kia, người ta bỗng thấy xuất hiện tại đồi Vatican một cụ già khác. Lão già Thời Gian cũng một giọng điệu vô cùng hách dịch đến trước thành Vatican gầm lớn:

– Ta là Thời Gian đây!

Tiếng gầm thét đó làm rung chuyển trái đất, nhưng lại không làm cho cụ già trên đồi Vatican mảy may lo sợ. Cụ bình tĩnh đáp:

– Còn ta, ta chính là Vĩnh Cửu! Xuyên qua các thế hệ ta phải đại diện cho lòng chung thuỷ của Thiên Chúa đối với con người.

*

Không có gì là vĩnh cửu dưới bầu trời này. Nhiều người Do thái nhìn ngắm và khen ngợi đền thờ Giêrusalem nguy nga tráng lệ, được xây cất bằng đá cẩm thạch nguyên khối, mỗi cây cột cao hơn 12 mét. Đền thờ được trang trí với cây nho lớn bằng vàng ròng, quyên góp từ các tín hữu (2 Mcb 2, 13). Mặt tiền đền thờ được dát bằng vàng lá, mỗi khi mặt trời lên, nó phản chiếu ánh sáng chói loà rực rỡ. Nhìn từ xa, đền thờ trông như một núi tuyết khổng lồ vì màu trắng toát của đá cẩm thạch. Chính vẻ huy hoàng lộng lẫy của đền thờ mà người ta tưởng nó sẽ tồn tại vĩnh viễn.

Chúa Giêsu đã đánh đổ quan niệm sai lầm đó. Người loan báo đền thờ sẽ bị tàn phá một cách thảm hại, không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào. Quả thật, tiên báo này đã hoàn toàn ứng nghiệm năm 70 sau Công nguyên, khi vua Titô đem quân bao vây, tàn sát dân chúng, bắt những tù binh, và thiêu huỷ đền thờ thành ra hoang vu tiêu điều.

Mọi người kinh hoàng sợ hãi khi nghe Chúa Giêsu loan báo việc đền thờ bị phá huỷ. Họ xin Người cho biết thời gian và điềm báo trước. Nhưng Người không cho biết gì thêm lại còn dựa vào lời tiên báo trên để nói về ngày tận thế. Trước ngày đó, sẽ có những thử thách đức tin.

Có thể có những ngôn sứ giả hiệu, mạo danh Chúa để mê hoặc tín hữu, hay loan báo thời gian đã đến gần để làm mất niềm hy vọng nơi những kẻ tin.

Có thể có những cuộc bách hại các tín hữu, thậm chí cả sự chia rẽ trong các gia đình.

Nhưng Người khuyên họ: “Đừng sợ”. Hãy tin tưởng trong phó thác và bền đỗ trong đức tin, vì Thiên Chúa luôn quan phòng chở che cho những ai cậy trông nơi Người.

Đối với Chúa Giêsu, bách hại và thử thách không phải là điều đáng sợ mà là một cơ may, để người tin hữu có dịp “làm chứng”: để cho kẻ bách hại hiểu biết đức tin của người tín hữu, và để người tín hữu chứng tỏ lòng tin vào Thiên Chúa trong cơn thử thách.

Quả thật, Thiên Chúa muốn niềm tin phải là một hành động tín nhiệm sâu xa nơi Người, một biểu lộ tín thác tuyệt đối vào Người, cho dù có phải chịu thử thách đớn đau nhất, kể cả sự chết. Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen có viết: “Để trắc nghiệm đức tin của ta, cần phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không phải lúc thuận buồm xuôi gió”.

*

Lạy Chúa, đức tin không giữ cho chúng con khôi chết, cũng không cứu chúng con thoát đau khổ, nhưng đức tin chính là hiến dâng mạng sống.

Xin ban thêm đức tin cho chúng con, để trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng con vẫn luôn kiên trì giữ vững niềm tin vào Chúa. Amen. (Thiên Phúc)

* 3. Làm chứng trong gian khổ

a. Trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu nói đến nhiều cảnh gian truân khổ sở như chiến tranh, bắt bớ, thiên tai, chia rẻ v. v. Nhưng cái đáng chú ý là Chúa Giêsu nói rằng “Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy”. Tại sao? Thưa vì:

Trong lúc tối tăm người ta mới cần ánh sáng hơn

Trong thời buổi đầy dối gian, người ta mới cần sự thật hơn

Trong xã hội đầy hận thù, người ta mới cần tình thương hơn

Trong chiến tranh người ta mới cần đến hòa bình hơn.

Thời đại chúng ta ngày nay là thời văn minh hưởng thụ, người ta chạy theo vật chất, người ta chỉ quan tâm đến đời này. Một bầu không khí thờ ơ với tôn giáo bao trùm khắp nơi. Có thể nói, đây là thời kỳ khủng hoảng đức tin. Nhưng chính trong thời kỳ này, từ tận thâm tâm, con người mới cần đức tin hơn. Vì thế đây là thời gian tốt để tín hữu chúng ta làm chứng về đức tin của mình.

b. Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng nói đến sự sụp đổ của thành Giêrusalem. Ngày nay cũng có nhiều sụp đổ: không chỉ là sụp đổ một ngôi nhà mà sụp đổ rất nhiều thứ. Chỉ có một điều bền vững không bao giờ sụp đổ thôi, đó là tình thương của Chúa. Vì vậy, đây cũng là cơ hội cho tín hữu chúng ta làm chứng về tình thương của Thiên Chúa.

* 4. Kiên trì

Cuối bài Tin Mừng này, sau khi nói đến những gian truân thử thách, Chúa Giêsu khuyên chúng ta hãy kiên trì: “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình”.

Kiên trì là gì? Thưa là dù gặp phải gian truân thử thách, ta không lùi bước, không nản lòng, không bỏ cuộc nhưng vẫn luôn giữ vững niềm tin và lý tưởng sống của mình.

Anne Frank là một cô bé Do Thái bị bọn Đức quốc xã bắt giam trong trại tập trung. Nơi đó cô bé đã chứng kiến biết bao cảnh khổ, cô đã thấy rất nhiều người vì quá khổ mà trở thành mất nhân phẩm, mất lý tưởng, mất đức tin. Chính cô cũng khổ và nhiều lần hoang mang tự hỏi: có công lý thật không, có Thiên Chúa không? Nhưng sau những lúc giao động ấy, cô cương quyết giữ vững niềm tin của mình: cô tin rằng dù biểu hiện bên ngoài của con người có gian ác thế nào đi nữa thì trong thâm tâm con người vẫn tốt; dù hiện tại có xấu xa đến đâu đi nữa nhưng cuối cùng sự thiện sẽ chiến thắng sự ác; dù hiện nay xem ra Thiên Chúa vắng mặt, nhưng chính Thiên Chúa là người có tiếng nói cuối cùng. Những suy nghĩ ấy được cô ghi lại trong một quyển nhật ký. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, quyển “Nhật ký Anne Frank” đã được xuất bản, được dịch ra rất nhiều thứ tiếng, và nổi tiếng khắp thế giới.

Điều gì giúp người ta kiên trì? Trước hết đó là xác tín về lẽ phải của mình; thứ hai là gương can đảm chịu đựng của những người khác; và thứ ba, nhưng quan trọng nhất, là đức tin tôn giáo. Gandhi nói: “Người nào tin vào Thiên Chúa thì không bao giờ thất vọng, bởi vì người đó biết rằng cuối cùng thì sự thật sẽ chiến thắng”.

Chúa Giêsu bảo các môn đệ “Anh em đừng sợ”. “Đừng sợ” không có nghĩa là không có cảm giác sợ, mà là không để cho cảm giác ấy đè bẹp mình, nhưng mình phải làm chủ cảm giác ấy và chiến thắng nó. “Anh hùng không phải là người không biết sợ mà là người chiến thắng nỗi sợ” (Solzhenitsyn)

5. Chuyện minh họa

a/ Thời gian

Người kia rất tham việc, không dám lãng phí một phút nào.

Trên đường ra phố, ông dự định xem sẽ mua sắm ở cửa hiệu nào. Trong cửa hiệu, ông dự định nơi ông sẽ đi dạo. Trong lúc đi dạo, ông dự định nơi ông sẽ đến ăn. Trong khi ăn món chính, ông dự định sẽ ăn món tráng miệng gì. Trong khi tráng miệng, ông nhìn bảng danh mục để chọn xe buýt về nhà.

Ông chẳng bao giờ chú ý đến những gì ông đang làm. Ông luôn chuẩn bị cho những sự việc kế tiếp.

Một ngày kia ông phải đối đầu với điều mà ông không chuẩn bị là cái chết. Khi sắp chết, ông kinh ngạc về cuộc đời trống rỗng và vô nghĩa của mình. Ông chẳng bao giờ sống với hiện tại.

b/ Ngã lòng

Nếu bạn cậy vào sức riêng của mình thì chẳng lạ gì bạn sẽ sớm ngã lòng. Kẻ khiêm nhường thực thì không ngã lòng, kẻ ngã lòng không phải là người khiêm nhường thật bởi vì người ấy cậy dựa vào một cái gì đó ngoài Chúa” (J. N. D. “Scripture Truth”)

c/ Kiên trì

Một người đưa tin đến một lâu đài cũ kỹ và anh lấy búa gõ cửa. Không ai trả lời. Anh lại gõ và chỉ có tiếng vang dội lại. Nhưng anh biết có người trong nhà, anh nhìn thấy họ qua cửa sổ. Giận sôi lên, anh cầm búa và lấy hết sức giáng mạnh vào cửa hai ba chục lần.

Một khuôn mặt cau có ngó qua lỗ then cửa và lịch sự hỏi xem người khách muốn vào không.

Vị khách nói như mê sảng: “Này ông, tôi vào được không? Chẳng lẽ ai muốn vào cũng phải gõ như tôi?”.

– Ồ, ông biết đấy: Có nhiều trẻ ở xung quanh đến đây, chúng gõ cửa một vài lần rồi bỏ chạy, nên chúng tôi biết là không cần để ý đến chúng. Nhưng khi nghe ông gõ cửa, tôi thực sự thấy ông muốn vào. Vì thế tôi ra mở cửa.

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, kiên nhẫn chịu đựng thử thách trong tinh thần phó thác, tin tưởng vào Chúa quan phòng, là những việc mà mỗi Kitô hữu cần ghi nhớ và thực hiện trong cuộc sống thường ngày. Luôn vững tin vào Chúa là Cha từ bi nhân hậu, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

1. Hội thánh không ngừng khuyên nhủ con cái mình đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa trung thành / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa luôn xác tín rằng / Chúa luôn trung tín thực hiện những gì người đã hứa ban.

2. Thiên tai / đói khát / bệnh tật / làm khổ biết bao người trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho chúng ta thời tiết thuận hòa / mùa màng bội thu / để mọi người được sống yên ổn / hạnh phúc và an bình.

3. Tất cả mọi sự đều qua đi / không có gì là tồn tại vĩnh viễn ngoài một mình Thiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết ý thức về tính mau qua của mọi thực tại trần gian / để đừng quá bám víu vào danh vọng / địa vị và của cải ở trần gian này.

4. Chúa Giêsu mời gọi người Kitô hữu hãy tích trữ kho tàng trên trời / là nơi không có trộm cắp / không hề bị mối mọt gậm nhấm / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tích trữ kho tàng trên trời bằng những việc lành phúc đức của mình.

Chủ tế: Lạy Chúa, giữa bao dông tố của cuộc sống thường ngày, chúng con thường hay hoang mang dao động và đôi khi tuyệt vọng nữa, vì đức tin của chúng con còn quá yếu kém. Vậy xin Chúa thương ban thêm đức tin cho chúng con. Chúng con cầu xin

VI. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Dù chúng ta đang sống trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng chúng ta vẫn an lòng, vì chúng ta biết có Thiên Chúa là Cha luôn yêu thương và chăm sóc chúng ta. Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với Ngài:

VII. Giải tán

Hôm nay chúng ta đã biết cuộc hành trình dương thế sẽ dẫn chúng ta đến đâu. Vậy chúng ta hãy can đảm tiếp tục cuộc hành trình, với sự đồng hành yêu thương của Chúa.

4. Chờ đợi ngày Chúa đến–Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP 

Hôm nay là tuần lễ áp chót của năm Phụng vụ nên tư tưởng các bài đọc Thánh lễ hôm nay hướng về thời thế mạt và việc Đức Kitô đến lần thứ hai. Qua bài đọc 1, tiên tri Malachia cho biết đối với những kẻ ác thì “Ngày của Chúa” sẽ là ngày phán xét, nhưng đối với người chính trực, đó là ngày cứu chuộc. Còn qua bài đọc 2, thánh Phaolô cho biết có một số tín hữu Thessalonica tin rằng ngày quang lâm của Chúa đã gần kề, nên không chịu làm việc gì cả. Ngài khuyên họ hãy tiếp tục sống và làm việc bình thường, làm ra của mà ăn chứ đừng ăn bám vào người khác. Chính ngài đã làm gương cho họ về điều này.

Trọng tâm của bài đọc hôm nay là Đức Giêsu loan báo việc đền thờ Giêrusalem sẽ bị tàn phá và liên kết với việc tàn phá đền thờ, Đức Giêsu nói về ngày tận thế. Trong khi chờ  đợi “Ngày của Chúa” tức là ngày Chúa đến lần thứ hai, các tín hữu sẽ phải trải qua nhiều gian nan thử thách, phải qua một thời đại bị bách hại. Nhưng đừng sợ, hãy kiên trì vì sự bách hại sẽ là một cơ hội để làm chứng cho Tin Mừng. Chính Chúa sẽ làm cho các tín hữu chiến thắng trong thời kỳ sau cùng với điều kiện họ phải luôn bền đỗ.

Trong khi chờ đợi Ngày của Chúa chúng ta phải  có thái độ nào? Chúng ta phải đặt hết niềm tin tưởng phó thác vào chương trình quan phòng của Chúa rồi sống an nhiên tự tại. Hãy cố gắng làm trọn nhiệm vụ của mình hằng ngày, làm một cách chu đáo. Đồng thời phải dọn mình chết lành, vì mọi sự sẽ phải qua đi, kể cả mạng sống mình, để khỏi phải bồn chồn lo lắng về ngày tận cùng của thế giới và nhất là của đời mình. Ước gì ngày quang lâm của Chúa sẽ là niềm hy vọng và niềm vui cho chúng ta khi chúng ta đang nóng lòng chờ đợi Chúa đến.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Ml 3,19-20a 

Khi trở về Giêrusalem, những người lưu đầy gặp một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, và họ ngạc nhiên  vì không thấy Thiên Chúa thưởng công cho lòng trung tín của họ. Tiên tri Malachia nói với họ về “Ngày của Chúa “: đối với kẻ xấu, ngày của Chúa sẽ là ngày phán xét, nhưng đối với người chính trực, đó là ngày cứu chuộc. Giống như mặt trời, ngày của Chúa sẽ là ánh sáng cho người công chính, nhưng là lửa thiêu hủy những ai quay lưng lại với Người.

+ Bài đọc 2: 2Tx 3,7-12

Nhiều tín hữu trong giáo đoàn Thessalonica nghĩ rằng sắp đến ngày tận thế rồi, nên họ lười biếng không muốn làm gì cả.

Thánh Phaolô khiển trách họ về lối sống đó, và ngài khuyên họ phải tích cực làm việc, không được ăn bám vào người khác. Chính ngài đã làm gương cho họ về việc lao động để làm ra lương thực nuôi sống mình.

+ Bài Tin mừng: Mt 25,14-30

Chúng ta nghe lời tiên báo về sự tàn phá Đền thờ Giêrusalem  và cho biết hoàn cảnh của Giáo hội trong một thời đại thử thách. Tuy Đức Giêsu đưa ra lời tiên tri về Đền thờ bị phá hủy (đã xẩy ra vào năm 70) nhưng chủ yếu giao huấn của Ngài là  nói về ngày sau hết của thế giới và của con người. Đồng thời Ngài cũng trấn an và hứa phù trợ những ai  đặt trọn niềm trông cậy nơi Ngài.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

Chờ đợi ngày Chúa đến

I. NHỮNG LỜI TIÊN BÁO

1. Đền thờ Giêrusalem tráng lệ

Ngày nay đền thờ Giêrusalem không còn vết tích nào, như lời Đức Giêsu đã tiên báo, tuy nhiên, tìm về nguồn gốc chúng ta được biết Đền thờ thứ nhất được vua Salomon xây dựng rất nguy nga đồ sộ (1V 6,11t), nhưng rồi bị vua Nabuchodonosor chiếm và phá hủy vào năm 587. Sau thời lưu đầy, Esdras và Nêhêmia xây đền thờ thứ hai và khánh thành năm 515, nhỏ và kém nguy nga so với đền thờ thứ nhất. Sau đó, đền thờ Giêrusalem còn được tái thiết nhiều lần.

Lời Đức Giêsu nói về đền thờ Giêrusalem do vua Hêrôđê Cả cho xây  cất lại, tân kỳ và khá đồ sộ nguy nga. Hoàn tất trước Chúa giáng sinh 19 năm, nên đến thời Đức Kitô còn rất mới.

Vẻ đẹp nguy nga của Đền thờ còn được sử gia Joseph Flavius (37-95) diễn tả trong cuốn “The Wars of Jews”, cuốn 5, phần 5 như sau: “Từ phía trước, vẻ mặt bên ngoài của đền thờ đã làm kinh ngạc con mắt và trí óc của con người, vì nó được bao phủ toàn bộ bằng những miếng vàng rất nặng, vào lúc mặt trời mọc, nó phản chiếu lại sự huy hoàng cực kỳ chói lọi, làm cho những ai cố gắng bắt buộc mình nhìn thẳng vào nó đều phải quay đi nơi khác, giống như thể họ vừa nhìn vào ngay ánh mặt trời. Nhưng từ ở đàng xa, đền thờ xuất hiện đối với những người lạ, giống như một ngọn núi được bao phủ bằng tuyết, vì đối với những phần không được mạ vàng, chúng lại cực kỳ trắng xóa”.

2. Đền thờ sẽ bị phá hủy.

Lúc đó, tại khuôn viên đền thờ Giêrusalem, có một số người nhìn ngắm và trầm trồ khen ngợi lối kiến trúc và vật liệu xây cất đền thờ, và người ta có cảm tưởng rằng đền thờ này thật kiên cố và sẽ không bao giờ bị phá hủy.

Nhưng ngược lại, đứng trước sự tráng lệ huy hoàng của đền thờ, Đức Giêsu quá xúc động vì Ngài đã nhìn thấy trước sự tàn phá của nó, nên Ngài nói: “Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá”(Lc 21,6).

Thật thế, bốn mươi năm sau khi Đức Giêsu chịu chết vào năm 70 sau dương lịch, vì sự nổi loạn của người Do thái, quân đội Rôma đã bao vây thành Giêrusalem và đền thờ bị phá hủy. Theo nhà chú giải Thánh Kinh William Barclay, sử gia Joseph Flavius đã cho biết một con số tổn thất không thể tưởng tượng nổi: một triệu một trăm ngàn người bị chết trong vòng vây, và chín mươi bảy ngàn người bị bắt mang đi đầy.

3. Ý nghĩa lời tiên báo của Chúa

Nghe Đức Giêsu loan báo như vậy, mọi người kinh hoàng. Họ muốn Chúa cho biết thời gian và dấu chỉ báo trước về ngày tàn phá đền thờ.

Đức Giêsu không trả lời về thời gian và dấu chỉ báo trước đền thờ Giêrusalem bị phá hủy, nhưng Ngài dựa vào lời tiên báo trên đây để nói về ngày tận thế, ngày mà Ngài sẽ trở lại trong vinh quang. Ngài cho biết ngày tận thế chắc chắn sẽ xẩy ra như đền thờ Giêrusalem bị phá hủy vậy.

Như vậy, ngày tận thế có thể được hiểu là ngày sau hết của đời sống mỗi người ở trên trần thế hoặc là ngày tận cùng của thế giới. Nếu hiểu ngày tận thế  là ngày cuối cùng của cuộc sống mỗi người ở trần thế, thì ngày tận thế chính là cái chết của mỗi người, ngày Chúa gọi mỗi người ra khỏi thế gian đến trước tòa thẩm phán.

Khi nào ngày cuối hết của mỗi người hay khi nào ngày cuối hết của thế giới xẩy ra, và xẩy ra thế nào, đối với chúng ta không hẳn là quan trọng. Cái điều quan trọng là  ta sửa soạn cho đến ngày đó. Điều ám chỉ trong Tin Mừng hôm nay là ta phải trả lẽ trước mặt Chúa, và nếu ta khôn ngoan, ta sẽ liệu làm hòa với Chúa khi còn đủ thời giờ trước khi Chúa đến.

II. CHUẨN BỊ CHO “NGÀY CỦA CHÚA”.

“Ngày của Chúa” theo cái nhìn của các tiên tri chính là ngày mà Thiên Chúa ra tay hùng mạnh để giải thoát họ khỏi ách thống trị của ngoại bang. Dần dà qua dòng lịch sử cái nhìn về “Ngày của Chúa”đã được biến đổi. “Ngày của Chúa”  chính là ngày chung cuộc của tất cả thế giới. Vì thế, Ngày của Chúa là ngày xét xử kẻ dữ và ngày ban thưởng cho kẻ lành.

1. Phải chịu đau khổ

Đức Giêsu cho biết ngày tận thế chắc chắn sẽ xẩy ra, nhưng trước ngày đó, mọi người sẽ phải đương đầu với bao đau khổ, bao gian nan thử thách.

Người tín hữu cùng với mọi người là anh em và cũng như họ sẽ phải đối mặt với những thăng trầm và biến động của lịch sử: chiến tranh, nổi loạn, động đất, dịch hạch, đói kém… Và vì họ là môn đệ của Đấng mà chính bản thân cũng bị ngược đãi vì lẽ công chính, thì đến lượt họ cũng phải chịu bắt bớ và ngược đãi thôi: “Người ta sẽ tra tay bắt bớ và ngược đãi các con, nộp cho các hội đường và nhà tù và điệu đến trước mặt vua chúa, quan quyền vì danh Thầy” (Lc 21,12).

2. Nhưng phải bền đỗ: đừng sợ

Số phận của các người theo Chúa là phải trải qua những gian nan thử thách, phải bị ngược đãi, nhưng Đức Giêsu đã khuyên nhủ: “Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con” (Lc 21,19).

Bền đỗ hay kiên trì là gì? Thưa là dù gặp phải gian truân thử thách, ta không lùi bước, không thối chí nản lòng, không bỏ cuộc nhưng vẫn luôn giữ vững niềm tin và lý tưởng sống của mình.

Câu này có ý nghĩa tổng quát, và có giá trị trong mọi thời, chứ không có ý chỉ về ngày tận thế. Điều này muốn nói: trong bất cứ mọi cơn thử thách nào, một khi người Kitô hữu biết bền đỗ đến cùng sẽ được bảo đảm về phần rỗi của mình, sự bền đỗ này là sự kiên tâm bền chí giúp người Kitô hữu can đảm tin tưởng đương đầu với mọi thử thách của cuộc sống thường nhật, cũng như các hoàn cảnh đặc biệt của thời bách hại. Sự bền đỗ này chắc chắn giúp ta được sống và được vào Nước Trời (x. Cv 14,22).

Truyện: Phải kiên trì

Một người đưa tin đến một lâu đài cũ kỹ và anh lấy búa gõ cửa. Không ai trả lời. Anh lại gõ và chỉ có tiếng vang dội lại. Nhưng anh biết có người trong nhà, anh nhìn thấy họ qua cửa sổ. Giận sôi lên, anh cầm búa và lấy hết sức giáng mạnh vào cửa hai ba chục lần.

Một khuôn mặt cau có ngó qua lỗ then cửa và lịch sự hỏi xem người khách có muốn vào không.

Vị khách nói như mê sảng: “Này ông, tôi vào được không? Chẳng lẽ ai muốn vào cũng phải gõ như tôi”?

Người trong nhà trả lời: “Ồ, ông biết đấy: có nhiều trẻ ở chung quanh đến đây, chúng gõ cửa một vài lần rồi bỏ chạy, nên chúng tôi biết là  không cần để ý đến chúng. Nhưng khi nghe ông gõ cửa, tôi thực sự thấy ông muốn vào. Vì thế tôi ra mở cửa.

3. Đề phòng tiên tri giả.

Đức Giêsu còn cho biết trong thời gian chờ đợi ngày chung cuộc của thế giới sẽ có nhiều tiên tri giả, mạo danh Chúa để mê hoặc tín hữu, hay loan báo thời gian đã đến gần để làm mất niềm hy vọng nơi những kẻ tin.

Thời trước Đức Giêsu đã xuất hiện nhiều tiên tri giả. Đây là trường hợp cụ thể: tiên tri Giêrêmia nói thật với vua Sedecias chớ liên minh với Ai cập: “Nhưng các tiên tri giả vô đạo, ngoại tình, dối trá, chúng củng cố lũ ác ôn của nhà vua  bằng những lời lừa gạt rằng: “Thành Giêrusalem sẽ được bình anh vô sự, không có tai họa nào cả”. Chẳng bao lâu, quân của vua Nabuchodonosor kéo đến phá tan tành vì liên minh với Ai cập chống lại Babylon. Và tất cả dân chúng bị bắt đi đầy sang Babylon.

Người ta thường nói: “Nhất ngôn hưng bang, nhất ngôn tán bang: một lời nói làm cho đất nước hưng thịnh, một lời nói có sức tàn phá đất nước.

Trước sức tàn phá của lời nói lừa gạt, Đức Giêsu dạy các môn đệ và chúng ta  phải hết sức đề phòng những tiên tri giả, những lời dụ dỗ đường mật, những lời mỵ dân, những lời nịnh bợ, lôi cuốn chúng ta vào mê hồn trận, khiến chúng ta kiêu ngạo, lầm lạc nâng mình lên, sẽ bị ngã nhào: “Các con hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính Ta đây và thời gian đã gần đến”(Lc 21,8).

Ngày nay, trong lãnh vực tôi giáo, người ta không còn ngây thơ nghĩ rằng niềm tin tôn giáo luôn luôn là một động lực thúc đẩy con người sống cho tình yêu và hòa bình nữa. Chúng ta thấy ngày nay đã có nhiều giáo phải đi ngược lại những điều răn của Thiên Chúa. Chúng ta đã thấy tôn giáo phát sinh ra  những con người quá khích, những tên khủng bố. Họ đã nhân danh Thiên Chúa để giết người, càng giết nhiều người càng làm vui lòng Ngài! Ngay cả Kitô giáo cũng có những người quá khích như thế. Những tiên tri giả đã xuất hiện rất nhaiều.

Truyện: Tự sát tập thể

Ngày 26/03/1997 báo Chicago tribune số ra ngày 28/03/1997 đưa ra một bản tóm lược các vụ tự sát tập thể do các giáo phải ra giảng về ngày tận thế, và những người xưng minh là Đấng Thiên Sai – Messiah gây ra. Chúng ta đưa ra mấy trường hợp.

Ngày 18/01/1978, tại Jonestowm, Guyana, do sự thúc đẩy của Jim Jones, tự xưng là Đấng Thiên Sai, 913 người đã tự sát hay bị cưỡng ép uống độc dược chết trong rừng. Đây là một giáo phái Kitô hữu có tên People’s Temple, rao giảng về ngày tận thế. Sau đó là hàng loạt các vụ tự sát tập thể của các giáo phái cực  đoan khác nhau xuất hiện.

Ngày 05/10/1994, chính quyền Thụy sĩ đã tìm thấy xác chết của 48 người có liên hệ với Order of the Solar Temple – Tu hột đền thờ mặt trời – trong một ngôi nhà ở nông trại và trong 3 ngôi nhà gỗ, tất cả đều bị đốt cháy. Ngày 23/12/1995, 16 thành viên khác của Order of the Solar bị đốt cháy trong một ngôi nhà ở Grenoble, trong vùng núi French Alps. Tất cả các xác chết được xếp theo hình ngôi sao nằm dưới nền nhà. Ngày 22/03/1997, thêm 5 thành viên nữa của Order tự vẫn chết ở St. Casimir, Québec, Canada. Các tín đồ của giáo phái này tin rằng  việc tự tử sẽ đưa họ đến một thế giới mới trên một hành tinh khác gọi là Sirius.

4. Hãy củng cố đức tin.

Trước những bách hại, trước những gian nan thử thách, thậm chí cả chia rẽ trong gia đình, Đức Giêsu khuyên họ: “Đừng sợ”. Hãy tin tưởng trong phó thác và bền đỗ trong đức tin, vì Thiên Chúa luôn quan phòng che chở cho những ai trông cậy nơi Ngài.

Đối với Đức Giêsu, bách hại và thử thách không phải là điều đáng sợ mà là một cơ may, để người tín hữu có dịp “làm chứng”, để cho kẻ bách hại hiểu biết đức tin của người tín hữu chứng tỏ lòng tin vào Thiên Chúa trong cơn thử thách.

Quả thật, Thiên Chúa muốn niềm tin phải là một hành động tín nhiệm sâu xa nơi Ngài, một biểu lộ tín thác tuyệt đối vào Ngài, cho dù phải thử thách lớn lao nhất, kể cả sự chết. Đức hồng y Fulton Sheen có viết: “Để trắc nghiệm đức tin của ta, cần phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không phải lúc thuận buồm xuôi gió”.

Hugues Cousin có thể kết luận: “Người ta đã hiểu được rằng Luca viết chương 21 này không nhằm mục đích mô tả trước cho độc giả biết diễn biến của lịch sử, cho bằng muốn thổi cho họ một luồng sinh khí, để họ sống hiên ngang giữa những gian truân, thử thác, nhắc nhở cho họ biết rằng thời gian hiện tại có một giá trị tích cực. Chính ở  đây và lúc này mà Thiên Chúa đang vẫy tay mời gọi ta… Một niềm hy vọng như thế không làm giảm thiểu tầm quan trọng của những trách vụ trần thế, nhưng đúng hơn còn giúp chu toàn những trách vụ ấy nhờ vào những động cơ mới”(Fiches dominicales C, tr 360).

III. CÔNG VIỆC CỦA CHÚNG TA.

Những biến cố Đức Giêsu đã cảnh giác trong bài Tin Mừng hôm nay đang dồn dập xẩy ra. Những biến cố ấy đã giúp chúng ta chuẩn bị cho ngày sau hết của đời mình cũng như của thế giới chưa?  Chúng ta đã chuẩn bị trong tin tưởng và bình an chưa? Chúng ta có thể làm hai việc sau đây

1. Chu toàn bổn phận hằng ngày 

Trong bài đọc 2 hôm nay, chúng ta được biết khi ấy tại giáo đoàn Thessalonica có nhiều tín hữu tưởng rằng sắp đến ngày thế mạt, ngày Đức Giêsu Kitô trở lại. Họ còn bị nhiều người tự xưng là tiên tri đến để tuyên bố nhiều điều làm xáo trộn đời sống thường nhật của các tín hữu, khiến cho đời sống cộng đoàn bị xáo trộn, nhiều người bỏ bê việc bổn phận của mình với lý do “bận lo việc phần hồn”.

Trước tình hình đó, thánh Phaolô đã phải lên tiếng cảnh cáo họ: “Nếu ai không muốn làm việc, thì đừng có ăn”. Thánh nhân nói thẳng với họ rằng: “Chúng tôi nghe tin có một số người trong anh em sống nhàn cư, chẳng làm việc gì hết, nhưng lại dây vào mọi việc. Đối với những hạng người ấy, chúng tôi mời gọi và khuyến cáo họ trong Chúa Giêsu Kitô, để họ yên tâm làm việc và dùng lương  thực mình tìm ra”.

Chúng ta hãy kiên trì thực hiện các việc bổn phận hằng ngày từ việc nhỏ đến việc lớn cách chu đáo. Chúng ta phải sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thử thách, trở ngại theo những đòi hỏi của Tin Mừng. Thậm chí, có khi vì sống theo Tin Mừng, chúng ta có bị bách hại, bị cô lập, bị khinh dể đi chăng nữa, thì ngay cả những lúc đó, Đức Giêsu vẫn mời gọi chúng ta: “Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con”  Chúng ta cứ bền đỗ và tin  tưởng, vì Thiên Chúa là Cha hằng yêu thương không bao giờ bỏ mặc chúng ta  là con cái của Ngài. Nếu chúng ta dám đặt cuộc đời chúng ta trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa, Ngài sẽ chăm sóc cho chúng ta.

2. Dọn mình chết lành

Chúng ta đang ở vào những ngày cuối năm Phụng vụ để chuẩn bị năm phụng vụ mới sẽ diễn ra vào ngày Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng sắp tới. Nói tới giờ kết thúc cuộc đời, có lẽ là điều thích hợp trong lúc này, bởi vì mọi sự sẽ qua đi như lời Đức Kitô đã nói và cuộc đời của con người cũng sẽ có ngày kết thúc.

Nói đến ngày tận thế, xem ra là vấn đề mơ hồ và xa xôi, đưa đến bi quan, nhưng lại là điều có thật. Tuy nhiên, khi nói tới ngày kết thúc cuộc đời mình thì đó là điều chắc chắn và thiết thân. Mỗi người phải lo cho số phận mình, không ai có thể thay thế được.

Nhưng có nhiều người cứ sống như không bao giơ chết, họ sống không mục đích, họ sống cho qua ngày như trên mộ bia của anh chàng Bopp có viết câu: “Đây là nơi yên nghỉ của một người không biết tại sao mình sống”.

Sống mà không biết tại sao mình sống, sống để làm gì và sau này sẽ ra sao, cho nên người ta chỉ biết sống để hưởng thụ, càng nhiều càng tốt, không cần biết tương lai sẽ ra sao.

Truyện: Sắm sẵn hành trang chưa?

Một quan lớn kia có nuôi một tên hề để hầu ha.. Quan trao cho nó một cây gậy, bảo nó cứ giữ  cho đến khi có ai điên rồ hơn nó thì hãy cho.

Cách vài hôm sau, quan thọ bệnh nguy kịch. Hề ta vào thăm, hỏi rằng:

– Khi qua đời rồi, quan sẽ đi đâu?

– Ta đi xa lắm.

– Vậy bao giờ quan về?  Một tháng nữa chăng?

– Không.

– Một năm à?

– Cũng không.

– Vậy thì bao giờ quan mới về?

– Chẳng bao giờ về được.

– Thế thì trong cuộc man du đó quan đã sắm sẵn hành trang gì chưa?

– Chứa sắm gì hết.

– Đi xa mà chẳng có hành trang gì, quan thật điên hơn tôi. Vậy xin nhận lấy cây gậy này. (Ms Lê văn Thái, Những tia sáng 2, tr 159)

Giờ đây, trong tâm tình chờ đợi ngày trở lại của Đức Kitô, chớ gì từng người trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta biết mau mắn thực hiện ngay những gì mà mình có thể làm được. Chúng ta hãy mau chóng đến với bí tích Hòa giải, để giao hào với Chúa và anh chị em. Chúng ta hãy mở cửa lòng mình để chia sẻ cho anh chị em mình một chút tình thương. Chúng ta hãy dành thời giờ để lắng nghe và chia sẻ  với những người thân yêu trong gia đình: cha mẹ với con cái, anh chị em với nhau.

Trong thời gian chờ đợi “Ngày của Chúa”, chúng ta hãy cố gắng chu toàn bổn phận hằng  ngày cách tốt đẹp hơn. Khi Chúa đến, chúng ta sẽ  không phải bồn chồn lo lắng, trái lại sẽ vui vẻ đón Chúa trong niềm tin tưởng và chờ đợi Chúa đưa chúng ta vào cõi vĩnh hằng hưởng hạnh phúc đời đời.

5. Trung thành và bình an–Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chu kỳ Năm Phụng vụ mở ra với ngày tháng dần trôi đang từ từ khép lại. Chúng ta đang ở Chúa nhật áp chót của năm, cũng như Chúa nhật cuối cùng của Năm Thánh Lòng Thương Xót. Nhưng tâm điểm vẫn là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, chịu chết và sống lại, lên trời và sẽ trở lại trong vinh quang như lời Người đã phán. Sống đời kitô hữu là sống niềm tin và hy vọng vào Chúa, nhất là trung thành với Đức tin đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội, chúng ta sẽ được bình an trong ngày Chúa đến.

Chúa nhật thứ XXXIII thường niên C làm chúng ta nhớ lại, khởi đầu Năm Phụng Vụ, Giáo hội đã kêu gọi con cái mình chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Kitô đến lần thứ nhất mang ơn cứu độ là chính Người đến cho nhân loại. Chúa nhật hôm nay, Giáo hội lấy lại lời Chúa Giêsu báo trước về ngày giờ Chúa đến lần thứ hai, giúp chúng ta nghĩ về những thực tại mai hậu của con người là: sự chết, sự phán xét, thiên đàng và luyện ngục. Nhưng trước khi những việc ấy xảy ra thì sẽ có các tiên tri giả, nên lời Chúa mời gọi chúng ta cảnh giác và sống trong tỉnh thức cũng như hy vọng, nhất là bền đỗ đến cùng trong niềm tin cậy vào Chúa (x. Lc 21, 5–19).

Nghe đoạn Tin Mừng Luca (21, 5–19) hôm nay với những lời tiên báo của Chúa Giêsu như: Đền thờ Giêrusalem bị phá hủy, xuất hiện các tiên tri giả, các dân nước chống lại nhau, nạn ôn dịch xảy đến… Dĩ nhiên người ta hỏi Chúa: Khi nào thì điều ấy xảy ra? Ðâu là những dấu hiệu? Nhưng Chúa Giêsu chuyển sự chú ý của họ đối với những khía cạnh cụ thể bao giờ xảy ra, sẽ như thế nào, sang những vấn đề đích thực. Có hai vấn đề. Thứ nhất: là đừng để mình bị những tiên tri giả đánh lừa, và đừng để mình bị tê liệt vì sợ hãi. Thứ hai: sống thời gian chờ đợi như thời gian làm chứng và kiên trì. Và chúng ta đang ở trong thời gian chờ đợi Chúa đến.

Lời cảnh tỉnh xưa của Chúa Giêsu vẫn luôn có tính chất thời sự, kể cả đối với chúng ta là những người đang sống trong thế kỷ 21. Chúng ta cần phải phân định, đâu là tinh thần của Chúa và đâu là tinh thần của thần dữ. Ðúng vậy, ngày nay cũng có những cứu thế giả, toan tính thay thế Chúa Giêsu: thủ lãnh của thế gian này muốn thu hút về mình tâm trí của người khác, nhất là của những người trẻ. Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta: “Các con đừng đi theo chúng!”.

Trong thực tế, những gì mà Chúa Giêsu tiên báo liên quan đến ngày tận thế đã, đang và chắc chắn sẽ xảy ra. Chẳng hạn gần với thời của Người là Đền Thánh Giêrusalem đã bị phá tan bình địa vào năm 70 sau đó như Người tuyên bố. Các biến cố khác như chiến tranh, giặc giã, đói khát, động đất, chết chóc, nước này nổi lên chống đối nước kia… đang không ngừng ập đến trong nhân loại từ nơi này đến nơi khác dưới mọi hình thức, rõ ràng nhất là sự tận cùng đời người của mỗi chúng ta. Hằng ngày có không biết bao nhiêu nhân mạng tan biến đi thành tro bụi trên trái đất này. Như thế, điều Chúa Giêsu tiên báo về ngày tận thế không phải là sự dọa nạt, nhưng thức tỉnh chúng ta, hướng chúng ta về cuộc sống an bình, hạnh phúc trong sự đợi chờ của niềm tin và lòng cậy trông vững vàng vào sự quan phòng và quyền năng Thiên Chúa.

Chúa nhắc nhở rằng: “Dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất” (Lc 21,18). Chúng ta hoàn toàn ở trong tay Thiên Chúa! Những nghịch cảnh chúng ta gặp vì đức tin và vì lòng gắn bó với Tin Mừng là những cơ hội để làm chứng tá; những nghịch cảnh ấy không làm chúng ta xa Chúa, nhưng thúc đẩy chúng ta càng phó thác vào Chúa,sức mạnh của Thánh Linh và ơn thánh của Ngai.

Lời Chúa nói đây: “Các con cứ bền đỗ đến cùng, các con sẽ giữ được linh hồn các con” (Lc 21,19). Những lời trên của Chúa Giêsu chứa chan niềm hy vọng. Lời ấy như tiếng mời gọi chúng ta sống hy vọng và kiên nhẫn, chờ đợi những thành quả của ơn cứu độ, tín thác nơi ý nghĩa sâu xa của cuộc sống và lịch sử: những thử thách và khó khăn là điều thuộc về một kế hoạch rộng lớn hơn; Chúa là chủ tể lịch sử, ngài hướng dẫn mọi sự đến chỗ viên mãn. Dầu có những xáo trộn và tai ương làm chao đảo thế giới, nhưng kế hoạch từ nhân và thương xót của Thiên Chúa sẽ viên mãn! Và đây là niềm hy vọng của chúng ta: tiến bước như thế trên con đường này, trong ý định của Thiên Chúa sẽ được hoàn thành. Ðó là niềm hy vọng của chúng ta.

Lạy Chúa, chúng con tin cậy vào Chúa, Lời Chúa là ngọn đèn soi cho chúng con bước, là Ánh Sáng chỉ đường cho chúng con đi, Lời ấy tồn tại mãi cho dù mọi sự qua đi.

6. Bền đỗ sẽ được ơn cứu rỗi–Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm, được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý với các cột và đồ gỗ chạm khắc, rèm thêu, sơn sơn thiếp vàng.

Chúng ta cần phân biệt 3 giai đoạn khác nhau việc xây dựng đền thờ: Đền thờ do vua Salomon xây cất đã bị quân Chaldéa phá cùng với thành Giêrusalem năm 587. Sau đó được vua Zorobabel khởi công xây lại đền thờ (năm -525), với sự cổ võ của tiên tri Zacharia và Agiê, nhưng quân Rôma đô hộ làm hư hại đền thờ. Vua Herodê cả sửa lại vào năm 17, vào thời Đức Giêsu đang trên đường hoàn thành và sẽ kết thúc nào năm 64 sau Công nguyên.

Năm 70 sau CN, vị tướng La mã Titus đem đại quân vây thành. Ông ra lệnh không được đốt phá. Một quân nhân như bị thúc đẩy bởi một sức kỳ lạ đã cầm bó đuốc đang cháy ném vào bên trong Đền thờ, lửa bốc cháy nhanh, không chữa được. Sau khi đám cháy tàn lụi, Titus ra lệnh phá huỷ thành và Đền thờ.

Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Đức Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ, nhưng Ngài lại nói: “Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá”. Đối với người Do Thái, những từ này là báng bổ: Tiên Tri Giêrêmia đã suýt chết vì điều đó. Những lời trên sẽ là động lực khiến họ chống lại Ngài.

Nói thế là Đức Giêsu đã tách biệt chúng ta ra khỏi sự mơ mộng về quyền năng tối thượng và sự bất tử trên trái đất này, đưa chúng ta trở lại với thực tế của một thế giới mà tất cả là hư không.

Những người nghe Đức Giêsu nói tưởng rằng Thầy nói về ngày tận thế, nên hỏi dồn và bắt Ngài mạc khải cho biết thời gian và dấu chỉ của ngày ấy! Biết ý họ, Ngài đã không đáp ứng yêu cầu, nhưng cảnh báo, điều đó không thuộc quyền của Ngài: chỉ có Chúa Cha là Đấng biết ngày và giờ chung cuộc của thế giới. Đức Giêsu nói với họ “ Các ngươi hãy coi chừng đừng để ai lừa gạt các ngươi”. Vì sẽ có nhiều kẻ đội danh Ta mà nói rằng Đức Kitô, chính là Ta! Và họ sẽ lừa gạt được nhiều người. Các ngươi sẽ nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã. Coi chừng! Chớ khiếp sợ! Vì là sự phải xảy đến, nhưng chưa phải là cùng tận. Vì dân này sẽ dấy lên chống dân kia, nước này chống nước nọ. Và đó đây sẽ có đói kém và động đất.

Mọi sự ấy là khởi điểm của đau cồn chuyển cữ” (Mt 24, 4-8). Bởi vì cuộc chiến thực sự không phải là “ quốc gia chống lại quốc gia, và vương quốc chống lại vương quốc “, nhưng là: vì “ Danh Thầy” họ sẽ trao nộp các con.

Trở lại sách Công vụ, Thánh Luca gợi lên những cuộc bách hại các môn đệ Đức Kitô phải chịu. Nếu họ không trốn tránh và lún sâu vào tuyệt vọng, là vì Chúa đã cảnh báo trước về những gì đang chờ đợi họ. Tất cả những thảm kịch đó đổi mới người môn đệ chân chính, những cuộc bách hại phải được chọn như là “ cơ hội để làm chứng “ cho Đấng đã sống lại vinh quang, chắc chắn đã cứu chúng ta khỏi sự sợ hãi cái chết.

Khi thử thách xảy đến với Giáo hội, Thiên Chúa đích thân đến cứu giúp các nhân chứng của Ngài: “ Chính Thầy sẽ khơi dậy trong anh em những lời cần phải nói cùng với sự không ngoan khiến cho đối phương không thể chống lại và phản biện được anh em” (x. Mt 10, 17-22). Thiên Chúa không thay đổi tiến trình của các sự kiện mà không xâm lấn vào trách nhiệm thuộc phương diện con người; người Kitô hữu có những dữ kiện sống động để chứng tỏ rằng sự sống của họ ở nơi Thiên Chúa, chứ không nằm trong tay của người đời.

Sử gia người Rôma Tacitus đã viết rằng các Kitô hữu đã trở thành “ sự ghét bỏ của nhân loại! “ Điều ấy đã không ngăn cản họ làm chứng cho đức tin, Tertullian đã viết: “ Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các Kitô hữu.”

Chúa chúng ta rất rõ ràng: “Nếu họ bắt bớ Thầy, họ sẽ bắt bớ các con” (x. Ga 15,18-21). Chúng ta đừng quên rằng thế kỷ 20 đã có nhiều vị tử đạo hơn hai mươi thế kỷ trước của Kitô giáo. Những chứng nhân của Đức Giêsu không sống trên mặt đất, phi thời gian, lời giảng của Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta quảng đại phục vụ việc rao giảng Tin Mừng, theo Chúa Kitô, và theo con đường Ngài đã mở ra trước mắt chúng ta. Đường hẹp của Thập Giá mỗi ngày trên trái đất này. Chúng ta có thể trở thành những người biết biện phân, và thành các tiên tri đầy khôn ngoan của cây Thập giá, để có thể tố cáo những sợ hãi gò bó cằn cỗi, hướng tới anh em chúng ta, sống đời sống thực tế và chiến đấu. “Đây sẽ đến ngày bừng cháy lên như lò lửa” (Bài đọc 1).

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết được những dấu chỉ của Nước Trời, để chúng con can đảm làm chứng cho Chúa mà không sợ bị trả thù. Vì như lời Chúa phán: “ những kẻ kính sợ thánh danh Ta, sẽ được Mặt Trời công chính mọc lên soi sáng, mang theo sự cứu chữa trong cánh Người “. Xin giúp chúng con bền đỗ đến cùng để chúng con được ơn cứu rỗi. Amen.

7. Chúa nhật 33 thường niên năm C–gxkhiettam.net

Suy niệm:

Mỗi người chúng ta sẽ có ngày phải chết, thân xác sẽ rã tan, còn linh hồn thì tùy mỗi người khi sống ở đời đi hướng nào thì sẽ đến tận cùng hướng đó. Tức là ai đã chọn Thiên Chúa thì sẽ về cùng Thiên Chúa, hưởng vinh quang hạnh phúc đời đời; người không chọn Thiên Chúa tất sẽ không biết đi về đâu. Nên dù không có hỏa ngục thì nguyên một việc không có đích để về cũng là hỏa ngục cho họ, như đứa con bụi đời, khổ đau triền miên.

Thế giới hữu hình cũng thế, vì là vật chất, tất nhiên sẽ xuống cấp và tan biến, như những tinh tú chết. Sẽ không có sự sống thể lý nào tồn tại. Như Chúa Giêsu nói với các môn đệ về đền thánh Giêrusalem: Những gì anh em đang chiêm ngưỡng sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn hòn đá nào trên hòn đá nào.

Nhưng vì lòng khoan dung nhân hậu của Thiên Chúa, Ngài sẽ cho nhiều dấu chỉ, nhiều điềm tiên báo, nhiều tai ương đi tiên phong trước khi tận thế sẽ xảy đến, để người ta nếu đã không vì kính mến Thiên Chúa và không vì chính hạnh phúc đời đời của mình mà sống tiết độ và tích đức lập công, thì ít ra cũng vì sợ hãi mà sám hối và sửa sai, để kịp nhận ra chỉ có Thiên Chúa đáng kính và là cùng đích cho đời ta.

Thiên Chúa luôn luôn là tình thương bao la ấp ủ mọi người. Thiên Chúa tạo mọi cơ hội và mọi phương thế cho người ta nhìn ra Ngài là Cha của mọi người, để nhờ được tự do tìm và kính mến Thiên Chúa, người ta cảm thấy hạnh phúc hơn.

Nhưng khi người ta từ chối mọi cơ hội để nhận ra tình thương của Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng không bỏ mặc người ta mất hạnh phúc đời đời. Chúa sẽ có những phương pháp làm cho người ta phải nhìn ra quyền năng và uy quyền của Thiên Chúa, để lần cuối cùng đó, nếu ai chối bỏ Thiên Chúa thì không còn cơ hội nào khác.

Vì người ta chỉ mất hạnh phúc được làm con cái Thiên Chúa khi người ta cố tình không tin nhận và kính mến Thiên Chúa.

Nếu tất cả những thiên tai địa họa như sóng thần ở Đông Nam Á năm 2004 hay bão lụt ở Hoa Kỳ tháng 8 năm 2005, như bão số 1 (bão ChanChu) năm 2006, hoặc các tai nạn do người ta gây ra chỉ là những điềm tiên báo tận thế để cho người ta biết hối cải, sửa sai… chứ chưa là tận thế. Tận thế kinh khủng hơn nhiều và tận thế là thời giờ sau cùng của dương gian, sau đó thì mọi sự sống thể lý sẽ chấm dứt trên mặt đất.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con được kiên vững trong đức tin để được luôn sống trong tình Chúa yêu, xin cho chúng con hiểu và tin vào tình thương vô biên của Thiên Chúa và được luôn luôn sẵn sàng đáp lại.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, nhiều người mải mê hưởng thụ vật chất mà quên sự sống siêu nhiên. Xin Chúa thương thức tỉnh họ và mỗi người chúng con. Lạy Chúa, mỗi người chúng con chỉ có một cuộc sống và một lần chết. Xin cho chúng con luôn sống đẹp lòng Chúa và được chết trong tay Chúa. Amen.

8. Tận thế

Bất cứ cái gì có khởi đầu thì cũng có kết thúc. Vũ trụ đã có một giây phút khởi đầu thì tất nhiên cũng sẽ có một ngày kết thúc. Nhờ phương pháp Radio Activity mà người ta biết được gần chắc chắn sự xuất hiện của mỗi vật. Bất cứ vật nào cũng phóng ra một thứ ánh sáng gọi là phóng xạ. Chất phóng xạ này với thời gian sẽ dần dần biến thành một lượng chì. Người ta đo phóng xạ, biết được số lượng chì tăng lên mà định được thời gian xuất hiện. Riêng với trái đất, các nhà khoa học đã tính ra có chừng khoảng 4 đến 6 tỷ năm rồi.

Điều chắc chắn là Kinh Thánh đã nói đến việc Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ từ hư không, nghĩa là bởi không mà dựng nên cho có. Và như vậy, vũ trụ cũng sẽ có một điểm tận cùng nữa. Thực thế nhìn vào vũ trụ chúng ta thấy các năng lượng đang cạn dần. Ánh sáng mặt trời cũng đang giảm đi. Bao nhiêu nguồn năng lượng quăng mỏ cũng trở thành kham hiếm. Không khí chúng ta thở cũng đang bị ô nhiễm bởi khói động cơ. Các dòng nước chúng ta uống cũng bị những chất phế thải làm cho trở nên bẩn thỉu. Còn về phương diện luân lý, dường như con người mỗi ngày một sa đoạ và băng hoại. Vũ trụ đang tàn héo. Những gì đáng yêu, đáng yêu thì đang trở thành kham hiếm. Thế giới cần phải được tái tạo và đổi mới.

Đây không những là niềm hy vọng của chúng ta mà còn là niềm hy vọng của muôn vật nữa. Thật ra trước khi tổ tông chưa phạm tội, đất đai là bạn đường của họ. Nhưng từ khi bất tuân lệnh Chúa, đất đai trở nên kẻ thù, và trổ sinh gai góc. Khi con người phạm tội, trái đất nơi con người cư ngụ cũng bị xấu lây. Nó không còn là nơi đem lại hạnh phúc cho con người.

Chúng ta nên nhớ: Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài trong tình trạng tốt lành nguyên tuyền. Những lời chúc dữ đã giáng xuống chỉ vì loài người chúng ta. Cho nên khi loài người được cứu độ, trái đất cũng được chúc phúc. Vì vậy Công đồng đã nói: Toàn thể vũ trụ cùng với loài người đạt tới sự viên mãn trong Đức Kitô vì vũ trụ liên kết mật thiết với con người và nhờ con người đạt tới cùng đích của nó. Và như vậy chúng ta có thể nói: Như tội của Adong đã thay đổi vũ trụ thế nào thì vinh quang của Đức Kitô sẽ canh tân nó. Ngày tận cùng vũ trụ đối với Đức Kitô sẽ là ngày quang lâm vinh hiển, ngày phán xét và hoàn tất công việc tạo dựng, đối với nhân loại, đó là ngày vinh quang phục sinh, còn đối với tạo vật, đó là ngày canh tân và đổi mới.

Và như vậy chương trình tạo dựng sẽ trở về điểm nguyên thuỷ của nó là chính Thiên Chúa.

9. Ngày cuối cùng

Julianô là một vị hoàng đế Rôma. Ông lên ngôi vua vào năm 360. Ông là người rất ghét bỏ Kitô giáo, nên đã khởi xướng một phong trào bắt bớ và cấm cách. Ông lấy nhà thờ làm chùa miếu. Cấm chỉ việc rao giảng Tin Mừng, giết hại các tín hữu. Ông muốn làm cho lời tiên báo của Chúa Giêsu về đền thờ Giêrusalem là sai là không đúng sự thật. Trong Phúc Âm Chúa Giêsu đã bảo: Sẽ tới một ngày không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào. Mặc dù điều này đã xảy ra vào năm 70 khi tướng Titus đem quân vây hãm Giêrusalem. Thế nhưng ông vẫn ra lệnh xây lại một đền thờ để dâng kính các thần minh ngay tại địa điểm của đền thờ Giêrusalem. Theo các sử gia cho biết thì khi đào bới để đặt nền móng cho ngôi đền thờ mới này, những người thợ đã kinh hoàng và sợ hãi vì một sức nóng bốc lên từ lòng đất khiến họ không thể nào tiếp tục công việc.

Sự kiện này nói lên một sự thật đã bị quên lãng đó là Chúa Giêsu đã tiên báo và những lời tiên báo của Ngài đã ứng nghiệm. Chẳng hạn Ngài tiên báo về những đau khổ, sự chết, sống lại, lên trời của Ngài cũng như việc Chúa Thánh Thần hiện xuống. Những lời tiên báo này đã ứng nghiệm từng chi tiết. Ngài cũng đã nói trước về sự phản bội của Giuđa, về việc Phêrô trốn chạy. Tiếp đến, Ngài còn tiên báo về những biến cố lịch sử mà trí khôn loài người không thể nào thấy trước, chẳng hạn như về sự tàn phá Giêrusalem. Và điều này đã xảy ra đúng như lời Ngài đã nói. Chúa Giêsu cũng đã tiên báo về việc Giáo Hội được phát triển trên khắp thế giới, cũng như bị bách hại nhưng sẽ mãi mãi trường tồn. Và hai ngàn năm lịch sử đã chứng mình điều ấy.

Từ những sự kiện kể trên, chúng ta đi tới một kết luận như sau: Với những lời tiên báo đã được ứng nghiệm, chúng ta có thể tin chắc chắn rằng lời tiên báo của đoạn Tin Mừng hôm nay cũng sẽ được thực hiện, đó là thế giới vật chất này sẽ có ngày tận cùng. Lát nữa đây trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: Người sẽ trở lại trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Nước Người sẽ không bao giờ cùng. Và ngay sau khi truyền phép, chúng ta cũng tuyên xưng mầu nhiệm cao cả ấy: Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến.

Vậy chúng ta phải làm gì để chuẩn bị không phải chỉ cho ngày cuối cùng của trời và đất, nhưng còn cho ngày cuối cùng của cuộc đời chúng ta, trong đó chúng ta sẽ được gặp gỡ với Chúa.

10. Giêrusalem

Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay Chúa Giêsu đã tiên báo về sự tàn phá đền thờ Giêrusalem, cũng như về ngày tận cùng của vũ trụ vật chất.

Trước ngày trọng đại ấy sẽ có những biến cố xảy ra: nào là các tiên tri giả xuất hiện, nào là chiến tranh, động đất, bệnh tật và đói kém, nào là bắt bớ và cấm cách cho những người môn đệ của Chúa. Tuy nhiên điều làm cho chúng ta tò mò và băn khoăn hơn cả đó là bao giờ thì ngày trọng đại ấy sẽ đến?

Đứng trước câu hỏi này Chúa Giêsu đã không trả lời, vì đó là một bí mật, một mầu nhiệm trong quyền năng của Thiên Chúa. Thế nhưng chúng ta thường phản ứng ra sao, chúng ta thường sống như thế nào trước vấn đề này? Trải qua dòng lịch sử chúng ta có thể ghi nhận được ba loại phản ứng, ba kiểu sống khác nhau.

Kiểu sống thứ nhất của những người cho rằng đó chỉ là một câu chuyện viển vông, bịa đặt. Họ sống như là không phải chết bao giờ, và vũ trụ này sẽ tồn tại mãi mãi. Họ bình thản lặn ngụp trong tội lỗi và thoả sức thực hiện những mưu đồ gian tham của mình, để rồi cuối cùng, bừng con mắt dậy thấy mình tay không, họ sẽ mất cả chỉ lẫn chài, cả vốn lẫn lãi, cả đời này lẫn đời sau.

Kiểu sống thứ hai của những người cho rằng ngày tận thế sắp đến nơi rồi, và họ trở thành như tê liệt, không còn thiết tha gì đối với cuộc sống hôm nay. Việc quan trọng đối với họ đó là chờ đợi ngày Chúa sẽ đến. Đây cũng là thái độ của một số các tín hữu sơ khai, làm cho họ trở thành bi quan và chán nản.

Kiểu sống thứ ba phải là kiểu sống của chúng ta. Vậy thì kiểu sống ấy như thế nào? Trước hết chúng ta xác tín rằng: Bản thân chúng ta cũng như vũ trụ vật chất này, đã có một khởi đầu thì cũng sẽ có một kết thúc. Bao giờ thì kết thúc ấy sẽ xảy ra, thiết tưởng chúng ta không cần biết đến, điều quan trọng trong giây phút hiện tại đó là chúng ta phải biết chuẩn bị để chúng ta sẽ không trở thành những kẻ bị thua lỗ khi ngày trọng đại ấy xuất hiện.

Chúng ta chuẩn bị bằng cách khử trừ thói hư tật xấu. Chúng ta chuẩn bị bằng cách thực hiện những hành động bác ái yêu thương giúp đỡ những người chung quanh. Làm như thế, chúng ta tích góp phần xây dựng cho xã hội này mỗi ngày một tốt đẹp, cũng như nhờ đó mà chúng ta thực hiện được mục đích cuối cùng của đời sống chúng ta, là sẽ được trở về cùng Chúa trên quê hương Nước Trời.

Như thế, niềm tin tưởng vào Chúa lại đến trong vinh quang, sẽ không làm cho chúng ta bị tê liệt, hay thất vọng chán ngán, trái lại sẽ làm cho chúng ta thêm hăng hái, thêm phấn khởi để chu toàn những bổn phận trần thế của mình bởi vì hiện tại sẽ xác định cho tương lai. Ngày mai của chúng ta có tươi sáng hay không là do tất cả những gì chúng ta đang cố gắng xây dựng trong hiện tại, trong hôm nay, bởi vì tương lại phải được bắt đầu từ hiện tại và ngay mai phải được bắt đầu từ hôm nay.

11. Kitô hữu mang niềm hy vọng

Tại sao Chúa nói đến ngày tận thế, một bí ẩn đối với chúng ta? Vả lại chúng ta phải quan tâm đến thời buổi chúng ta đang sống, chúng ta có bổn phận hoàn thiện xã hội bây giờ, phải làm sao cho trên địa cầu có thêm công bằng, tình thương, bình đẳng trong sự phân phối an lạc hạnh phúc, thêm tự do về phương diện vật chất và tinh thần. Nói cho đúng, bài giảng của Đức Giêsu về ngày tận thế đặt vấn đề mục tiêu và cứu cánh mọi nền văn minh. Chúng ta có tưởng tượng được không một nền văn minh sản xuất những công trình tuyệt tác, kể cả những công trình hiến dâng Thiên Chúa như Đền Thờ Giêrusalem, những công trình có thể tồn tại mãi mãi, không có gì phá huỷ được? Chừng nào sẽ xuất hiện một nền văn minh không có chiến tranh? Không có nạn đói? Không chống đối thù nghịch Thiên Chúa và Đức Kitô của Người? Chúa Giêsu trả lời ngay: không. Vậy thì Kitô hữu mọi thời đại phải mang niềm hy vọng đích thật, phải tin tưởng vào tác động Thiên Chúa trong tâm hồn mình để có sức mạnh mang hy vọng vào xã hội đương thời. Chúa phán:

1) “Hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt”.

Ai ai cũng thấy lòng mình se thắt lại vì khao khát hy vọng. Rất nhiều sứ giả tìm đến đề nghị những giải đáp lừa gạt hy vọng. Thậm chí, một số đội danh nghĩa Đức Kitô. Chúa bảo chúng ta hãy coi chừng bọn lái buôn hy vọng hão huyền. Đừng để bị lừa gạt, nghĩa là hãy an tâm vững chí trong sự thật. Hoạt động để “Danh Thánh” được nhìn nhận trong hy vọng, trong nền văn minh là đem chất men sự thật vào hy vọng con người, vào văn minh nhân loại. “Danh Thánh” là tên Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc thế gian. Chúng ta đóng góp vào công cuộc cứu vớt một nền văn minh tuỳ theo chúng ta nhiều hay ít dùng thực tại đời sống, lời nói, hoạt động Tông đồ, làm chứng rằng con người chỉ thành toàn trong quan hệ với Đức Giêsu. Người thờ phụng Thiên Chúa và hy sinh mạng sống cho nhân loại anh em Người.

2) “Người ta sẽ bách hại các ngươi”.

Đem niềm hy vọng Kitô giáo vào thế gian tất nhiên gặp những phản ứng thù nghịch của thế gian. Chúa bảo, đó là điều không tránh được. Môn đệ không trọng hơn Thày. Kitô hữu có thể khiếp sợ, có thể áy náy dễ gặp những giây phút yếu đuối. Chúa bảo, một sự hiện diện siêu phàm ngự trị trong tâm hồn Kitô hữu. Chính Đức Giêsu ban cho môn đệ cách ăn nói và sự khôn ngoan, nhưng thế gian đáp lại bằng ác tâm ác ý. Tuy nhiên có những tâm hồn ngay thẳng đáp ứng bằng một thái độ bắt đầu tìm hiểu. Đức Giêsu bảo môn đệ chớ có chuẩn bị tự bào chữa, nghĩa là Kitô hữu không được thấy vậy mà sinh ra âu lo áy náy, nhưng phải đặt ra cho mình nghĩa vụ trở nên tài giỏi, có khả năng tuỳ sức mình tỏ ra cho thế gian thấy mình đã suy nghĩ nhiều về đức tin của mình, sống đức tin cách ý thức, lấy đức tin làm giá trị đời mình. Kitô hữu phải làm chứng rằng đức tin tăng giá trị đời sống con người mình. Kitô hữu có thể trông cậy vào Đức Kitô, xin Người trợ giúp mình trong nỗ lực nói trên để đối phó với những chống đối.

12. Ngày của Chúa

Sẽ có ngày cả thế giới và vũ trụ này biến đổi. Bao giờ? Thế nào? Và có những dấu hiệu nào báo trước không?

Vào khoảng năm 450 trước Công Nguyên, Ngôn Sứ Malaki đã ra đi tuyên sấm. Ông loan báo “ngày của Chúa” sẽ đến, nhằm làm sống lại niềm hy vọng của Dân Chúa sau cuộc hồi hương của Babylon trở về. Đất nước bị dân ngoại chiếm đóng, đền thờ vẫn hoang tàn, tôn giáo bị biến chất, lễ bái trở nên vô vị. Từ đó, dân chúng chán nản ngã lòng. Phải chăng Thiên Chúa đã bỏ dân Ngài. Phải chăng Thiên Chúa đã không trung thành giữ lời Ngài đã hứa?

Ngôn sứ Malaki loan báo: Đừng tưởng mọi sự sẽ như thế nầy mãi. Thiên Chúa không bỏ Dân Ngài. Sự ác không thống trị mãi… Ngày của Chúa sẽ đến. Ngày ấy sẽ là ngày khủng khiếp, ngày tiêu diệt. Tất cả những kẻ kiêu căng cà làm điều ác sẽ như rơm rạ làm mồi cho ngọn lửa…

Nhưng “Ngày của Chúa” sẽ là ngày đầy hy vọng của những người công chính. Bởi vì là ngày họ sẽ trông thấy công bình và thánh thiện chiến thắng vĩnh viễn tội ác, ngày mà các dân sẽ nối gót Dân Chúa tiến về với Chúa, tiến lên Đền Thánh mới.

Như vậy, lời tiên tri của Ngôn sứ Malaki hôm nay không phải là lời tiên báo ngày tận thế. Đó là lời tuyên báo ngày Chúa đến cứu độ Dân Ngài, sau những thời gian thử thách nặng nề nhằm kêu gọi Dân Chúa hãy luôn hy vọng và tin tưởng vào ngày cứu độ.

Tin Mừng hôm nay minh họa Ngày cảu Chúa với những hình ảnh của Cựu Ước: vẫn là cảnh trời long đất lở, lửa cháy phừng phừng, trừng phạt kẻ dữ, thưởng công người lành. Sau biến cố năm 70, Đền thờ Giêrusalem từng là niềm kiêu hãnh của người Do Thái, đã không còn hòn đá nào trên hòn đá nào: mọi thứ đều sụp đổ, tiêu tan… đối với các Kitô hữu đầu tiên, phải chăng đó là dấu chỉ ngày tận thế? Phải chăng Nước Trời mà Chúa Kitô loan báo đã gần kề? Họ tưởng như vậy và nôn nóng chờ đợi. Nhưng rồi thời gian không thiên vị ai, và cảnh chờ đợi sốt ruột kia cứ kéo dài mãi không ngừng. Họ bắt đầu chán nản thất vọng.

Chúa Giêsu đã không gắn liền thời gian cùng tận với những hiện tượng xã hội và thiên nhiên xảy ra. Ngài không đến để báo trước ngày tận thế như những tiên tri giả. Trái lại, Ngài bảo: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lường gạt”, vì sẽ có người tự xưng là tiên tri và tiên đoán ngày tận thế. “Các con đừng tin theo họ”. Cũng đừng căn cứ vào các tai biến mà cho là ngày tận thế sắp đến rồi, vì chiến tranh, thiên tai, địa họa là những tai biến thời nào cũng có. “Các con đừng sợ, vì những biến cố ấy phải xảy đến trước, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu”.

Cả những cuộc bách hại Giáo Hội cũng không phải là dấu hiệu ngày tận thế. Chúa đã tiên báo: “Người ta sẽ cầm tù các con, sẽ đưa các con ra trước tòa án”. Nhưng Chúa lại căn dặn: “Đừng lo sợ, vì đó là cơ hội để các con làm chứng cho Thầy”. Thiên Chúa sẽ trợ lực chúng con, “nếu chúng con can trường, kiên trì, bền đỗ đến cùng, các con sẽ cứu được sự sống của các con”.

Chắc chắn thế giời sẽ có ngày tận cùng. Năm 2000 chăng? Không ai biết được. Ai khẳng định điều đó, người ấy là tiên tri giả. Ai coi chiến tranh, động đất, ôn dịch, đói kém là dấu hiệu bắt đầu tận thế để rồi chán nản, buông xuôi, bỏ bê công việc, thay vì hoạt động góp phần ổn định đời sống, đem lại công lý, hòa bình, ấm no, hạnh phúc, người đó là tiên tri giả hiểu, láo khoét, lừa bịp thiên hạ. Nhưng đáng tiếc là khi gặp khó khăn, đau khổ, người ta lại dễ tin theo các “tiên tri dỏm” đó!

Người Kitô hữu chúng ta, trước mọi nghịch cảnh, phải sống theo niềm tin đích thực vào Thiên Chúa. Phải luôn trung thành trong đức tin của mình và làm chứng cho Nước Chúa, Nước vĩnh cửu, bất diệt ở bên kia thế giới nầy. Phải kiên trì, trung thành trong bổn phận hằng ngày thì mới mong kiên vững trước nghịch cảnh. Nếu không kiên trì trong việc tầm thường hằng ngày thì khó mà kiên trì trong lúc gặp nguy biến.

Nếu ngay bây giờ, từng giây phút, chúng ta cố gắng sống trung thành trong đức tin, trong bổn phận, thì “khi nào tậnt hế?”, điều đó không thành vấn đề. Vì “ai kiên trung bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát và được sống đời đời”.

Vậy, đừng bận tâm khi nào tận thế, hãy lo sống hiện tại và kiên trì. Đừng tin những lời đồn đại xuyên tạc trước những biến cố khủng khiếp của lịch sử. Điều quan trọng duy nhất là trung thành làm chứng cho Chúa. Mỗi người chỉ có hôm nay để xây dựng ngày mai và cuộc sống vĩnh cửu.

13. Sự chịu đựng

Anne Frank là một cô gái Do Thái tuổi độ mười ba sống ở Amsterdam trong những năm đầu của chiến tranh Thế giới II. Khi quân Đức quốc xã săn lùng mọi người Do Thái, cô và gia đình trốn tránh. Tất cả có bảy người, họ ẩn núp hai năm liền trong một tầng gác sát mái nhà. Ở đó, họ chờ đợi từng ngày trong nỗi sợ hãi cái ngày mà mật vụ Đức khám phá ra họ.

Trong thời gian này, Anne viết nhật ký mà sau khi chiến tranh chấm dứt cha cô đã tìm thấy. Cuốn nhật ký ấy được dịch ra nhiều thứ tiếng và có được hàng triệu độc giả. Trong đó, Anne diễn tả những suy nghĩ và những cảm nhận của cô với sự già dặn vượt quá tuổi cô. Trong một đoạn đáng để ý. Cô viết:

“Đám trẻ chúng tôi phải chịu khó khăn gấp đôi để giữ vững tinh thần, trong một thời đại khi mọi lý tưởng tan vỡ và bị huỷ hoại, khi người ta bộc lộ khía cạnh tồi tệ nhất của mình và không biết mình có tin vào chân lý, lẽ phải và Thiên Chúa hay không”.

“Quả là một điều kỳ diệu vì tôi đã không đánh mất mọi lý tưởng của tôi, bởi vì chúng có vẻ rất phi lý và không thể thực hiện được. Tuy nhiên tôi vẫn giữ chúng vì dù sự việc có ra sao, tôi vẫn tin rằng trong thâm tâm con người vẫn tốt lành.

“Tôi nhìn thế giới đang trở lại với sự dã man, tôi luôn nghe thấy sự đe doạ đến gần, nó sẽ huỷ hoại chúng ta, tôi có thể cảm thấy sự đau khổ của hàng triệu con người nhưng nếu tôi nhìn lên trời cao, tôi nghĩ rằng mọi người muốn lên đó, sự tàn bạo này sẽ chấm dứt, hoà bình và yên tĩnh sẽ trở lại”.

Đây là một sự diễn tả lạ lùng về đức tin và hy vọng ở một thời đại với biết bao biến động. Anne không bao giờ nhìn thấy hoà bình và sự yên tĩnh trở lại. Một ngày nọ tiếng gõ cửa chết người vang lên ở cửa. Cô và gia đình cô bị đưa đến trại tập trung Nelsen. Năm 1944, cô chết ở đó.

Điều gì giúp cho một người chịu đựng? Sự đúng đắn của chính nghĩa cho người ta sức mạnh to lớn. Gương sáng và sự nâng đỡ của những người khác cũng là một sự hỗ trợ to lớn. Và rồi, có một sự giúp đỡ tốt hơn hết, đó là đức tin. Đức tin mang lại cho con người niềm xác tín rằng điều thiện hảo sau cùng sẽ chiến thắng và Thiên Chúa sẽ có tiếng nói quyết định.

“Một người với một hạt giống đức tin vào Thiên Chúa không bao giờ mất hy vọng, bởi vì người ấy luôn luôn tin vào chiến thắng sau cùng của chân lý” (Gandhi).

Trong một thế giới với quá nhiều biến động xã hội và chính trị, những người có đức tin thường bị coi là ngây thơ vô tích sự và không thích hợp. Tuy nhiên, chúng ta không nên sợ hãi thái độ hoài nghi và vô liêm sỉ, nhưng tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để giữ vững lập trường.

Đức Giêsu nói với các môn đệ của Người: “Anh em đừng sợ”. Người ta không phải là một con người nếu không cảm thấy sợ hãi khi bị nguy hiểm đe doạ. Vấn đề không phải là sợ hãi mà là vượt qua sợ hãi. “Một người không biết sợ không phải là anh hùng; người nào vượt qua sợ hãi mới là anh hùng” (Solzhenitsyn).

Đức Giêsu nói: “Bởi sự chịu đựng, anh em sẽ không mất linh hồn”.

Đức tin chỉ có thể được làm chứng trong đau khổ và chịu đựng. Đức Giêsu biểu lộ sự nhẫn nại và chịu đựng khi Người vác thập giá. Sự chịu đựng là cái mà tất cả chúng ta cần có. Chịu đựng có nghĩa là tham dự khổ đau của Đức Kitô. Nếu chúng ta tham dự khổ đau của Người, chúng ta sẽ tham dự vinh quang của Người.

14. Chia sẻ sự bất lực của chúng ta

Đức Giêsu đã nhìn thấy thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá. Người tiên đoán Đền Thờ lộng lẫy sẽ chỉ còn là đống gạch vụn. Đối với người Do Thái bình thường điều đó dường như không thể xảy ra, thậm chí không thể nghĩ đến được. Đây không phải là một công trình bình thường. Đền Thờ tượng trưng cho toàn bộ hệ thống thờ phượng của người Do Thái.

Lời tiên tri của Chúa Giêsu đã thành sự thật từng chữ một. Giêrusalem đã bị người La Mã tàn phá năm 70 trước công nguyên sau một cuộc bao vây kéo dài. Một triệu người đã bị giết chết hoặc bị chết đói trong cuộc vây hãm kéo dài. Đền Thờ bị đốt cháy đến tận nền móng.

Đức Giêsu muốn cứu thành Giêrusalem mà Người yêu mến nhưng không thể làm được. Có lần Người đã khóc và nói rằng: “Giêrusalem! Giêrusalem! Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái các ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu”.

Thật khủng khiếp khi ở bên giường một người bạn đang đau khổ hoặc hấp hối mà không thể nào cứu được người ấy. Chúng ta cảm thấy không tương xứng. Thông thường chúng ta không còn gì để nói nữa. Nhưng biết rằng Đức Giêsu chia sẻ sự bất lực của chúng ta quả là một điều an ủi. Người cảm thấy như chúng ta cảm thấy, nhưng Người không bỏ đi. Trong những trường hợp như thế, tác vụ duy nhất của chúng ta đơn thuần là có mặt. Cả khi mà điều đó có khó khăn, đó là việc quan trọng và quý giá. Giống như Đức Maria ở dưới chân thập giá, chúng ta phải ở lại với người đau khổ và hấp hối. Một sự hiện diện làm yên lòng và nâng đỡ người có ý nghĩa bằng cả thế giới đối với người chịu đau khổ.

Leonard Cheshire là một phi công nổi tiếng trong Chiến tranh Thế giới II. Cuối cuộc chiến, ông rời bỏ nước Đức. Ông cảm thấy ghê tởm chiến tranh và muốn làm một điều gì đó tốt đẹp hơn với phần còn lại của cuộc đời mình. Sau cùng, ông quyết định cống hiến đời mình để giúp những người bệnh tật. Người đầu tiên được gởi đến ông là một người đàn ông có tên là Arthur. Ông này sắp chết vì bệnh ung thư. Cheshire cảm thấy hoàn toàn bất lực, nhưng ông quyết định đem lại điều duy nhất mà ông có thể, đó là tình bằng hữu.

Suốt mấy tháng cuối đời của Arthur, một tương quan cao thượng đã phát triển giữa hai người. Arthur chịu nhiều đau đớn. Những đêm dài là những lúc cô đơn nhất. Khi cơn bệnh trở nên trầm trọng. Cheshire đặt một tấm nệm bên ngoài phòng ngủ của Arthur và ngủ ở đó. Ông đưa cho Arthur một cái chuông nhỏ cầm tay mà Arthur có thể rung lên bất cứ lúc nào ông này cần.

Có một người hiện diện bên cạnh mình, quan tâm đến mình một cách sâu xa tạo nên một thế giới khác cho Arthur, cả khi sự hiện diện ấy không cắt đi cơn đau hoặc làm ngưng lại tiến trình dẫn đến cái chết. Dù Arthur là người đơn sơ nhưng ông đã chết với phẩm cách to lớn. Vốn là một người Công giáo bỏ đạo, trong những tháng cuối đời, ông đã tìm lại được đức tin, và có được sự thanh thản làm cho ông trở thành một con người khác hẳn con người ông vẫn thế cho tới lúc đó. Nhờ có gương sáng của Arthur, chính Cheshire đã trở thành con người Công giáo.

Khi người đau bệnh biết có người chăm sóc mình điều đó tạo nên một thế giới khác cho người ấy. Nó cứu người ấy khỏi viễn cảnh đáng sợ phải chết một mình và bị bỏ rơi.

Để làm loại tác vụ ấy, người ta không cần có các kỹ năng đặc biệt. Chỉ cần có lòng yêu thương. Những người thật sự yêu thương sẽ đem lại cho người đau bệnh sức mạnh không thể đo lường hết, chỉ bằng việc họ có mặt, đứng kế bên. Và trong một thế giới ở đó tính vị kỷ lan tràn thì yêu thương là cách tốt nhất để làm chứng cho Đức Kitô và cho Tin Mừng.

15. Cơn sốt quang lâm–JM. Lam Thy ĐVD.

Khi chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay (Lc 21, 5-19), đã có nhiều người cho rằng thành Giê-ru-sa-lem mà Đức Giê-su nói đến là thành phố hiện thực tại Do-thái, để rồi từ đó loay hoay tìm những chứng cớ lịch sử có thật (chẳng hạn như sự kiện thành Giê-ru-sa-lem bị cháy vào năm 70 sau công nguyên) để chứng minh lời tiên báo của Đức Giê-su là chính xác. Thực ra, đọc kỹ bài giàng về “sự sụp đổ của thành Giê-ru-sa-lem” sẽ thấy Đức Giê-su dùng hình ảnh có thật trước mắt mọi người để nói đến một hình ảnh ẩn dụ bên trong, đó là ngày tận thế, ngày cánh chung của vũ trụ. Mặc dù Đức Giê-su có nói: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.” (Lc 21, 6), nhưng đó chỉ là cách Người muốn cho mọi người hình dung được ngày chung cuộc, mà ngày đó sẽ có những điềm báo trước (Lc 21, 8-19).

Trước hết, Lời dạy của Đức Ki-tô tiên báo gần đến ngày cánh chung sẽ xảy ra bắt bớ, ngược đãi, gông cùm, tù tội, mà nhiều khi chính những người thân cận nhất lại là những kẻ tố cáo, bắt nộp con em mình cho quan quyền hành tội. Cũng giống như đã có lần Đức Ki-tô dạy: “Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà.” (Mt 10, 35-36). Khi nghe bài Tin Mừng hôm nay, đã có ý kiến phản biện: Cha mẹ nào mà chẳng thương con, “Có người nào khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn?” (Mt 7, 9-10), chẳng lẽ khi con mình bị trù dập, đã không che giấu thì chớ, mà lại còn nhẫn tâm đi tố cáo, bắt con em mình nộp cho thế lực thù địch hay sao?

Vì thế, mới thoạt nghe Lời Chúa, thấy có vẻ nghịch lý, khó lòng chấp nhận được, và chính điều này tác động mãnh liệt vào bộ não khiến người ta phải dốc tâm suy niệm để tìm cho ra đáp án. Quả thực, khi phải dốc hết tâm trí ra suy nghĩ về một vấn đề nào đó thì việc đầu tiên là phải nhìn lại mình trước, nhiên hậu nhìn lại những người thân cận và môi trường mình đang sống, đang hoạt động. Nhìn lại để thấy được không hẳn là viết đơn hoặc đến thẳng quan quyền tố cáo con em mình mới là “tố cáo, bắt nộp” (Nhiều khi chỉ vì cha mẹ chưa tin vào những điều con mình đã tin, ra mặt không chấp nhận hành động của con em mình, tạo nên một hố sâu chia rẽ trong gia đình, thì như thế đã là “vạch áo cho người xem lưng”, khiến kẻ thủ ác có cớ để bắt bớ, tra tấn con em mình). Nhìn lại còn để cảnh giác và sẵn sàng đối phó, chớ không phải nhìn lại để trốn chạy, chối bỏ. Nhìn lại còn để thấy được sự yếu đuối, mỏng giòn của bản thân cũng như những người thân cận ruột thịt và rộng ra là của con người thụ tạo trên trái đất này, nên rất có thể “Kẻ thù của mình chính là người nhà” (Mt 10, 36).

Như thế, nhìn lại mình chính là để vượt thắng được chính mình, mà muốn được vậy thì phải biết kiên trì cầu nguyện xin ơn soi sáng để nhìn cho rõ con đường chân lý mà mình sẵn sàng nhập cuộc, đồng thời cầu nguyện xin Thần Khí Chúa tăng thêm sức mạnh và dũng khí để sẵn sàng đối mặt với nghịch cảnh, chấp nhận hy sinh để bảo vệ đức tin, bởi chính “Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy. Vậy anh em hãy ghi lòng tạc dạ điều này, là anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào. Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được” (Lc 21, 13-15).

Điều cần suy gẫm tiếp theo, đó là vấn đề cho đến tận ngày nay, những Lời tiên báo của Đức Giê-su (“Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có hững trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện” – Lc 21, 10-11) đã thực sự xảy ra và xảy ra thật nhiều trên trái đất này. Và tất nhiên, Lời cảnh báo của Người về những người thân cận ruột thịt (cha mẹ, anh em, họ hàng, bè bạn) sẽ bắt nộp con em của mình vì đã dám làm chứng cho niềm tin về một Đấng Ki-tô Cứu Thế, cũng đã xảy ra không ít. Chính Đức Giê-su cũng đã từng bi quan về thời suy tàn ấy: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18, 8). Vì người mang danh có đức tin thì vô số, nhưng người thật sự tin – nghĩa là thể hiện đức tin bằng cuộc sống – thì chẳng bao nhiêu. Chính Thánh Phao-lô cũng nói với tín hữu Ti-mô-thê: “Anh hãy biết điều này: vào những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go. Hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ” (2Tm 3,1.5).

Bài đọc 2 CN. XXXIII/TN-C hôm nay, với tiêu đề “Đề phòng lối sống vô kỷ luật: cơn sốt quang lâm!” có đoạn viết: “Thật vậy, khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: ai không chịu làm thì cũng đừng ăn! Thế mà chúng tôi nghe nói: trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân.” (2Tx 3, 10-12). Quả thật vào thời gian cận kề ngày chung thẩm, sẽ xảy ra đủ thứ chuyện “vô kỷ luật” khiến thế giới như lên cơn sốt và cao trào nhất sẽ là giờ phút “Con Người quang lâm”, chẳng hiểu lúc ấy “liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18, 8).

Tóm lại, biết lắng nghe, biết suy niệm và luôn biết tỉnh thức, sẵn sàng thực hành theo Lời Chúa dạy, “ hãy làm việc thiện, đừng sờn lòng nản chí!” (2Tx 3, 13), thì mọi kẻ thù hung ác, mọi thử thách nghiệt ngã, mọi chông gai nguy hiểm, cũng đều có thể vượt qua, bởi “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu.” (Lc 21, 17-18). Câu kết của bài giảng (“Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình” – Lc 21, 19) đã cho thấy ai kiên trì cầu nguỵên để có thể kiên trì đối diện với mọi thử thách nghiệt ngã, vượt thắng được nghịch cảnh, vượt thắng được chính mình, thậm chí hy sinh cả tính mạng mình cho chân lý mình đang theo đuổi, thì sẽ gặt hái được vinh quang trong ngày sau hết. “Giữ được mạng sống mình” phải được hiểu là cuộc sống mai hậu trên Nước Trời vinh hiển. Chúa đã từng dạy hãy kiên trì trong cầu nguyện (dụ ngôn “Người bạn quấy rầy”, “Người đàn bà quấy rầy”), nay Người lại dạy hãy kiên trì làm nhân chứng cho Tin Mừng cứu độ. Rõ ràng trong tư tưởng hay trong hành động, ở bất cứ hoàn cảnh nào, anh hãy biết KIÊN nhẫn bảo TRÌ đức tin mà anh đã chọn cho cuộc đời mình.

Ôi! Lạy Chúa! Chúng con “đang sống những ngày đen tối” (Ep 5, 15) đúng như lời Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Ê-phê-sô. Cúi xin Chúa ban Thần Khí cho con để con biết “cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan”, đồng thời luôn luôn “biết tận dụng thời buổi hiện tại” (Ep 5, 16), sẵn sàng đối diện với mọi thử thách nghiệt ngã, nhất là những thử thách đến từ chính “cái tôi” ích kỷ, đớn hèn của con. Hy vọng với cách đó, con sẽ luôn luôn sẵn sàng trở về với Chúa bất cứ giây phút nào. Ôi! “Lạy Thiên Chúa là nguồn phát sinh mọi điều thiện hảo, được phụng sự Chúa quả là một hạnh phúc tuyệt vời: xin cho chúng con tìm được niềm vui khi hết dạ trung thành với Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguỵên nhập lễ Chúa nhật XXXIII mùa Thường niên).

16. Sống Lời Chúa–Ngày tận cùng

Trong cuộc thế giới đại chiến lần thứ hai vừa qua, nhiều thành phố đã bị đổ nát dưới những trận mưa bom. Chỉ trong một vài tiếng đồng hồ, tất cả đều bị phá hủy, chỉ còn lại những đống gạch vụn. Còn những người thân yêu, kẻ thì bị ngã gục ngoài chiến trường, kẻ thì bị chôn vùi dưới đống gạch vụn. Quả thực đó là một kinh nghiệm đắt giá, một bài học chua cay về chiến tranh.

Thế nhưng, chỉ mấy năm sau, những đống gạch vụn ấy không còn nữa. Người ta đã xây dựng lại tất cả từ những chỗ đổ nát ấy, để rồi đã mọc lên những nhà máy, những cao ốc và dân chúng đã có được một nếp sống sung túc.

Thế nhưng, cùng với những sự giàu sang và xa hoa, chúng ta lại phải chứng kiến một cảnh tượng đau thương và bi đát khác. Con người dần dần đánh mất đi những cái hay, những cái đẹp. Họ đã đảo lộn bậc thang giá trị. Và rồi âm thầm từng bước một, họ đã xa lìa Thiên Chúa, Đấng là trọng tâm mà đáng lẽ cuộc đời họ phải tìm về.

Dĩ nhiên, người ta không chối bỏ Thiên Chúa hay giơ những nắm tay lên trời để nguyền rủa Ngài, nhưng người ta đã âm thần loại trừ Ngài ra khỏi cuộc sống và quên đi sự hiện diện của Ngài.

Từ đó, tất cả lại trở nên một đống gạch vụn, mặc dù bên ngoài đầy vẻ tráng lệ và tiến bộ. Cũng giống như một trái cây, bên ngoài vẫn còn tốt, vẫn còn đẹp, nhưng bên trong đã bắt đầu rữa thối.

Con người cô độc ngồi trên đống đổ nát, không biết mình từ đâu mà đến, để rồi sẽ lại đi về đâu. Người ta sẽ tìm ở đâu cho ra niềm an ủi và khích lệ giữa những khổ đau và bất hạnh gặp phải? Người ta không đi tìm nơi kinh nguyện, nơi tòa giải tội, hay nói cách khác nơi chính Thiên Chúa. Trái lại, người ta đi tìm nơi quán nhậu, nơi rượu chè, nơi cờ bạc và nơi những hưởng thụ khác nữa.

Nói thế không có nghĩa là chúng ta chống lại những tiến bộ và những tiện nghi vật chất. Tất cả những phương tiện ấy đều tốt và chúng ta được phép sử dụng. Tuy nhiên, chúng ta phải ý thức rằng: bao lâu xua đuổi Thiên Chúa, thì cuộc đời chúng ta sẽ đi vào ngõ cụt và những tiến bộ cũng chỉ là một đống gạch vụn không hơn không kém. Thay vì phụng sự con người, thì chúng lại trở nên một thứ vũ khí nguy hiểm, giết hại con người.

Bao lâu con người chỉ biết quyến luyến với vật chất và chỉ biết có vật chất mà thôi, thì con người sẽ cảm thấy cuộc đời thật vô nghĩa và thế giới là như một thùng rác. Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng quá bi quan. Tiện nghi vật chất một khi đã lên tới cao điểm của nó, thì người ta sẽ nhận ra những giới hạn của nó. Và lúc bấy giờ, phải chăng con người sẽ nhận biết thời gian ơn sủng của Thiên Chúa.

Bởi đó, trong bầu khí những ngày cuối của năm phụng vụ, Giáo Hội báo trước cho chúng ta hay sẽ tới một ngày tất cả những gì chúng ta đã cố gắng gầy dựng sẽ bị sụp đổ. Tất cả cuộc đời chúng ta trở nên như một đống gạch vụn.

Trong ngày đó, chỉ còn lại những gì chúng ta đã xây dựng trong đức tin và trong tình mến. Chính trong đức tin và trong tình mến, chúng ta làm cho cuộc đời chúng ta có được một giá trị vượt thời gian.

Bởi vì chính trong ngày đó, Thiên Chúa sẽ tạo dựng cho chúng ta một trời mới và một đất mới. Ngài sẽ đem lại cho chúng ta một cuộc sống hạnh phúc và vĩnh cửu.

17. Không còn đá nào trên đá nào–Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

Đoạn nầy nằm trong văn mạch lời giảng dạy của Chúa Giêsu trong Đền thờ (19,47-21,38); diễn từ nầy chia làm hai ở câu 21,4. Phần thứ hai 21,5-36 bàn về số phận của Giêrusalem và Đền thờ (x. Mc 13,5-37; Mt 24,1-36), và có thể chia làm ba phần: Bối cảnh của lời tiên báo (21,5-7); Lời tiên báo (21,8-28); Khuyến dụ tỉnh thức và dụ ngôn cây vả (21,29-36). Đoạn về nội dung của lời tiên báo (21,7-28) nói đến những biến động: Kitô giả (cc. 8-9), chiến tranh (cc. 10-11), bắt bớ (cc.12-19); Đền thờ sụp đổ (cc. 20-24); Những dấu hiệu của việc Người Con Nhân Loại trở lại (cc. 25-28).

Trong tin mừng Luca, nhiều lần Chúa Giêsu nói đến ngày Người đến. Trong 12,35-48, Người khuyến dụ mọi người phải tỉnh thức, trung tín và sẵn sàng. Trong 17,20-37, Người nhấn mạnh điều nầy là không ai có thể biết được khi nào Người Con của Nhân Loại đến. Liên quan đến đền thờ Giêrusalem, Người đã khóc cho nó vì sẽ đến ngày bị bỏ hoang phế (13,34-35). Trong diễn từ nầy, Luca đặt việc tàn phá Giêrusalem (21,6.20-24) trong tương quan chặt chẽ với ngày Con Người sẽ đến (21,25-28). Luca đã ghi nhận trước điều nầy là khi thấy Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem, người ta nghĩ là Nước Thiên Chúa đã đến (19,11). Vậy đền thờ Giêrusalem và những biến cố chung quanh việc tàn phá nầy liên quan rất trực tiếp với Chúa Giêsu và việc Người sẽ đến.

Bối cảnh của lời tiên báo về số phận của đền thờ Giêrusalem (21,5-7). Chúa Giêsu ở trong Đền thờ và giảng dạy (x. 19,47; 20,1; 21,37-38). Đền thờ đang được nói đến là đền thờ thứ hai, sau đền thờ do Salômon xây, và bị tàn phá bởi người Babylon năm 587 trước Chúa Kitô. Sau thời kỳ lưu đày, Giêrubbabel (Esdra 3-6) và Haggai (Hag 1-2) cho khởi công xây dựng lại đền thờ, và hoàn tất khoảng năm 515 trước Chúa Kitô. Dưới thời Hêrôđê Cả, đền thờ được tái thiết, khởi từ năm 20 trước Chúa Kitô (x. Gio 2,20) tiếp tục cho đến năm 63 sau Chúa Kitô. Về các phiến đá xinh đẹp, đồ sộ và những trang hoàng trong đền thờ, xem Josephus B.J. v. 5. Chúa Giêsu nói về “ngày sẽ đến” (c. 6). Đó là ngày Thiên Chúa sẽ đến (19,44), và cũng là ngày của Con Người (17,22.30). Sự hủy diệt sẽ đi trước ngày ấy; Luca ví chuyện nầy như thời ông Noê (17,26-29). Như thế, trong khi người ta hãnh diện về sự huy hoàng của đền thờ, Chúa Giêsu loan báo sự tàn phá của nó; “dei”, “phải”, chỉ ý muốn của Thiên Chúa (21,9).

Nội dung của lời tiên báo (21,8-19). Mở đầu phần nầy là câu hỏi về thời điểm và những dấu lạ đi trước biến cố ấy (c. 7). Để trả lời, Chúa Giêsu nói đến ba điều: liên quan đến những người lấy danh Chúa đến và kêu gọi người ta đi theo họ (21,8-9); liên quan đến chiến tranh giữa các nước, những thiên tại và đói kém trên mặt đất (21,10-11); liên quan đến việc bắt bớ các môn đệ của Chúa Giêsu (21,12-19).

Về việc những người lấy danh Chúa mà đến và kêu gọi môn đệ (21,8-9). Mệnh lệnh Chúa Giêsu đưa ra trước: “Hãy coi chừng đừng để bị lừa gạt” (c. 8). Động từ “planaō” có nghĩa là “dẫn lạc đường”; động từ nầy chỉ xuất hiện một lần ở đây trong Luca. Trong Marcô, động từ nầy liên hệ đến sự hiểu biết Thiên Chúa. Nếu không biết Sách Thánh viết về Người, sẽ bị rơi vào lầm lạc; Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, chứ không phải của kẻ chết (Mc 12,24.27; Mt 22,29). Vậy, mệnh lệnh nầy kêu gọi các môn đệ của Chúa Giêsu phải lắng nghe Chúa Giêsu để khỏi bị dẫn đi sai đường. Cách dùng chữ “Những người đến lấy danh của tôi” tương tự lời tung hô của dân chúng khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem “Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến” (19,38). Lấy danh của ai là đại diện và hiện thân của người đó. Thành ngữ “đến nhân danh Chúa” ám chỉ Đấng Messia của Thiên Chúa. Đã có những người lấy danh của Người mà trừ quỷ (9,49). Những người ấy sẽ lập lại những lời nói của Chúa Giêsu: “Tôi đây” cách nói Chúa Giêsu thường dùng (22,70; 24,39; đặc biệt trong tin mừng Gioan 4,26; 6,20; 6,35; 6,41…); “Thời buổi đã gần bên” chính Chúa Giêsu đã rao giảng (10,9.11; Mc 1,15). Như thế, ở đây không ám chỉ Đấng Messia, mà “Kitô” giả (x. Mt 24,5). Họ muốn thay thế Chúa Kitô và kêu gọi các môn đệ đi theo họ; thành ngữ “đi theo sau” chỉ việc trở thành môn đệ (x. 9,23; 14,27).

Chúa Giêsu dùng ngôn ngữ khải huyền khi nói về những chuyện sẽ xảy ra trước khi Đền thờ bị tàn phá. Về chiến tranh (c. 9) Người nói cách mơ hồ, và ám chỉ Đaniel 7:22tt. Những sự kiện nầy phải xảy ra trước khi kết thúc với Đền thờ bị tàn phá (Đaniel 2,28tt. 45). Về các thiên tai (cc. 10-11), cũng bằng ngôn ngữ khải huyền (x. Is 19,2; 2 Sử biên 15,6; Ezk 38,19-22).

Về việc bắt bớ các môn đệ Chúa Giêsu (cc. 12-16). Chúa Giêsu báo trước những bắt bớ các môn đệ của Người phải chịu, hoặc do người do thái, vua chúa và quan quyền (c. 12; 12,11), hoặc do gia đình, bạn bè và thân nhân (c. 16). Tất cả đều lấy “danh của Người” mà làm điều ấy. Người muốn các môn đệ dùng cơ hội nầy mà “làm chứng cho Người (c. 13). Phần Người, Người bảo đảm cho họ sự khích lệ (c. 14) và nâng đỡ (c. 15); đồng thời bảo đảm cho họ sự sống đời đời nếu họ kiên trì trong sự bắt bớ nầy (cc. 17-18). Về việc bắt bớ bởi người do thái, Luca ghi nhận những sự kiện trong Công vụ tông đồ 4,16-18; 9,1b; 12,1-5; 12,1-11; 25,13:26,32. Liên quan đến “hội đường”, thời Chúa Giêsu những ai tin vào Người, sẽ bị trục xuất ra khỏi hội đường (x. Gio 12,42). Bị bắt bớ bởi vua chúa và quan quyền: Felix (Cv 23,24-24:27), Porcius Festus (Cv 24,27-26,32). Các tông đồ bị bắt, giết chết: Stêphanô (Cv 6,8-7:60), Phêrô (Cv 12,3), Giacôbê (Cv 12,2), Phaolô (Cv 23,12.14.18; 24,27).

Kết luận (c. 19). Hypomonē, do chữ hypo-menō có nghĩa là “ở bên dưới”, chỉ sự kiên trì, bền bỉ trong mọi tình huống, nhất là biết thời gian thử thách hiện tại sẽ qua đi. Luca hình tượng hoá điều nầy bằng hình ảnh hạt giống. Nó kiên trì chịu mục nát, biến đổi để trở thành mùa màng trĩu hạt (x. 8,15). Vậy, bắt bớ sẽ qua đi. Cần kiên trì chịu thử thách ấy, sẽ được nhận ơn cứu độ.

Cần đọc trọn vẹn diễn từ mới hy vọng hiểu rõ ý nghĩa và mục đích của những điều được tiên báo. Xin gợi ý một vài điều để suy nghĩ thêm. Giêrusalem và đền thờ là điểm trung tâm diễn từ nầy nhắm đến. Đền thờ được ca ngợi bởi những trang hoàng đẹp đẽ của nó (c. 5). Tuy nhiên, Chúa Giêsu tiên báo nó sẽ bị sụp đổ (c. 6). Cùng với đền thờ bị tàn phá, thành Giêrusalem sẽ bị vây hãm, chiếm đóng và dân trong thành bị đi đày (x. 21,20.24). Những ngày đầu tiên Chúa Giêsu đến Giêrusalem và giảng dạy trong đền thờ, Người đã bị các thượng tế và kinh sư mưu đồ giết hại Người (x. 19,47). Trong lời tiên báo về Đền thờ, Người nói đến việc các môn đệ của Người sẽ bị bắt và dẫn đến hội đường. Họ chung một số phận với Người. Người kêu gọi họ kiên trì để được cứu độ. Sau khi đền thờ bị phá hủy và thành Giêrusalem bị tàn phá, Người nói đến việc Người Con Nhân Loại đến (21, 25-28), và Người tuyên bố “ơn cứu độ đã đến gần” (21,28).

Diễn từ nầy đặt trước trình thuật về cuộc thương khó (22,1-23,56) ngụ ý rằng cuộc thương khó là thời kỳ đi trước sự phá hủy Đền thờ. Trong thời kỳ nầy, Người sẽ chịu bắt bớ, và những biến cố trời đất cũng sẽ xảy ra như lời tiên báo (x. 23,44-46). Thời kỳ nầy sẽ diễn ra lâu dài hơn trong lịch sử của các môn đệ Người. Người sẽ bị giết, cũng như một số người trong các môn đệ Người sẽ bị giết (21,16). “Màn Đền thờ bị xé ra” (23,45) chính là lúc Đền thờ cũ bị hủy bỏ và thay thế bằng Đền thờ mới là Chúa Giêsu (x. Mc 14,58). Vậy, trong khi tiên báo sự sụp đổ của đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu tiên báo ngày Người đến. Muôn thiên hạ sẽ thấy Người trong quyền năng và vinh quang, thay thế cho vẻ đẹp huy hoàng của đền thờ Giêrusalem.

18. Ngày Tận Thế–Thu Băng, CRM

Qua một số đoạn Phúc Âm chọn cho tuần cuối cùng của mùa Phụng Vụ, Giáo Hội muốn nhắn nhủ chúng ta phải tỉnh thức. Vì cuộc đời trần thế của chúng ta chóng qua, cái thế giới vật chất này cũng sẽ đến ngày tận cùng. Vì thế chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng.

Hôm nay Lời Chúa nói về đền thờ cao trọng cũng sẽ bị phá hủy, làm cho chúng ta liên tưởng đến tính cách tạm thời, cái mau qua chóng hết.. Lịch sử nhân loại đi về một cuộc biến chuyển khổng lồ của vũ trụ.. Qua biến chuyển sẽ thấy nước Chúa xuất hiện. Ngày đó, lửa Thánh Linh sẽ trở nên ánh sáng rực rỡ, hạnh phúc hay hình phạt đời đời, tùy sự đáp lại tình yêu Thiên Chúa hay từ khước lòng yêu thương của Chúa. Trong lúc đợi chờ lịch sử nhân loại bước vào giờ cuối cùng của lịch sử, tức là ngày giờ ta đang tiến tới đây.

Sẽ có những tiên tri xuất hiện nói: ”Chính ta đây, hay là ngày tận thế đang tiến tới đó”. Chúng ta đừng bị đánh lừa, đừng quá lo lắng để tin nhảm vào những thuyết nà thuyết kia, người này kẻ nọ. Cũng đừng hoảng sợ vì thấy chiến tranh, loạn lạc, động đất, dịch tễ, đói kém, thời tiết thay đổi…..Chúa đã nói: ”Khi những tai họa đó xẩy đến, thì cũng chưa đến ngày tận thế, có nghĩa là việc đó chưa hoàn toàn vượt tới sự suy nghĩ, tính toán của loài người, dù có dùng đến máy điện tử cũng không thể tính ra được. Đừng tò mò xem nó xẩy ra thế nào, chấm dứt thế giới thế nào?”

Chúng ta phải làm gì?

Chúng ta vẫn phải tiếp tục sống, vẫn phải tiếp tục làm lịch sử, sao cho nước trời được thực hiện, tức là sống bằng tinh thần của nước trời, sống bằng sự trung thành trong đức tin, vững vàng trong đức cậy, sốt sáng trong đức mến. Vì thế, nhiều khi phải sống khác với lối sống của trần gian nữa. Phải cố gắng mang lại một linh hồn cho bao nỗ lực của cuộc sống, cho bao vất vả cả đời giữ đạo, cả một đời tìm Chúa. Phải cố gắng moi lại một linh hồn có Chúa Kitô hiện diện.

Cách đây mấy năm, có 9 người tàn tật (Một anh có chân giả, một anh kinh phong, hai anh điếc và 5 anh mù), đã hoàn tất một cuộc leo lên ngọn Rainier cao 14,000 bộ, tức là hơn 4 cây số, ở Washington, mà không bị một tai nạn nào. Khi hỏi về cuộc hành trình ấy, nhiều người đã nói: “Chúng tôi đã giúp đỡ nhau, đã tin tưởng vào mình, không nghĩ đến những tai họa sẽ xẩy ra, khiến chúng tôi leo lên tới đỉnh núi một cách án toàn.”

Câu chuyện trên đây khiến chúng ta phải tự vấn xem mình có tin tưởng vào sự thành công của mình chưa và có bị xao xuyến về cảnh ngộ bên ngoài không?

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một đức tin trung thành, một đức cậy vững vàng, một đức mến sốt sáng, để chúng con thắng lướt mọi nguy hiểm ở đời, trong khi bao thử thách cam go xẩy đến cho đời chúng con.

19. Ngày tận thế–Lm. Minh Vận, CRM

Julian Apostate là Hoàng Đế Roma năm 360. Mặc dầu đã chịu Phép Thánh Tẩy và học giáo lý Công Giáo; thế mà ông lại là người hoàn toàn chống lại Chúa Kitô và Giáo Hội. Ông đã giết chết nhiều người Công Giáo để tế lễ các tà thần, biến nhiều Thánh Đường thành chùa miếu thờ thần, cấm truyền bá Tin Mừng và hủy bỏ tất cả những gì liên quan đến Đạo Công Giáo. Ông ta cố gắng làm cho lời tiên tri của Chúa Kitô đã nói về sự điêu tàn đổ nát của thành Jerusalem sau đây: “Khi ngày đó đến thì sẽ không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào”, hết giá trị. Nhưng thực ra lời tiên tri này đã được ứng nghiệm trăm phần trăm vào năm 70, năm mà thành Jerusalem bị phá hủy bình địa. Trong khi sự việc chưa xảy ra, thì Hoàng Đế Julian đã ra lệnh triệt để bảo vệ Đền Thờ và làm cho thực kiên vững. Nhưng khi vừa khởi công đổ móng thì, theo một sử gia ngoại giáo viết: “Có những khối lửa ghê sợ bùng lên phá sập móng, thiêu đốt các người thợ, làm cho không ai có thể tới gần chỗ đó được nữa; vì thế, công việc xây lại Đền Thờ hoàn toàn thất bại”. Những sự kiện lịch sử này chứng minh lời tiên tri của Chúa Kitô hoàn toàn đã được ứng nghiệm. Vậy, không biết dự tính của người Do Thái sẽ xây lại Đền Thờ Jerusalem nay mai sẽ ra thế nào?

I. CÁC LỜI TIÊN TRI CỦA CHÚA CỨU THẾ

Các lời tiên tri về Chúa Cứu Thế trong Cựu Ước đã hoàn toàn được thực hiện. Trong Tân Ước, chính Chúa Kitô cũng đã nói nhiều lời tiên tri về Người, như bị Juda phản bội, bị Phêrô chối bỏ, bị các Tông Đồ bỏ trốn, bị bắt, bị giết chết và sau 3 ngày sống lại… Chúa cũng đã nói tiên tri về Giáo Hội của Người sẽ phát triển mạnh mẽ, lan tràn khắp thế giới, và không cuộc bách hại nào có thể ngăn cản được sự bành trướng đó. Suốt 2000 năm qua những lời tiên tri đó vẫn còn ứng nghiệm đúng như lời Chúa đã khẳng định: “Dù quyền lực hỏa ngục cũng không thể thắng được”. Tất cả các lời tiên tri đó đã thực hiện đúng từng chi tiết nhỏ mọn, sát khít với lời Chúa: “Dù một nét, một chấm cũng không bỏ qua, cho tới khi mọi sự được hoàn thành”. Như vậy, lời tiên tri Chúa nói về Ngày Tận Thế, giờ phán xét, thưởng phạt (Mt 25) trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng sẽ được ứng nghiệm. Chúng ta đã tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: Tôi tin “Người sẽ trở lại trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao giờ cùng”. Trong Thánh Lễ, sau khi truyền phép, chúng ta cũng tuyên xưng: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”.

II. NGÀY TẬN CÙNG CỦA MỖI NGƯỜI CHÚNG TA

Ngoài ngày tận cùng của thế giới, mỗi người chúng ta đều có ngày sẽ từ giã cõi trần khi giờ chết đến, vì mỗi người đều phải chết; nhưng chết cách nào, chết ở đâu, vào giờ nào thì không ai có thể biết được. Vì thế, Chúa Kitô đã căn dặn chúng ta: “Các con hãy sẵn sàng, vì bất ngờ Con Người sẽ đến” (Mt. 24:44). Trần gian chỉ là nơi tạm cư, là cuộc lữ hành, là đường tiến về Quê Hương Vĩnh Cửu; vật chất chỉ là phương tiện giúp chúng ta đạt tới cùng đích và hạnh phúc trường tồn. Dầu muốn dầu không, một ngày kia, chúng ta cũng phải để lại tất cả để ra đi về thế giới bên kia, nơi Chúa đang chờ đợi chúng ta. Vì Chúa dựng nên chúng ta có mục đích để chúng ta tôn thờ, yêu mến, phụng sự Ngài, để khi kết thúc cuộc đời, chúng ta được Chúa ân thưởng, cho tận hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài trên Nước Trời, là quê hương hạnh phúc vĩnh cửu Người đã sắm sẵn cho những ai yêu mến phụng sự Người.

Kết Luận

Chúa đã truyền dạy: “Các con cứ bền đỗ đến cùng, các con sẽ giữ được linh hồn các con”. Trung thành với ơn Chúa kêu gọi, là chắc chắn chúng ta sẽ đạt tới cùng đích, là chiếm hữu được chính Chúa là nguồn hạnh phúc vĩnh cửu của chúng ta.

Lạy Mẹ, xin Mẹ giúp chúng con được luôn trung thành với Chúa, để chúng con đạt tới cùng đích, đúng như thánh ý Chúa khi tạo dựng nên chúng con giống hình ảnh Chúa và đã thương tuyển chọn chúng con làm con cái Chúa.

20. Thành Thánh Giêrusalem–P. Trần Đình Phan Tiến

Đoạn Tin Mừng Chúa nhật 33 hôm nay (Lc 21,5-19) là đoạn Tin Mừng mang tính Khải Huyền, là đoạn Tin Mừng được Chúa Giêsu tiên báo về ngày tận thế. Tận thế của từng cá nhân, của từng người bước theo Chúa Giêsu, và ngày chung thẩm của nhân loại. Đặc biệt hơn, ngày hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Vậy, ý nghĩa Lời Chúa hôm nay có liên qua mật thiết như thế nào đối với ngày Lễ mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam.

Lời Chúa hôm nay có 2 phần rõ rệt: Phần 1, (từ câu 5-7), phần 2 (từ câu 8 -19).

Phần 1: Tiên báo về sự sụp đổ của Đền thờ Giêrusalem.

Phần 2: Những điềm báo trước của những thân phận Kitô hữu.

Đền thờ Giêrusalem là một công trình vĩ đại, là điểm nổi bật kiến trúc có một không hai, một đền thờ bằng vật chất được xây dựng lên để thờ phượng Thiên Chúa. Vẻ nguy nga, tráng lệ và thời gian xây dựng là 46 năm đã làm nên một công trình rất hãnh diện đối với người Dothai. Chúng ta thấy, phàm nhân từ cổ chí kim vẫn khát khao, vẫn theo đuổi nhu cầu tâm linh rất lớn. Đền thờ vật chất Giêrusalem là một minh chứng rõ ràng nhất, chứng tỏ sự khao khát mãnh liệt về tâm linh của con người không thể chối cãi được. Về mặt lịch sử, kiến trúc, giá trị vật chất của nó ai cũng lấy làm ngưỡng mộ, đến như Chúa Giêsu cũng lấy làm thương tiếc nó.

Vậy tại sao Đền Thánh Giêrusalem sẽ bị tàn phá? Thưa, đền thờ nói chung được xây dựng lên hầu tôn vinh Thiên Chúa, đền thờ Giêrusalem được xây dựng lên ngoài việc tôn thờ Thiên Chúa nó còn mang một ý nghĩa chính trị, nhất là nó được các nhà lãnh đạo tôn giáo Dothai cai quản, và mặc nhiên dần dần xa cách việc Thờ phượng chính đáng, không còn đẹp lòng Thiên Chúa nữa. Qủa nhiên, nó cũng chỉ là một đền thờ mang ý nghĩa vật chất, dù giá trị kiến trúc của nó thì vô cùng đẹp đẽ và nguy nga. Nhưng không theo ý Thiên Chúa, mà theo ý những nhà lãnh đạo tôn giáo. Đó là ý nghĩa nó phải sụp đỗ như Lời Tiên Báo của Chúa Giêsu. Chúng ta nhớ laị Lời Chúa Giêsu khi Người vào Đền thờ đánh đuổi những người mua bán, đổi tiền,làm ô uế đền thờ. Người Nói: “ Đừng biến nhà Cha Ta thành hang trộm cướp… Lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa sẽ làm hao tổn thân xác Tôi.” (x. Ga 2, 13-22).

Chúng ta đọc lại Tin Mừng Nhất Lãm ở các trang (Mt 21,12-17; Mt 23, 37-39) (Mc11, 15-18) (Mc 13), (Lc 13, 34-35; Lc 19,41-46). Tất cả những câu nầy nói lên sự kiện đền thờ Giêsrusalem liên quan đến chương trình cứu rỗi của thiên Chúa qua Đấng Cứu Thế. Qua đó, chúng ta thấy, việc xây cất đền thờ để thờ phượng Thiên Chúa thì quan trọng.Nhưng quan trọng hơn chính là đền thờ tâm hồn, vì một ngồi đền thờ nguy nga tráng lệ, như Giêrusalem mà còn bị hủy diệt, vì không chứa chan ơn cứu độ, không mang tính thờ phượng chân chính, mà là lợi dụng việc thờ phượng để bày đủ trò, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt.

Đền thờ Giêrusalem liên quan đến Chương Trình Cứu Thế của Chúa Giêsu, vì vậy, khi nghe Chúa nói: “Hãy phá hủy đền thờ nầy đi, trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Người Dothai nghĩ rằng Chúa Giêsu bị “tâm thần”, nhưng khi Người nói câu nầy, mặc nhiên không theo nhân tính, mà theo thiên tính của Người, nên chi, câu nói nầy hoàn toàn ứng nghiệm. Qua câu Lời Chúa trên, chúng ta hiểu được đền thờ Giêrusalem Thiên Quốc chính là Chúa Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa. Người chính là Thành Thánh Thiên Quốc mà Thiên Chúa Ba Ngôi hài lòng. Và cũng chính điều nầy, mà Người đến trong thế gian.

Vậy, hôm nay, những người bước theo Đức Kitô, qua mọi thời đại đã cảm nghiệm Lời Chúa, muốn minh chứng Lời Chúa là chân lý, là tình yêu, bất chấp thế lực trái ngược, các ngài đã dùng chính tình yêu đáp trả tình yêu, sẵn sàng chịu chết mà không oán hận. Đó là lý do mà Đền Thờ vật chất Giêrusalem bị tàn phá, vì không thể nào sánh được với những Thành Thánh Giêrusalem trên trời, đó chính là Đức Giêsu Kitô và những ai bước theo Người.

Sống Đạo chính là Tử Đạo, Tử Đạo chính là cách sống Đạo tốt nhất, vì: “Phàm ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, thì Ta sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời… “ (Lc 12, 8-9) (Mt 10, 32). Các Thánh Tử Đạo mà Gíao Hội Việt Nam long trọng mừng kính hôm nay, không những các ngài chỉ dùng cái chết mà minh chứng sự thật về Đức Kitô, mà là trước khi nhận phúc Tử Đạo các ngài đã sống đạo một cách anh dũng, vì không ai có thể không sống vì Đạo mà lại được hưởng phúc Tử Đạo được. Câu kết cho đoạn chia sẻ hôm nay là: “Khi sống Đạo tốt chính là lúc Tử Đạo”. Mong thay!

Lạy Thiên Chúa là Cha, Cha không muốn loài người suy tôn Cha bằng vẻ bề ngoài, dù là thành thánh, hay thánh đô, mà là Cha muốn loài người suy tôn Cha bằng chính tâm linh của họ. Vì dù là thánh thánh thì cũng chỉ là tòa nhà vật chất. Vì thế, Cha đã ban cho chúng con Thành Thánh Thiên Quốc là Đức Giêsu Kitô, Con Cha, Chúa chúng con, đế chúng con bước theo Người, xây dựng một Thành Thánh như Ý Cha ở trên trời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

21. Hy vọng

Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật áp chót của năm Phụng vụ, chúng ta đang sống trong những năm đầu của thiên niên kỷ mới, những năm có quá nhiều những xáo trộn, biến động trên thế giới và trong Giáo Hội. Đặc biệt chúng ta dừng lại một ít sự kiện và biến động trên thế giới có liên quan đến Tin Mừng chúng ta vừa nghe: chẳng hạn như các vụ động đất, lụt lội, hạn hán ở An độ, Nhật bản, và ngay cả ở miền Trung Việt Nam vừa qua; biến động ở Trung đông vẫn tiếp diễn giữa người Palestine và người Israel …

Chúng ta cũng dừng lại ít giây để ngẫm nghĩ về một sự kiện quan trọng nào đó xảy ra nơi chính bản thân hay trong gia đình, chẳng hạn trong gia đình có một người thân qua đời.

Tin Mừng chúng ta vừa nghe, trình thuật những viễn cảnh về “Thời cánh chung” với ngôn ngữ Khải huyền. Sách Khải huyền là dấu chỉ của Niềm Hy Vọng. Thiên Chúa nói: “Các con hãy tin vào Ta”. Dù cho các ngôi sao rơi rụng, dù cho các ngôn sứ suy sụp, dù cho mọi sự nhân loại sụp đổ, vẫn còn có thể có một tương lai… Dù khi cái chết diễn ra vẫn còn hy vọng triệt để, tuyệt đối… không dựa trên con người nhưng dựa trên Thiên Chúa.

Tin Mừng đã gởi cho chúng ta một sứ điệp hợp thời về ngày tận thế. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng không ai biết khi nào ngày tận thế sẽ đến, ngoại trừ Cha trên trời. Còn về vấn đề đó chúng ta nên hy vọng hơn là sợ hãi. Thiên Chúa tạo dựng chúng ta là để cứu độ chúng ta chứ không luận phạt. Vì thế, niềm hy vọng duy nhất của chúng ta là chính Đức Giêsu Kitô: “Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ duy nhất hôm qua, hôm nay và mãi mãi”. Bởi vậy, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Thầy là Đường, là sự Thật và là sự Sống”. Đức Giêsu là con đường, bởi vì Người là sự thật và là sự sống. Đức Giêsu là Sự Thật, bởi vì Người mặc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa, về Chúa Cha; Người chỉ đường cho chúng ta tới gặp Chúa Cha, Người cho thấy phải sống thế nào cho hợp ý Thiên Chúa. Đức Giêsu còn mặc khải về chính mình và sứ mạng của Người đối với nhân loại. Chúng ta đến với Đức Giêsu, lãnh nhận Lời của Người, nhận lấy giáo huấn của Người, rồi được thúc đẩy và được hướng dẫn đến với Chúa Cha. Đức Giêsu là con đường duy nhất dẫn tới Chúa Cha, bởi vì Người là sự sống. Đường của Người là dẫn tới mục tiêu cuối cùng là sự sống sung mãn với Chúa Cha. Chúa Cha đã ban sự sống cho Đức Giêsu, và chỉ có Đức Giêsu mới có thể ban sự sống vĩnh cửu ngay ở đời này cho những ai tin vào Người.

Niềm tin giúp chúng ta xác tín rằng thế giới này sẽ không kết thúc, thảm họa không thể đảo ngược. Hoặc nếu có kết thúc thì chỉ là một sự hoàn tất. Nhờ sự Phục sinh của Chúa Giêsu, Người đã thắng sự dữ và cái chết. Chúng ta nên lo lắng hơn về giờ chết của chúng ta, nó chắc chắn sẽ đến, hơn là về ngày tận thế, vì nó ở ngoài khả năng hiểu biết của chúng ta.

Qua hơn 2000 năm, lịch sử vẫn tiếp diễn với bao nhiêu người đã trở nên chứng nhân của niềm hy vọng. Đó chính là các vị thánh, chứng nhân của Đức Kitô, niềm hy vọng duy nhất của chúng ta; Người chính là Vua vũ trụ mà Giáo Hội sẽ mừng trọng thể vào Chúa nhật cuối của năm phụng vụ. Ngoài Đức Kitô ra, không có một vị vua nào trên trần gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Đúng vậy, lịch sử Giáo Hội đã chứng minh điều này, nó được thể hiện qua các thánh là những chứng nhân cho niềm tin vào thập giá và Phục sinh của Đức Kitô. Bởi vì các thánh đã kính chào thập giá Đức Kitô là niềm hy vọng duy nhất của các ngài; chính thập giá Đức Kitô cũng là ơn cứu độ và là vinh quang của thế giới! Trong lịch sử nhân loại đã có biết bao nhiêu vị thánh trở nên chứng nhân của niềm hy vọng. Từ các thánh tông đồ cho đến ngày nay đã có hàng hàng lớp lớp người là chứng nhân của cuộc Phục sinh của Đức Kitô. Phải một đoàn lũ các chứng nhân hy vọng: chứng nhân vì đức khiết tịnh, chứng nhân cho công lý; các chứng nhân đó gồm đủ mọi thành phần trong xã hội của mọi dân tộc (nam, phụ, lão, ấu…). Đó là cả một bức tranh của một nhân loại Kitô hữu hiền lành, khiêm nhường, không bạo lực, chống trả lại sự dữ, yếu đuối nhưng đồng thời cũng mạnh mẽ trong đức tin, đã yêu và tin cho tới bên kia cái chết.

Đặc biệt, các thánh Tử Đạo Việt Nam, mà Giáo Hội mừng kính vào ngày 24 tháng 11; đó chính là những chứng nhân của niềm hy vọng mà chúng ta đáng tự hào. Đúng vậy, các thánh Tử Đạo Việt Nam là gia sản cho chúng ta, những người Kitô hữu của thế kỷ 21. Chúng ta phải ôm ấp và lựa chọn niềm hy vọng quí báu này trong cuộc sống mỗi ngày, trong các khó khăn bé nhỏ cũng như lớn lao, trong sự lột bỏ mọi gây hấn, hận thù và bạo lực. Gia sản của các ngài, những chứng nhân của niềm hy vọng phải được tiếp nhận mỗi ngày qua một cuộc sống đầy yêu thương, hiền lành và trung tín.

Năm phụng vụ sắp kết thúc, chúng ta có thể nói như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II rằng: “Nỗi vui mừng của chúng ta là Chúa Kitô, nhưng Người cũng là hoan lạc của chúng ta”. Từ hơn 2000 năm nay, Hội thánh sống bằng sự hiện diện và niềm hy vọng ấy. Muốn được như vậy hai phương thế rất hiệu nghiệm cho cuộc sống Kitô hữu, đó là:

. Thứ nhất, hãy nên có đời sống thánh thiện.

. Thứ hai, hãy nên có tinh thần cầu nguyện.

Để bổ túc cho hai phương thế này, chúng ta cần có một đức tính căn bản đó là kiên trì. Vì như Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng ở câu kết rằng: “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình”.

Sau hết, xin được mượn lại lời của vị cha chung gởi cho tất cả chúng ta, nhân ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 16, như mời gọi chúng ta quyết tâm sống niềm hy vọng:

“Hỡi các bạn trẻ, hãy mở mắt và quan sát thật kỹ: đó không phải là con đường dẫn đến sự sống đích thực, nhưng là con đường nhận chìm cho chết. Đức Giêsu đã nói: “Quả vậy ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Đức Giêsu không bỏ mặc chúng ta trong ảo tưởng: “Được cả thế gian mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có ích lợi gì?” Bằng chân lý của những lời cứng cỏi nhưng chất chứa bình an này, Đức Giêsu mặc khải cho ta bí quyết của cuộc sống đích thực (x. Bài nói chuyện với giới trẻ Rôma 2.4.1998).

Vậy đừng sợ đi trên con đường Chúa đã đi. Với tuổi trẻ, chúng con hãy ghi dấu ấn của niềm hy vọng và lòng nhiệt thành vốn là đặc trưng của tuổi chúng con trên ngàn năm thứ ba. Nếu chúng con để cho ân sủng tác động trên chúng con, và hoàn thành cách nghiêm túc lời cam kết này hằng ngày, thì chúng con sẽ biến thế kỷ mới này thành một thời gian tốt đẹp hơn cho mọi người”.

Cầu chúc các bạn nên chứng nhân niềm hy vọng nơi Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

22. Đau khổ–Lm. Mark Link, SJ

Chủ đề: “Sự đau khổ sẽ khiến bạn trở nên cay đắng hoặc trở nên tốt hơn”

Chúa Giêsu nói, “Hãy đứng vững, và anh chị em sẽ cứu được chính mình” (Lc 21,19)

Cha Anton Luli là một linh mục dòng Tên. Ngài bị Cộng Sản bắt ngay trước ngày Giáng Sinh 1947. Ngài viết trong nhật ký:

Vào đêm Giáng Sinh… họ dùng dây treo tôi lơ lửng trên không… có nhón gót thì mới chạm được mặt đất.

[Sau khi bị treo ba giờ đồng hồ] Tôi cảm thấy thân thể… như lìa xa tôi. Cái lạnh từ từ len vào mọi chi thể và… tim tôi như ngừng đập… Tôi kêu lên tuyệt vọng…

Những người tra tấn bước vào… kéo tôi xuống, và họ đá tôi túi bụi. Đêm hôm đó… tôi mới cảm nghiệm được ý nghĩa thực sự của… Thập Giá.

Nhưng cùng với sự đau khổ tôi chịu… tôi cảm thấy sự hiện diện đầy an ủi của Chúa Giêsu ở trong lòng… Vào những lúc ấy, sự hỗ trợ của Người là một điều mà tôi chỉ có thể gọi là “phi thường” thật vui sướng thật an ủi mà Chúa Giêsu đã đem cho tôi.

Điều mà Cha Luli không thấy trong đêm Giáng Sinh kinh hoàng ấy là ngài bị kết án tù 40 năm. Trong thời gian ấy, mười bẩy năm ngài bị giam riêng trong ngục tối. Ngài kết thúc nhật ký bằng những lời sau:

Họ thả tôi trong dịp ân xá năm 1989. Lúc ấy tôi đã 79 tuổi. Tôi chưa bao giờ cảm thấy oán giận những người đã cướp đi cuộc đời tôi.

Sau khi được phóng thích, tình cờ tôi gặp lại một trong những người đã tra tấn tôi trên đường phố: tôi cảm thấy thương hại anh ta… và tôi đến ôm lấy anh.

Có hàng ngàn linh mục từng bị bách hại vì… Đức Kitô… nhưng không ai có thể cướp đi tình yêu của chúng tôi dành cho Chúa Giêsu trong tâm hồn.

Câu chuyện lạ thường của Cha Luli đưa chúng ta về bài Phúc Âm hôm nay. Trong đó, Chúa Giêsu nói về sự phá hủy Đền Thờ và ngày tận thế.

Khi các môn đệ hỏi Người khi nào những sự kiện ấy sẽ xảy đến, Chúa Giêsu nói họ phải thấy ba dấu hiệu.

Trước hết, các ngôn sứ giả mạo sẽ xuất hiện. Chúa Giêsu nói: “Nhiều người, tự xưng là phát ngôn viên của Thầy, sẽ đến và tuyên bố… ‘Đã đến lúc!’ Nhưng đừng theo họ.” Luca 21:8

Thứ hai, các điều kinh hoàng sẽ xảy ra trên mặt đất và trên trời.

Thứ ba, và sau cùng, Chúa Giêsu nói:

“Trước khi những điều ấy xảy ra… anh chị em sẽ bị… bách hại… bị giam tù… [và] bị đưa ra trước vua quan vì Thầy. Đây sẽ là cơ hội cho anh chị em loan báo Tin Mừng… Hãy đứng vững [qua mọi điều ấy] và anh chị em sẽ cứu được chính mình.” Luke 21:12-13, 19

Và điều đó đưa chúng ta trở về với câu chuyện của Cha Luli. Ngài đã kinh qua những thử thách, bách hại, và tù đầy vì Chúa Giêsu.

Và ngài đã dùng những điều ấy như một cơ hội để loan báo Tin Mừng. Cũng như Chúa Giêsu, ngài đã tha thứ cho những người bách hại ngài. Và như Chúa Giêsu, ngài đã đứng vững cho đến cùng.

Một trong những kết quả ấy là câu chuyện đời ngài khuyến khích và phấn khởi chúng ta hãy đáp ứng với các thử thách và đau khổ như ngài đã thi hành.

Có lẽ chúng ta không còn sống để chịu những thử thách và đau khổ của ngày tận thế. Nhưng chắc chắn một lúc nào đó mọi người sẽ phải trải qua những thử thách và đau khổ trong cuộc đời.

Điều này khiến câu chuyện của Cha Luli thích hợp với các bài đọc hôm nay. Câu chuyện ấy đảm bảo rằng nếu chúng ta chấp nhận những thử thách và đau khổ của chúng ta, những gian nan ấy có thể trở nên nguồn ơn sủng lớn lao cho chúng ta, như đã xảy ra cho Cha Luli.

Tỉ như, một kết quả của những đau khổ và thử thách là Cha Luli đã cảm được sự hiện diện đầy trợ giúp của Thiên Chúa mà chưa bao giờ ngài cảm được-và rất ít người có được.

Điều đó đưa chúng ta đến một điểm quan trọng. Mọi thử thách và đau khổ sẽ khiến chúng ta trở nên cay đắng hoặc trở nên tốt hơn, tùy theo phương cách mà chúng ta chấp nhận.

Câu chuyện thật sau đây sẽ cho chúng ta thấy điều này.

Vào một ngày kia khi học lớp bẩy, John Erickson nhìn lên bảng và không thấy gì hết. Em sững sờ. Sau đó em lại thấy được nhưng không rõ như trước.

Ít lâu sau, cơn ác mộng được sáng tỏ. Em biết là có thể em sẽ bị mù. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã ban phúc cho em để có được một người em sinh đôi. Cha mẹ em mua chiếc xe đạp hai chỗ ngồi, và hai em có thể đi bất cứ đâu. John ngồi đằng sau; em kia ngồi đằng trước.

Khi đến tuổi trung học, John cũng đi học chung với em mình-thay vì học trường dành cho người khiếm thị.

Để rút ngắn câu chuyện, John làm trưởng lớp. Em bơi lội, trượt tuyết, và làm đủ mọi chuyện y như các trẻ em khác.

Sau khi xong trung học, John lên đại học và tốt nghiệp MBA ở trường Northwestern University. Ngày nay em là phó chủ tịch ngành đầu tư chứng khoán của một ngân hàng lớn nhất Chicago. Em cũng lấy vợ và rất yêu thương gia đình.

Ngày nay, hiển nhiên là em bị mù, nhưng em rất biết ơn Thiên Chúa về những phúc lành. Một trong những phúc lành lớn lao nhất, em cảm thấy là “sự thách đố” Người ban cho em đó là sự tương giao cá biệt với Chúa Giêsu.

John cho biết vào năm 23 tuổi, em tham dự nhóm học hỏi Kinh Thánh. Một ngày kia, bỗng dưng em nhận ra Chúa Giêsu ở với em-và luôn luôn hiện diện trong một phương cách đặc biệt. Sau đó, em không bao giờ cảm thấy cô đơn nữa. Và vì thế các bài đọc ngày hôm nay đảm bảo chúng ta rằng nếu chúng ta cầu nguyện và kiên trì trong những lúc thử thách và đau khổ-như Cha Luli và John đã trải qua-chúng ta sẽ chiến thắng, như họ.

Đây là tin mừng trong các bài đọc hôm nay.

Đây là tin mừng mà chúng ta cử mừng trong phụng vụ này.

Đây là tin mừng mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đem về nhà hôm nay.

Chúng ta hãy kết thúc với những lời của Chúa Giêsu. Những lời này tóm lược lý do tại sao chúng ta sẽ kết thúc cách vinh quang nếu chúng ta cầu nguyện và kiên trì khi bị thử thách và đau khổ. Chúa Giêsu nói:

“Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong các con. Cũng như một cành không thể tự nó sinh hoa trái trừ khi dính liền với thân, các con cũng vậy nếu các con không ở trong Thầy.

“Thầy là thân cây, các con là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy trong họ thì sẽ sinh nhiều hoa trái.” (Ga 15, 4-5)

23. Đức Tin

Đức Giêsu đã không giấu giếm điều gì với các môn đệ. Người nói với họ những sự việc rồi sẽ gặp khó khăn. Khi Người nói về thế gian. Người rất thực tế. Người nói về chiến tranh và cách mạng, động đất, dịch bệnh và nạn đói, về sự bách hại và cầm tù, phản bội, thù ghét và giết chóc.

Người nói với họ những điều xảy ra ấy sẽ đem đến cho họ một cơ hội để làm chứng cho Người và cho Tin Mừng. Chính trong những thời kỳ đen tối, cần có ánh sáng. Chính trong những thời kỳ giả dối, cần có sự thật. Chính trong những thời kỳ chiến tranh, cần có hòa bình. Và chính trong những thời kỳ khó khăn, cần có chứng nhân Kitô giáo.

Bằng việc báo cho họ biết trước, Đức Giêsu trang bị cho họ. Người nói: Anh em cần sự khôn ngoan – đừng thất vọng. Anh em cần lòng can đảm – đừng sợ hãi. Anh em cần chống đỡ quyền lực và có sức chịu đựng – đừng bỏ cuộc. Người sẽ làm cho họ chiến thắng trong thời kỳ sau cùng miễn là họ phải luôn kiên trì.

Thời đại chúng ta đem đến nhiều cơ hội để làm chứng cho Đức Giêsu và Vương Quốc của Người. Nhiều bi kịch và tai họa xảy ra trong thế giới chúng ta có thể dễ dàng dẫn chúng ta đến chỗ tuyệt vọng và làm cho chúng ta tin rằng chúng ta là những nạn nhân đáng buồn của hoàn cảnh. Nhưng Đức Giêsu không nhìn các biến cố như thế. Người gọi các biến cố là các cơ hội.

Đức tin dường như phát triển trong nghịch cảnh. Dĩ nhiên, một đôi khi đức tin được sinh ra vì nghịch cảnh. Trong khía cạnh này, nó giống với một số loài hoa dại: Khi trồng nó trong vườn, nó sẽ cho hạt; nhưng khi trồng chúng trên sườn núi, chúng sẽ nở hoa.

Trong chế độ cộng sản ở nước Nga, có một bé gái mười tuổi mà cả gia đình bị phân tán trong những trại lao động cách xa nhau vởi vì đức tin của họ vào Thiên Chúa. Cô bé trước tiên được đưa đến một cô nhi viện. Ở đây cô từ chối tháo bỏ cây Thánh giá mà mẹ cô đã đeo quanh cổ cô trước khi chia tay. Cô đã cột một cái nút để người ta không thể cởi khi cô đang ngủ. Cuộc chiến đấu tiếp tục nhưng đã không tốt đẹp. Cô không rời bỏ cây thánh giá. Cô cũng đã từ chối để mình bị cải tạo, cô không học những bài học tuyên truyền của Đảng. Trong viện cô nhi, cô bị buộc sống với những thiếu niên cặn bã của xã hội Nga. Tuy nhiên, cô từ chối chửi lộn và ăn cắp. Người ta không bao giờ khuất phục được cô. Cô đã kết thúc đời mình sau mười năm trong một trại lao động.

Trong một thế giới với rất nhiều sự biến động xã hội và chính trị, người có đức tin thường bị coi là ngây thơ, vô tích sự và không thích hợp. Tuy nhiên, chúng ta không nên sợ hãi thái độ hoài nghi và vô liêm sỉ, nhưng tin rằng. Thiên Chúa sẽ cho chúng ta sức mạnh để giữ vững lập trường.

Điều nâng đỡ chúng ta là niềm tin rằng sau cùng cái thiện sẽ thắng cái ác. Vì thế, dù ở giữa biến động, chúng ta cũng vui mừng bởi lẽ chúng ta biết rằng Thiên Chúa ở với chúng ta. Nhận thức ấy cho chúng ta sức mạnh để sống qua bi kịch cuộc đời với tinh thần không bị khuất phục của chúng ta.

Đức Giêsu nói về việc Đền thờ bị tàn phá. Điều này đã đến và làm cho mọi người Do thái tan tác. Thế hệ chúng ta đã chứng kiến những thay đổi to lớn. Không phải một công trình mà cả một thế giới đã qua đi. Điều duy nhất tồn tại là sự trung tín của Thiên Chúa. Điều duy nhất không thay đổi là tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta.

Đức tin không phải là một phương thế để ước muốn sự việc khác đi. Không ai giúp đỡ cho người đã khước từ. Đức tin cho chúng ta sức mạnh để đương đầu với thực tại vốn như thế. Thiên Chúa không tránh cho chúng ta sự đau khổ, nhưng cứu giúp chúng ta khỏi sự tuyệt vọng.

24. Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Có gì trên đời tồn tại mãi, không có ngày cùng tận không?

2. Trong bản thân ta, trong cuộc đời ta, những gì sẽ chóng qua và những gì tồn tại lâu dài? Giữa hai thứ ấy, người khôn ngoan nên quan tâm tới thứ nào? Bản thân ta thường quan tâm đến thứ nào?

3. Thế giới này có tồn tại vĩnh viễn không? Có những dấu hiệu nào báo trước ngày cùng tận của nó không? Thời của chúng ta đã có những dấu hiệu ấy chưa? Nếu có thì chúng ta nên có thái độ nào?

Suy tư gợi ý:

1. Mọi sự trên đời đều chóng qua, đều có ngày cùng tận

Chúng ta đang sống trong một thế giới vô thường, tạm bợ, mọi sự đều thay đổi, mọi sự đều qua đi (x. 1 Cr 7,31b; 1 Ga 2,17). Không một điều gì sự gì thuộc thế giới này tồn tại mãi, cho dù hiện tại chúng có vẻ kiên cố vững chắc tới đâu đi nữa. Đức Giêsu đã nói lên chân lý ấy trong bài Tin Mừng hôm nay: “Nhân có mấy người nói về Đền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giêsu bảo: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào”“. Lúc ấy, người Do Thái không thể nào tưởng tưởng được Đền Thờ Giê-ru-sa-lem đẹp và quí giá như thế, kiên cố và vĩ đại như thế, chỉ 40 năm sau (từc năm 70), lại có thể trở thành bình địa. Đây là chân lý quan trọng mà chúng ta cần phải suy gẫm để sống cho phù hợp và khôn ngoan.

“Đời sống con người chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích” (Tv 103,15-16). Đời sống chóng qua như thế, nếu ta cứ tìm và thu gom cho mình những thứ vô thường tạm bợ, thì khi đời sống này qua đi, ta sẽ hoàn toàn trắng tay khi bước vào đời sống vĩnh cửu. Coi chừng kẻo ta chỉ được giàu có trong chốc lát để rồi muôn đời phải nghèo khổ! Còn gì dại dột bằng? Người khôn ngoan biết dùng những thứ chóng qua này để làm cho mình giàu có trong đời sống vĩnh cửu (xem dụ ngôn người quản lý bất trung, Lc 16,1-13). Đừng vội chóa mắt vì sự vinh quang hay hạnh phúc mà những cái chóng qua này đem lại. Vinh quang hay hạnh phúc ấy cũng rất chóng qua! Hãy suy nghĩ: “nếu cái chóng qua mà còn được vinh quang như thế, thì cái tồn tại mãi mãi lại chẳng vinh quang hơn sao?” (2 Cr 3,11).

2. Cái gì trong ta và trong cuộc đời ta tồn tại vĩnh cửu?

Chỉ những gì thuộc về thế giới vĩnh cửu mới tồn tại. Cái vĩnh cửu ấy đã được gieo mầm trong tâm hồn chúng ta từ khi chúng ta bắt đầu hiện hữu. Đó là bản tính thần linh và thứ tình yêu phù hợp với bản tính ấy: “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4). Trong thế giới vô thường này chúng ta có thể vun trồng và làm cho bản tính thần linh và tình yêu cao cả ấy lớn lên bằng những tư tưởng, lời nói và việc làm cụ thể phù hợp với bản tính và tình yêu ấy. Nói cách khác, bằng cách làm theo ý của Thiên Chúa: “Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa” (1 Ga 2,5). Bản tính hay tình yêu thần linh ấy sẽ mất đi nếu ta cứ hành động ngược lại những gì mà bản tính hay tình yêu ấy đòi hỏi: “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?” (1 Ga 3,17).

3. Chúng ta đang hành động thế nào? kiểu khôn hay kiểu dại?

Người khôn thì nhắm lợi ích lâu dài, còn kẻ dại chỉ nhắm lợi ích trước mắt. Nguyên tắc ấy ai cũng biết, nhưng trong thực tế người ta vẫn sống ngược lại nguyên tắc khôn ngoan ấy do bị lóa mắt vì những lợi ích trước mắt. Chẳng hạn, ai cũng biết câu: “Quan nhất thời, dân vạn đại”. Nhưng trong xã hội, biết bao kẻ sẵn sàng luồn cúi, nịnh bợ những ông tham quan, những thủ trưởng bất tài thất đức vốn chỉ tại chức một thời gian nào đó, chỉ để họ ban phát cho mình chút ân huệ mà sẵn sàng làm hại anh em, bạn bè mình, bất chấp mình phải sống cả đời giữa những người thân yêu ấy. Biết bao kẻ sẵn sàng ca tụng, nịnh hót những ông vua, những chế độ bạo tàn, chỉ vì chút quyền lợi nay còn mai mất của mình, bất chấp sự nịnh hót đó bất lợi cho toàn dân, trong đó có biết bao người thân mình đang phải sống với, phải gặp mặt hằng ngày, và sẽ có lúc trong đời mình phải cần tới họ, phải nhờ họ cưu mang! Những kẻ dại dột ấy sợ bị thất sủng trong hiện tại trước mặt kẻ quyền thế hơn sợ bị miệng đời nguyền rủa mãi mãi! Kinh nghiệm cuộc đời cho thấy những kẻ sẵn sàng bán đứng anh em mình, những kẻ sống không có hậu ấy thường kết thúc cuộc đời trong đau khổ, cô đơn, và nhục nhã! Cũng vậy, thật dại dột những người chỉ biết có lợi ích chóng qua đời này, không nghĩ gì đến hạnh phúc lâu dài đời sau! Của cải, quyền lực, địa vị, danh vọng… tất cả đều sẽ qua đi như lời Thánh Gio-an: “Thế gian đang qua đi cùng với những dục vọng của nó. Chỉ những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa mới tồn tại mãi mãi” (1 Ga 2,17). Chỉ những gì vĩnh cửu mới tồn tại lâu dài!

4. Ngày cùng tận của thế gian

Mọi sự trong thế gian đều có ngày cùng tận, và ngay cả chính thế gian cũng có ngày cùng tận của nó. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói về ngày cùng tận của thế gian và những điềm báo trước ngày ấy. Điềm Ngài nói tới trước hết là các ngôn sứ giả đội lốt chiên (x. Mt 7,15) mạo danh người của Thiên Chúa (x. Lc 21,8) để lường gạt nhiều người (Mt 21,11), nhờ thế họ được thế gian trọng vọng và ưu đãi (x. Lc 6,26). Điềm kế tiếp là chiến tranh giữa các dân tộc, giữa các quốc gia, cùng với các thiên tai (động đất, bão lụt, dịch tễ, đói kém…). Trong thời gian ấy, những người công chính hay các ngôn sứ thật bị bắt bớ, ngược đãi, bách hại, cầm tù, hãm hại… Theo lời Đức Giêsu, thời này là một cơ hội tốt để người Kitô hữu làm chứng cho Thiên Chúa, cụ thể là làm chứng cho công lý và tình yêu của Ngài. Chính vì làm chứng như thế mà họ “bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp”, kết án, làm mặt lạ, “bị mọi người thù ghét”, bỏ rơi, thậm chí bị giết. Nhưng không một sự gì xảy ra ngoài thánh ý Thiên Chúa: “dù chỉ một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu!”. Hãy tự hỏi ta có quan tâm đến việc làm chứng cho Ngài, cho công lý và tình thương không? Cứ xem thời điềm thì biết được thời đó sắp đến hay chưa. Người khôn ngoan thì luôn tỉnh thức vì biết rằng “ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2). Do đó, “hãy sống như giữa ban ngày” (Rm 13,13), “sống trong ánh sáng” (1 Ga 1,7), “không sống trong bóng tối kẻo ngày ấy như kẻ trộm đến bất chợt không hay biết” (1 Tx 5,4). “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36). “Ai bền chí đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22; 24,13; Mc 13,13).

Cầu nguyện

Lạy Cha, biết bao điềm mà Đức Giêsu nói về ngày cùng tận của thế gian đang xảy ra trước mắt con, nhưng dường như chúng không ảnh hưởng gì đến thái độ nội tâm của con và của bao người chung quanh con. Con vẫn sống như thể con sẽ tồn tại mãi, như thể địa vị và hoàn cảnh tốt đẹp của con sẽ tồn tại mãi, như thể thế gian và mọi sự trong đó sẽ tồn tại mãi! Xin cho con ý thức được thái độ như thế thật là ngu xuẩn. Xin cho con biết tỉnh thức như Đức Giêsu đã cảnh báo, để khi ngày cùng tận ấy xảy đến, con vẫn luôn đứng vững trước mặt Cha. Amen.

25. Diễn từ về Giêrusalem đổ nát–Lm. Giuse Nguyễn An Khang

Đứng trên sườn đồi núi Cây Dầu nhìn xuống, các môn đệ trầm trồ khen ngợi vẻ đẹp lộng lẫy và hùng tráng của đền thờ, óng ánh trong nắng vàng. Đền thờ Giêrusalem quả là đẹp. Nó được vua Hêrôđê Cả xây từ năm 20 trước Công Nguyên và chỉ hoàn tất vào năm 63 sau Công Nguyên. Nền móng của nó được xây bằng những tảng đá khổng lồ, mà một trong những khối đá cân nặng không dưới 370 tấn.

Theo lời sử gia Lamã, Tacite: “Đền thờ giầu sang chưa từng thấy, những đá cẩm thạch, đồ vàng, màn trướng, đồ gỗ ốp tường chạm trổ và những đồ vật quý dâng cúng, làm cho các khách hành hương phải thán phục. Người ta nói: “Người nào không nhìn thấy Giêrusalem trong vẻ huy hoàng của nó, người ấy không bao giờ thấy niềm vui. Người nào chưa bao giờ nhìn thấy đền thờ, người ấy chưa bao giờ nhìn thấy một thành phố thực sự đẹp”.

Có thể đây là những lời hơi quá, nhưng dầu sao người Dothái rất tự hào về sự tráng lệ của đền thờ. Hơn nữa, đối với họ, đền thờ còn là một dấu chỉ minh nhiên sự hiện diện của Thiên Chúa, Thiên Chúa ở với dân Người nơi đền thờ. Còn đền thờ, còn giao ước; mất đền thờ, dân tộc họ cũng sẽ diệt vong.

Trước sự ngưỡng mộ chính đáng đó, Đức Giêsu bảo: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng sẽ có ngày bị tàn phá, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào”. Chính vì lời này, Thượng Hội Đồng đã kết án tử (Mt 26,61). Đức Giêsu biết điều đó nhưng Người không hòa theo sự thán phục của các môn đệ, Người phi bác sự tin tưởng của con người cho rằng, các công trình của họ luôn trường tồn bền vững. Người cho biết mọi sự chỉ là tạm bợ, dù là những công trình đẹp nhất của nhân loại: Mọi sự sẽ bị tàn phá, đền thờ sẽ bị phá hủy.

Các môn đệ muốn biết khi nào xảy ra và có điềm gì báo trước? Đức Giêsu không cho biết, Người chỉ giúp họ can đảm và bình thản đón nhận biến cố bằng cách cảnh giác ba điều:

1. Đừng tin những kẻ mạo danh Người

Trong thời gian giữa cái chết của Hê-rô-đê năm thứ tư trước công nguyên và những tàn phá Giêrusalem vào năm 70 rồi năm 135, nhiều người Dothái tự cho mình là ngôn sứ cuối cùng, hoặc Đấng Messia. Sử gia Joseph Flavius gọi họ là những tên bịp bợm, những tên cướp cạn có tham vọng thành lập vương quốc của Đấng Messia. Luca trong sách công vụ có kể tên hai người trong bọn họ: Theodas, người Dothái đã lôi cuốn được chừng 400 đồ đệ (Cvsđ 5,36). Và một người Aicập đã lôi cuốn được 4000 người đi theo (Cvsđ 21,38).

Đức Giêsu cảnh giác phải đề phòng những kẻ mạo danh Ngài, khi họ nói: “chính Ta đây”, đừng tin.

2. Đừng tin ngày thế mạt đã đến gần

Ngày 30-8-70, tướng Titus đem đại quân đến vây thành Giêrusalem. Sau một thời gian vây hãm, hàng triệu người bị giết và chết đói, một tên lính cầm một dùi lửa, ném vào trong khuôn viên đền thờ, lửa bốc cháy kinh khủng, không sao dập tắt được, Đền thờ Giêrusalem bị phá huỷ. Trước biến cố đó, nhiều người nghĩ, ngày thế mạt đã đến gần. Đức Giêsu cảnh giác: Đừng tin, Người loại bỏ mọi tương quan giữa hai sự kiện. Theo Luca, nếu người ta gắn liền biến cố đền thờ bị phá huỷ với ngày thế mạt, đó là một hiểm họa, vì sẽ làm cho các Kitô hữu háo hấc nghe theo ảo giác của những ngôn sứ giả, của những kẻ bịp bợm cho rằng ngày thế mạt đã gần kề, Nước Thiên Chúa sắp tỏ hiện trong vinh quang, Con Người sẽ ngự xuống trên mây trời. Các lời loan báo như thế tạo nên một cơn sốt tạm bợ, sẽ gây thất vọng và khủng hoảng đức tin, người ta sẽ sống trong chờ đợi, không làm gì, vì thế Đức Giêsu nói: Đừng tin họ.

Thực vậy, sau khi đền thờ Giêrusalem bị tàn phá, vua Adrien ra lệnh đào tận gốc vết tích đền thờ cũ và xây lên trên một ngôi chùa thờ thần Jupiter. Năm 363, vua Giulianô, một người bỏ đạo, cháu Constantin Đại Đế, muốn cho lời Chúa hết linh nghiệm đã cho phép người Dothái xây lại đền thờ, nhưng có lửa từ dưới nền móng bốc lên thiêu rụi thợ xây. Công việc bỏ dở và ngày nay trên nền Đền thờ cũ là một giáo đường Hồi giáo, đền Omar. Đã 2005, Đền thờ Giêrusalem bị tàn phá, ngày thế mạt chưa đến, chỉ biết rằng, giữa hai thời kỳ đó là thời của dân ngoại dầy xéo lên đền thờ, bao giờ tận cùng, không ai biết.

3. Đừng sợ những kẻ bách hại

Đức Giêsu không giấu gì các môn đệ. Người nói với họ, mọi sự rồi sẽ rất khó khăn. Khi nói về thế giới, Người rất thực tế, Người nói đến chiến tranh loạn lạc, động đất, dịch bệnh, đói kém. Khi nói về công việc rao giảng Tin mừng, Người cho biết, họ sẽ bị bách hại, tù đầy, phản bội thù ghét, giết chóc, và kẻ thù có thể chính là người nhà. Trước những thảm hoạ và tai ương đó, có thể dễ dàng khiến các Kitô hữu thất vọng và cho rằng họ là những nạn nhân.

Nhưng Đức Giêsu bảo, đó không phải là tai hoạ, song là cơ hội để người tín hữu làm chứng cho Người và cho Tin mừng. Trong cảnh tối tăm cần có ánh sáng, trong sai lầm cần có chân lý, trong thù hận cần có yêu thương, trong chiến tranh cần có hoà bình, và trong bách hại cần có chứng tá của Tin mừng. Trước những bách hại, người Kitô hữu đừng lo phải đương đầu thế nào? Hãy ghi lòng tạc dạ: “Chính Thầy sẽ ở cùng anh em, sẽ cho anh em nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thù của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được”(Lc 21,14-15).

Lạy Chúa, chúng con đang sống trong một thế giới luôn thay đổi, đầy những thảm hoạ, xin cho chúng con luôn an tâm trong tình yêu Chúa và được hưởng sự bình an mà thế giới này không thể mang lại. Chúng con cầu xin.

26. Ngày tận thế

Vũ trụ vật chất này cũng như cuộc đời chúng ta đã có một khởi đầu, thì cũng sẽ có một kết thúc và qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu mô tả một cách cụ thể sự hủy diệt Giêrusalem và đền thờ. Đối với người Do Thái, sự hủy diệt hai nơi này đồng nghĩa với ngày tận thế. Vì vậy, Giáo Hội muốn chúng ta dừng lại để suy nghĩ vê sự kiện này trong những tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ.

Khi ngày trọng đại ấy xảy đến, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu. Vậy thì ngay từ bây giờ, cuộc sống của chúng ta, từ tư tưởng, lời nói đến việc làm có thấm nhuần tình yêu hay không? Bởi vì tương lai thì bắt đầu từ ngày hôm nay. Và cuộc sống vĩnh cửu nảy mầm từ cuộc sống hiện tại. Chúng ta hãy hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống xem chúng ta đã thực thi giới luật yêu thương của Chúa như thế nào?

Trước hết là trong tư tưởng. Chúng ta thường bảo: lòng đầy thì mới tràn ra ngoài, tư tưởng thì hướng dẫn hành động. Vậy thì trong cõi lòng, chúng ta có nuôi dưỡng sự hận thù ghen ghét hay không? Chúng ta có muốn đặt mình lên trên người khác để rồi soi mói, bắt lỗi họ hay không?

Tiếp đến là trong lời nói. Chúng ta thường bảo: người là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng nói. Ngôn ngữ và tiếng nói là điều Chúa trao ban để chúng ta chuyển thông tư tưởng hầu tạo được một sự hòa thuận, cảm thông. Thế nhưng chúng ta có biết cẩn thận, đắn đo trong lời nói. Có biết ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói, để tránh đi những lời nói nóng nảy, chửi bới cộc cằn, cũng như những lời nói dèm pha hạ nhục uy tín người khác hay không? Bởi vì lời nói chẳng mất tiền mua, liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Có ba vị lãnh đạo tôn giáo, quyết định tĩnh tâm chung với nhau. Trong giờ chia sẻ kinh nghiệm sống, họ nói với nhau về những thiếu sót thường vấp phải. Vị linh mục Công giáo thú nhận: Tôi hơi chè chén một chút. Vị giáo sĩ Do Thái thì nói: mới đây, tôi có bài bạc gian tham đôi lần. Còn vị mục sư Tin lành thì bảo: thú thực với hai vị, tôi chả giữ kín được điều gì cả. Tôi có tật ham nói này nói nọ mà không tài nào sửa được. Câu chuyện trên khiến chúng ta tự hỏi: tôi đã sử dụng lời nói như thế nào.

Sau cùng là trong việc làm, chúng ta đã thực sự giúp đỡ anh em, nhất là những kẻ túng thiếu bất hạnh hay chưa?

Cách đây nhiều năm, có chín người tàn tật đã thành công trong việc leo lên một ngọn núi cao 4000 mét. Chín người ấy gồm một người què, một người mắc bệnh kinh phong, hai người điếc và năm người mù. Được hỏi là đã leo lên đỉnh núi như thế nào, thì một người trong nhóm đã trả lời một cách đơn sơ:

– Chúng tôi đã nhận được rất nhiều sự trợ giúp của nhau.

Câu chuyện trên khiến chúng ta tự hỏi: chúng ta đã thực sự giúp đỡ lẫn nhau hay chưa. Chúng ta có biết nương tựa vào nhau trên bước đường tiến lên núi thánh, là quê hương Nước Trời hay chưa?

Tóm lại, chúng ta có thực thi giới luật yêu thương thì chúng ta mới được Chúa đón nhận vào quê hương nước trời trong ngày sau hết, bởi vì tương lai thì đang bắt đầu từ ngày hôm nay và cuộc sống vĩnh cửu được bắt đầu từ những tháng năm hiện tại.

27. Thời gian

Trong kho tàng văn hóa phong phú của Trung Quốc, người ta đọc thấy một câu chuyện răn đời sau đây: “Ngày xửa ngày xưa có một vị hoàng đế, tuổi đã quá bát tuần, mà vẫn chưa đọc được một quyển sách nào của các bậc thánh hiền. Bộ sách mà nhà vua tthèm khát được đọc là Bộ sách Lịch sử loài người.

Nhưng khốn nỗi cuộc đời nhà vua, từ mái đầu xanh đến lúc tóc đã bạc phơ, răng đã long, không lúc nào được rảnh rỗi thư nhàn. Cuộc đời nhà vua luôn luôn sống trên lưng ngựa, nằm sương gối tuyết trên bãi chiến trường của thời chinh chiến loạn lạc. Nay chinh phục nước này, mai ngăn chặn nước kia xâm lăng. Đôi mắt của nhà vua chỉ nhìn thấy có gươm giáo và máu lửa. Nhà vua rất ân hận vì trong suốt cuộc đời chưa có hân hạnh được đọc một trang sách của các bậc thánh hiền.

Nay chiến tranh đã tạm yên, đất nước đã thanh bình. Nhà vua muốn dành thời gian còn lại để đọc cho kỳ được Bộ sách Lịch sử Loài người, để tìm hiểu xưa nay con người sống để làm gì, chết đi về đâu?! Nhưng phiền một nỗi, tuổi của nhà vua đã quá cao, mà bộ sách lại quá dầy. Biết sức mình không thể đọc hết bộ sách, nhà vua ra lệnh cho viên quan ngự sử làm thay mình công việc khó khăn ấy. Với sự giúp đỡ của một ủy ban 50 người, viên quan ngự sử bắt đầu miệt mài đọc sách.

Sau mười năm cắm cúi đọc, viên quan ngự sử và ủy ban đã có thể tóm tắt Bộ sách Lịch sử Loài người thành 10 cuốn và mang vào triều đình dâng lên nhà vua. Nhưng vừa nhìn thấy 10 cuốn sách và đo lường tuổi tác sức khỏe của mình, nhà vua lại cảm thấy không còn đủ sức đọc hết bộ sách, dù đã được rút ngắn thành 10 cuốn! Nhà vua bèn ra lệnh cho viên quan ngự sử và ủy ban tiếp tục làm việc thêm một thời gian nữa.

Sau 5 năm làm việc thêm, viên quan ngự sử và ủy ban đã tóm lược Bộ sách Lịch sử Loài người thành 5 cuốn. Nhưng khi ủy ban và viên quan ngự sử mang 5 cuốn sách vào cung ra mắt nhà vua thì cũng chính là lúc nhà vua đang hấp hối trên giường bệnh. Biết mình không còn sống bao lâu, cũng không thể nào đọc được dù chỉ một trang sách, nhà vua mới thều thào nói với viên quan ngự sử hãy tóm tắt Bộ sách Lịch sử Loài người chỉ trong một câu thôi.

Lúc đó viên quan trưởng ban tu sửa mới tâu trình nhà vua như sau: “Hạ thần xin vâng lệnh. Lịch sử loài người từ khai thiên lập địa đến giờ là con người sinh ra để khổ rồi chết!” Nhà vua gật đầu… đôi môi khô héo của nhà vua bỗng nở một nụ cười mãn nguyện rồi tắt thở! Giữa lúc ấy, viên quan ngự sử cũng nấc lên mấy tiếng rồi trút hơi thở cuối cùng!

Nhìn lại một năm sắp qua, với biết bao nhiêu biến cố vì khổ đau, bệnh tật, tai nạn, động đất, lũ lụt, chiến tranh, chết chóc đã xảy ra với loài người cũng như cho gia đình và bản thân, có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng muốn đi đến kết luận bi quan như viên quan ngự sử của nhà vua trong câu chuyện răn đời trên đây: “Con người sinh ra để khổ rồi chết!”

Chúng ta có bi quan nhìn đời như viên quan ngự sử không? Hoàn toàn không! Chúng ta không chối bỏ thực tại của khổ đau, của bệnh tật, của chết chóc. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa tạo dựng nên thế giới, tạo nên chúng ta là để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Cho nên hướng đi lịch sử của loài người không phải là ngõ cụt của sự chết mà là sự sống. Bên kia của thất bại khổ đau, bên kia của bệnh tật chết chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.

Vì thế không có tâm tình nào thích hợp cho chúng ta trong những ngày cuối năm này cho bằng cảm tạ và phó thác. Cảm tạ và phó thác tất cả cho Thượng đế, vì Ngài là Cha của chúng ta, luôn yêu thương và quan phòng cuộc đời chúng ta. Cảm tạ và phó thác vì Ngài là Thượng đế của tình thương, của sự sống. Cảm tạ và phó thác vì Ngài là đường, là sự thật và là lẽ sống của chúng ta. Cảm tạ và phó thác cho Thượng đế, vì nhờ Ngài cuộc sống này vẫn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.

Trong muôn vàn khổ đau của cuộc sống, chúng ta hãy hân hoan lập lại: Thượng đế yêu thương tôi như chỉ có một mình tôi trên cõi đời này. Đừng bao giờ chúng ta quên một chân lý căn bản soi sáng cho đời ta: “Chúng ta không chỉ sinh ra cho cuộc sống đời tạm này mà cho cuộc sống vĩnh cửu đời sau”. Đó chính là niềm tin của bạn, của tôi và của mọi người.

28. Trắc nghiệm đức tin – Thiên Phúc–‘Như Thầy Đã Yêu’

Một hôm vua Ai cập đang đứng chiêm ngưỡng những công trình mà ông cho xây dựng tại thành phố Eliôpôli, bỗng có cụ già râu tóc bạc phơ không biết từ đâu tới đã cười ngạo nghễ và thách thức nhà vua:

– Hãy bỏ lại tất cả và cút đi!

Nhà vua giận tím gan, nhưng ông ta đã nén giận và hỏi:

– Hỡi lão già, ngươi là ai mà dám ra lệnh cho ta cách hỗn xược như thế? Không lẽ ngươi quyền thế hơn ta?

Ông lão quả quyết:

– Đúng thế! Vì ta là thời gian.

Nghe đến tên thời gian, vua Ai cập tái mặt, té nhào khỏi ngai vàng. Cùng với ông, cả đế quốc Ai cập cũng sụp đổ.

Lão già thời gian cũng rảo qua khắp các đế quốc trên địa cầu. Lão đi đến đâu, các đế quốc đều rơi như sung rụng.

Nhưng ngày kia, người ta bỗng thấy xuất hiện, tại đồi Vatican một cụ già khác. Lão già thời gian cũng một giọng điệu vô cùng hách dịch đến trước thành Vatican gầm lớn:

– Ta là thời gian đây!

Tiếng gầm thét đó làm rung chuyển trái đất, nhưng lại không làm cho cụ già trên đồi Vatican mảy may lo sợ. Cụ bình tĩnh đáp:

– Còn ta, ta chính là vĩnh cửu! Xuyên qua các thế hệ ta phải đại diện cho lòng chung thủy của Thiên Chúa đối với con người.

Không có gì là vĩnh cửu dưới bầu trời này. Nhiều người Do thái nhìn ngắm và khen ngợi đền thờ Giêrusalem nguy nga tráng lệ, được xây cất bằng đá cẩm thạch nguyên khối, mỗi cây cột cao hơn 12 mét. Đền thờ được trang trí với cây nho lớn bằng vàng ròng, quyên góp từ các tín hữu. Mặt tiền đền thờ được dát bằng vàng lá, mỗi khi mặt trời lên, nó phản chiếu ánh sáng chói lòa rực rỡ. Nhìn từ xa, đền thờ trông như một núi tuyết khổng lồ vì màu trắng toát của đá cẩm thạch. Chính vẻ huy hoàng lộng lẫy của đền thờ mà người ta tưởng nó sẽ tồn tại vĩnh viễn.

Chúa Giêsu đã đánh đổ quan niệm sai lầm đó. Người loan báo đền thờ sẽ bị tàn phá một cách thảm hại, không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào. Quả thật, tiên báo này đã hoàn toàn ứng nghiệm năm 70 sau Công nguyên, khi vua Titô đem quân bao vây, tàn sát dân chúng, bắt những tù binh, và thiêu hủy đền thờ thành ra hoang vu tiêu điều.

Mọi người kinh hoàng sợ hãi khi nghe Chúa Giêsu loan báo việc đền thờ bị phá hủy. Họ xin Người cho biết thời gian và điềm báo trước. Nhưng Người không cho biết gì thêm lại còn dựa vào lời tiên báo trên để nói về ngày tận thế. Trước ngày đó, sẽ có những thử thách đức tin.

Có thể có những ngôn sứ giả hiệu, mạo danh Chúa để mê hoặc tín hữu, hay loan báo thời gian đã đến gần để làm mất niềm hy vọng nơi những kẻ tin.

Có thể có những cuộc bách hại các tín hữu, thậm chí cả sự chia rẽ trong các gia đình.

Nhưng Người khuyên họ: “Đừng sợ”. Hãy tin tưởng trong phó thác và bền đỗ trong đức tin. Vì Thiên Chúa luôn quan phòng chở che cho những ai cậy trông nơi Người.

Đối với Chúa Giêsu, bách hại và thử thách không phải là điều đáng sợ mà là một cơ may, để người tín hữu có dịp “làm chứng”: để cho kẻ bách hại hiểu biết đức tin của người tín hữu, và để người tín hữu chứng tỏ lòng tin vào Thiên Chúa trong cơn thử thách.

Quả thật, Thiên Chúa muốn niềm tin phải là một hành động tín nhiệm sâu xa nơi Người, một biểu lộ tín thác tuyệt đối vào Người, cho dù có phải chịu thử thách đớn đau nhất, kể cả sự chết. Đức Tổng Giám mục Fulton Sheen có viết: “Để trắc nghiệm đức tin của ta, cần phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không phải lúc thuận buồm xuôi gió”.

Lạy Chúa, đức tin không giữ cho chúng con khỏi chết, cũng không cứu chúng con thoát đau khổ, nhưng đức tin chính là hiến dâng mạng sống.

Xin ban thêm đức tin cho chúng con, để trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng con vẫn luôn kiên trì giữ vững niềm tin vào Chúa. Amen.

29. Phán xét người lành kẻ dữ–Lm. Hồng Phúc, CSsR

Trong Chúa nhật áp chót của niên lịch phụng vụ, ngày cánh chung được nhắc đến.

Nhà tiên tri khi đứng bên bờ hiện tại nhìn về tương lai, có thể ví như một khán giả nhìn diễn tiến một vở kịch trên sân khấu. Qua màn thứ nhất đang diễn ra họ nhìn thấy màn thứ hai ở đàng sau đang khởi đầu. Đó là bối cảnh của bài phúc âm hôm nay, trong đó Chúa Giêsu tiên báo về ngày tàn của Giêru-salem và đàng sau lộ hiện những gì sẽ xảy ra trong ngày tận thế.

Trước hết về ngày tàn của Đền thờ Giêru salem. Đứng trên sườn đồi núi cây dầu nhìn xuống, các môn đệ trầm khen ngợi vẻ đẹp lộng lẫy và hgùn tráng của Đền thờ óng ánh trong nắng vàng. Các ông nói: “Thầy xem Đền thờ đẹp thật.” Chúa Giêsu ngước mắt nhìn, vẻ mặt buồn buồn và nói: “Những gì chúng con nhìn thấy đây, sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào?” Các môn đệ kinh ngạc vô cùng. Nhưng lời tiên tri ấy đã ứng nghiệm trong từng chi tiết. Và đó là màn thứ nhất.

Năm 70, tướng Titus đem đại quân đến bao vây thành. Một tên lính cầm một dùi lửa, ném vào trong khuôn viên Đền thờ, lửa bốc cháy kinh khủng không sao dập tắt được. Sau đó, vua Adrien ra lệnh đào tận gốc vết tích đền thờ cũ và xây lên một ngôi chùa thờ thần Jupiter. Năm 363, vua Giudianô, một người bỏ đạo, cháu Constantino đại đế, muốn cho lời Chúa hết linh nghiệm đã cho phép người Do thái xây lại đền thờ nhưng có lửa từ dưới nền móng bốc lên thiêu rụi thợ xây. Công việc bỏ dở và ngày nay trên nền Đền thờ cũ là một giáo đường Hồi giáo, đền Omar. “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Ta sẽ không bao giờ qua” (Mc 13,31).

Qua màn thứ nhất, ẩn hiện bên sau, những gì sẽ diễn ra trong gnày tận thế. Đó là màn thứ hai. Trong ngày thế mạt ấy, sẽ có chiến tranh loạn lạc, nhất là “Ngời ta sẽ bắt bớ” các con. Nếu người ta đã bắt bớ thầy thì họ cũng sẽ bắt bớ các con. Người ta sẽ điệu các con đến trước vua quan và các con sẽ là chứng nhân của Thầy. “Rồi sẽ có những điềm lạ trên trời, mặt trời ra tối tăm, mặt trăng mất sáng, tinh tú rơi xuống, mọi tần trời lay chuyển” (Mc 13,24). Có giả thuyết khoa học cho rằng trái đất sẽ đụng phải một tinh tú và nổ tung. Bấy giờ mọi người sẽ xem thấy Chúa ngự xuống oai nghi trên mây trời để phán xét người lành kẻ dữ.

Giáo hữu tiên khởi khi đọc đoạn này lo sợ đến nỗi có người không làm gì cả. Thánh Phaolo trong bài đọc II, đã khuyên họ phải làm việc. Ai không làm thì đừng có ăn. Cuộc sống của Giáo Hội là một cuộc trông đợi Chúa đến, giữa những cơn bắt bớ cấm cách. Ai bền đỗ thì cứu được linh hồn mình. Đó là bài học cho chúng ta.

Xin Chúa cho chúng ta hiểu bài học ấy.

30. Suy niệm của AM Trần Bình An

Mạt thế

Trước khi qua đời vào năm 1996, bà tiên tri mù Baba Vanga trăn trối rằng, vài năm sau khi bà mất sẽ có một cô bé kế tục bà được sinh ra ở châu Âu, vào đúng thời điểm nhiều biến cố lớn trên thế giới xảy ra. Phải đến năm 2009, mọi người mới nhớ ra lời trăn trối của Vanga, khi một tờ báo Pháp đăng bài ngắn nói về khả năng tiên tri của cô bé Kaede Uber.

Năm 2011, cô bé 7 tuổi đã thu hút sự chú ý của dư luận với khả năng tiên tri và chữa bệnh của mình. Cô càng ngày càng có nhiều đặc điểm giống nhà tiên tri mù Vanga. Khi thị lực của cô kém dần đi, cùng với những cử chỉ rất giống bà. Trong một chương trình do truyền hình của Nga, Uber đã dự đoán được rằng thị trường tài chính thế giới sẽ khủng hoảng trầm trọng vào năm 2008. Khi đang diễn ra bầu cử Tổng thống ở Nga, hai phóng viên đã đưa cho Uber xem hình ảnh các ứng cử viên Tổng thống. Cô bé đã chỉ vào một tấm hình của Putin. Lời tiên đoán của cô trở thành sự thật. Tuy nhiên, khi những thông tin về Uber chính thức được xác nhận, thì cô bé và gia đình bắt đầu bị theo dõi, không được sống yên ổn, họ đột nhiên biến mất trong suốt 5 năm liền.

Cho đến tận tháng 1/2016, cô bé Uber mới xuất hiện trên sóng truyền hình Nga NTV, và đưa ra những dự đoán tiếp theo: “Nếu tình trạng tấn công khủng bố tiếp tục tràn lan ở châu Âu, cùng với đó là việc không tìm ra lời giải cho bài toán nhập cư, cả thế giới có thể sẽ gặp nguy hiểm.” Ban đầu dư luận không mấy để tâm tới lời tiên tri của của Uber, cho đến khi nhìn nhận lại vấn đề từ vụ khủng bố xảy ra ở Bỉ cuối tháng 3 và mới nhất là vụ tấn công ở Nice, Pháp giữa tháng 7.

Mới đây, Uber lại tái xuất trên sóng truyền hình NTV để trả lời 15 câu hỏi quan trọng nhất về nhiều vấn đề thế giới đang quan tâm.”Rất nhiều người sẽ bị sát hại và máu sẽ đổ xuống rất nhiều.” Lời tiên đoán của Kaede Uber khiến mọi người lo lắng và hoang mang, thế giới sẽ trải qua một nỗi kinh hoàng mới và Mỹ có thể sẽ là nơi phải hứng chịu một cuộc khủng bố đẫm máu. Cô bé khẳng định: “Tai họa sẽ ập đến trong 4 tháng nữa.” (Thanh Mai, tổng hợp)

Lời tiên báo của cô Kaede Uber có thể trở thành hiện thực, có thể không, như bà Baba Vanga đã sai hoàn toàn, khi tiên báo Châu Âu trở nên hoang địa vào năm 2016. Trái lại, Tin Mừng thánh Luca hôm nay, thuật lại Đức Giêsu tiên báo rất chính xác Đền Thờ Giêrusalem hoàn toàn bị phá huỷ, cũng như số phận nghiệt ngã của Kitô giáo chân chính đã và đang phải gánh chịu.

Phù vân

“Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá.” Mặc dầu Đền Thờ Giêrusalem mất hơn 63 năm xây dựng, kiến thiết và trùng tu, với các mái vòm dát vàng, với các dây leo kỳ vĩ bằng vàng ròng ở cổng chính, với những cột đá cẩm thạch cao 12 mét hết sức nguy nga, tráng lệ, vốn là niềm tự hào của dân Do Thái. Năm 70, tướng La mã Titus đem đại quân vây hãm thành Giêrusalem trong vòng sáu tháng. Thành thánh bị thiêu hủy bình địa. Dân Do Thái đầu hàng, bị giải giáp và phân tán tứ phương kể từ ngày thảm hại đó.

“Vanitas vanitatum et omnia vanitas.” Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân. (Gv 1, 2) Những gì mà người ta coi là vĩ đại, kiên vững, trường tồn thì đều sẽ sụp đổ, tan nát theo thời gian. Mọi sự đều có thời, một thời để chào đời, một thời để lìa thế. (Gv 3, 1-2) Đời người cũng mong manh, sớm nở tối tàn, héo hon dần theo năm tháng, rồi trở về cát bụi. “Đời sống con người chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích.” (Tv 103, 15-16)

Cánh chung

Chiến tranh, thiên tai, loạn lạc, động đất, ôn dịch đói kém xảy ra trước ngày tận thế, ngày cánh chung của nhân loại. Nhưng cái chết là ngày cánh chung mỗi người.

Qua cái chết, con người bước vào cuộc đời mới, sẽ được hưởng vinh phúc trường cửu hay chịu án phạt muôn đời, tuỳ theo đã sống trên thế gian như thế nào. “Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.” (Mt 16, 27)

Bách hại

“Người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt các vua chúa quan quyền vì danh Thầy; các con sẽ có dịp làm chứng.”Thời nay, không còn cảnh cấm đạo thô bạo, nhưng thế gian bách hại Kitô hữu rất tinh vi, khéo léo và xảo quyệt khôn lường. Vật chất, danh lợi, hưởng thụ nghiễm nhiên trở thành ngẫu tượng bò vàng cho nhân loại.

Quyền lực sự dữ hiện nay hầu như đang thống trị trên mọi bình diện của nền văn minh. Vì thế, tín hữu Kitô phải chịu thử thách nặng nề, khi phải chọn lựa Thiên Chúa hay thế gian, văn minh sự sống hay sự chết. “Thế gian đang qua đi cùng với những dục vọng của nó. Chỉ những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa mới tồn tại mãi mãi.” (1 Ga 2, 17). Chỉ những gì vĩnh cửu mới tồn tại lâu dài!

Chứng nhân

Thiên Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Ngài, luôn che chở những ai trung tín làm chứng nhân, có thể chống lại sự dữ.”Vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con.”

Mặc dù người Kitô hữu bị thế gian thâm thù, ghét bỏ, giết hại, vì danh Chúa, thì linh hồn vẫn được Chúa thương xót cứu thoát, được hạnh phúc muôn đời. “Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con.” Vì chưng, Chúa đã bao lần khuyến khích, nhắc nhủ: “Ai bền chí đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10, 22; 24, 13; Mc 13, 13)

“Giữa những thử thách bên trong, bên ngoài khủng khiếp nhất, con hãy nhớ lời sách Khải Huyền: “Và Người sẽ lau sạch nước mắt họ, chết sẽ không có nữa, phiền muộn, kêu gào và khó nhọc sẽ không còn nữa, vì các điều cũ đã qua.” (Đường Hy Vọng, số 682)

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con noi gương các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam được mừng kính hôm nay, để cũng trở nên chứng nhân kiên trung trước những thử thách nặng nề ngày hôm nay.

Khấn xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng con được bền vững tin cậy mến Chúa đến hơi thở cuối cùng. Amen.

31. Một thời để sống–AM Trần Bình An

Mục tiêu là thành phố hải cảng và kỹ nghệ Hiroshima với 350 ngàn dân. Chiếc pháo đài bay B.29 mới được sơn lên cái tên mới: Enola Gay. Màu xám bạc của nó lấp lóa trong ánh mặt trời buổi sớm. Đại tá Tibbets ra lệnh cho phi hành đoàn: “Sắp đến mục tiêu, tất cả đeo kính an toàn. Chuẩn bị ném bom! “.

Khi chiếc Enola Gay đã ở ngay trên trung tâm thành phố, lúc 8 giờ 15 phút 15 giây ngày 6-8-1945, chuyên viên thả bom nhấn nút, khoảng chứa bom mở ra, một quả bom khổng lồ với cây dù lớn xoè ra phía trên, rơi xuống!

Không đầy một phút nữa, bom sẽ nổ. Phải nhanh chóng thoát khỏi vùng nổ. Đại tá Tibbets chúi mũi chiếc Enola Gay xuống để tăng tốc độ. Bốn mươi ba giây sau đó, một vùng sáng chói gấp hàng chục lần mặt trời bùng lên. Tiếp theo đó, chiếc pháo đài bay rung chuyển dữ dội như một món đồ chơi trong cơn bão. Đại tá Tibbets cố gắng giữ vững đường bay. Khi những cơn chấn động đã giảm bớt cường độ, ông mới quay đầu nhìn lại: Thành phố Hiroshima đã chìm dưới một đám mây hình nấm, màu tím đen đang mỗi lúc mỗi bốc cao. Có ai ở trong phi hành đoàn đã thốt lên bằng một giọng run rẩy xúc động: “Chúng ta vừa làm chuyện gì vậy?” Không có ai lên tiếng trả lời. Mọi người mặt mày xám ngắt trong cơn bàng hoàng cực độ.

Đó không phải là quả bom nguyên tử đầu tiên đã nổ. Trước đó đã có những trái bom thí nghiệm. Nhưng nó là quả bom nguyên tử đầu tiên được sử dụng vào mục đích tấn công, và không phải là quả cuối cùng. Kể từ buổi sáng hôm đó, nhân loại đã bắt đầu đem vào cuộc sống của mình một nỗi lo âu mới.

Năm chục ngàn người đã chết ngay tức khắc trong ánh chớp kinh hoàng lúc 8 giờ 16 phút ngày 6-8-1945. Hàng trăm ngàn người bị thương, nhiều chục ngàn người khác chết trong những ngày sau đó. (Nguyễn Thiếu Nhẫn, thông tin Berlin)

Trước những cái nhìn chiêm ngưỡng và thán phục đền thờ Giêrusalem lộng lẫy kì vỹ, Đức Giêsu mặc khải ngày thế mạt thật kinh hãi. Nhưng quan trọng hơn cả thiên hạ là còn giữ được niềm tin và hy vọng hay không, khi bị tam gian như vòng kim cô khống chế trọn đời.

Đó là thời gian đem đến già nua, cằn cỗi, hư hỏng. Không gian nổi giận đem đến thảm họa, động đất, sóng thần, núi lửa. Và nhân gian ích kỷ dối trá, lọc lừa, giả mạo, chia rẽ, bất hòa, bách hại, bạo lực, phản bội, chiến tranh. Tất cả sự dữ đồng loạt chế ngự, áp đặt, đày đọa con người.

Thời gian

Con người vốn là tạo vật hữu hạn, trong khi Đấng Tạo Hóa vô hạn. Ngài hiện hữu muôn đời, mãi mãi vĩnh cửu. Từ “Thời gian” xuất hiện cả thảy 771 lần trong Kinh Thánh. Còn những chữ “vĩnh cửu, cõi đời đời, còn đến đời đời và cho đến đời đời” xuất hiện 548 lần. Ngài biết con người bị thời gian giới hạn. Ngài muốn con người biết Ngài vượt trên dòng thời gian. Luôn đồng hành cùng con người trong suốt cuộc đời hữu hạn.

Thời gian lẳng lặng tước đi tuổi xuân, sức khỏe, lạc quan, kín đáo đem đến tuổi già, bịnh hoạn, đau đớn, bi quan và thất vọng. Chẳng ai cưỡng lại nổi dòng thời gian lạnh lùng và vô tình. Thuốc men, dược phẩm, hay thẩm mỹ viện cũng chỉ vớt vát lại, cố tìm lại những gì thời gian đã tước đoạt lấy đi mất.

Vậy tôi có biết dùng vốn thời gian vài chục năm để sinh lợi phần hồn, để cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Thiên Chúa, để mong được sống đời đời? Hay chỉ ngu mê, dại dột, thiển cận, vị kỷ, chăm lo vun quén cho thân xác mỏng dòn, mau hư nát?

Tôi phải sử dụng thời gian như thế nào, để có thể lạc quan như Thánh Phaolô hoan hỷ trước cái chết đến gần: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin.” (2 Tm 4, 6-7)

Không gian

Đức Giêsu nhập thể làm người, không chọn môi trường thân thiện, thuận lợi hay dễ chịu. Trái lại, Người chọn không gian nghiệt ngã, khó khăn như chốn lưu đầy. Người chấp nhận hòa mình vào môi trường tràn đầy bầu khí bất khoan nhượng, đố kỵ, chống đối, thù địch. Người can đảm vác thánh giá nặng nề khổ ải, nêu gương cho những ai muốn đi theo Người.

Còn không gian, môi trường bây giờ chẳng tốt lành hơn, mà còn bị thoái hóa, càng bất thân thiện hơn, khi mức độ ô nhiễm, hủy hoại môi trường tràn lan. Thời tiết thay đổi bất thường, hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ toàn cầu tăng cao, bão lụt, hạn hán, dịch bệnh, luôn sẵn sàng đe dọa kiếp người mỏng manh. Không gian sống lành mạnh ngày càng thu hẹp dần. Bước chân ra đường là đối mặt biết bao nguy hiểm rình rập. Tai nạn giao thông, giật dọc, cướp bóc, ma túy, mại dâm, mãi lộ…

Nhưng tôi chưa can đảm phiêu lưu, dám xa rời tổ ấm, mái gia đình, như Đức Giêsu phiêu lưu vô tư: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8, 20)

Tôi còn bị môi trường sống ràng buộc, xiềng xích bởi tình thân, tình phu phụ, tình phụ tử, nghĩa họ hàng, bạn bè thân quen. Tôi nào dám dứt khoát theo Chúa? Dám dứt khoát xả thân yêu tha nhân, kẻ lạ, hay thù địch? Thế làm sao Người cứu rỗi tôi?

Nhân gian

Nhưng sự đe dọa đáng sợ hơn cả chính là sự dữ phát xuất từ con người vị kỷ, tham lam, thù hận, đố kỵ, mâu thuẫn. Hai trái bom nguyên tử dội xuống Hiroshima và Nagasaki mở đầu cho mối lo sợ triền miên về chiến tranh hủy diệt toàn cầu. Võ khí càng tối tân, chiến thuật càng tinh vi, sự dữ càng lên ngôi. Cái chết nhanh gọn bất chợt như tia sáng. Tình người biến mất. Chỉ còn oan cừu, trả thù và ngồn ngộn sát khí.

Nhưng, có lẽ đau đớn hơn cả chính là hiềm khích, phản bội từ ngay thân nhân, vì tôi theo tuyên ngôn Bát Phúc, vì tôi chọn Chúa, hơn là khôn ngoan theo thế gian, chọn theo thân bằng quyến thuộc.

“Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.”

Trước hai ngả đường, theo Chúa hay theo nhân gian, tôi luôn lúng túng, sợ hãi, lưỡng lự, muốn bắt cá hai tay. Như thế sao Chúa dủ lòng thương xót tôi được?

Trước muôn ngàn thử thách đau khổ, con hãy sốt sắng, tin tưởng và đọc nhiều lần: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy.” Bí quyết can đảm của người Kytô hữu. (Đường Hy Vọng, số 674)

“Ðó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy.” Qua sự dữ thử thách và tôi luyện, với hồng ân dào dạt, con người mới có thể chứng minh được niềm tin và hy vọng vào ơn Cứu Độ. “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.” Luôn tin cậy và phó thác vào Chúa Quan Phòng, luôn kết hợp mật thiết với Ngài, cầu nguyện và sám hối, ăn năn, nguyện xin Lòng Chúa Thương Xót, tôi mới dám hy vọng được vinh hạnh sống mãi với Người.

“Con hãy sẵn sàng cầm đèn sáng đợi chờ giờ Chúa trở lại, như Chúa muốn, nơi Chúa muốn, lúc Chúa muốn.” (Đường Hy Vọng, số 670)

Nếu mỗi ngày, đều tâm niệm là ngày cuối cùng ở đời, ngày chung thẩm, liệu tôi còn dám đi hoang theo thế gian hay không? Hay là luôn sẵn sàng là người đầy tớ trung thành, kiên nhẫn chờ đợi Người Chủ trở về?

Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang sống bấp bênh giữa chốn ba đào, ba chìm bảy nổi. xin cho chúng con luôn nghe được tiếng Chúa nói: “Thầy đây, đừng sợ”, để chúng con biết trở về với Tình Yêu Chúa, biết yêu thương nhau, yêu thương tha nhân, tin cậy, phó thác và sống theo Lời Chúa, hầu chúng con được cứu rỗi.

Lạy Mẹ Maria, xin cho chúng con noi gương Mẹ, luôn sống gần gũi mật thiết với Chúa, để được chở che, giúp sức chống trả các cơn cám dỗ, đam mê xác thịt, để sẵn sàng chấp nhận bền bỉ, kiên trì, trung thành trước sự gian nan, khó khăn, đau khổ, để được phúc đời sau. Amen.

32. Kiên trì

Cuối bài Tin Mừng này, sau khi nói đến những gian truân thử thách. Chúa Giêsu khuyên chúng ta hãy kiên trì: “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình”.

Kiên trì là gì? Thưa là dù gặp phải gian truân thử thách, ta không lùi bước, không nản lòng, không bỏ cuộc nhưng vẫn luôn giữ vững niềm tin và lý tưởng sống của mình.

Anne Frank là một cô bé Do thái bị bọn Đức quốc xã bắt giam trong trại tập trung. Nơi đó cô bé đã chứng kiến biết bao cảnh khổ, cô đã thấy rất nhiều người vì quá khổ mà trở thành mất nhân phẩm, mất lý tưởng, mất đức tin. Chính cô cũng khổ và nhiều lần hoang mang tự hỏi: có công lý thật không, có Thiên Chúa không? Nhưng sau những lúc giao động ấy, cô cương quyết giữ vững niềm tin của mình: cô tin rằng dù biểu hiện bên ngoài của con người có gian ác thế nào đi nữa thì trong thâm tâm con người vẫn tốt; dù hiện tại có xấu xa đến đâu đi nữa nhưng cuối cùng sự thiện sẽ chiến thắng sự ác; dù hiện nay xem ra Thiên Chúa vắng mặt, nhưng chính Thiên Chúa là người có tiếng nói cuối cùng. Những suy nghĩ ấy được cô ghi lại trong một quyển nhật ký. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, quyển “Nhật ký Anne Frank” đã được xuất bản, được dịch ra rất nhiều thứ tiếng, và nổi tiếng khắp thế giới.

Điều gì giúp người ta kiên trì? Trước hết đó là xác tín về lẽ phải của mình; thứ hai là gương can đảm chịu đựng của những người khác; và thứ ba nhưng quan trọng nhất là đức tin tôn giáo. Gandhi nói: “Người nào tin vào Thiên Chúa thì không bao giờ thất vọng, bởi vì người đó biết rằng cuối cùng thì sự thật sẽ chiến thắng”.

Chúa Giêsu bảo các môn đệ “Anh em đừng sợ”. “Đừng sợ” không có nghĩa là không có cảm giác sợ, mà là không để cho cảm giác ấy đè bẹp mình, nhưng mình phải làm chủ cảm giác ấy và chiến thắng nó. “Anh hùng không phải là người không biết sợ mà là người chiến thắng nỗi sợ”. (Solzhenitsyn)

33. Tiếng nói của con tim

Lời cảnh cáo của Chúa Giêsu về những sự kiện sẻ xảy ra khởi đầu nghe giống như những bài kinh nguyện mà chúng ta nghe trên chương trình Tin Tức Lúc 11 Giờ Đêm. “Những sự kiện này phải xảy ra,” Chúa Giêsu phán, “đừng xao xuyến… đừng kiếp sợ… bởi không một sợi tóc nào trên đầu các con bị hư hỏng. Nhẫn lại chịu đựng thì các con sẽ cứu được sự sống các con.”

Chúa Giêsu nài xin các môn đệ của Ngài hãy gắng nhẫn lại với Ngài; kiên gan trong đức tin, ngay cả giữa tất cả những tai ương khủng khiếp mà Ngài dạy họ hãy trông mong y như là một phần của cuộc sống vậy. “Khi tai ương xảy đến, đừng chịu thua,” Ngài phán dạy. “Hãy nhớ Lời Ta; Nước Thiên Chúa sẽ đến trọn vẹn; không gì có thể đánh bại những mục đích của Thiên Chúa; không một quyền lực quỷ ma nào cản trở nổi ý định Thiên Chúa cho sự hoàn thành của các con được.”

Trong Sứ điệp hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng chúng ta phải thi hành nhẫn lại chịu đựng — ngay cả khi toàn thể thế giới coi như đang đi đến điên dại; ngay cả khi những sự kiện coi như hoàn toàn vô nghĩa, ngay cả khi những biến cố coi như trái nghịch với lời hứa của Ngài để thoả mãn sự đói khát của chúng ta về Cuộc Sống Mới.

Chúa Giêsu dùng mọi phương pháp giáo huấn có thể — ngay cả đến cực đoan của chính cái chết của Ngài — để truyền đạt Sứ Điệp Thánh của Ngài về ý nghĩa và mục đích chính của cuộc sống chúng ta. Tỉ dụ như trong Sứ Điệp Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu muốn kéo sự chú ý của chúng ta, làm cho chúng ta thật sự lắng nghe, trong khi Ngài nói về những tai ương sẻ xảy ra: động đất, đói kém, những điều khủng khiếp trên trời, bắt bớ khủng bố, chiến tranh, nổi loạn, quốc gia này chống quốc gia nọ, chết chóc. Y như là Ngài muốn đánh động chúng ta phải lắng nghe.

Giờ đây bạn không thể lắng nghe tiếng Chúa Giêsu nếu bạn còn quá lo lắng cho diện mạo của bạn. Giờ đây bạn không thể lắng nghe tiếng Chúa Giêsu nếu bạn còn lo nghĩ về ấn tượng mà bạn muốn gây cho người khác. Giờ đây bạn không thể lắng nghe tiếng Chúa Giêsu nếu bạn còn đang tính toán mình sẽ làm gì khi bạn rời đây đi. Giờ đây bạn không thể lắng nghe tiếng Chúa Giêsu nếu bạn đưa lời đáp trả của bạn vào một công thức ngay cả khi Lời Chúa đang được phán dạy. Lắng nghe là hành vi của tình yêu. Khi bạn thật sự lắng nghe lời nói của người khác, bạn làm cho chính bạn dễ bị ảnh hưởng và nhạy cảm tới lời nói đấy. Chúng ta thật sự lắng nghe lời hứa của Chúa Giêsu về sự hoàn thành trong Nước Tình Thương đang đến cho đến mức chúng ta buộc chính chúng ta phải xây dựng Nước Tình Thương này.

Cố văn nhân William Allen White đã được coi là một trong những nhà viết xã luận đáng kính nhất trong lịch sử Nhà Báo Hoa Kỳ. Ông đã viết một bài tưởng niệm một người bạn: “Một ngày nọ tại Emporia, một đám ma dài nhất trong vòng mười năm qua tiễn đưa Linh Mục John Jones dài đến ba dặm trong một ngày nóng nảy tháng Bảy đến một nghĩa địa khô ráo. Lý do mà có nhiều người xếp hàng theo xe tang của một ông già rất là đơn giản: họ mến cha. Cha đã hy hiến trọn đời sống cha để giúp đỡ mọi người. Với một cách thức thật đơn giản, không tiền của hay quyền hành thế gian, cha đã trao ban sự nhân ái của cha đến cho mọi người chung quanh cha. Chúng ta có khuynh hướng nói rằng đồng tiền nói, thế nhưng nó nói một ngôn ngữ nghèo nàn và đứt quãng. Tiếng nói của con tim phong phú hơn, mạch lạc hơn, và minh mẫn hơn. Người cha già này với giọng nói nhỏ nhẹ và với cách cư xử nhân hậu thấu hiểu ngôn ngữ của con tim. Cha đã can trường và với một ý chí làm việc trong phần vườn nho của cha. Không ngã lòng, nhưng kiên nhẫn chịu đựng, cha nắm giữ một đức tin đơn giản và truyền thống vào Thiên Chúa và lòng nhân từ yêu thương của Ngài. Khi kẻ khác cho tiền, cha ban lời cầu nguyện, sự khó nhọc và kích lệ. Trong phạm vi của ngài, ngài chính là sức mạnh. Và như thế khi ngài nằm xuống an nghỉ, hàng trăm bạn hữu lê bước khóc lóc tiễn đưa ngài đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Với kiên nhẫn chịu đựng, nắm giữ một đức tin đơn thuần và truyền thống vào Thiên Chúa và lòng nhân từ yêu thương của Ngài, bạn sẽ trở nên chính quyền lực trong phạm vi của bạn. Có nhiều người chung quanh bạn cần đến tài năng của bạn. Với kiên nhẫn chịu đựng, nắm giữ một đức tin đơn thuần và truyền thống vào Thiên Chúa và lòng nhân từ yêu thương của Ngài, bạn sẽ được trao quyền ban phát sự nhân hậu của lòng bạn.

Bất kể dù có trái ngược lại, những tin tức xấu mà bạn đọc được trên báo chí và coi thấy trên TV trong tuần này, Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa. Ngài hành động trong lịch sử. Ngài sẽ không ruồng bỏ chúng ta. Khi mà sự khó đến, hãy chịu khó, và hãy để tình yêu mà bạn đưa vào trong tình huống đó được tỏ sáng và là dấu chỉ thuyết phục của Tình Yêu Thiên Chúa.

Thi sĩ John Greenleaf Whittier nói về hai ông Luật Sĩ, trong ngày đền tội, cầu nguyện suốt cả một ngày dài như thế nào. Mỗi ông xin cho tội của ông được tha thứ. Ngay trước khi tối đến, mỗi ông đều còn cảm thấy gánh nặng tội lỗi trong tâm khảm của các ông. Sau cùng, một ông Luật Sĩ cầu xin, “Lạy Chúa là Thiên Chúa, nếu đó là Thánh Ý Ngài không tha thứ tội lỗi tôi, xin Chúa hãy tha thứ tội lỗi của anh em tôi đang quằn quại trong sầu khổ của tâm hồn.” Và ngay lúc ấy, ông cảm thấy chính ông đã được thứ tha.

John Whittier muốn nói: Cửa thiên đàng không mở cho kẻ đến một mình. Hãy cứu lấy linh hồn của kẻ khác, và bạn sẽ cứu được chính linh hồn bạn.

34. Tình trạng suy thoái trong các tôn giáo

Câu hỏi gợi ý:

1. Có vật nào trên thế gian có ngày sinh ra mà không có ngày biến mất không? Thế giới này có ra khỏi định luật đó không? Các tôn giáo thì sao?

2. Các tôn giáo bị suy thoái, đánh mất tinh thần và sức sống ban đầu là do nguyên nhân nào? Ai chịu trách nhiệm?

3. Quá coi trọng phương tiện mà quên đi mục đích sẽ dẫn đến hậu quả gì? Những phương tiện tối cần để đạt mục đích có thể làm hại chính mục đích ấy không? Tại sao?

Suy tư gợi ý:

1. Định luật “thành, trụ, hoại, không” trong vũ trụ

Mọi vật trong thế giới hiện tượng này đều phải tuân theo định luật “thành, trụ, hoại, không”, nghĩa là mọi vật đều được sinh ra và tồn tại, nhưng trong khi tồn tại thì lại bị hư hoại dần, rồi tới một lúc nào đó thì biến mất khỏi vũ trụ. Mọi công trình, mọi đoàn thể, mọi quốc gia, mọi tôn giáo, mọi thiên thể, mọi thế giới, hễ đã có lúc khởi đầu sinh ra thì cũng có lúc bị thoái hóa rồi biến mất. Đó là định luật bất di bất dịch cho thế giới hiện tượng. Chỉ những gì thuộc thế giới siêu hình và vĩnh cửu mới thoát khỏi định luật ấy.

2. Các tôn giáo cũng bị suy thoái và có ngày suy tàn

Tôn giáo cũng có lúc suy tàn theo định luật trên. Cụ thể nhất là Do Thái giáo, một tôn giáo được chính Thiên Chúa thiết lập mà người Do Thái xưa tưởng rằng sẽ tồn tại vĩnh cửu và lan tràn khắp thế giới. Tôn giáo này đã có lúc suy thái chỉ còn là hình thức bên ngoài, nên đã được thay thế bằng Kitô giáo. Sự suy tàn của các tôn giáo thường được báo hiệu bằng sự suy đồi về tinh thần. Nghĩa là các tín hữu của tôn giáo không còn nắm được tinh thần hay cốt tủy của tôn giáo mình nữa, mà chỉ nắm được phần hình thức hay cái vỏ bên ngoài của tôn giáo. Thánh Phaolô đã báo trước điều đó trong thư gửi cho Timôthê: “Anh hãy biết điều này: vào những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go. Hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ” (2Tm 3,1.5). Chính Đức Giêsu cũng đã từng bi quan về thời suy tàn ấy: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8b). Vì người mang danh có đức tin thì vô số, nhưng người thật sự tin – nghĩa là thể hiện đức tin thành cuộc sống – thì chẳng bao nhiêu.

3. Một nguyên nhân suy thoái của tôn giáo: các ngôn sứ giả

Sự suy đồi hay biến chất này thường là do các ngôn sứ giả trong mọi thời đại tạo nên. Các ngôn sứ giả này không phải là ít, thánh Gioan cho biết: “Ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian” (1Ga 4,1). Các ngôn sứ giả của mọi thời đại đều có những đặc tính tương tự như các ngôn sứ giả thời của Đức Giêsu. Ngài mô tả họ là hạng người “nói mà không làm” (Mt 23,3), là “những kẻ dẫn đường mù quáng” (Mt 23,16.24). Vì họ thường quan trọng hóa những điều phụ thuộc và bỏ qua những điều chính yếu, rồi dạy người khác như vậy: “Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình nhân ái và lòng chân thành” (Mt 23,23; x. 23,16-22). Họ thường chú trọng những hình thức bên ngoài, mà coi thường tinh thần ở bên trong: “Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ” (Mt 23,15). Họ vinh danh ca tụng các ngôn sứ thời xa xưa, nhưng lại ra tay bách hại và giết chết những ngôn sứ đồng thời với mình (x. Mt 23,29-31). V.v…

Những ngôn sứ giả này “lừa gạt được nhiều người” (Mt 24,11), “lừa gạt cả những người đã được tuyển chọn” (Mt 24,24), bề ngoài “họ đội lốt chiên” nhưng “bên trong, họ là sói dữ tham mồi” (Mt 7,15). Để nhận diện họ, Đức Giêsu cho ta một tiêu chuẩn: “Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai” (Mt 7,16.20), nghĩa là căn cứ vào những việc họ làm, cách họ đối xử với nhau hoặc với người khác, thì biết họ là hay không là người của Thiên Chúa. Vì “cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt” (Mt 7,17-18). Đức Giêsu còn cho ta một tiêu chuẩn chắc chắn khác để biết ai là môn đệ đích thực của Ngài, là người của Thiên Chúa: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau” (Ga 13,35). Như vậy, người không có tình thương, đối xử với tha nhân thiếu tình nghĩa, thì đó là một dấu hiệu chắc chắn cho thấy họ không phải là ngôn sứ hay tông đồ đích thực.

4. Cảnh báo của Đức Giêsu: coi chừng bị lừa gạt

Đức Giêsu cảnh báo: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính ta đây”, và: “Thời kỳ đã đến gần”; anh em chớ có theo họ” (Lc 21,8). Vào thời cuối cùng, sẽ có nhiều kẻ lường gạt, họ tự xưng là người của Chúa, đến từ Thiên Chúa, thậm chí có thể “làm những dấu lạ và những việc phi thường” (Mt 24,24b). Mục đích của họ, vô tình hay hữu ý, là làm người ta xa Chúa, xa chân lý, xa lìa tinh thần của Thiên Chúa. Phương cách của họ, như đã nói ở trên, là cứ quan trọng hóa những điều phụ thuộc – vốn cũng rất tốt – để người ta quên đi hoặc không biết đến những điều chính yếu, cứ nhấn mạnh đến những phương tiện để làm người ta quên đi mục đích. Chẳng hạn, tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân là tinh thần quan trọng nhất, là cốt tủy của đạo Chúa, còn việc cầu nguyện, việc cử hành các nghi thức, v.v… là những phương tiện cần thiết để có thể sống yêu thương. Nhưng nhiều người chỉ nhấn mạnh đến những phương tiện đó, làm như đó là điều cốt tủy của đạo Chúa, khiến người ta quên mất hoặc coi nhẹ việc sống yêu thương. Nếu sử dụng phương tiện mà không biết hoặc không nhắm đạt đến mục đích, thì phương tiện ấy có ích lợi gì? Muốn viết một bài thì phải dùng cây viết, không có cây viết thì không viết bài được. Nhưng nếu cứ mải lo tìm cho thật nhiều cây viết, mà quên đi việc viết hay chẳng chịu viết gì cả, thì những cây viết ấy – dù nhiều hay quý giá đến đâu – nào có ích lợi gì?

Cốt tủy của đạo Chúa nằm ở chỗ yêu thương nhau, chứ không nằm ở chỗ cầu nguyện, các bí tích, các nghi thức, mặc dù những thứ này rất cần thiết để thực hiện được cái cốt tủy kia. Nhưng khi quá chú trọng đến những phương tiện đó, thì chúng sẽ trở thành nguyên nhân làm người ta quên đi mục đích chính yếu kia. Như thế, phương tiện thay vì dẫn đến mục đích thì lại làm người ta lạc hướng. Đức Giêsu không nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em cầu nguyện nhiều, cử hành hay lãnh nhận bí tích cho nhiều, v.v…” mà nói: “… là anh em yêu thương nhau” (Ga 13,35). Ngày phán xét, Thiên Chúa không xét xem ta có cầu nguyện hay lãnh nhận bí tích thế nào, mà chỉ xét xem ta yêu thương tha nhân thế nào (x. Mt 25,31tt; xem thêm 5,23-24: “Hãy để của lễ lại… đi làm hòa trước đã…”). Điều này cho thấy cốt tủy của Kitô giáo, của người tông đồ Chúa không phải là cầu nguyện hay thực hiện các bí tích cho bằng sống yêu thương. Coi cầu nguyện hay các bí tích quan trọng hơn cả tinh thần yêu thương là phản Kitô giáo.

Đạo Chúa bị biến chất và cuối cùng không phát triển được cũng vì có nhiều người đã hướng dẫn tâm linh không đúng với chiều hướng của Đức Giêsu, khiến cho đạo Chúa ở nhiều nơi chỉ còn là hình thức, là cái vỏ bên ngoài. Chính họ góp phần làm cho đạo Chúa bị suy tàn.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, Đức Giêsu đã báo trước sự suy tàn của thế giới trong bài Tin Mừng trên, và sự suy thoái nơi đạo của Ngài trong câu: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8b). Thánh Phaolô cũng cho biết: “Vào những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go. Hình thức của đạo thánh thì người ta còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ” (2Tm 3,1.5). Xin Cha giúp con và mọi Kitô hữu hiểu được cái chính yếu của đạo thánh Cha là gì, để con không chỉ giữ những hình thức bên ngoài, mà còn có được cả cái cốt yếu bên trong nữa. Xin đừng để đạo của Cha bị suy thoái nơi bản thân con.

35. Tờ báo cho ngày mai

Cách đây nhiều năm, một cuốn phim do Hollywood thực hiện đã chiếu về một thương gia nọ muốn mua tờ báo của tương lai. Thấy người ta mua báo, ông chợt nghĩ, “Không biết tôi có thể mua một tờ báo ngày mai trong hôm nay không?”

Với ý nghĩ chuyện đó có thể xảy ra, làm ông rất hứng khởi. Trong đầu óc ông hiện lên biết bao nhiêu việc thương mại tốt lành sẽ mở ra cho ông.

Tiếp đến một sự việc bất thường đã xảy ra. Một người đàn ông già nua tuổi tác bước vào văn phòng chỗ người thương gia đang đứng và đưa một tờ báo ngày mai trong hôm nay cho ông và nói: “Tôi đến để ban cho ông điều ông đang mơ ước.”

Đoạn sau của cuốn phim nói đến những việc đã xảy ra cho người thương gia kia, những kết quả của sự hiểu biết những việc tương lai làm cho cuộc sống của ông thay đổi và ông đã thành công trong việc kinh doanh.

Cũng giống như thế, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ Ngài điều tương tự như trong câu chuyện trên, qua bài Phúc âm hôm nay. Ngài đã cho các ông một cái nhìn thoáng qua về tương lai.

Điểm đặc biệt là Ngài đã cho các ông biết trước về việc sụp đổ của Đền thờ Giêrusalem, một biến cố xảy ra sau đó bốn mươi năm, khi quân Rôma vây hãm và tàn phá tất cả. Đối với người Do thái, Đền thờ Giêrusalem bị phá hủy thì cũng giống như là ngày tận thế.

Quả thật là vậy, Giáo Hội dùng bài đọc hôm nay như là một bài chính cho Chúa nhật áp chót của năm phụng vụ. Khi năm phụng vụ sắp sửa kết thúc, Giáo Hội muốn chúng ta hãy để tâm đến cái ngày mà Chúa Giêsu sẽ tái giáng lâm trong vinh quang.

Trong khi nói về Đền thờ Giêrusalem bị tàn phá, Chúa Giêsu đã liên quan đến sự kiện Ngài sẽ trở lại trong ngày tận cùng của thế giới. Nói về ngày ấy, Chúa Giêsu đã phán: “Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối: vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: “Chính ta đây và thời giờ đã gần đến, các con chớ đi theo chúng.” Chúa Giêsu còn nói những người theo Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ và bắt bớ trước khi Ngài tái lâm: “Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất.” Nhưng Chúa Giêsu cũng nói: “Chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con.”

Bài Phúc âm hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức về vấn đề ngày tận cùng của thế giới. Chúng ta hãy chuẩn bị chờ đón không phải trong tư thế sợ sệt, bối rối, hoặc lo âu. Đúng hơn, nó mời gọi chúng ta hãy chuẩn bị trong tư thế phó thác và tin tưởng. Trong tư thế phó thác, nghĩa là chúng ta biết đem những năng khiếu tài năng mà Chúa ban cho chúng ta để phục vụ cho Nước Thiên Chúa được hiện trị trên trần gian này. Trong tư thế tin tưởng, nghĩa là chúng ta thi hành những gì Chúa Giêsu đã phán trong bài Phúc âm hôm nay.

Bài Phúc âm hôm nay đưa vào tay chúng ta một tờ báo cho ngày mai. Bởi vì thế nên cuộc sống của chúng ta cần phải biến đổi. Nếu chúng ta biết kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, thì chúng ta sẽ được vinh quang chiến thắng và không sự gì có thể làm hại chúng ta.

Đó là tin mừng chứa đựng trong Tin Mừng hôm nay. Chúng ta không sợ hãi khi người khác ghét chúng ta bởi vì chúng ta có Chúa Giêsu. Chúng ta không sợ hãi khi Chúa Giêsu ngự đến trong đám mây vinh quang. Ngược lại, chúng ta sẽ có tất cả lý do để vui mừng, ca hát và hân hoan.

36. Giữ linh hồn–lm. Bùi quang Tuấn

“Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con.”

Vào khoảng năm 538 trước Công nguyên, sau khi được Hoàng đế Ba tư là Kyrô ban sắc chỉ ân xá, con cái Israen rời đất lưu đày Balylon, tiến về thánh điện, khởi công tái thiết quê hương xứ sở giữa muôn vàn gian nan khốn khó.

Đứng trước cảnh đổ nát hoang tàn của đền thờ, đất đai bị ngoại bang lấn chiếm, tinh thần của dân Do thái hồi hương không khỏi lao đao. May nhờ có sự hổ trợ của Ezra và Nêhêmia là hai người giàu có, thế lực dưới triều vua Artaxerxes, dân Israen đã xây lại được một phần nhỏ đền thờ Giêrusalem và thánh hiến nó vào koảng năm 516 trước Công nguyên (BC).

Thế nhưng, chưa hưởng trọn niềm vui tự trị và tự do, người Do thái lại bị các quốc gia hùng mạnh như Ai cập và Hy lạp quấy phá. Đến năm 169 BC, người Xyria do vua Anticô II dẫn đầu, đã tiến vào đánh chiếm cướp phá đền thờ. Một lần nữa đền thánh Giêrusalem lại rơi vào cảnh hoang tàn đổ nát.

Mãi đến năm 63 trước Công nguyên, sau khi người Rôma chiếm đóng Palestine và đặt Hêrôđê làm quan tổng trấn cai trị vùng đất Giuđê, đền thờ mới được tái thiết nguy nga và được thánh hiến vào năm 19 BC.

Biết bao cẩm thạch, vàng bạc, gỗ quí, và công sức được đổ ra cho việc xây cất một đền thờ lộng lẫy, làm nên niềm tự hào và sức sống của cả dân tộc Israen. Trong cuốn sách “Những Cuộc Chiến của Người Do Thái”, sử gia Josephus đã mô tả về “niềm tự hào” đó như sau: “Mặt tiền của Đền thờ đủ làm choáng ngợp tâm trí và đôi mắt người ta. Nó được bọc bằng những miếng vàng lớn. Khi ánh thiều dương vừa tỏa sáng ở chân trời, thì cả đền thờ rực lên bởi những tia sáng phản chiếu, khiến những ai muốn nhìn thẳng vào đó cũng bị lóa mắt, đến nỗi họ phải quay đi. Đối với khách lạ, thì từ đàng xa, Đền thờ nổi bật lên như một núi tuyết trằng xóa. Không có phần nào mà không được chạm trổ hay bọc vàng.”

Đứng trên núi Cây Dầu nhìn xuống đền thờ rực rỡ trong ánh nắng huy hoàng, các môn đệ không khỏi buông lời trầm trồ khen ngợi. Nhưng, thay vì hòa điệu với những rung cảm trước vẻ hoa lệ của Đền thờ, Đức Giêsu lại tiên báo về một sự sụp đổ không tránh khỏi. Những gì thế gian cho là vững chắc và xinh đẹp chỉ là những thứ mỏng dòn và tạm bợ. Tất cả sẽ bị tàn phá. Ngay như công trình và “niềm tự hào” của Israen đây cũng sẽ bị sụp đổ, “không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào” (Lc 21:6). Đức Giêsu đã tiên báo như thế.

Và sự gì đã xảy ra?

Năm 70 sau khi Chúa Giêsu sinh ra, tướng Titô đem đại quân Rôma đến vây hãm thành Giêrusalem. Dân chúng bị đói khát đến nỗi phải ăn thịt lẫn nhau. Kẻ nào tìm cách trốn khỏi vòng vây đều bị giết chết. Tính ra số người bỏ mạng lên đến 1.100.000, và số người bị bắt sau khi thành thất thủ là 97.000. Đền thờ bị lính Rôma phóng hỏa tan tành. Tướng Titô chỉ cho chừa lại một mảng tường thành để sau này con cháu Israen đến đó mà than khóc. Như thế, lời tiên báo của Chúa Giêsu đã ứng nghiệm.

Nhưng sự sụp đổ của thànnh Giêrusalem chỉ là hình bóng của ngày thế tận. Rồi đây, sẽ chẳng còn thứ gì tồn tại. Thời gian sẽ hủy diệt tất cả. Sự sống, sắc đẹp, sức lực, sung sướng… của cuộc đời này đều mỏng dòn và ngắn ngủi. Mọi sự đều tiến về cái chết, dù nhanh hay chậm.

Vì thế, thánh Anphong từng nhắc đi nhắc lại: “Chỉ có một việc ta phải lo là việc rỗi linh hồn, vì mỗi người chỉ có một linh hồn mà thôi.” Thánh Phanxicô Saviê cũng nói: “Mỗi người chỉ có một linh hồn. Nếu được rỗi thì được hưởng thiên đàng, nếu bị mất thì phải sa hỏa ngục.” Xưa Vua Đavít suy về điều này mà thốt lên lời nguyện cầu: “Tôi chỉ ước trông một điều, đêm ngày tôi khấn xin, là cho tôi được vui sống trong nhà Chúa trọn đời” (Tv 26:4)

Nhưng để được ở trong nhà Chúa, tức là để chiếm được Nước Trời, người ta phải nỗ lực chiến đấu. Chính Đức Giêsu đã nói: “Nước Trời ở dưới sức cường bạo,và những kẻ cường bạo chiếm đoạt lấy.” (Mt 11:12) Không gắng công chống trả ba thù, thiếu quyết tâm đi vào cửa hẹp, làm sao có thể tìm được thiên đàng đích thực.

Lạy Chúa, xin trợ lực chúng con chống trả ba thù, kiên vững niềm tin, hầu mai kia được hưởng niềm vui trường sinh trong Nước Chúa. Amen.

37. Biết tin vào ai?–Lm. Đam. Nguyễn Ngọc Long

Cả thế giới hoảng hốt kinh hoàng khi nhìn qua màn ảnh truyền hình, cảnh khu phố Manhattan ở Newyork và khu Pentagon ở Washington bị không tặc dùng phi cơ đâm bổ xuống hôm 11.09.2001, gây cảnh đổ nát, cháy thiêu rụi, chết chóc hoang tàn. Có những phóng viên diễn tả cảnh tượng hãi hùng này như cảnh ngày tận thế trong sách Khải Huyền. Tất cả trở nên đổ nát bình địa. Lòng người ly tán hoang mang tưởng như mất luôn cả niềm tin. Vì đã mất tất cả, ngay cả mạng sống cũng bị đe dọa và không còn gì là bảo đảm an toàn nữa ngay trong một xứ hoà bình, giầu có thịnh vượng với nền văn minh kỹ thuật tân tiến hàng đầu trên thế giới!

Có những người tự hỏi về ý nghĩa và mục đích của đời sống là gì? Không lẽ cuộc đời chỉ là cảnh tượng kinh hoàng chết chóc như vậy sao? Con người có thể tìm thấy một điểm tựa nơi niềm tin trong giờ phút hoang mang kinh hoàng không? Ai là người hướng dẫn, nâng đỡ cuộc đời con người?

Có những tâm hồn tuy sống hoang mang sợ hãi cùng tột, nhưng đã tìm thấy cho mình và cho người khác những lời an ủi gây niềm tin tưởng phấn chấn, như lời nguyện than thở:

Lạy Cha, niềm tin vào Cha dạy con: đời sống con phát nguồn từ nơi Cha và sau cùng qua ngưỡng của sự chết, tất cả trở về với Cha. Trong vòng tay Cha, tất cả tìm được nguồn an vui. Vì Cha là tình yêu vô bờ bến của đời sống con người! Cho dù bây giờ con người chúng con đang trong cảnh hoang mang lo âu, buồn sầu và không sao hiểu được sự gì đã đang và sẽ xảy ra…

Lời cầu khẩn này là nhân chứng của một tâm hồn tràn đầy niềm tin tưởng, niềm hy vọng vào tình yêu của Đấng Vô Hình, người hằng đồng hành với trong cuộc đời.

Lời cầu khẩn đầy tin tưởng và chan chứa niềm hy vọng này là ánh sáng soi chiếu cho ta, khi đọc hay nghe đoạn Tin Mừng nói về cảnh tượng thành Giêrusalem bị tàn phá hoang tàn đổ nát (Lc 21, 5-19). Đó chưa phải là ngày tận thế đâu. Tất cả nằm trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Không có sự gì xảy ra mà không nằm trong sự quan phòng của Ngài.

Lời của Chúa là ánh sáng cho trần gian trong đêm tối của hoang mang lo sợ. Lời của Chúa mang lại cho tâm hồn sức sống niềm an ủi hy vọng.

Con người không nên nghĩ đến ngày tận thế, đến hoang tàn đổ nát, nhưng hãy nghĩ đến sự sống. Sự sống con người bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa. Và trong suốt dọc cuộc sống, Ngài hằng yêu thương đồng hành với. Nơi ngài có nguồn an ủi và nguồn bình an.

Đó là mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa mà tâm hồn ta chỉ cảm nghiệm thấy, mà trí khôn không hiểu thấu được.

38. Suy niệm của William Barclay

Trước vẻ lộng lẫy của Đền Thờ, nhiều môn đệ như ngây ngất chiêm ngắm, Chúa nhân cơ hội này ban một thông điệp có tính cách tiên tri mà người ta đặt tên là diễn văn cánh chung vì đề cập đến các biến cố thời thế mạt. Chúa đề cập đến ba đề tài riêng rẽ nhưng lại trộn lẫn vào nhau: sự tàn phá thành Giê-ru-sa-lem (40 năm sau đó xảy ra). Ngày thế mạt và Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang. Dịp này Chúa cũng tiên báo các môn đệ của Chúa sẽ bị bách hại nặng nề, khuyến khích họ bền tâm vững chí trong cầu nguyện và tỉnh thức.

1. Có tư tưởng về “ngày của Chúa”.

Người Do-thái chia thời gian ra làm hai thời kỳ. Thời kỳ hiện tại mọi sự đều xấu xa tội lỗi, vô phương cứu chữa, chỉ dành cho sự hủy diệt mà thôi. Có thời kỳ hầu đến, tức là hoàng kim thời đại của Đức Chúa, lúc đó dân tộc Do-thái sẽ đứng đầu thế giới. Giữa hai thời đại đó sẽ có “ngày của Chúa” là một thời kỳ đảo lộn và tan tành trong vũ trụ, thời kỳ đau đớn cực độ để sản sinh ra thời đại mới.

Đó là một ngày khủng khiếp: “Kìa một ngày của Đức Chúa đến, ngày khắc nghiệt, ngày của phẫn nộ và lôi đình, ngày làm cho đất tan hoang và tiêu diệt phường tội lỗi, không còn một tên nào ở đó” (Is 13,9). “Ngày của Chúa đến như kẻ trộm ban đêm” (2Pr 3,10). Đó là một ngày mà thế giới sẽ tan tành: “Quả vậy, tinh tú bầu trời và các chòm sao sẽ không chiếu sáng nữa, mặt trời vừa mọc đã tối sẫm, mặt trăng sẽ không còn tỏa sáng. Ta sẽ làm cho trời đất chấn động, đất chuyển rung rời chỗ trong cơn giận của Đức Chúa các đạo binh vào ngày Người nổi cơn lôi đình”(Is 13,10.13). Ngày của Chúa là một trong những ý tưởng nền tảng của tôn giáo trong thời Chúa Chúa Giêsu. Ai nấy đều biết những hình ảnh khủng khiếp này.

2. Có lời tiên tri về sự tàn phá thành Giêrusalem.

Thành bị tàn phá bởi quân đội La-mã năm 70 SC sau một thời gian bị bao vây khốn cực. Trong cuộc vây hãm đó dân cư trong thành đói đến độ phải ăn thịt người, và kinh thành bị tàn phá đến từng viên đá. Sử gia Josephus nói, cuộc vây hãm này đã khiến một triệu một triệu một trăm ngàn người chết,chín mươi bảy ngàn người bị bắt làm phu tù. Quốc gia Do- thái bị quyết sạch và Đền Thờ bị thiêu hủy, trở thành nơi hoang vu.

3. Có sự trở lại của Chúa Giêsu.

Chúa biết chắc chắn Ngài sẽ trở lại thế gian và Hội Thánh đầu tiên đã chờ đợi việc Chúa trở lại – trước ngày Chúa trở lại,sẽ có nhiều kẻ lường gạt tự xưng mình là Chúa Cứu Thế và sẽ có những biến động lớn lao.

4. Có ý tưởng về sự bắt bớ;

Chúa Giêsu đã nhìn thấy trước và nói trước những điều kinh khủng mà dân Ngài sẽ phải chịu vì danh Ngài trong những ngày tương lai.

Đoạn Kinh Thánh trước đây khó tiếp thu cho chúng ta vì một đàng chúng ta không quen với lối văn khải huyền rất thông dụng đối với người Do-thái, đàng khác có tới bốn tư tưởng liên hệ với nhau. Dầu vậy chúng ta cố gắng lượm lặt ý nghĩa bài học Chúa muốn dậy.Chúa phán những lời này nhân dịp chiêm ngưỡng vẻ, lộng lẫy của Đền Thờ. Trong Đền Thờ, các cột trụ của cổng và hành lang đều toàn bằng cẩm thạch trắng,cao hơn mươi hai mét, mỗi cột làm bằng đá nguyên khối. Về trang trí thì nổi tiếng nhất là cây nho lớn là cây nho lớn bằng vàng ròng, mỗi chùm nho cao bằng một người. Sử gia Do- thái Josephus mô tả Đền Thờ vào thời Chúa Giêsu: “Mặt tiền của Đền Thờ có đủ vẻ huy hoàng khiến cho mắt và trí loài người phải ngạc nhiên, bởi vì nó phủ bằng tấm vàng lá rất dày và nặng, khi mặt trời mọc lên, nó phản chiếu một sự rực rỡ chói lòa, khiến ai muốn nhìn cũng phải quay đi, khác nào nhìn vào chính mặt trời vậy. Nhưng cả Đền Thờ hiện ra như một trái núi phủ tuyết đối với những khách lạ khi còn ở đàng xa, bởi các phần khác của Đền Thờ không phủ bằng vàng thì có màu trắng toát.” Đối với người Do-thái, sự vinh hiển dường ấy của Đền Thờ mà bị tan thành tro bụi là điều không thể tưởng tượng nổi. Qua đoạn Kinh Thánh này ta học được mấy điều về Chúa Giêsu và về đời sống Kitô hữu.

1. Chúa Giêsu có thể đọc được những dấu hiệu của lịch sử.

Các kẻ khác có thể mù lòa đối với tai họa sắp đến, nhưng Ngài thấy rõ trái núi sắp đổ xuống. Chỉ khi nào con người nhìn xem mọi sự bằng con mắt của Thiên Chúa, bấy giờ mới thấy rõ ràng.

2. Chúa Giêsu rất thành thật.

Ngài phán với các môn đệ: “Đó là điều các ngươi phải gặp nếu muốn theo ta.” Chẳng những lần này mà nhiều lần khác: trong bữa tiệc chia tay Ngài nhắc lại lời cảnh báo: “Tôi tớ không trọng hơn chủ, nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ các con.”(Ga 15,20). Đó là điều không tránh được: “Vả lại, những ai muốn sống đạo đức trong Đức Kitô Giêsu, đều sẽ bị bắt bớ.”(2 Tm 3,12). Tuy nhiên, bách hại xảy ra không ngoài kế hoạch của Thiên Chúa, Chúa cho phép xảy ra, để đem lại lợi ích lớn lao hơn. Đó là cơ hội để làm chứng cho Chúa Kitô.

Lần kia, giữa trận quyết liệt cho công lý, một thủ lãnh anh hùng đã viết cho người bạn rằng: “Những đầu người đang rụng xuống trên bãi cát, hãy đến và thêm vào đó đầu của bạn nữa!” Chúa Giêsu tín nhiệm con người đến với Ngài chỉ cho họ không phải vì một con đường dễ dãi, song là con đường của một vĩ nhân anh hùng.

3. Chúa Giêsu hứa rằng các môn đệ của Ngài sẽ không bao giờ chịu khổ một mình.

Lịch sử chứng thực rằng trong khi thân xác bị cực hình và chờ đợi giờ chết, các Kitô hữu chân chính đã bao lần viết lên những giờ phút thân mật thiết tha với Chúa Giêsu. Ngục tù có thể như một cung điện, đoạn đầu đài như một ngai vàng, cơn bão táp của đời người giống như cảnh êm đềm khi có Chúa Giêsu ở với chúng ta.

4. Chúa Giêsu đã nói về sự an toàn vượt quá mọi đe dọa của thế gian

Ngài phán: “Dù một sợi tóc trên đầu cũng không mất.” Trong những ngày đại chiến 1914-1918, bởi niềm tin và lý tưởng của mình, Brooke đã viết: “Chúng ta đã nắm được một sự bình an mà muôn đời không bị lay chuyển bởi đau khổ.” Người nào bước đi với Chúa Cứu Thế có thể mất mạng sống, nhưng không mất linh hồn.

39. Dọn lòng chờ Chúa đến–Huệ Minh

Năm Phụng vụ đang dần khép lại. Chúng ta đang ở Chúa nhật áp chót của năm. Và ta thấy tâm điểm vẫn là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, chịu chết và sống lại, lên trời và sẽ trở lại trong vinh quang như lời Người đã phán. Sống đời kitô hữu là sống niềm tin và hy vọng vào Chúa, nhất là trung thành với Đức tin đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội, chúng ta sẽ được bình an trong ngày Chúa đến.

Đời này và thế giới vật chất rồi sẽ qua đi, nhưng Thiên Chúa vẫn hằng sống và luôn còn mãi. Ta phải tin thật như vậy, không được nghiêng ngả, nao núng, lo sợ trước những cám dỗ của cuộc sống và những cấm cách, bắt bớ của thời đại. “Vì thế gian chỉ có thể làm khổ hoặc giết được thân xác, chứ không làm khổ hoặc giết được linh hồn” (Lc 12, 4). “Ai muốn giữ mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình thì sẽ tìm lại được mạng sống mình ở đời sau” (Ga 12, 25).

Lời răn dạy của Chúa mang tính phổ quát liên quan đến mạng sống của mọi người ở đời này và đời sau, nhưng trước tiên Chúa muốn răn dạy những người đi theo Ngài, là chính chúng ta.

Quả thật, mạng sống con người là quan trọng, nhất là sự sống đời đời. Chúa Giêsu đã từng thốt lên “người ta sẽ lấy gì mà đổi được mạng sống mình. Được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống mình thì được ích gì” (Mt 16, 26).

Trọng tâm của Tin Mừng hôm nay là Chúa Giêsu loan báo việc đền thờ Giêrusalem sẽ bị phá hủy và liên kết với việc tàn phá đền thờ, Chúa Giêsu đề cập đến ngày tận thế. Trong khi chờ đợi “Ngày của Chúa” tức là ngày Chúa đến lần thứ hai, các tín hữu sẽ phải trải qua nhiều gian nan thử thách, phải qua một thời kỳ bị bách hại. Nhưng họ đừng sợ, hãy cứ kiên trì vì sự bách hại sẽ là một cơ hội để họ làm chứng cho Tin Mừng. Chính Chúa sẽ giúp họ chiến thắng với điều kiện họ phải luôn kiên trì giữ vững đức tin và trung thành với Chúa cho đến cùng.

Ngày của Chúa sẽ là ngày tận cùng của thế giới. Khi đó, tất cả mọi người sẽ tập trung lại trước mặt Chúa Giêsu, để ngài tách chiên ra khỏi dê; chiên thì ở bên phải được hưởng hạnh phúc viên mãn; dê thì ở bên trái, bị liệt vào những kẻ bị kết án đời đời. Cụ thể hơn, Ngày của Chúa còn là giây phút lìa đời của mỗi người. Giây phút quyết định, dứt khoát, không thể thay đổi, mà mỗi người sẽ lãnh nhận phần của mình đã gầy dựng trong cuộc sống trần gian.

Và ta thấy có nhiều người sống như không bao giờ phải chết. Họ không biết mình sống để làm gì và không biết chết rồi sẽ ra sao? Do đó, họ chỉ lo hưởng thụ các đam mê lạc thú bất chính và không làm gì để chuẩn bị cho đời sau. Còn các tín hữu hôm nay cần ý thức về ngày giờ chết của mình để chuẩn bị chết lành, bằng việc thực hiện những việc như sau: Thanh toán nợ nần sòng phẳng, hồi tâm sám hối mỗi tối và năng lãnh bí tích Hòa giải, dọn mình dự lễ rước lễ mỗi ngày. Thực hành các việc bác ái cụ thể như kinh “Thương Người có mười bốn mối” và “Kinh Hòa Bình” đề ra.

Ngoài ra còn phải chu toàn công việc bổn phận như: học tập, nội trợ, lao động trí óc chân tay… Làm được như vậy thì khi giờ chết đến gần, chúng ta sẽ không cảm thấy bồn chồn lo lắng, nhưng sẽ vui mừng chờ đón Chúa đến trong niềm tin tưởng cậy trông sẽ được Người thương đón nhận vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau.

Khi chờ đợi Chúa đến, người môn đệ phải sống vững niềm tin của mình. Một niềm tin đã được phê phán, đối chất; một niềm tin đã được tôi luyện qua sự bách hại và không hiểu biết của người đời; một niềm tin giúp chúng ta sống trong thế giới này với sự xác tín là, “ việc làm cụ thể” rất cần thiết để tiếp tục công trình sáng tạo của Thiên Chúa; đồng thời, cũng xác tín rằng, thế giới này cần thiết, không thể thiếu, nhưng không phải là cuối cùng.

Ta luôn ở thế giằng co cũng như ta đang ở trong một trạng thái khắc khoải, băn khoăn, xao xuyến. Vừa làm việc hết sức mình trong thế giới, lo lắng làm cho công trình sáng tạo được hoàn thiện trọn vẹn, viên mãn, và đồng thời, vừa được báo cho biết là thế giới này sẽ qua đi, nhường chỗ cho một thế giới khác hoàn hảo sắp đến. Vừa thán phục trước những kỳ quan của thế giới, mà cùng một lúc, cũng được cuốn hút vào một thế giới mà chúng ta sẽ được giải thoát khỏi mọi sự dữ.

Tin mừng Chúa Nhật hôm nay ghi lại lời Chúa Giêsu tiên báo về sự hủy diệt Đền thờ Giêrusalem. Đây cũng là dịp để chúng ta suy nghĩ về giờ chết của mỗi người chúng ta và về ngày tận thế chung của toàn thể nhân loại. Đồng thời chúng ta biết nên làm gì để chuẩn bị cho ngày ấy.

Các bài suy niệm Lễ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Lời Chúa: Kn 3,1-9; 2Cr 4,7-15; Mt 10,17-22

1. Không thuộc về thế gian–‘Manna’

Suy Niệm

“Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua,

lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước.

Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô.”

Đó là câu trả lời của ông Micae Hồ Đình Hy

khi vua Tự Đức mời ông giả vờ bước qua thánh giá.

Ông là người thanh liêm, được nhà vua hết sức tín cẩn,

cho phụ trách ngành dệt trong cả nước.

Nhưng ông cũng là một Kitô hữu xông xáo làm việc tông đồ.

Ông không thấy có gì xung khắc

giữa việc phục vụ đất nước với việc phục vụ Giáo Hội.

Khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì ông bị bắt,

bị kết án là khinh luật nước, chống lại triều đình.

Ông Hy đã chấp nhận cái chết một cách bình thản.

Trước khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu thuốc,

hương vị cuối cùng của trần gian mà ông muốn nếm

trước khi nếm hương vị của thiên đàng vĩnh cửu.

Cuộc sống và cái chết của thánh Micae Hy

soi sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay.

Người Kitô hữu có hai đầu dây cần phải giữ.

“Như Cha đã sai Con đến trong thế gian,

Con cũng sai họ đến trong thế gian” (Ga 17,18).

Thế gian là nơi thánh Hy đã sống cho đến chết.

Thế gian là đất nước, là vua quan, là thứ dân…

Ngài đã yêu mến và sống tận tình cho thế gian đó.

Thế gian đã trở nên như máu thịt của người Kitô hữu

vì đó là nơi họ được Chúa sai đến để phục vụ,

và là nơi họ trở thành người Kitô hữu trọn vẹn.

“Họ không thuộc về thế gian,

cũng như Con không thuộc về thế gian” (Ga 17,16).

Ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian,

nghĩa là không hoàn toàn nghĩ và sống như thế gian.

Người Kitô hữu không coi thường mọi giá trị của xã hội,

nhưng họ có một thang giá trị riêng.

Họ biết đâu là những giá trị mà họ phải tôn trọng.

Nếu hy sinh những giá trị đó, họ sẽ đánh mất chính mình

và chẳng đóng góp được gì cho bộ mặt thế giới.

Họ là nhúm men vùi trong đống bột.

Men không được tách khỏi bột,

và men cũng không được biến chất thành bột.

Trong cả hai trường hợp, men đều trở nên vô ích.

Chúng ta vẫn bị cám dỗ buông một trong hai đầu dây.

Bỏ một trong hai đều làm mất căn tính của người Kitô hữu.

Ơn gọi Kitô hữu đặt ta vào một thế đứng chênh vênh,

thế đứng dễ ghét, thế đứng đòi phải trả giá.

Tử Đạo là cách làm chứng tuyệt vời trong thời bách hại.

Trong thời kinh tế thị trường, cần có những cách làm chứng khác.

Người Kitô hữu vẫn bị cám dỗ bước qua lương tâm mình

để mua lấy chút địa vị, lợi nhuận, an toàn, thoải mái…

Thế gian không ở ngoài ta, thế gian ở ngay trong lòng ta.

Ước gì chúng ta dám chấp nhận thiệt thòi, phiền hà, mất mát,

khi can đảm làm chứng cho lòng tin và tình yêu.

Gợi Ý Chia Sẻ

Kitô hữu vừa phải đồng hành với thế gian, vừa có lúc phải lội ngược dòng với thế gian. Bạn thấy điều đó có quá khó không? Làm sao thực hiện được lý tưởng đó?

Thời nào, nơi nào, làm chứng cho Chúa cũng có cái khó riêng. Đâu là cái khó khi bạn phải làm chứng cho Chúa trong một xã hội chạy theo tiền bạc và hưởng thụ?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,

Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.

Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,

lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.

Thế gian này vàng thau lẫn lộn.

Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.

Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,

giữ được vị mặn của muối, và sức tác động của men,

để đem đến cho thế gian một linh hồn, một sức sống.

Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,

chỉ sợ mình bỏ sống đạo vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.

Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng

chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,

những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.

Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,

thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui

của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.

2. Anh em làm chứng cho Thầy–Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.

Suy Niệm

Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được phong thánh năm 1988,

có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con.

Đó là bà Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Đê.

Trước khi là một anh hùng tử đạo,

bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu.

“Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con.

Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý,

sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ.”

Đó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.

Nhà bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn.

Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861,

quan Tổng Đốc Nam Định cho quân bao vây làng của bà.

Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi.

Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo,

bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người.

Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam,

đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu,

bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng:

“Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy,

mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?”

Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình,

người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.

Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam

là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta.

Thiên Chúa đã làm điều phi thường

nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối.

Quan “Hùm Xám” tỉnh Nam Định cũng phải bó tay

trước sự yếu đuối kiên vững của bà.

Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ,

bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình.

Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án,

vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.

Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin,

dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.

Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu,

không đòi hy sinh mạng sống,

nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.

Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa,

trước thập giá của Đức Giêsu, y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.

Có khi chúng ta đã bước qua thập giá,

khi chọn mình, đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.

Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin.

Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo

gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp

mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.

Ước gì chúng ta không để mất đức tin

được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo,

và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy

cho hơn 70 triệu đồng bào trên quê hương.

Gợi Ý Chia Sẻ

Các vị tử đạo làm chứng cho Chúa bằng cách hy sinh tính mạng. Theo ý bạn, trong thời đại đất nước mở cửa, đâu là cách thức làm chứng của người kitô hữu? (làm chứng ở trường, ở nơi làm việc, ở các chỗ giải trí vui chơi…)

Theo ý bạn, xã hội hôm nay dễ nhạy cảm với cách làm chứng nào của người kitô hữu? Phải sống như thê nào để người ta dễ có cảm tình với Đức Giêsu?

Cầu Nguyện

Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,

các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu

trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.

Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết

và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.

Dù mang phận người yếu đuối,

nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng,

các ngài đã chiến thắng khải hoàn.

Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài

biết can trường sống đức tin của bậc cha anh

trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,

biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu

bằng một đời hiến thân phục vụ.

Ước gì ngọn lửa đức tin

mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết,

được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam.

Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương

để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.

3. Sống chứng nhân tin mừng–TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam vì 3 lý do:

– Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là người Việt Nam, không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những vị thánh góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.

– Hân hoan và hãnh diện vì số lượng đông đảo các Thánh Việt Nam. Với 117 vị Thánh. Giáo Hội Việt Nam được xếp nhất nhì trong Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các Thánh.

– Hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng quả cảm.

Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì đức tin.

Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất đức tin. Vì Chúa, các Ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.

Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.

Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các Ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin chân chính.

Là người Công Giáo Việt Nam. Chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các Ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các Ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.

Làm sao ta có thể có được cái chết cao đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy vọng chết vì đạo. Ta chỉ còn một cách bắt chước, noi gương các vị tiền nhân anh hùng, đó là sống vì đạo.

Ngày nay, ta ít gặp những khốn khó như bị bắt bớ giam cầm, giết chết vì đạo. Nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay, ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.

Khó khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của mình. Ai cũng lo làm ăn. Học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay người ta kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ người ta thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì thế càng ngày người ta càng đóng kín vào bản thân, không có thời giờ nghĩ đến người khác. Trong khi đó những người nghèo thì càng nghèo hơn, những người yếu càng mệt hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy theo cuộc tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau. Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành với Lời Chúa dạy, ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, giúp đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.

Khó khăn thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Đồng tiền đang trở thành một thước đo gía trị con người. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền, và để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối lộ. Tiền bạc quả là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những giá trị, biến chất con người.

Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và Luật Chúa.

Quả thực xã hội mới, đang tạo ra những cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta cũng phải lực chọn quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém gì những khổ hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến lòng ta rỉ máu không kém gì chịu tử hình. Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúc Âm trong thời đại mới đúng là một cuộc tử đạo liên tục.

Sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.

Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.

4. Chứng nhân tình yêu–TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Thánh lễ hôm nay đỏ một mầu máu. Máu của hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh. Máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền giáo tại Việt Nam.

Có điều máu lênh láng nhưng không tanh tưởi bởi không phải là thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong hờn căm oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì phát xuất từ tình yêu cao quí. Máu dường như toả hương thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương. Máu không gây ghê tởm nhưng gợi lòng kính trọng. Máu không tạo oán thù nhưng vực dậy yêu thương. Đó là những dòng máu làm chứng cho tình yêu.

Tình yêu Thiên Chúa.

Các thánh Tử Đạo Việt Nam có lòng tin mạnh mẽ. Lòng tin của các ngài không biểu lộ trong những hành vi cuồng tín, nhưng diễn tả trong thái độ chan chứa yêu thương. Đã nhận biết Chúa, các ngài yêu mến Chúa tha thiết. Đã cảm nhận được tình yêu của Chúa các ngài mong muốn được đáp đền tình yêu đó.

Tình yêu của các ngài là tình yêu hy sinh. Nên các ngài đã từ bỏ tất cả: cuộc sống yên ổn, danh vọng tiền tài, kể cả mạng sống vì Chúa. Thánh Hồ đình Hy sẵn sàng chịu mất chức trong triều đình. Thánh Tôma Thiện vui lòng dâng hiến tuổi xuân xanh với những lời hứa hẹn chức quyền của vua quan. Thánh nữ Anê Lê thị Thành mạnh dạn từ bỏ gia đình êm ấm với những người con ngoan ngoãn dễ thương. Tất cả vì tình yêu Chúa.

Tình yêu của các ngài là tình yêu chung thuỷ. Các ngài yêu mến Chúa khi bình an, các ngài càng yêu mến Chúa trong những gian nan thử thách. Các ngài đã thực hiện lời thánh Phao-lô: Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta (Rm 8,35-39).

Tình yêu của các ngài là tình yêu cao quí. Đáp lại tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã hiến thân vì các ngài, các ngài cũng hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu với Chúa. Đúng như lời Chúa nói: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13).

Tình yêu cuộc sống.

Các ngài là những người yêu mến cuộc sống. Không phải một cuộc sống tầm thường nhưng là cuộc sống với tất cả những chiều kích cao đẹp của nó. Cuộc sống với những giá trị thiêng liêng như lý tưởng, như tình yêu, lòng trung tín. Một cuộc sống không nô lệ cho vật chất. Một cuộc sống trung thực không giả dối. Một cuộc sống không bị đóng khung trong thế giới hữu hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh cửu. Một cuộc sống không hạ con người xuống nhưng nâng con người lên ngang với các thần thánh. Thật sự yêu mến cuộc sống nên các ngài sẵn sàng hy sinh tính mạng để làm chứng, để bảo vệ và xây dựng.

Tình yêu nhân loại.

Cái chết của các ngài minh chứng một tình yêu vô biên đối với nhân loại. Các ngài không chỉ yêu mến Chúa mà còn yêu mến gia đình. Hãy nhìn cảnh thánh Lê văn Phụng hoặc thánh nữ Lê thị Thành an ủi con cháu trước khi ra pháp trường. Tình yêu thương của các ngài lan cả tới lính gác, cai tù và lý hình. Thánh Lê văn Phụng chữa bệnh cho người cai tù của mình. Tất cả các thánh vui vẻ ra đi chịu chết. Không có ai tỏ lòng oán hận. Và nhất là không có vị nào thù ghét các lý hình.

Tình yêu của các ngài phát xuất từ tình yêu Chúa nên rộng rãi toả lan tới mọi người, mọi nơi các ngài sinh sống. Tình yêu ấy là tình yêu nguyên tuyền nên không biết đến sự thù ghét, nên sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình. Tình yêu ấy như bông hoa vẫn toả hương trong tay kẻ vò nát nó. Tình yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn phả hương thơm cả đến chiếc rìu bổ vào nó (Fulton Sheen).

Động lực hướng dẫn cuộc đời các ngài là tình yêu. Cái chết của các ngài làm chứng cho tình yêu. Đó chính là điều mà ta có thể bắt chước các ngài. Trong hoàn cảnh hiện nay, ta không có hy vọng được phúc tử đạo, nhưng ta vẫn có thể noi gương các thánh Việt Nam làm chứng cho đạo Chúa. Nếu ta không được chết cho tình yêu, ta vẫn có thể sống cho tình yêu. Có lẽ ngày nay Chúa cũng không mong ta chết vì đạo mà mong ta hãy sống vì đạo.

Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin chúc lành cho quê hương và Giáo Hội Việt Nam. Amen

5. Tuyên xưng, sống và làm chứng cho đức tin–TGM. Giuse Nguyễn Năng

1. Không một tôn giáo nào có một lịch sử kỳ lạ như Kitô giáo. Quả vậy, không một tôn giáo nào bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương như Kitô giáo; và cho dù bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương, Kitô giáo không hề bị tiêu diệt, trái lại vẫn không ngừng tăng trưởng cả về phẩm chất lẫn số lượng. Đó là những bí ẩn của lịch sử không thể lý giải bằng lý lẽ tự nhiên, nhưng chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của niềm tin.

Quả vậy, ngay từ những năm tháng đầu tiên loan báo Tin Mừng, Hội Thánh đã trải qua 300 năm bị bách hại dưới thời các hoàng đế Roma. Rồi từ đó, Phúc Âm được rao giảng ở đâu, thì ở đó không sớm thì muộn, các Kitô hữu cũng bị bắt bớ và giết chết, Hội Thánh bị bách hại và loại trừ. Lịch sử Hội Thánh là một lịch sử đầy những cuộc tử đạo, ở khắp mọi miền trên thế giới, vào hết mọi thời kỳ trong lịch sử.

Ngay trong thời đại chúng ta, trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này, nếu tính tổng cộng tất cả các Kitô hữu, gồm Công giáo, Chính thống, Anh giáo và Tin lành, thì hằng năm có khoảng 170.000 người tử đạo, 200.000.000 người chịu bách hại vì đức tin Kitô giáo.

Trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này, 117 vị thánh đã được phúc tử đạo trong một giai đoạn bách hại kéo dài đúng 117 năm, tính từ hai vị tử đạo tiên khởi vào năm 1745 đến vị cuối cùng vào năm 1862, qua các triều đại vua Lê chúa Trịnh, Tây Sơn và các triều nhà Nguyễn. Đó là chưa kể chân phước Anrê Phú Yên tử đạo vào năm 1644, và hằng trăm ngàn tín hữu chết vì đức tin nhưng chưa được phong thánh.

Bức tranh trên đây là một thực tế, và đó cũng là một điều bí ẩn của lịch sử Hội Thánh. Các Kitô hữu bị ghét, vì trước hết, chính Chúa Giêsu đã bị ghét và đã chịu tử hình trên thánh giá. Chúa Giêsu chính là vị tử đạo đầu tiên vì Tin Mừng mà Ngài rao giảng. Ngài là con đường dẫn đến sự sống đích thực, nhưng thế gian lại yêu sự tối tăm hơn ánh sáng.

Chúa nói: “Vì anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em… Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em… Họ chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15, 19-21). Đơn giản chỉ là thế. Sâu xa là như vậy.

Tuy nhiên, Chúa đã hứa ở cùng Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế, và Chúa đã tuyên bố không quyền năng nào có thể tiêu diệt Hội Thánh. “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).

2. Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại đời sống đức tin của các thánh tử đạo Việt Nam để xem các ngài đã tuyên xưng, đã sống và làm chứng cho đức tin thế nào.

Tại sao các Kitô hữu bị ghét bỏ, bị bắt bớ và giết chết? Các thánh tử đạo đã làm gì?

Các thánh tử đạo bị giết chỉ vì tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu. Lòng tin ấy biểu lộ qua việc tôn thờ thánh giá Chúa. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được!” Thánh Têôphan Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”

Chắc chắn không phải vì các ngài đã theo đạo Tây mà phản bội tổ quốc và dân tộc. Các ngài tôn trọng vua quan và hết lòng vì quê hương. Thánh linh mục Tự đối đáp với quan tòa: “Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được”.

Nhiều vị thánh đã ở trong hàng ngũ quân đội bảo vệ đất nước. Thánh Trần Văn Trung là một binh sĩ, đã bị giết vì khẳng khái tuyên bố: “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ”. Thánh linh mục Khuông từng tuyên bố: “Đạo Giatô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng”.

Yêu nước không có nghĩa là phải thù ghét loại trừ các Kitô hữu và chống lại Kitô giáo.

3. Lời tuyên xưng của các thánh tử đạo không chỉ là lời tuyên bố trong một khoảnh khắc nhất thời trước khi chết, nhưng đó là hoa trái kết tinh từ một đời sống thấm nhuần Lời Chúa. Các ngài đã sống đức tin, đã thể hiện Tin Mừng yêu thương trong chính đời sống của mình.

Trước hết, đời sống đức tin của các thánh tử đạo được biểu lộ ngay trong bổn phận hằng ngày của đời sống gia đình.

Dù thời đó, chế độ đa thê vẫn đang thịnh hành trong xã hội Việt Nam, nhưng các thánh tử đạo đã trung thành với giáo huấn một vợ một chồng của Phúc Âm. Dĩ nhiên có những vị lúc đầu đã không trung thành với lời cam kết hôn nhân, như các thánh Gẫm, binh sĩ Huy, Cai Thìn, quan Hồ Đình Hy… đã có thời gian sa ngã, thế nhưng sau đó tất cả đều biết trở về để vun đắp lại mái ấm gia đình của mình.

Các thánh chu toàn bổn phận nuôi dạy con cái theo tinh thần đức tin. Thánh Thọ căn dặn các con vào thăm trong tù: “Các con thân mến, cha không còn làm gì giúp các con ở thế gian này được nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối cùng. Ý Chúa đã muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố gắng vâng lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm săn sóc em mình. Các con nhỏ phải biết kính trọng vâng lời anh chị. Hãy thương yêu nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày. Chúa trao cho mỗi người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ đạo”.

Về phần thánh Anê Lê Thị Thành, vị thánh nữ duy nhất trong số các vị tử đạo, người con gái thứ haicủa ngài là cô Anna Năm xác nhận:”Bố mẹ chúng tôi chỉ gả các con gái cho những người thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn, mẹ tôi thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những lời tốt lành. Có lần mẹ dạy tôi: “Tuân theo Ý Chúa, con lập gia đình là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng. Hãy vui lòng nhận thánh giá Chúa gửi cho”.Người cũng thường khuyên vợ chồng tôi: “Hai con hãy sống hoà hợp, vui vẻ, đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ”.”

Kế đến, sống đức tin là sống Tin Mừng yêu thương.

Thánh y sĩ Phan Đắc Hòa rộng tay giúp người nghèo khổ, riêng bệnh nhân túng thiếu, không những ông chữa bệnh miễn phí, lại còn giúp tiền giúp lúa. Thánh Martinô Thọ nói: “Công bằng chưa đủ, phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện”, nên ngài trồng thêm vườn dâu kiếm tiền giúp người thiếu thốn. Người cùng tử đạo với ngài là Gioan Cỏn từng mạnh dạn đấu tranh cho người nghèo chống lại chính sách đòi sưu cao thuế nặng. Thánh Năm Thuông là ân nhân của viện cô nhi trong vùng. Còn thánh Trùm Đích thường xuyên thăm viếng trại cùi và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch tại nhà mình.

Điều quan trọng trong đời sống đức tin của các thánh tử đạo là lòng tha thứ.

Nếu lòng anh dũng giúp các vị tử đạo bình thản đón nhận cái chết không run sợ, không quỵ lụy khóc than, thì chính lòng bao dung thứ tha mới là đặc tính phân biệt vị tử đạo với những vị anh hùng vì lý do khác.

Các tín hữu chỉ thực sự chết vì đạo nếu biểu lộ được tình yêu, lòng nhân ái, sự bao dung của Tin Mừng. Các vị chắc chắn không đồng ý với bản án bất công của triều đình, nhưng như Đức Giêsu trên thánh giá vẫn cầu nguyện cho quân lính giết hại mình, các chứng nhân tử đạo vẫn tiếp tục yêu thương vua quan và những người hành xử mình.

Khi viên quan nói: “Tôi phải theo lệnh vua, đừng giận tôi nhé”, linh mục Théophane Ven đáp: “Tôi chẳng ghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan”. Thánh Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười khi ngài đọc: “Cầu Chúa Giêsu, xin cho các quan trị nước cho yên càng ngày càng thịnh”.

4. Lời tuyên xưng và đời sống đức tin của các thánh tử đạo đã làm trổ sinh hoa trái phong phú trên quê hương Việt Nam thân yêu này.

Chính đời sống của các thánh tử đạo đã cảm hóa và chiếm được tình cảm của bà con hàng xóm. Dù triều đình nhà Nguyễn ra chiếu chỉ bách hại, bà con hàng xóm vẫn tỏ dấu hiệu thân ái với người công giáo.

Thánh linh mục Vũ Bá Loan là niên trưởng 84 tuổi, được mọi người kính trọng gọi bằng “cụ”, ngài không bị đánh đòn; và trong ngày xử, mười lý hình chạy trốn, đến người thứ mười một, đã lịch sự xin phép: “Việc vua truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho. Cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời cụ nhớ đến cháu nhé”.

Trong vụ án thánh linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cổ quan tài để biểu lộ lòng tôi quí cụ.”

Hơn nữa, ngay trong lúc bị giam tù, các ngài đã đưa hằng trăm người đến với Chúa. Và từ đó đến nay, hạt giống Tin Mừng không ngừng lớn lên trong đất nước này. Tin Mừng như men đang thấm vào mọi sinh hoạt xã hội để đưa thế gian đi theo con đường của chân lý Phúc Âm.

Là con cháu các thánh tử đạo, chúng ta hãy phát huy gia sản đức tin mà cha ông đã để lại cho chúng ta. Đức tin ấy đã lớn lên trong máu và nước mắt, trong hy sinh và gian khổ. Bao nhiêu thế hệ đã nằm xuống để chúng ta được trung kiên với đức tin tông truyền.

Ngày nay, tuy không còn phải chịu những đau thương dữ dằn như trong quá khứ, nhưng chúng ta đang phải đối diện với một cuộc tấn công khác có thể còn nguy hiểm gấp bội, đó là sức mạnh của tiền bạc, địa vị, khoái lạc, tự do buông thả. Những sức mạnh này đã làm cho bao nhiêu tín hữu gục ngã, đã lôi kéo bao nhiêu Kitô hữu rời xa Hội Thánh, đã làm cho biết bao người quên Thiên Chúa.

Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy bắt chước các thánh tử đạo tuyên xưng đức tin một cách xác tín, ý thức. Chúng ta có thể nói như thánh Phaolô không: “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2Tm 1, 12)? Hãy để cho lòng tin vào Chúa thấm nhuần và biến đổi cuộc sống chúng ta, để tất cả mọi hành vi, ứng xử, chọn lựa, thái độ, của chúng ta luôn tỏa chiếu sức mạnh của Tin Mừng và tạo nên một sức hấp dẫn đối với những người chung quanh để đưa họ đến với Chúa Giêsu Cứu Thế.

6. Nếu hạt lúa miến chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt–GM. Giuse Võ Đức Minh

(Ga 12, 24-26)

Kính thưa Cộng đoàn phụng vụ,

Bài Phúc Âm của lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay (Ga 12, 24-26), tập trung vào biểu tượng hạt lúa miến, được hiểu là biểu tượng của chính Chúa Kitô, từ đó ý nghĩa toả lan sang các Kitô hữu, đặc biệt các Kitô hữu chết vì đạo đã được Giáo Hội tôn phong Hiển Thánh hoặc Chân Phước để nêu gương cho mọi thành phần Dân Chúa đang tiếp tục cuộc hành trình đức Tin giữa dòng đời.

“Nếu hạt lúa miến không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình “. Câu này chứa đựng một chân lý thật sâu sắc, đó là: ý nghĩa và giá trị của hạt lúa miến hệ tại cuộc hiện hữu của nó cho kẻ khác, để phục vụ kẻ khác. Nếu không như thế, nó sẽ “trơ trọi một mình’’. “Trơ trọi một mình” là đặc điểm của cuộc hiện hữu vị kỷ, ích kỷ, và vì thế không có ích cho kẻ khác. Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng: hạt lúa miến chỉ đạt được phẩm giá cao quý của nó, khi chấp nhận từ bỏ chính mình, để phục vụ sự sống và sự tăng trưởng của mọi người.

“Nếu nó chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt “: Chắc hẳn trong đoạn Phúc Âm này, Chúa Giêsu nghĩ tới kinh nghiệm trồng trọt của nhà nông: hạt-lúa-giống gieo vào lòng đất phải mục nát, phải thối rữa, phải chết đi, tức là phải chấp nhận mất căn tính hạt lúa, nhìn ở bình diện hiện tượng, để nẩy thành cái mầm, rồi lớn lên thành cây lúa chính, từ đó nẩy sinh thêm nhiều cây lúa phụ, tất cả cùng mang nhiều bông hạt. Chỉ một hạt lúa chết đi, mà sinh ra hằng trăm hạt lúa mới. Đó là sự gia tăng về số lượng. Đến lượt những hạt lúa mới phát sinh từ cái chết của hạt-lúa-giống, cũng chấp nhận bị nghiền nát, nghĩa là chấp nhận mất căn tính hạt lúa, để trở thành tinh bột, hoà mình với nước, với men, nhờ đó dậy men lên, rồi trải qua thử thách của lửa để trở thành tấm bánh thơm ngon và giàu chất dinh dưỡng cho con người. Đó là sự gia tăng về chất lượng. Đối với hạt lúa miến, một cách nào đó, chết đi là tự hạ, tự huỷ ra không; còn gia tăng số luợng và chất lượng là siêu thăng bản chất của hiện hữu. Vì thế, cái chết của hạt lúa miến được Chúa Giêsu chọn làm biểu tượng cho sự tự hạ, tự huỷ của Người như bước chuẩn bị cần thiết cho việc Thiên Chúa siêu thăng và tôn vinh Người qua mầu nhiệm Phục Sinh. Như vậy, Tự hạ và Siêu thăng qua sự Chết và sự Phục sinh, đó là như một quy luật chi phối định mệnh của Hạt Lúa Miến. Mặt khác, vì là một biểu tượng minh hoạ cách sâu sắc ơn gọi của Vua Kitô và của các Kitô hữu, nên Hạt Lúa Miến cũng là một huyền nhiệm.

“Máu các Vị Tử Đạo là hạt giống từ đó nẩy sinh nhiều tín hữu Kitô”.

Câu nói lừng danh này của Tertulianô có giá trị trước tiên đối với dòng Máu của Vua Giêsu, Vị Tử Đạo vĩ đại, đã đổ ra trên Thánh Giá. Máu các Kitô hữu Tử đạo cũng có được khả năng sinh sản thiêng liêng ấy, là vì các ngài đã được nuôi dưỡng bằng Máu-Thánh-Thể của Vua Giêsu chịu đóng đinh. Ngoài ra chúng ta thấy được ý nghĩa đích thực của cuộc sống và cái chết của các Thánh Tử Đạo Việt Nam, khi chúng ta suy gẫm về các hành động và lời nói của các ngài dưới ánh sáng Lời Chúa.

Trước tiên, tử đạo có nghĩa là làm chứng, làm chứng bằng cách chấp nhận chết hoặc đổ máu mình ra để khẳng định niềm tin vào Thiên Chúa,tiếp nối hành động của chính Vua Giêsu trên Thánh Giá. Cái chết để làm chứng triệt để như thế đuợc đồng hoá với “của lễ toàn thiêu” như Sách Khôn ngoan trong bài đọc 1 nói với chúng ta (x. Kn 3, 6). Theo tác giả Thư Do Thái, khi Đức Kitô đổ máu mình ra trên Thánh Giá, là lúc Người “tự hiến tế làm lễ vật vô tì tích cho Thiên Chúa, nhờ Thần Khí vĩnh cửu thúc đẩy” (Dt 9, 14). Vậy thì, hành động của các Thánh Tử Đạo chấp nhận chết vì đức tin cũng được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần và nhờ đó các ngài trở thành “của lễ toàn thiêu”, và “của lễ thiêng liêng” (x. Rm 12, 2; 1 Pr 2, 5) được Thiên Chúa ưng nhận. Thánh Phaolô Phạm Khắc Khoan, Linh mục Tử đạo, cầu nguyện trước khi bị hành hình cùng một lúc với hai Thầy Kẻ Giảng như sau: “Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa là Chúa Cả trời đất, chúng con xin dâng mạng sống cho Ngài” [1]. Vâng, hành động của các Thánh Tử Đạo tế hiến mạng sống mình làm của lễ toàn thiêu và của lễ thiêng liêng, được tô điểm thêm bởi Hy tế ngợi khen (x. Dt 13, 15; Hs 14, 3…). Cái chết lành thánh của các ngài, cũng giống như cái chết cứu độ của Chúa Giêsu, diễn ra trong tâm tình cầu nguyện sâu lắng.

Thánh Tử Đạo Carolô CORNAY Tân, một Linh mục Thừa sai Pháp, trả lời vị quan toà thẩm vấn mình rằng: “Chúng tôi chỉ chuyên lo giảng đạo, khuyên người ta ăn ngay ở lành, dạy con cái thờ cha kính mẹ, kêu gọi thần dân vâng phục vua quan, tôi đâu có thể đi ngược lại giáo huấn của mình mà chống nhà vua được?”[2]. Câu nói sau đây của Thánh Linh mục Tử Đạo Phaolô Lê Bảo Tịnh thật hết sức ý nghĩa: “Thân xác tôi ở trong tay quan, quan muốn làm khổ thế nào tuỳ ý, nhưng linh hồn tôi là của Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được”[3].

Bài học thứ hai là thái độ kiên định trong sứ vụ làm chứng cho sự thật. Đây là nét nổi bật nhất của Vua Giêsu Tử Đạo và của tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Chúa Giêsu làm chứng cho sự thật này, là: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một, để phàm ai tin vào Con của Người thì khỏi phải diệt vong, nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3, 16). Chính Chúa Giêsu ý thức mình là quà tặng của Chúa Cha. Người đến thế gian, “để phục vụ và hiến ban mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28). Người trở thành Con Đường cứu độ, dẫn tới Sự Sống đời đời và vì thế Người là hiện thân của Sự Thật, nghĩa là của ý muốn cứu độ thế gian của Thiên Chúa Cha. Sự Thật ấy là nội dung chính yếu của Tin Mừng. Về phần mình, các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhất quyết không bước qua hoặc dẫm lên Thánh Giá, biểu tượng của Đạo Giêsu, mà vua quan phong kiến xưa gọi là “tả đạo Gia-tô”; các ngài chấp nhận bị giết để làm chứng trước mặt mọi người rằng Đạo Gia-tô, Đạo Giêsu là Đạo Thật, là Con Đường đích thực dẫn vào Sự Sống bất diệt. Dầu thế gian đón nhận hay khước từ, thì mọi Kitô hữu hôm nay vẫn phải dùng lời nói và cả cuộc sống của mình làm chứng cho Sự Thật đó, theo gương Chúa Giêsu và các Chứng Nhân đức tin anh dũng.

Bài học thứ ba là lòng bác ái không bờ bến đối với mọi người, kể cả những người giết hại mình. Về điểm này, chính Chúa Giêsu đã nêu gương một cách cụ thể: không những Người dạy các môn đệ phải “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi” mình (x. Mt 5, 44), mà chính Người, khi bị treo trên Thánh Giá, đã cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết hại Người (x. Lc 23, 34). Thánh Emmanuen Lê Văn Phụng, trùm trưởng của họ đạo Đầu Nước, Cù Lao giêng, đã nói lời trăng trối với con trai của mình tại pháp trường: “Con ơi, hãy tha thứ, đừng tìm báo thù kẻ tố cáo cha nhé” [4]. Có thể nói: tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam khi bị thẩm vấn, cầm tù và hành quyết, không hề nói một lời trách móc, mỉa mai hay nguyền rủa những kẻ làm hại mình. Càng suy gẫm về những lời đối đáp của các ngài với vua quan bách hại các ngài, hay những lời các ngài tâm sự với người thân của mình, chúng ta mới thấy được điều kỳ diệu của Đạo Tình Thương: Tình thương mạnh hơn sự chết; Tình thương chiến thắng hận thù.

Kính thưa cộng đoàn,

Trong ngày kỷ niệm đúng 50 năm truớc, tức vào ngày 24-11-1960, Đức Giáo Hoàng Chân Phước Gioan XXIII ban hành Sắc chỉ Venerabilium Nostrorum thiết lập Hàng Giáo Phẩm Công Giáo tại Việt Nam. Với tâm tình tri ân, chúng ta hãy “Tạ ơn Thiên Chúa về hồng ân đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Hồng ân này đã được rất đông các Vị Tử Đạo đón nhận cách quảng đại, sống và làm chứng; các ngài là những người muốn loan báo chân lý và tính phổ quát của niềm tin vào Thiên Chúa” [5].

Ngoài ra, chúng ta chân thành xin các ngài chuyển cầu cho chúng ta biết dùng ân huệ của Năm Thánh hồng phúc này và dùng việc nhớ lại chứng từ cao quý của các ngài để kích động đức mến, gia tăng đức cậy và củng cố đức tin mà đôi lúc bị thử thách bởi chính đời sống thường ngày của chúng ta [6].

Nguyên xin Đức Mẹ La Vang, Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, hướng dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, để cùng với Con yêu dấu của Mẹ và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta đi vào huyền nhiệm Hạt Lúa Miến: chết đi mới sinh nhiều bông hạt, làm nên nhiều tấm bánh, bẻ ra, chia sẻ cho đồng bào của chúng ta được sống và sống dồi dào. Chúng ta chia sẻ sự sống với đồng bào, không chỉ bằng bánh vật chất, mà bằng cả bánh nhân văn và văn hoá, nhất là bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể; có tất cả các thứ bánh đó thì mới thực sự có sự phát triển toàn diện của mỗi người và mọi dân tộc; và có chia sẻ những tấm bánh đó cho mọi người, nhất là người nghèo và người bị gạt ra lề xã hội, mới thực sự tạo được sự HIỆP THÔNG toàn diện và sâu sắc trong Giáo Hội, để Giáo Hội trở nên Bí Tích, nghĩa là “dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp nhất giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau” [7]. Theo nghĩa đó, “xây dựng sự HIỆP THÔNG trong Giáo Hội là chìa khóa của SỨ VỤ” [8] làm chứng cho Chúa Kitô và Phúc Âm của Người. AMEN.

————

[1] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca 2.

[2] Xem Kinh Sách ngày 24/11, điệp ca 1.

[3] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca của Thánh ca Tin Mừng.

[4] Xem Tài Liệu Làm Việc của Đại Hội Dân Chúa, cước chú 109.

[5] Xem Huấn từ ĐTC Beneđictô XVI ngỏ với HĐGMVN ngày 27-06-2009.

[6] Xem Thư ĐTC Beneđictô XVI gửi ĐC Chủ Tịch HĐGMVN dịp lễ khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện 24-11-2009.

[7] Xem TLLV, chương II.

[8] Xem Sứ điệp Khánh Nhật Truyền Giáo năm 2010 của ĐTC Beneđictô XVI.

7. Những chứng nhân của Đấng Vô Hình–Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.

Sử ký nước ta cho biết đã có người đến nước Việt Nam mình truyền đạo “Giatô” từ năm 1533; tuy nhiên từ năm 1615 đạo Công giáo được phát triển cách đặc biệt tại Việt Nam. Chữ quốc ngữ hiện tại được hình thành do công lớn của các nhà truyền giáo Dòng Tên, cụ thể là cha Alexandre De Rhodes (1593-1660). Các nhà truyền giáo này đã dùng mẫu tự chữ Latin phiên âm tiếng Việt ta, để hình thành chữ quốc ngữ như hiện tại. Với chữ quốc ngữ, đạo Công Giáo gắn liền với nền văn hóa Việt Nam.

Các nhà truyền giáo, cụ thể là cha Đắc Lộ (Alexandre De Rhodes), đã truyền giáo cả ở miền Nam dưới quyền vua Lê chúa Nguyễn và ở miền Bắc dưới quyền vua Lê chúa Trịnh. Một số đông người Việt Nam đã tin vào Đức Yêsu và đã trở thành Kitô hữu. Do hiểu lầm và cũng do ghen ghét xuyên tạc, lệnh cấm đạo đã được ban ra, và khá nhiều Kitô hữu đã phải chết vì đạo. Năm 1644, thầy giảng Anrê Phú Yên mới 19 tuổi đã hiến mạng vì đức tin. Sau thầy giảng Anrê Phú Yên đã có bao Kitô hữu Việt Nam tử vì đạo. Giáo Hội Việt Nam đã có những trang sử anh hùng. Hơn trăm ngàn người Việt Nam tử đạo, trong đó đã có 117 vị được tôn phong thánh, một vị được phong chân phước.

Trong số 117 vị thánh tử đạo tại Việt Nam, có 21 vị thừa sai ngoại quốc, 96 vị người Việt Nam. Trong số 21 vị thánh tử đạo người nước ngoài, có 8 giám mục và 13 linh mục; trong số 96 người Việt Nam tử đạo, có 37 linh mục và 59 giáo dân. Trong số 59 giáo dân, có một chủng sinh là thánh Thomas Thiện, và một phụ nữ là thánh Annê Lê Thị Thành.

Hiến thân tử đạo, hàm chứa niềm tin có sự sống đời sau. Sự sống đời này không đáng kể gì so với sự sống vĩnh cửu mai hậu mà Kitô hữu sẽ được hưởng. Đức Yêsu đã hiến thân chết cho mọi người, và các vị tử đạo cũng muốn dùng chính mạng sống mình để đáp trả tình yêu của Thiên Chúa theo gương thầy chí thánh Yêsu. Thiên Chúa là Đấng yêu thương và trung tín, sẽ trả cho mỗi người gấp bội so với những hành vi các ngài thực hiện trong cuộc sống đời này.

Các vị tử đạo cũng là những người cha người mẹ người chồng người vợ người con. Là cha là mẹ trong một gia đình, các ngài yêu mến con cái mình; là con trong nhà, các ngài yêu mến cha mẹ già và anh chị em; là vợ là chồng, các ngài yêu mến người bạn đời của mình. Trong trường hợp đặc biệt này, trung thành với Thiên Chúa, là phải chết, là phải xa lìa những người thân yêu của mình. Ai lo cho họ, ai chăm sóc cha già mẹ yếu, ai bảo bọc vợ dại con thơ, ai lo làm nuôi nấng gia đình? Bao ưu tư dằn vặt các ngài, và cuối cùng các ngài đã phải chọn. Chọn Thiên Chúa trên hết, là chấp nhận cái chết, là chấp nhận xa lìa những người thân yêu, là phó thác những người mình thân yêu nhất cho Thiên Chúa tình yêu và trung tín.

Nếu không là một Kitô hữu tốt, làm sao có thể là người chồng, người vợ, người cha, người mẹ, người con tốt được? Nếu không trung tín với Thiên Chúa thì làm sao giáo dục con cái trung tín với Thiên Chúa và với con người? Cái chết vì Chúa mà các ngài chấp nhận, có thể là một bài học, là một lời giảng dạy có sức thuyết phục cho những người con của các ngài hơn là nếu các ngài tham sống bên cạnh con cái nhưng chỉ nói mà không sống. Các ngài chắc vẫn tin rằng sau khi chết các ngài vẫn có thể hiện diện và cầu bầu cho con cái và những người thân yêu của mình.

Các thánh tử đạo Việt Nam đã bị bao cực hình tra tấn buộc phải chối bỏ Thiên Chúa. Càng nhiều cực hình, cực hình càng tàn ác, càng cho thấy quyền năng của Thiên Chúa. Nét đặc trưng của các thánh tử đạo là không oán hận, không thù ghét những kẻ tra tấn và giết hại các ngài. Các ngài vẫn yêu thương kẻ thù như Đức Yêsu đã yêu thương những kẻ giết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết” (Lc 23, 34). Thánh Têphanô cũng đã nói lời tương tự như Thầy mình (Cv.7, 60). Thái độ yêu thương tha thứ, là thái độ của những người đã thực sự trở nên con Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng yêu thương, nên những ai thuộc về Ngài, cũng sống yêu thương.

Các thánh tử đạo Việt Nam đã chọn Thiên Chúa trên tất cả, trên cả người thân của mình, trên cả chính mạng sống mình. Đây là điều Đức Maria đã làm. Đây cũng là điều chính Đức Yêsu đã sống. Với Đức Maria, Thiên Chúa là Đấng rất gần gũi, là Đấng mẹ yêu thương gần gũi hơn cả Giuse, nên Mẹ đã chọn Thiên Chúa trên hết. Các thánh tử đạo, cũng là những người đã có cảm nghiệm Thiên Chúa gần gũi và yêu thương các ngài. Nếu không cảm được Thiên Chúa gần gũi và yêu thương, làm sao các ngài lại dám chọn Thiên Chúa trên tất cả những thực tại khác. Nếu Thiên Chúa là Đấng xa vời với các ngài, tại sao các ngài lại dám chọn Thiên Chúa trên những người thân yêu và gần gũi các ngài. Đấng vô hình và như thể không hiện hữu đối với những kẻ giết hại các thánh tử đạo, đã trở nên hữu hình và quyền năng qua cái chết của các thánh tử đạo. Nếu Đấng đó không hiện hữu và quyền năng, nếu Đấng đó không có sức thu hút đặc biệt, thì tại sao có bao người sẵn sàng hiến thân chịu chết vì trung thành với ý định của Ngài như vậy?

Cực hình, tra tấn, dọa dẫm, dụ dỗ, không thể làm các thánh tử đạo lùi bước chùn chân. Cuối cùng, người ta đã xử tử các ngài. Tử hình, một số người không biết nhìn tưởng đó là dấu chỉ của chiến thắng, nhưng thật ra nó là dấu chỉ của sự thất bại. Không làm gì được người ta, không làm người ta đổi ý cho dù với mọi cực hình và dụ dỗ, kẻ có quyền lực đã phải dùng cái chết để thỏa lòng ác của họ. Những người tưởng mình luôn chiến thắng, luôn bắt người khác phải tuân phục, thì bây giờ họ phải dùng cái chết để chấm dứt mạng sống của người mà họ không thể bắt suy phục được. Chấp nhận cái chết, là đã chiến thắng sự dữ.

Thiên Chúa không bao giờ hủy diệt con người, ngay cả để trừng phạt. Thiên Chúa chỉ dùng tình yêu mời gọi con người bỏ đường gian ác để trở về đường ngay nẻo chính. Sự hủy diệt của kẻ gian ác do chính hành vi của họ tạo ra. Chính sự thù hận làm người ta khổ và không thể sống hạnh phúc. Hỏa ngục là tình trạng thù hận bất hạnh mà ma quỷ và những người thù hận như ma quỷ lãnh nhận. Thiên Chúa là tình yêu, ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên Chúa. Cái chết không là tận cùng đối với những người của Thiên Chúa. Cái chết chỉ là cửa ngõ để bước vào sự sống vĩnh cửu.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Bạn phục các thánh tử đạo Việt Nam nhất ở điểm nào?

2. Đâu là điểm khác biệt giữa những vị thánh Kitô hữu tử đạo và những người chết vì một lý tưởng nào đó?

3. Một số người cho rằng các người tử đạo là những người vừa ngu, vừa bất hiếu vừa không làm tròn nghĩa vụ làm chồng làm cha làm con. Bạn trả lời sao với những lời chỉ trích này?

8. Suy niệm của Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm

Ngày 24 tháng 11, là ngày lễ thánh linh mục tử đạo Anrê Dũng Lạc. Giáo Hội Việt Nam đã xin Giáo Hội hoàn vũ để mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày này, và nhận Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. Vì là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là lễ trọng và được dời vào ngày Chúa Nhật. Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ là lễ Kitô Vua, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được mừng vào Chúa Nhật trước lễ Kitô Vua.

Các thánh tử đạo là những người dám chết để làm chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Các ngài là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng dòn.

Đời sống trong sáng đáng quý như châu ngọc

Bài đọc thứ nhất trong sách Maccabêô quyển thứ hai, thuật chuyện một người đáng kính, từ chối không ăn thịt heo cho dù phải chết. Ông được nhiều người quý mến nên đổi thịt heo thành thịt mà luật cho phép ăn, rồi đề nghị ông giả vờ ăn thịt heo để thoát chết. Êlêazarô từ chối mánh khóe để được sống này, vì khi làm như vậy gây gương xấu cho thế hệ tương lai. Thế hệ trẻ đâu biết đó không phải là thịt heo, nên tưởng rằng Êlêazarô tham sống sợ chết mà vi phạm luật Chúa.

Thái độ sống của Êlêazarô rất trong sáng, rất tự do ngay cả đối với cái chết. Ông cũng là người cho thấy tình yêu và trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Nơi con người mỏng dòn, Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng là những người sống thái độ tự do và yêu mến như vậy. Các ngài là những người cha, người mẹ, người chồng, người vợ, người con hiếu thảo và tốt lành; tuy vậy các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết vì yêu mến Thiên Chúa, yêu mến con người và những người thân.

Cái chết của các ngài, làm rạng danh gia tộc, giúp cho những người con người chồng người vợ nhìn lên tấm gương của những bậc cha anh thân yêu mà phấn đấu sống cho nên người và nên người con ngoan của Chúa. Các thánh tử đạo là những người ảnh hưởng rất lớn trên thế hệ tương lai mà nhiều người không thấy rõ điều này, khi cho rằng các ngài chết thì đâu có dạy dỗ hoặc ảnh hưởng gì được trên ai. Nơi các anh hùng tử đạo, lời dạy không bằng ngôn từ nhưng bằng chính cuộc sống. Và chúng ta biết, lời bằng hành động hay cuộc sống thì có sức thuyết phục hơn lời nói nhiều.

Không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa

Bài đọc thứ hai trong thư của thánh Phaolô gởi tín hữu Roma, cho thấy xác tín của thánh nhân. Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, đó là Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?

Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Không phải vì chúng ta yêu Thiên Chúa đến độ không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên Chúa giữ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Nếu chính Thiên Chúa giữ, thì ai giựt chúng ta ra khỏi tay Thiên Chúa được? Nếu chỉ là bản thân con người ghì chặt Thiên Chúa, thì người mạnh hơn có thể giựt họ ra được, nhưng đây chính Thiên Chúa giữ. “Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô”. Không ai, cho dù đó là thiên thần hay quỷ dữ, bất cứ quyền lực nào cũng không thể làm điều này, vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng mạnh.

Vì tin vào Thiên Chúa yêu thương tôi, nên tôi vững dạ an tâm, nên tôi ung dung thư thái bất chấp tất cả. “Nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, chính là Chúa”. “Đức Chúa là ánh sáng và Đấng cứu độ tôi, tôi còn sợ chi ai, tôi còn kinh khiếp chi ai”! Chính Thiên Chúa làm cho các thánh tử đạo trung thành với Ngài, cho dù “kiếm sắc, đầu rơi, gươm đao, xá gì”. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi chúng ta.

Vác thập giá hằng ngày mà theo Ta

Đức Giêsu nói trong tin mừng theo thánh Luca: “ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Theo Đức Giêsu, là một thái độ sống liên lỉ chứ không chỉ là một hành vi riêng lẻ một lần cho tất cả. Để có thể có hành vi dám chết cho tình yêu, các anh hùng tử đạo đã luôn chết cho chính mình trong cuộc sống hằng ngày để sống cho Chúa trong từng hành vi sống của mình.

“Được lời lãi cả thế gian, mà phải mất mạng sống mình, thì ích gì?” Điều quan trọng là phải sống. Nhưng nếu chỉ sống một trăm năm, mà phải khổ nhục vĩnh viễn thì ích lợi gì? Sự khôn ngoan đi kèm với hành vi anh hùng nơi các thánh tử đạo. Các thánh tử đạo, là những người khôn ngoan, anh hùng và đức hạnh. Các ngài là những người dám sống và dám chết cho tình yêu. Các ngài chọn đời sống vĩnh cửu hơn đời sống chóng qua này.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Tại sao các vị tử đạo dám chết? Những người thân của họ được gì?

2. Có người nói: “sống tốt cuộc sống này, đã là tử đạo rồi”. Bạn có đồng ý không? Tại sao?

3. Để giúp nhau hiểu thêm về lịch sử Giáo Hội Việt Nam và gương anh dũng của các bậc cha anh, xin bạn kể tiểu sử một vị thánh tử đạo Việt Nam!

9. Tình yêu mạnh hơn sự chết–Lm Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH: Khi sai mười hai Tông đồ đi giảng, Đức Giêsu tiên báo cho các ông biết những sự bách hại vì Danh Người đang chờ đón các ông. Tuy nhiên chính khi bị bách hại lại là cơ hội tốt để các ông làm chứng trước tòa án Do thái và các chính quyền ngoại đạo. Các ông sẽ gặp những sự bất hòa ngay trong gia đình và sự thù ghét nơi người đời. Nhưng ai giữ vững đức tin và trung thành với Chúa đến cùng thì sẽ được cứu độ. Các ông cũng cần phải khôn ngoan để tránh bị bắt bớ. Dù gặp hoàn cảnh bất lợi nào đi nữa, cũng đừng sợ hãi, nhưng hãy can đảm làm chứng cho Chúa. Hãy vững lòng trông cậy vì các ông đang nắm giữ chân lý là điều luôn có sức chinh phục lòng người.

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Anh em sẽ bị điệu ra trước mặt Vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10,18).

2. CÂU CHUYỆN: THÁNH NỮ I-NÊ ĐÊ.

Trong số 117 vị thánh Tử đạo tại Việt nam, chỉ có một phụ nữ là thánh nữ I-NÊ LÊ THỊ THÀNH (hay cũng gọi là bà thánh I-NÊ ĐÊ). Bà là mẹ của 8 người con. Trước khi trở thành thánh tử đạo, bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu. Cô con gái út của bà đã khai về mẹ mình trước tòa phong thánh rằng: “Thân mẫu chúng tôi rất quan tâm giáo dục con cái. Người dạy chúng tôi học chữ và học giáo lý. Về sau còn dạy chúng tôi cách thức dự lễ và xưng tội rước lễ”.

Bà Đê đã dùng căn nhà của mình làm nơi trú ẩn cho các linh mục thừa sai, để tránh sự ruồng bắt của vua quan. Vào buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861, tổng đốc Nam Định đã sai quân đến nhà bắt giữ bà. Bấy giờ bà đang trong tuổi lục tuần. Bà đã bị tra khảo tàn nhẫn để buộc phải khai báo nơi trú ẩn của các linh mục thừa sai. Nhưng bà tỏ ra kiên cường, không hề hé môi nói nửa lời. Sau đó bà lại bị bắt ép khiêng qua cây Thánh giá, bị bỏ rắn độc vào người. Khi con gái bà đến thăm và tỏ vẻ đau lòng thấy quần áo của mẹ mặc bị loang lổ những vết máu đỏ tươi, thì bà đã an ủi con rằng: “Con ơi, đừng khóc nữa. Mẹ mặc áo hoa hồng đấy. Mẹ chịu khổ vì Danh Chúa Giêsu thì sao con lại phải khóc?” Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình, người đàn bà kiên cường ấy đã từ giã cuộc đời, để lại cho hậu thế một tấm gương anh dũng trung thành với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng.

3. SUY NIỆM:

1) Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những ai?

+ Các ngài là hằng trăm ngàn giáo dân Việt Nam không rõ danh tánh, đã sẵn lòng chịu chết để làm chứng cho Chúa. Các Ngài đã bị giết hại dưới thời chế độ phong kiến, do các phong trào Cần Vương và Văn Thân thực hiện. Câu chuyện sau đây cho thấy điều đó: Một người đàn ông nọ bị quân lính bắt giải đến cho quan tòa xét xử. Quan tòa truyền lấy một chiếc dùi nung đỏ khắc lên đôi gò má của ông bốn chữ: “Gia-Tô Tả Đạo” rồi tống giam vào ngục. Ngồi trong tù suy nghĩ lại, ông cảm thấy áy náy vì lúc bị khắc dấu đã không dám can đảm nói lên quan điểm của mình, vì “Gia-Tô” đâu phải là “tả đạo”. Ngay trong đêm hôm ấy, ông đã yêu cầu bạn tù dùng dao rạch bỏ hai chữ “tả đạo” trên má, chỉ để lại hai chữ “Gia-tô” là thánh Danh Chúa Giêsu. Sáng hôm sau, ông lại bị điệu ra trước tòa án với khuôn mặt còn loang lổ máu, ông đã can đảm bênh vực đức tin và sau đó đã bị khép tội phản nghịch và được chết vì đạo.

+ Các ngài cũng là phụ nữ: Có một bà nọ bị bắt vì đã theo đạo và bị tòa kết án bị “voi giày”. Hai ngày trước khi ra pháp trường, bà viết thư cho người nhà yêu cầu gửi cho bà bộ quần áo cưới mà bà đã mặc khi trước, vì bà nghĩ rằng: “Ngày tôi bị chết vì đức tin chính là ngày tôi được gặp gỡ vị Tân Lang là Chúa Giêsu”. Hôm bị xử tử, khi ba hồi chiêng trống vang lên, người ta thấy quân lính dẫn ra một thiếu phụ mặc áo như cô dâu trong ngày cưới. Sau đó bà đã bị voi dùng vòi quấn ngang thắt lưng tung lên cao, rồi khi bà rơi xuống đất thì nó dẫm đạp lên người cách tàn bạo.

+ Các ngài thuộc mọi lứa tuổi: Có một cụ ông 80 tuổi như linh mục Lê Bảo Tịnh, có một bà lão 60 như bà thánh I-nê Đê, một thiếu niên 14 tuổi như Phao-lô Bột, một trẻ nữ 12 tuổi như Lu-xi-a Liễu, một cậu bé lên 10 như Phao-lô Đạm, một em bé mới 9 tuổi như Gio-an Túc…

+ Các ngài đủ mọi ngành nghề trong xã hội: Có người làm linh mục như cha Phi-líp-phê Minh, làm thầy giảng như thày An-rê Phú Yên, làm nữ tu như 270 dì phước dòng Mến Thánh Giá, làm chủng sinh như chú Tô-ma Thiện, làm quan chức triều đình như Hồ Đình Hy, làm quân lính như Trần Văn Trông, làm trùm họ như Nguyễn Đích, làm công chức như Nguyễn Huy Mỹ, làm lái buôn như Lê Văn Gẫm, làm nông dân như Đa-minh Ninh… Hầu như mọi thành phần, lứa tuổi hay nghề nghiệp đều có đại diện. Người ta đã thống kê được 58 các vị giám mục va linh mục thừa sai, 25 linh mục Việt Nam, 340 thầy giảng, 270 nữ tu và khỏang trên 100 ngàn giáo dân đã chết vì đạo. Trong số đó, vào ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã tôn phong lên bậc hiển thánh 117 vị và sau đó tới lượt thày giảng An-rê Phú Yên được phong lên bậc Chân Phước hay Á thánh. Đây là những vị có đầy đủ hồ sơ chứng minh đã anh dũng chịu chết vì đức tin. Còn hằng hà sa số các tín hữu đã bị giết chết với nhiều cách khác nhau, nhưng do thiếu hồ sơ cụ thể để xin phong thánh, nên vẫn còn chờ sẽ được tôn phong sau này.

2) Phương cách hữu hiệu nhất để làm chứng cho Chúa hôm nay là gì?

+ Về sự bách hại đức Tin thời nay: Ngày nay ma quỷ không dùng cực hình đau khổ thể xác để bắt buộc người tín hữu bỏ đạo như vua chúa xưa, nhưng chúng dùng tiền bạc và đầu độc người tín hữu nhất là giới trẻ bằng những băng đĩa phim ảnh đồi trụy, các video games bạo lực dâm đãng, hút chích ma túy, rượu chè bài bạc… khiến các thanh thiếu niên chán ngại đọc kinh lần hạt, bỏ dự lễ Chúa Nhật… Rồi do không được nghe giảng Lời Chúa và thiếu ơn Chúa nên họ chỉ còn biết tìm kiếm tiền bạc và lao đầu vào việc hưởng thụ mà không nghĩ đến đời sau… và cuối cùng sẽ mất đức tin lúc nào không hay.

+ Ý nghĩa của tử đạo trong cuộc sống hôm nay: Tử đạo trước hết là sống Đức Tin bằng sự hy sinh quên mình phục vụ, sẵn sàng chấp nhận thua thiệt, kể cả hy sinh mạng sống của mình noi gương các thánh Tử Đạo. Sứ mệnh của người tín hữu là phải trở thành muối mặn ướp cho người đời khỏi hư hỏng, thành nắm men tin yêu làm cho thúng bột xã hội dậy lên men tình yêu của Chúa (x. Mt 5,13), nên đuốc sáng chiếu soi cho u tối trần gian như lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

+ Tử đạo chính là làm chứng cho Chúa: Đức Giêsu đã sai các Tông đồ đi rao giảng Tin mừng và tiên báo các khó khăn sẽ gặp phải như sau: “Anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10,18). Người cũng truyền cho các Tông đồ phải làm chứng nhân cho Người: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Các thánh Tử đạo Việt Nam đã chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa bằng việc chấp nhận chịu chết vì đức Tin. Con chúng ta hôm nay tuy không có cơ hội chịu chết vì Danh Chúa như xưa, nhưng chúng ta vẫn có thể làm chứng cho Chúa bằng một lối sống hy sinh quên mình, khiêm nhường vị tha và luôn yêu thương phục vụ tha nhân vô vụ lợi.

+ Phải làm chứng cho Chúa như thế nào?: Hôm nay nếu ta chọn làm theo ý riêng ích kỷ là chúng ta đã gián tiếp chối bỏ đức tin; Khi ta chọn làm những việc xấu xa, lỗi phép công bằng và đức bác ái, là ta đang chối Chúa cách gián tiếp và bước qua Thánh giá Chúa bằng chính cuộc sống không tốt của mình. Trái lai, nếu ta năng cầu nguyện dự lễ, kèm theo lối sống công minh chính trực, sẵn sàng dấn thân quên mình và khiêm tốn phục vụ tha nhân vô vụ lợi là ta đang làm chứng cho Chúa noi gương các thánh Tử Đạo Việt Nam.

4. THẢO LUẬN: 1-Người ta thường nói: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Bạn quyết tâm sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa tại nhà trường, công sở, nhà máy, các tụ điểm giải trí vui chơi… để xứng đáng là con cháu các thánh Tử đạo Việt nam? 2-Gặp một người bài bác đức tin, nói xấu các vị chủ chăn… bạn nên chọn cách phản ứng thế nào? 3-Bạn phải sống đức tin ra sao để có thể gây được thiện cảm với bạn bè không Công Giáo?

5. NGUYỆN CẦU:

– Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay chúng con mừng kính các thánh Tử đạo Việt nam, là tổ tiên chúng con. Các ngài đã can đảm làm chứng cho Chúa bằng sự kiên cường bất khuất, sẵn sàng chịu chết vì đức tin. Các ngài đã làm rạng danh dân tộc Việt nam trước toàn thể thế giới khi sống đến cùng ơn gọi làm tín hữu của mình. Sự hy sinh của các ngài đã nói lên chân lý này là: “Tình yêu mạnh hơn sự chết”, và chết không phải là đi vào cõi tiêu diệt, nhưng là cánh cửa bước vào cõi sống vĩnh hằng. Dù mang thân phận mỏng dòn yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa giúp, các ngài đã chiến thắng sợ hãi và nêu gương sáng đức tin can trường cho chúng con hôm nay.

– Lạy Chúa. Xin cho chúng con biết luôn sống đức tin noi gương các thánh Tử Đạo Việt Nam. Xin cho chúng con biết nhiệt thành làm chứng cho Chúa, bằng một lối sống hy sinh quên mình và khiêm nhường phục vụ. Ước gì ngọn lửa đức tin mà các thánh Tử đạo đã thắp lên sẽ được chúng con tiếp tục làm bùng sáng trên quê hương Việt nam thân yêu. Ước gì máu các ngài đổ ra sẽ làm phát sinh thêm nhiều Kitô hữu vừa có lòng nhiệt thành mến Chúa lại vừa yêu mến xây dựng quê hương Việt Nam ngày càng tăng tiến tốt đẹp.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

10. Vạn tuế các Thánh Tử Đạo Việt Nam–Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Cách đây hơn 25 năm, Chúa nhật ngày 19/6/1988, Thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng đã nâng 117 vị chân phước lên hàng hiển thánh. Dịp khai mạc Năm Thánh 2010, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI, trong sứ điệp của mình gửi các Giám mục Việt Nam, ngài viết: “Việc cử hành Năm Thánh trùng với ngày lễ kính 117 vị thánh Tử đạo hiển vinh của đất nước Đức Cha. Việc nhớ lại chứng từ cao quý của các ngài sẽ giúp toàn thể dân Chúa tại Viêt Nam kích động đức mến, gia tăng đức cậy và củng cố đức tin mà đôi lúc bị thử thách bởi chính đời sống thường ngày.” (Trích Sứ điệp gửi các Giám mục Việt Nam dịp Năm Thánh 2010). Thư của Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Tổng Giám Mục Hà Nội, nguyên Chủ Tịch HĐGMVN gửi cộng đoàn Dân Chúa nhân dịp kỷ niệm 25 năm ngày tôn phong 117 Hiển Thánh Tử đạo Việt Nam có viết: “Đây là cơ hội giúp Dân Chúa Củng cố đức Tin qua đức Cậy nhờ đức Ái (số 1); Giúp cho Giáo hội Việt Nam sống chan hòa trong tình hiệp thông và hiệp nhất (số 2); Thúc đẩy chúng ta hăng say hơn trong sứ vụ loan báo Tin Mừng (số 3); và là dịp để cháu con noi gương các Ngài để sống xứng đáng là những người con thảo của Cha trên Trời (số 4)”. Những gợi ý sống trên làm chúng ta nhớ lại bài giảng của Chân phước Gioan Phaolô II, ngày 19/6/1988 như sau: “Tôi biết rằng anh em đang ôm nặng ước nguyện tôn vinh các vị Tử Đạo đồng hương, nhưng trong thâm tâm còn tự cảm thấy nhu cầu đứng chung quanh các vị Thánh, để xe kết tình huynh đệ kết nghĩa, mến thương…”.

Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, khởi đi từ những bước chân thừa sai của các nhà truyền giáo. Sử liệu ghi lại sự đặt chân của giáo sĩ Inikhu vào năm 1533 trên đất Việt, tiếp theo là Gaspar da Cruz, Alexandre de Rhodes, Pedro Marques v.v. Ba trăm năm loan báo Tin Mừng, một trang sử truyền giáo hào hùng, nhưng đầy đau thương và đẫm nước mắt. Từng ngàn giáo dân tử Đạo, từng trăm số người đã chết lưu lạc trên núi, trong rừng sâu nước độc! Tuy nhiên, một trang sử mới đã mở ra nhờ sự hy sinh tuyệt vời của các thừa sai, cũng như hàng hàng lớp lớp người vì tử đạo đã nằm xuống với muôn cực hình cay đắng, khốn khổ. Dòng máu của các ngài đã đổ ra, tuôn trào, tưới gội Hội Thánh Việt Nam, làm cho Hội Thánh lớn lên và phát triển, không ngừng sinh hoa kết quả tươi tốt, đúng như lời Tertullien đã viết: “Máu tử đạo là hạt giống trổ sinh người tín hữu”.

Hôm nay đây, chúng ta cùng nhau hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính các thánh tử đạo tại Việt nam, trong hân hoan vui sướng và hãnh diện. Chúng ta tôn vinh, tri ân các Ngài và cùng nhau hô vang: “Vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo Việt Nam, vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo anh hùng.”

Làm sao kể lại cho hết tất cả là 117 vị Tử Đạo, 1 vị á thánh, trong số đó có 8 vị Giám Mục, 50 Linh Mục, 59 Giáo Dân, một phụ nữ, Thánh Anê Lê Thị Thành, mẹ sáu người con đã được Tòa Thánh tuyên phong rõ ràng ngày 19/6/1988. Còn có biết bao nhiêu vị cũng đã “tử vì Đạo” tại Việt nam mà chưa được tuyên phong, cũng phải được Giáo hội Việt Nam mừng kính. Các Ngài thuộc đủ mọi thành phần, tuổi tác, hoàn cảnh sống: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v.v. đã chết vì Đạo tại Việt Nam. Trong số đó, bao gồm cả một số những nhà truyền giáo “ngoại quốc” Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý… đã đến Việt nam truyền đạo và chết vì Đạo.

Thánh Vinh Sơn Liêm, Dòng Đaminh là người Việt Nam tử đạo đầu tiên năm 1733. Rồi tới Cha thánh Anrê Trần An Dũng Lạc bị trảm quyết năm 1838. Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được như: Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói, bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng v.v. Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết, tức là bị chặt đầu, bị xử giảo, tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống. Bị xử lăng trì, phân thây ra từng mảnh hay là xử bá đao là những hình phạt man rợ và hiểm độc nhất. Tổng số 79 vị bị chặt đầu. 18 vị bị thắt cổ. 8 vị chết rũ tù. 6 bị thiêu sinh. 4 bị phân thây ra từng mảnh. 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.

Lời Chúa trích sách Khôn Ngoan: “Linh hồn những người công chính ở trong tay Thiên Chúa và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài” (Kn 3, 1). Quả quyết như trên có vẻ là không chính xác với thực tế lịch sử: thực ra đau khổ đã va chạm thân xác các Ngài, và va chạm ghê sợ như tùng xẻo, lăng trì, chặt đầu. Tuy nhiên, tác giả Kinh Thánh tiếp tục quảng diễn tư tưởng: “Đối với mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thực ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài có chịu khổ hình, lòng cậy trông của các nài cũng không chết.” (Kn 3, 2 – 4)

Đúng là: “Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời.” (Thánh Phêrô Truật); “Thân xác tôi ở trong tay quan… nhưng linh hồn tôi là của Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được” (Thánh Phaolô Tịnh)

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là chứng nhân cho Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết. Thay vì hình khổ ngắn ngủi, các Ngài được nhiều ơn vĩ đại, vì Thiên Chúa đã luyện lọc các Ngài và thấy các Ngài xứng đáng, Chúa đã thử thách các Ngài như thử vàng trên lửa và đã chấp nhận các Ngài như của lễ toàn thiêu. Trong Chúa Kitô các Ngài được Thiên Chúa cứu rỗi.

Chúng ta, dòng giống các vị Tử Đạo, dòng giống những người được kêu gọi. Ngày hôm nay, hãy nghe hết lời sách Khôn Ngoan: Trong ngày phán xét, người công chính sẽ chói sáng và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau.” (Kn 3, 7) Những tia sáng, những ánh đèn phản chiếu nguồn quang minh rữc rỡ. Và đây là câu sau cùng trong sách Khôn Ngoan: “Các ngài sẽ xét sử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài đến muôn đời.” (Kn 3, 17).

Xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam giúp chúng con biết chân thành chọn lựa đi theo Chúa, trung thành làm chứng cho đức tin và nhiệt thành yêu mến Giáo hội bằng tinh thần cộng tác, hiệp thông và đồng trách nhiệm trong sứ mạng loan báo Tin Mừng trên quê hương, đất nước chúng con. Amen.

11. Tri ân và mừng kính các Thánh Tổ Tiên–Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hàng năm cứ đến ngày này, những người con dân Việt từ khắp muôn phương cùng với Giáo hội hoàn vũ hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Trong hân hoan vui sướng và hãnh diện, chúng ta tôn vinh, tri ân các ngài đồng thời hô vang: “Vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo Việt Nam, vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo anh hùng”.

Hôm nay chúng ta cùng nhau hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính các ngài. Nói là đặc biệt về các ngài, nên chúng ta tạm đặt ra mấy câu hỏi cho là cơ bản, để nhờ đó chúng ta lần lượt đưa ra những gì đã hiểu biết về các ngài, mặc dù đây chỉ là những điều nhiều người đã biết.

Trước hết chúng ta cần xác nhận:

Hỏi: Các ngài là ai vậy?

Thưa: Các ngài là Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam, chết vì Đạo tại Việt Nam. Ở đây, từ ngữ Đạo được hiểu theo nghĩa chặt: Đạo Công Giáo Lamã, mà ai cũng biết rõ. Ngày nay thì Đạo Công Giáo Lamã hiện diện khắp nơi.

Hỏi: Các ngài là bao nhiêu?

Con số các ngài chính thức là 117 vị thánh và 1 á thánh. Đó là những vị đã được Tòa Thánh tuyên phong rõ ràng ngày 19.6.1988. Thế nhưng, đối với chúng ta hiểu, còn có biết bao nhiêu vị cũng đã “tử vì Đạo” tại Việt Nam mà chưa được tuyên phong. Dù vậy, các vị cũng phải được Giáo hội Việt Nam mừng kính. Thời gian bắt đầu vào năm 1580 và chỉ kết thúc hoàn toàn vào năm 1888, có khoảng 400.000 người bị lưu đầy và phát lưu. 130.000 người đã chết vì đạo.

Hỏi: Các ngài thuộc những thành phần nào?

Các ngài đã là các Kitô hữu thuộc đủ mọi thành phần, cấp bậc trong Giáo hội Công Giáo. Có 8 vị Giám mục, 50 linh mục, 59 giáo dân (gồm 1 chủng sinh, 16 giáo lý viên, 10 vị dòng ba Đa Minh và 1 phụ nữ) … thuộc đủ mọi tuổi tác, hoàn cảnh sống: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v.v. Trong số đó, bao gồm cả một số nhà truyền giáo (ngoại quốc) như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý… đã đến Việt Nam truyền Đạo và chết vì Đạo. Nói chung, cũng nhờ các vị truyền giáo này mà nhiều người Việt Nam biết Đạo, theo Đạo, sống Đạo và chết vì Đạo nữa, lại được nhập đoàn Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nammà chúng ta đang kính nhớ.

Nói tóm lại, đây là những chứng nhân của Thiên Chúa, đã anh dũng hy sinh cả mạng sống tại Việt Nam để thi hành sứ vụ Thiên Chúa trao.

Nói mạnh hơn: các ngài là những tổ tiên anh dũng của chúng ta. Dĩ nhiên phải quả quyết: chính nhờ các ngài mà có chúng ta và ngày nay chúng ta luôn rất hãnh diện tuyên nhận các ngài là tổ tiên trước mặt cả thế giới.

Hôm nay, Giáo hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các ngài như hướng về tổ tiên yêu quý.Ðọc lại tiểu sử các ngài, ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các ngài. Vì trung thành với Chúa, các ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng, nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì Đức tin.

Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất Đức tin. Vì Chúa, các ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.

Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Ðức Giêsu Kitô.

Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho Đức tin chân chính.

Hỏi: Tại sao các ngài chết vì đạo?

Thưa: Giết thì chết chứ còn sao nữa. Đây phải được coi là cơ bản của vấn đề. Kể ra, nếu nhìn bên ngoài thôi thì đã có câu trả lời rồi: chết vì Đạo mà ! Lúc đó một số các vua chúa ghét Đạo và cấm Đạo nên họ giết những người có Đạo mà không chịu bỏ Đạo. Bị họ giết thì chết, dù là người Việt hay ngoại quốc…thế nhưng, nhận xét cho đàng hoàng thì vấn đề chết vì Đạo ở đây có ý nghĩa rất phong phú. Có thể nói tóm gọn bằng 2 từ Tin Yêu. Nhưng hai từ này bao gồm ý nghĩa rất cao siêu mà Kitô Giáo gọi là “Thần Đức”: Đức Tin kéo theo Đức Cậy và Đức Mến. Ba nhân đức siêu việt hơn các nhân đức khác mà ta phải quả quyết: chỉ “người có Đạo” mới có .

Hỏi: Các ngài đã chết tử Đạo như thế nào?

Về các hình khổ: Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được như:

– Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói.

– Bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng v.v.

– Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết, tức là bị chặt đầu,bị xử giảo, tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống.

– Vô cùng man rợ và hiểm độc như bị xử lăng trì, tức là phân thây ra từng mảnh hay là xứ bá đao.

Theo loại hình phạt 79 vị bị trảm quyết tức là bị chặt đầu. Như vậy là con số bị trảm quyết nhiều nhất. 18 vị bị xử giảo tức là bị thắt cổ. 8 vị chết rũ tù. 6 bị thiêu sinh. 4 bị lăng trì – tức là phân thây ra từng mảnh. 1 bị tử thương và. 1 bị bá đao.

Là người Công Giáo Việt Nam, chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.

Kính lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, làm sao chúng con có thể có được cái chết cao đẹp như các ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm Đạo, bắt Đạo, giết người có Đạo như thời vua quan ngày xưa nữa, nên chúng con không còn hy vọng chết vì Đạo. Xin cho chúng con biết học đòi, bắt chước các ngài trung thành với Đức tin và sống đạo cho đến trọn đời. Amen.

12. Can đảm phi thường–Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19.6.1988 tại Rôma, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc.Đây là con số tiêu biểu cho hơn 100 ngàn Vị Tử Đạo trong thời gian 300 năm Giáo Hội bị bách hại.

Trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn 100 ngàn Đấng Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách. Trong đó, có 58 Giám mục và Linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Italia, 15 Linh mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo dân. Đó là chưa kể con số rất đông các tín hữu bị chết mất tích trong các đợt bắt Đạo vì lưu đày, vì phải trốn tránh vào những nơi hẻo lánh.Đó là chưa kể rất nhiều tín hữu phải chết do cuộc Phân Sáp 400 ngàn người Công Giáo dưới triều Vua Tự Đức.Đó còn là chưa kể con số hơn mười mấy vạn người Công Giáo bị chết khi có Phong trào Văn Thân nổi lên tàn sát người Công Giáo… Như thế, con số Tử Đạo phải tính lên đến 300 ngàn người trong vòng 300 năm. Nếu tính theo tỷ lệ, 100 năm thì có 100 ngàn Vị Tử Đạo. Và theo tỷ lệ này, cứ một năm, có một ngàn Vị Tử Đạo; và đổ đồng, cứ một ngày, có hơn hai Vị Tử Đạo!

Đọc lại hạnh các Thánh Tử Đạo Việt Nam, tôi nhận thấy, các ngài can đảm phi thường, vì yêu mến Chúa Kitô nên coi nhẹ mọi cực hình đau đớn, một lòng trung thành giữ vững đức tin. Dòng máu tử đạo ấy đã trở thành những hạt giống Tin mừng, đem lại cho Giáo Hội Việt Nam những mùa gặt bội thu.

1. Trung thành với đức tin

Đối với các Thánh Tử Đạo, Thiên Chúa là trên hết. Thiên Chúa là tất cả. Lập trường của các ngài là: “Thà chết chứ không thà bỏ đạo, bỏ Chúa”. Các ngài đã trung thành giữ vững đức tin trước mọi thử thách gian lao. Các ngài đã dám đánh đổi điều cao quí nhất là mạng sống của mình để làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Xin kể ra đây một vài chứng từ về lòng trung thành (x.Thiên Hùng Sử).

– Thánh Anê Thành, một người mẹ của 6 đứa con. Trong cơn đau đớn vì bị tra tấn đã nhắn nhủ cô con gái đến thăm người trong tù rằng: “Con chuyển lời mẹ nói với các anh chị em con: Hãy coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, đọc kinh sáng tối, dâng lễ mỗi ngày, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên Đàng”. Lời sau cùng của bà là: “Giêsu Maria Giuse, con phó thác hồn con và thân xác con trong tay Chúa, xin ban cho con trọn niềm tin ở Chúa.”

– Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, cai tổng. Người đã viết khi bị bắt bước qua thánh giá: “Tôi là một Kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ”.

– Thánh Giuse Lựu, trùm họ Mặc Bắc (Vĩnh Long) đã tâm sự với một linh mục bạn tù rằng: “Xin cha cầu Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho con. Con sắp phải đi đày. Con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về con. Con bằng lòng dâng cho Người hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình, vợ con của con”.

– Thánh Matthêu Gẫm, 34 tuổi, một thương gia giàu có, dù bị hành hạ, bị gông xiềng nhưng vẫn luôn bình tĩnh vui tươi. Ngài nói: “Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”.

– Thánh Laurensô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân, đã trả lời khi các quan bắt ngài bước qua thánh giá: “Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất. Thánh giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn lòng chịu chết vì đức tin vào Thiên Chúa của tôi”.

– Thánh Matthêu Phượng, trùm họ, đã nói với các con mình rằng: “Các con của cha ơi! Đừng khóc, đừng buồn làm chi vì cha đang gặp được vận hội may mắn”.

– Thánh Đaminh Ninh, 21 tuổi, nông dân, đã hiên ngang phát biểu: “Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình, thì làm sao người Kitô hữu lại có thể chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thành trời đất? Xin các quan thi hành điều các quan muốn. Còn tôi không bao giờ xúc phạm thập giá Chúa tôi đâu”.

– Thánh Phêrô Dũng yên ủi vợ: “Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Chúa Kitô”.

– Thánh Emmanuel Phụng, trùm họ, trước khi bị siết cổ đã trao cho con gái một ảnh thánh giá và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của cha. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Ảnh này quí giá hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé”.

2. Can đảm phi thường

Vì đức tin, các ngài đã phải chịu đủ mọi thứ cực hình dã man. Bị gông cùm, bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói, bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng,bị chặt đầu, bị thắt cổ, bị thiêu sống, bị phân thây ra từng mảnh… Có 79 vị bị trảm quyết (bị chặt đầu); 18 vị bị xử giảo (bị thắt cổ); 8 vị chết rũ tù; 6 bị thiêu sinh; 4 bị lăng trì (phân thây ra từng mảnh); 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.

– Lòng lang dạ sói của con người nghĩ ra mọi thứ hình phạt tàn ác, thật kinh hoàng sởn tóc gáy khi nghe kể về cái chết của Cha Cố Du theo kiểu bị xử bá đao: “Ngày 30.11.1835, họ chọn Thợ Đức làm pháp trường để xử ngài.Sáng sớm hôm đó, họ điệu ngài đến nơi hành hình. Bên một lò than đang cháy đỏ rực có 5 tên lính cầm 5 chiếc kìm sắt đã được nung đỏ.Nghe lệnh, cùng một lúc cả 5 tên kẹp kìm nung đỏ vào mình ngài kéo ra những miếng thịt khét lẹt.Họ vu cho ngài móc mắt trẻ con khi rửa tội. Làm điều ám muội khi cử hành lễ cưới và cho ăn thịt người khi rước lễ. Sau đó họ tiếp tục gây thêm những thương tích nữa cho đến khi ngài bất tỉnh thì họ mới hành quyết. Họ cột chân tay ngài vào cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Cha Du ngửa mặt lên trời cầu nguyện dâng mạng sống mình cho Chúa. Sau hồi trống báo hiệu, hai tên lính cầm kìm kẹp vào ngực ngài kéo ra 2 miếng thịt nơi vú liệng xuống đất, một tên lính khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông, rồi đến bắp đùi thì chúng lấy kìm kéo ra rồi lấy dao xẻo đứt từng miếng… làm cha rất đau đớn. Không được bao lâu thì ngài ngất đi, đầu rũ xuống và ngài về chầu Chúa lúc 17g ngày 30.11.1835. Cha Du chết rồi bọn lính còn chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi, cởi trói lật xác úp xuống rồi phân thây ra từng khúc bỏ tất cả vào thùng vôi. Đầu ngài họ đem treo 3 ngày ở giữa chợ rồi xay nát, bỏ chung với thùng vôi đựng xác ngài đoạn quăng cả xuống biển cho mất tích”.

– Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lệnh quan án sát. Vừa nghe lệnh, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.

– Hai Cha Điểm và Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.

– Sáng ngày 5.6.1862, trước sự chứng kiến của rất đông người, hai giáo dân: Thánh Toại và Thánh Huyên bước vào cũi tre để bị thiêu sinh. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ngài cất tiếng nguyện cầu thật lớn, trong khi ngọn lửa hồng phừng phực bốc cao, thiêu đốt hai ngài.

– Sau ba tháng tù tại Bình Định, ông Anrê Nguyễn Kim Thông nhận được án phát lưu vào Vĩnh Long. Đường từ Bình Định vào Nam xa xôi, ông Thông cùng với bốn chứng nhân khác. Vì tuổi già sức yếu, lại phải mang gông siềng, ông bước đi một cách rất khó khăn, mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ đi được bảy tám dặm, dưới ánh nắng gay gắt. Tối đến, đoàn tù nhân được tạm giam trong các đòn quan, hay nhà tù địa phương. Được vài ba ngày, lính thấy ông Thông đuối sức quá, sợ không thể đi tới nơi, thì thương tình tháo gông xiềng cho ông. Đến Chợ Quán, thấy tình trạng sức khỏe của ông quá tàn tạ, Cha Được đã đến ban phép xức dầu cho ông. Sau đó ông lại phải mang gông xiềng tiếp. Khi ông đặt chân lên đất lưu đày, ông chỉ kịp đọc kinh ăn năn tội, vài kinh kính mừng, rồi tắt thở. Hôm đó là ngày 15 tháng 5 năm 1855.

3. Coi thường sự đau đớn

Là con người, ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ai mà không tham sống sợ chết! Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thắng vượt những khổ hình dã man. Lòng yêu mến Chúa đã giúp các ngài vượt thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình. Vì thế các ngài xem nhẹ khổ hình, vui mừng và hãnh diện vì được chết cho đức tin.

– Trước khi bị chém, Thánh Giám mục An nói với viên quan chỉ hay: “Tôi gửi quan 30 quan tiền để xin một ân huệ: Đừng chém tôi một nhát nhưng 3 nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi, và dẫn tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành ra tôi. Nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí chết vì đức tin, theo gương vị chủ chăn. Và như thế họ đáng hưởng hạnh phúc cùng các Thánh trên trời”.

– Năm vị: Đaminh Nhi, Đaminh Mạo, Đaminh Nguyên, Anrê Tường, Vinhsơn Tưởng, bị xử chém đầu, thì trừ ông Đaminh Nhi, còn bốn vị đều yêu cầu lý hình, thay vì chém một nhát, thì xin được chém 3 nhát để tỏ lòng tôn kính Chúa Ba Ngôi.

– Thánh Hồ Đình Hy bị chém đầu, nhưng trước khi đem đi xử, giữa kinh thành Huế, trong ba ngày 15,18 và 21 tháng 5 năm 1857, thân mình ngài đầy thương tích, quần áo tả tơi, dính đầy máu, đi đứng lảo đảo như muốn té nhào, bị điệu qua các đường phố, những khu chợ và quanh thành nội. Lính mở đường đi trước rao tên tử tội, mỗi khi tới ngã ba đường, phố, chợ và công trường, người tử tội bị đánh 30 trượng, lính vác loa rêu rao: “Thằng theo tà đạo, đứa ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình. Vì thế bị kết án tử hình. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó có đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?”.

– Sau một năm tù giam, Anrê Trọng vẫn cương quyết tuyên xưng đức Tin, các quan quyết định ngày xử là thứ bảy ngày 28.11.1835. Sáng hôm đó, ngài gặp lại người anh họ. Người anh họ hỏi Thánh nhân có muốn ăn gì không? Anrê Trọng trả lời: “Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo”, rồi nói tiếp: “Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em, cầu chúc mẹ mãi mãi thánh thiện và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết”. Nhưng người anh họ chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ của Anrê Trọng đã đến đón con và theo con đến tận đầu chợ An Hòa, nơi Anrê sẽ bị xử. Gặp con, bà chỉ nói một câu: “Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù, con có nợ nần gì ai không? Nếu có thì cho mẹ biết, mẹ sẽ trả thay con”. Khi được con cho biết là không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh nói với con những lời đầy khích lệ. Đến nơi xử, khi quân lính tháo gông xiềng, Thánh Trọng đón lấy, đưa cho anh lính cạnh bên và căn dặn: “Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm.”. Mẹ anh đứng gần bên nghe rõ, bà nhận lấy kỷ vật đó và chưa cho là đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa. Bà can đảm, bước ra xin viên quan chỉ huy trao thủ cấp con trai cho bà. Bọc trong vạt áo rồi ghìm chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lập đi lập lại:”Ôi con trai yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ.”. Rồi bà đem về an táng trong nhà.

Các Thánh Tử Đạo coi thường đau đớn với lòng can đảm lạ lùng là vì các ngài trung thành với đức tin. Do đó, các ngài vui mừng được chết vì Chúa Kitô. Các ngài đã chết dưới ngọn đao phủ là chết cho Chúa Kitô như chính Chúa Kitô đã chết cho các ngài. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang vì đã đáng được chịu đau khổ cho Chúa Kitô. Các ngài chẳng màng chi đến việc nhân loại trao tặng huy chương, huân chương, chiến công. Các ngài chết tử đạo là chết vì Chúa Kitô, đơn thuần và tinh khiết, trong sáng và huyền diệu, can trường và khiêm nhu (x.Thiên Hùng Sử, trang 4). Chết vì Chúa Kitô là niềm hạnh phúc “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao” (Mt 5,10-12; x.Lc 6,22). Chính trong ánh sáng của Chúa Kitô, Vị Tử Đạo tiên khởi mà chúng ta có thể nói về Các Thánh Tử Đạo Việt Nam bằng câu Phúc âm: “Đầy tớ không lớn hơn chủ” (Ga 15,20); “Nếu chúng đã bách hại Thầy, chúng sẽ bách hại các con… Đây Thầy sai các con như con chiên đi vào giữa sói rừng… Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các con nơi toà án. Khi họ bắt bớ, các con đừng lo phải nói thế nào, vì không phải các con, nhưng Thánh Linh của Thầy sẽ nói trong các con… Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu độ” (Mt 10,16-25). Các Thánh Tử Đạo không tìm đến cái chết mà chỉ trung thành với đức tin cho dù phải chịu muôn vàn gian truân đau đớn. Các ngài tìm cách nên giống đời sống của Thầy Giêsu, nhất là giống cử chỉ yêu thương tột cùng đã đưa Thầy đến cái chết.

Chân dung Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được tô điểm bằng muôn ngàn vạn nét. Nét căn bản nhất chính là Niềm Tin Phục Sinh. Tin vào Chúa Kitô đã chết và đã sống lại nên các ngài đã chấp nhận tất cả mọi cực hình, vượt thắng mọi truân chuyên. Yêu mến Chúa Kitô và bước theo Người nên các ngài luôn sống niềm tín thác, lạc quan. Trong nhà tù vẫn cầu nguyện và hát thánh ca, thánh vịnh. Ra pháp trường vẫn cầu nguyện và hát khúc khải hoàn Alleluia, luôn hướng về trời cao với niềm Hy Vọng Phục Sinh và cất cao hát mãi cho đến khi đầu rơi khỏi cổ. Cái chết chẳng có giá trị gì, chính sự sống mới làm nên muôn điều huyền diệu. Sự sống đó chính là tình yêu với tất cả những gì cao thượng và chân thật. Tình yêu đó bừng lên mãnh liệt trong mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng. Chết là mất tất cả, nhưng 117 hiến tế tình yêu cũng là 117 chứng từ niềm tin của những con người xác tín rằng: chết vì Đức Kitô, chết đi là sống lại trong cuộc sống muôn đời; chết là chiến thắng; chết là để đi về sự sống vĩnh cửu; chết là cánh cửa im lìm được mở ra để về với Đấng là Sự Sống vĩnh hằng.

4. Kế thừa dòng máu hào hùng để tiếp nối sứ vụ loan Tin mừng

Hạt giống Tin Mừng Đức Giêsu Kitô đã đến với quê hương Việt Nam gần năm thế kỷ.Trước đó cả ngàn năm đã có ba tôn giáo lớn là Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và Tín Ngưỡng dân gian ăn sâu vào tâm hồn người Việt Nam. Phong tục tập quán, văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam, đã được nhào luyện bởi tất cả những mầm sống cũng như giới hạn các tín ngưỡng đó.

Trên nền tảng một đời sống tâm linh phong phú mà Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và nhất là Đạo Ông Bà đã xây dựng từ hơn một ngàn năm, hạt giống Tin Mừng đã nẩy mầm và trổ sinh nhiều hoa trái. Tinh thần hiếu khách, lòng bao dung làm cho người Việt Nam sẵn sàng tiếp xúc với những người tỏ ra có thiện cảm với mình, cho dù họ từ xa đến. Với những đức tính như lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, kính trên nhường dưới trong gia đình, với một tâm hồn yêu thích tĩnh mịch và chiêm niệm, người Việt Nam là một mãnh đất tốt để đón nhận những giá trị thiêng liêng hàm chứa trong Tin Mừng.

Nhờ các nhà truyền giáo, từ các thế hệ tiền nhân, người Việt đã nhận lãnh nhiều điều tốt lành: những thường thức về vệ sinh, khoa học, những hiểu biết mới, những đồ vật quý hiếm cũng như những trợ giúp vật chất dù rất khiêm tốn, những nhân vật thánh thiêng đầy nhân ái… khiến họ, nhất là những người thuộc lớp bình dân, sẵn sàng đón nhận giáo lý mà những người tốt lành như vậy mang đến cho họ. Nhờ đó, những tập tục phi lý và phi nhân (bùa mê, sát tế) như một gánh nặng đè lên cuộc đời của họ nay được cởi bỏ. Khi đã tìm gặp một vị thần đầy yêu thương, họ liền cảm thấy được giải thoát và tin theo.

Rao giảng Tin Mừng cho họ cần gắn liền với phát triển cuộc sống, quan tâm săn sóc sức khỏe, nâng cao văn hóa giáo dục. Người Kitô hữu sống giữa lòng đời và chia sẽ đời sống của anh chị em chung quanh mình. Loan báo Tin Mừng là chia sẻ cuộc sống, một cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, và yêu thương đến cùng. (x. Ga 13,11), yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu. (x. Ga 15,13).

Các Thánh Tử Đạo là những chứng nhân can trường dám chết cho niềm tin, sống cho tình yêu, và loan báo chân lý Tin Mừng. Làm chứng cho Chúa, nếu không phải đổ máu thì cũng phải chấp nhận mất mát thiệt thòi. Làm chứng đòi trả giá. Giá càng cao thì lời chứng càng đáng tin.

Các Thánh Tử Đạo đã làm chứng bằng cái chết. Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống. Các Thánh Tử Đạo đã làm chứng trong thời bị bách hại. Là con cháu các ngài, chúng ta được mời gọi làm chứng trong bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay. Làm chứng chính là “làm muối,” “làm men,” “làm ánh sáng”… như những hình ảnh chính Chúa Giêsu đã dùng khi trao sứ mạng cho các môn đệ. Muối, men, ánh sáng thì không ồn ào áp chế, công việc của nó là âm thầm hiện diện, và chỉ cần hiện diện đúng như bản chất của mình, tự khắc môi trường xung quanh nó sẽ thấm mặn, sẽ dậy men, và sẽ đầy ánh sáng. Sống đạo như thế, chúng ta góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm.

Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã can đảm phi thường làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.

13. Không đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu là bỏ đạo–Lm. Ignatiô Trần Ngà

Khi nào ta bỏ đạo?

Một trong những thử thách mà vua quan ngày xưa thường bày ra để xử tội người có đạo là đặt một cây thánh giá dưới đất rồi truyền cho họ bước qua. Ai chấp nhận bước qua là tỏ dấu công khai từ bỏ đạo Chúa thì được tha về. Ai kiên quyết không bước qua thì được xem là người ngoan cố, không chịu từ bỏ đạo Chúa thì phải chịu tra tấn, tù ngục, chịu hành hình và chịu chết.

Có nhiều người kiên quyết không bước qua thánh giá, dù bị khiêng qua thì cũng co chân lại để khỏi dẫm đạp lên. Có người lỡ dại dột bước qua, nhưng về sau ân hận nên quay trở lại, khẳng định với quan quân mình không bỏ đạo nữa và xin được chịu chết vì Chúa.

Tất nhiên có nhiều người vì sợ ngục tù xiềng xích, gông cùm và tra tấn hoặc sợ chết nên đã bước qua thánh giá. Nhưng trái lại, cũng nhiều người dứt khoát không bước qua thánh giá, cho dù phải mất hết mọi sự và mất cả mạng sống mình.

Không đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu là bỏ đạo

Đạo là gì? Người Á đông quan niệm rằng đạo là đường, đường đưa về chân thiện mỹ. Thiên Chúa là Tình Yêu nên đạo của Ngài cũng là đạo Tình Yêu. Chúa Giêsu đến trần gian để lập nên đạo yêu thương như một con đường đưa nhân loại về cõi phúc.

Chỉ có những ai giữ tròn quy luật yêu thương mới thực sự là người người theo đạo Chúa. Chúa Giêsu khẳng định rằng: “Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13, 35).

Những ai theo đạo yêu thương, tức là giữ tròn giới luật yêu thương Chúa dạy, thì được liệt vào hàng ngũ người con cái Chúa. Ngày phán xét, Chúa Giêsu mở cửa đón nhận họ vào Vương Quốc của Ngài: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”; ai không sống theo luật yêu thương, là người bỏ đạo Chúa, thì bị liệt vào hàng ngũ những người bị nguyền rủa và bị loại trừ vĩnh viễn khỏi nhan Thiên Chúa: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 24, 34. 41)

Ngày trước trong thời bách hại, hành động bước qua thập giá Chúa Giêsu là dấu chỉ cho biết ai là người bỏ đạo. Ngày nay, hành động chà đạp lên nhân phẩm, chà đạp tình người, là dấu hiệu chứng tỏ người thực hiện điều đó đã chối bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.

Nói cụ thể:

Trong đời sống chung giữa xã hội, ai nuôi lòng thù oán anh em mình, xúc phạm đến người khác, gây tổn thương thanh danh, phẩm giá người khác… là người đã từ bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.

Trong phạm vi gia đình, đạo yêu thương của Chúa dạy vợ chồng phải nên một với nhau, phải yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời. Thế nên khi vợ chồng không còn sống yêu thương hiệp nhất nữa mà sống phân li chia cắt, thì lúc đó, hai người đã lìa bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.

Đạo yêu thương Chúa dạy cha mẹ phải chăm lo, giáo dục con cái, rèn đúc con cái nên người tài đức. Nếu cha mẹ thờ ơ không làm tròn nhiệm vụ đó, là cha mẹ đã bỏ đạo Chúa.

Đạo yêu thương Chúa dạy con cái phải thờ cha kính mẹ, thảo hiếu với ông bà tổ tiên; nếu con cái không giữ tròn chữ hiếu với cha mẹ, với ông bà tổ tiên là họ đã từ bỏ đạo yêu thương của Chúa rồi.

Trái lại, khi chúng ta theo lời Chúa dạy mà tha thứ cho người khác khi họ xúc phạm đến mình, cứu giúp những người hoạn nạn, chia cơm sẻ áo cho người nghèo thiếu, quên mình phục vụ những người chung quanh… là chúng ta đang đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu cách triệt để nhất.

Các thánh tử đạo Việt Nam đã rất anh dũng bước theo đường lối Chúa Giêsu, theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt cũng vẫn không làm cho các ngài từ bỏ đạo Chúa. Chúng ta là con cháu các ngài, mang dòng máu bất khuất anh dũng của các ngài trong huyết quản mình, thì chúng ta cũng kiên quyết đi theo đạo yêu thương của Chúa như các ngài, để mai ngày đáng được hưởng triều thiên vinh hiển với các ngài trên thiên quốc.

Nguyện xin các thánh tử đạo Việt Nam là ông bà tổ tiên của chúng ta luôn phù giúp chúng ta vững bước đi theo đạo yêu thương của Chúa.

14. Hạt lúa gieo vào lòng đất–‘Cùng Đọc Tin Mừng’–Lm Ignatiô Trần Ngà

(Ga 12,24-26)

Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.

Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy mình quá hên so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp ngụp lặn dưới bùn, bèn tỏ lòng thương hại và an ủi các bạn thóc dưới sình bằng những lời ngạo mạn: “Đáng thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi đây thì được ở nơi khô ráo ngon lành, còn các anh lại phải chìm lĩm trong vũng bùn tanh tưởi. Đang khi chúng tôi được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường thì các anh chẳng thấy gì, chẳng biết gì… Cuộc đời chúng tôi đầy hào quang, còn cuộc đời các anh đang tàn tạ. Bất hạnh thay cho các anh!…”

Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân nặng nề dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy đôi. Sau đó, những bánh xe từ xa chạy đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác nát tan. Những hạt lúa may mắn còn nguyên vẹn lại hoá thành mồi ngon cho côn trùng và chim chóc!

Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh chìm lĩm trong bùn, thì qua vài hôm sau đã ngoi lên thành những mầm non đầy sức sống. Những mầm non ấy vươn lên phơi phới, triển nở thành những bụi lúa sum suê. Không đầy ba tháng sau, từ một hạt lúa nhỏ nhoi chìm ngập trong bùn, nó trở thành những bông lúa thơm tho tuyệt đẹp, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng.

* * *

Ai ngờ một hạt lúa bất hạnh chìm nghỉm trong bùn, tưởng chừng như đã hư thối mà nay lại chuyển hoá thành hàng trăm hạt vàng mẩy chắc ngon lành như thế! Thật là một điều kỳ diệu và là một bài học quý báu cho chúng ta. Bài học đó người đời không biết đến, nhưng Chúa Giêsu đem ra dạy chúng ta: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”

Một bài học đơn sơ ngắn gọn nhưng lại chứa đựng một chân lý tuyệt vời.

Nhưng Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta biết chân lý rồi để đó. Người muốn chân lý nầy được đem ra áp dụng để đời sống chúng ta được dồi dào phong phú hơn. Thế nên Người dạy tiếp: “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”

Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn chúng ta tồn tại như một hạt lúa nằm trơ trọi trên vệ đường khô ráo. Người muốn chúng ta hãy chấp nhận thân phận của một hạt lúa bị vùi lấp trong bùn, để nhờ đó đặt tới hạnh phúc và thắng lợi.

Khi bước chân vào đời, mang lấy thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận thân phận hạt lúa bị vùi dập trong bùn đất. Người để cho người ta nghiền tán, vùi lấp Người, huỷ diệt Người. Người đời tưởng rằng họ đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu, tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ bị mục rã trong lòng đất… nhưng họ đã lầm. Thay vì huỷ diệt Đức Giêsu, họ đã giúp Người đạt tới vinh quang và thắng lợi. Qua cái chết, Người tiến vào cõi sống; qua thập giá Người đi đến vinh quang và hiển trị đời đời!

Theo bước chân Chúa Giêsu, các thánh tử đạo đã vui lòng chấp nhận thân phận hạt lúa bị ném xuống bùn. Các ngài chấp nhận từ bỏ vinh hoa phú quý người đời hứa hẹn, từ bỏ nhà cửa ruộng vườn, xa lìa cha mẹ vợ con gia đình thân thuộc, chấp nhận xiềng xích, gông cùm, tù ngục, đòn vọt và sẵn sàng hy sinh mạng sống, sẵn sàng đổ máu đào làm chứng cho Đức Kitô… Người đời tưởng rằng các ngài bị thua thiệt, bị mất mát, bị diệt vong… nhưng họ có ngờ đâu, các ngài đang khải hoàn chiến thắng và sống mãi trong hạnh phúc vinh quang. Nhờ dòng máu các ngài đổ ra, đời sống Đức tin ngày càng tiến triển, Giáo Hội được lan rộng đến khắp mọi miền đất trên thế giới. Đó là điều Chúa Giêsu đã tiên báo từ xưa: “nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”

* * *

Hôm nay, một khi đã khám phá điều kỳ diệu của hạt lúa chìm trong bùn đất, chúng ta không sợ thua thiệt vì phải làm chứng cho Đức tin, không sợ đau khổ mất mát vì hiến thân cho lý tưởng tông đồ. Chúng ta sẵn sàng chấp nhận thân phận hạt lúa bị gieo vào bùn đất như “hạt-lúa-Giêsu”, như “hạt-lúa-các-thánh-tử-đạo”, bằng lòng chấp nhận con đường thập giá, bằng sẵn sàng hiến mình để phục vụ Tin Mừng… Nhờ đó, mai đây, chúng ta sẽ đạt tới vinh quang và thắng lợi với Chúa Giêsu như lời Người phán: “Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy” để rồi “Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.”

15. Tử đạo: thông phần vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu–Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Có 3 câu hỏi khiến nhiều người thắc mắc, đó là:

1. Tại sao Thiên Chúa Cha là Đấng nhân lành, lại để cho Con Một yêu quý của Ngài là Chúa Giê-su phải chịu khổ nạn, phải vác thập giá và chịu chết cách đau thương, tủi nhục và rất đỗi khốn cùng?

2. Tại sao Thiên Chúa lại để cho các tín hữu phải chết vì đạo khắp nơi trên thế giới suốt cả hai ngàn năm qua?

3. Tại sao Chúa Giê-su không hứa ban cho những người theo Chúa nhiều lợi lộc, lạc thú trần gian mà kêu mời họ vác thập giá: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”? (Mt 16,24).

Cả ba câu hỏi trên có chung một câu trả lời như sau:

Thiên Chúa đã ra quy luật muôn đời: Bất cứ ai gây ra tội lỗi đều phải lãnh lấy hậu quả của tội là sự chết, tức phải sa vào chốn ngục hình[1]. Điều đau lòng là mọi người đều đã phạm tội, do đó, ai nấy đều phải gánh lấy hậu quả đau thương này. Muốn cứu con người tội lỗi thoát khỏi chốn ngục hình đau khổ thì chỉ có cách duy nhất, không còn cách nào khác, là có ai đó chấp nhận chịu phạt và chịu chết thay cho họ.

Chính Chúa Giê-su đã tình nguyện làm công việc này. Ngài hóa thân làm người phàm, trở thành đại diện chính thức của loài người, trở thành anh cả của nhân loại và Ngài mang lấy tội lỗi của muôn người vào thân, Ngài nộp mình chịu cực hình thay cho họ, chịu chết để đền tội họ gây ra. Nhờ Ngài chịu khổ hình và chịu chết thay, muôn người được ơn tha thứ và thoát khỏi án phạt đời đời.

Tuy nhiên, việc cứu độ là công việc của Chúa Giê-su là Đầu và của toàn thân mình Ngài là Hội thánh. Ai thuộc về Chúa Giê-su, là chi thể trong thân mình Chúa Giê-su thì đều phải tham gia vào công cuộc này.

Chính vì thế, hôm xưa, Chúa Giê-su không chịu khổ nạn, không vác thập giá một mình, mà Ngài mời Mẹ Maria thông phần đau khổ với Ngài, mời ông Simon vác thập giá với Ngài, cùng chịu cực hình với Ngài trên chặng đường thương khó ở Giê-ru-sa-lem.

Và trong suốt hai ngàn năm qua, Chúa Giê-su tiếp tục gọi mời các thánh tử đạo khắp nơi trên thế giới cùng chịu khổ nạn với Ngài, chịu bắt bớ, chịu tù ngục, gông cùm, xiềng xích cũng như hy sinh cả mạng sống… với Ngài để đền tội cho muôn người tội lỗi.

Rồi hôm nay, Chúa Giê-su tiếp tục kêu mời mỗi người chúng ta chịu khổ nạn với Ngài khi nói: “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).

Vác thánh giá theo Chúa không phải là việc tùy thích, nhưng là điều kiện phải có để làm môn đệ Chúa. Chúa Giê-su đã khẳng định điều này như sau: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,27).

Như vậy, muốn làm môn đệ Chúa Giê-su, chúng ta không thể thoái thác, không thể né tránh, không thể từ chối vác thập giá được.

Thập giá của chúng ta hôm nay

Vì là chi thể của Chúa Giê-su, chúng ta phải cùng vác thập giá với Chúa Giê-su.

Vác thập giá với Chúa như thế nào?

Tôi là một phần chi thể, như là vai, của Chúa Giê-su nên gánh nặng trong cuộc đời tôi là thập giá trên vai Chúa Giê-su.

Bạn là chi thể khác, như là tay, của Chúa Giê-su nên những đau khổ bạn đang chịu là những đinh nhọn đâm vào tay Chúa Giê-su.

Và máu của các ki-tô hữu đã đổ ra khắp nơi trên thế giới cũng chính là máu của Chúa Giê-su đang đổ ra, vì những tín hữu nầy là phần thân thể của Ngài.

Chịu khổ nạn với Chúa cách nào?

Vác thập giá với Chúa Giê-su cách cụ thể là kết hợp với Chúa Giê-su mà làm việc bổn phận hằng ngày và dâng cho Ngài những việc đó.

Quan trọng hơn cả là dâng thánh lễ hằng ngày với Chúa. Vì Thánh lễ là hy tế thập giá của Chúa Giê-su đang tiếp diễn[2], nên những ai tham dự Thánh lễ là đang thông hiệp mật thiết vào cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su như Mẹ Maria năm xưa trên đồi Can-vê, như ông Si-mong cùng vác thập giá với Chúa.

Lạy Chúa Giê-su

Xin cho chúng con vui lòng vác thập giá với Chúa, tham gia vào cuộc khổ nạn của Chúa… bằng cách kết hiệp với Chúa mà làm việc bổn phận hằng ngày và dâng cho Chúa những việc đó để góp phần đền tội cho chính mình, cho các tội nhân và cho các đẳng linh hồn.

¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬_________________________________

[1] Rm 5, 12. Rm 6, 23. Galat 6,7.

[2] Giáo lý HTCG số 1366, 1367

16. Kiên quyết không bỏ Đạo yêu thương–Lm. Ignatiô Trần Ngà

Mấy thế kỷ trước đây, trong thời gian các tín hữu công giáo Việt-nam bị bách hại ác liệt, nhà cầm quyền khuyến dụ các tín hữu bước qua thập giá như một dấu chỉ công khai bỏ đạo để được tha. Tín hữu nào theo lệnh vua quan dẫm đạp lên thập giá được xem như là người công khai bỏ đạo.

Ngày nay, không còn áp lực bên ngoài bắt buộc các tín hữu dẫm lên thập giá, nhưng Kitô hữu nào ngang nhiên chà đạp lên tình người, kẻ ấy đã thực sự chối bỏ Đạo yêu thương của Chúa Giêsu.

Đạo Chúa là Đạo yêu thương

Đạo Thiên Chúa được gọi là Đạo yêu thương vì cốt tủy của Đạo là giới luật yêu thương và mục tiêu của Đạo là xây dựng đời sống yêu thương huynh đệ trên khắp thế giới.

Khi có vị luật sĩ hỏi Chúa Giêsu, trong các điều răn, điều nào trọng nhất, Chúa đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.” (Matthêu 22, 37-40)

Thánh Phao-lô nhắc lại giáo lý nầy cho các tín hữu Rô-ma: “Các điều răn… đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.” (Rô-ma 13,9-10)

Tuyên ngôn yêu thương nầy đã được Chúa Giêsu nâng lên một tầm cao hơn khi Người phán: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Gioan 13, 34)

Đạo Chúa là Đạo yêu thương vì chỉ có những ai yêu thương nhau mới được xem là tín đồ chính danh của Đạo.

Muốn ghi tên gia nhập vào một tổ chức, một đoàn thể hay một đảng phái nào đó, ứng viên phải chấp nhận một số nội quy của tổ chức đó.

Cũng thế, khi muốn gia nhập vào Đạo yêu thương để trở thành môn đệ Chúa Giêsu, thì điều kiện đầu tiên phải có là lòng yêu mến tha nhân, như lời Chúa Giêsu dạy: “Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Gioan 13, 35).

Như thế, không phải hễ đã có tên trong sổ rửa tội, có tham gia sinh hoạt tôn giáo là có thể xưng mình là môn đệ Chúa Giêsu nhưng là phải thật sự yêu mến tha nhân quanh mình.

Ai ghét bỏ tha nhân là từ bỏ Đạo yêu thương của Chúa

Vì Đạo Chúa là Đạo yêu thương nên ai ghét bỏ tha nhân, kẻ ấy không còn là môn đệ của Chúa Giêsu nữa, như lời Chúa dạy: “Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Gioan 13, 35).

Như thế, khi ghét bỏ người khác hay cạn lòng yêu thương tha nhân, Kitô hữu tự loại mình ra khỏi hàng ngũ những người môn đệ Chúa.

Ngoài ra, những ai thiếu lòng yêu mến tha nhân thì trong ngày phán xét, sẽ bị liệt vào hàng ngũ những người bị nguyền rủa và bị loại trừ vĩnh viễn khỏi nhan Thiên Chúa, như lời Chúa dạy trong dụ ngôn phán xét cuối cùng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25, 34. 41)

Noi gương các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta kiên quyết không bỏ Đạo yêu thương.

Thách thức của các kitô-hữu bị bách hại ngày xưa là quyết không bước qua thập giá dù phải chịu máu đổ đầu rơi. Thách thức của kitô hữu hôm nay là quyết giữ lòng yêu mến tha nhân đến cùng dù phải đối mặt với hận thù, bạo lực và ghen ghét.

Các thánh tử đạo Việt Nam đã rất anh dũng bước theo Chúa Giêsu và kiên trì sống Đạo yêu thương đến cùng. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt, các ngài vẫn không hề nao núng. Nhờ đó, các ngài được lãnh nhận triều thiên tử đạo.

Nếu hôm nay chúng ta vui lòng chấp nhận nhiều hy sinh và thua thiệt, kiên quyết đẩy lui mọi hình thức oán ghét hận thù, để kiên trì giữ luật yêu thương, để sống chan hòa với mọi anh em trong tình huynh đệ (để đạt được điều nầy đòi chúng ta phải chịu khổ nạn trong tâm hồn), thì chúng ta cũng sẽ được đứng vào hàng ngũ các thánh tử đạo hiển vinh.

17. Can đảm nói không với tội lỗi–‘Cùng Đọc Tin Mừng’–Lm Ignatiô Trần Ngà

Trong thời kỳ bách hại đạo Công giáo tại Việt Nam, một trong những thử thách mà các kitô hữu bị bắt bớ phải trải qua là bước qua thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các kitô hữu bước qua. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình. Còn ai chấp nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.

Nói không trước những lời dụ dỗ và thúc ép

Vậy mà các bậc cha ông tử đạo của chúng ta ngày trước đã can đảm khước từ tất cả những hứa hẹn hấp dẫn đó, và đã kiên quyết nói không: Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa, không từ bỏ niềm tin.

Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.

Nói không trước những cực hình dã man và khủng khiếp nhất

Để uy hiếp các kitô-hữu và ép buộc các ngài bỏ đạo, ngoài những lời thuyết phục và dụ dỗ, vua quan ngày xưa còn áp đặt những cực hình man rợ và hết sức khủng khiếp để uy hiếp các ngài: bắt mang gông cùm nặng nề, bị giam nhốt trong ngục tối với rắn rết, muỗi mòng ghê sợ, chịu thiêu đốt, chịu thắt cổ, chịu chém đầu, chịu phanh thây, chịu án lăng trì (tức bị chặt tay, chặt chân trước rồi mới chém đầu sau), và khủng khiếp hơn cả là án bá đao như quan quân đã bắt cha Marchand Du phải chịu: chịu xẻo từng miếng thịt theo tiếng trống, cho đủ trăm miếng rồi mới chém đầu, moi ruột moi gan…

Dù vậy, các thánh tử đạo đã kiên quyết nói không: không chối Chúa, không bỏ đạo cho dù phải đổ máu, phải chịu xẻ thịt phanh thây, phải hy sinh mạng sống mình.

Nói không với tội lỗi

Ngày hôm nay, không ai dùng bạo lực, dùng những cực hình man rợ bắt chúng ta bỏ đạo hay chối Chúa như các thánh tử đạo ngày xưa. Vì thế, chúng ta không cần nói không trước những hăm doạ, đòn vọt hay án chết như các ngài.

Nhưng chúng ta cũng phải đương đầu với những thách thức mới. Đó là những cám dỗ, những lôi cuốn của tội lỗi làm chúng ta đi trệch con đường của Chúa Giêsu, đi lạc ra khỏi đạo lý của Người.

Noi gương các anh hùng tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy can đảm nói không với các tệ nạn xã hội, với các thói hư tật xấu, với những lời quyến rũ của bạn bè xấu…

Muốn nâng lên được những tạ nặng, các lực sĩ cử tạ phải tập nâng những tạ nhẹ trước. Muốn giải được những bài toán khó, các học sinh phải tập làm những bài toán dễ trước. Những lực sĩ muốn nhảy thật cao thì trước tiên phải tập băng mình qua những mức thấp trước.

Tương tự như thế, để có thể nói không trước những cám dỗ lớn lao sẽ đến trong cuộc đời, trước những cái ác, cái xấu lôi kéo quyến rũ chúng ta nay mai, chúng ta phải tập nói không với các cám dỗ nho nhỏ xảy ra hằng ngày trước.

Nguyện xin các anh hùng tử đạo Việt Nam cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta, để chúng ta luôn biết noi gương các ngài, anh dũng nói không với tội lỗi và các cơn cám dỗ, cho dù phải chịu mất mát thua thiệt trong cuộc sống đời nầy, để mai sau xứng đáng được lãnh vòng hoa chiến thắng và chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc.

18. Noi gương Cha Ông–Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Năm 2012 tôi có dịp sang Hoa Kỳ du lịch. Tôi có dịp đến nhiều nhà thờ to lớn nguy nga bề thế ở Mỹ. Có những nhà thờ đã được xây dựng vài trăm năm về trước, và có sức chứa đến vài ngàn người. Nhìn những nhà thờ đồ sộ nguy ngay như vậy cho tôi cảm giác các tiền nhân ở đây đã sống đạo rất phong phú. Họ đến nhà thờ rất đông. Họ cũng quảng đại góp công góp sức để có thể làm nên những ngôi nhà thờ nguy nga tráng lệ. Tôi thực sự cảm phục về đời sống đạo của các tiền nhân Nước Mỹ.

Thế nhưng, điều tôi ngạc nhiên là nhiều ngôi nhà thờ này hôm nay đã không còn người dự lễ. Có nhà thờ phải đóng cửa. Có nhà thờ phải bán đi trả nợ. Không biết người Công Giáo Nước Mỹ có suy nghĩ gì khi cha ông họ vất vả xây dựng. Dù rằng ngày xưa còn lạc hậu và phương tiện thô sơ, họ còn làm được những công trình to lớn như thế, mà đến nay con cháu sống trong khung trời văn minh lại để hoang lạnh vì thiếu tiền, thiếu người dự lễ…? Phải chăng những gì cha ông vất vả xây dựng nay con cháu lại bất lực khi nhìn thấy cảnh nhà thờ hoang lạnh và phải bán đấu giá vì thiếu tiền duy trì…

Nhìn họ lại nhớ đến ta. Cha ông ta dù trong hoàn cảnh đạo bị bách hại, cuộc sống còn lam lũ nghèo khó, thiếu thốn tư bề, các ngài vẫn giữ đaọ, vẫn sống đạo… Giáo hội vẫn phát triển không ngừng về con người và cơ sở vật chất. Theo thống kê năm 1975 số người tín hữu đã lên tới 5 triệu người trên tổng dân số toàn quốc hơn 40 triệu dân. Tỷ lệ 1/10. Thế nhưng qua 38 năm Giáo hội Công Giáo dường như không có bước tiến về truyền giáo. Số người công giáo sau 38 năm cũng chỉ mới hơn 6 triệu tín hữu so với dân số gần 90 triệu dân. Tỷ lệ 1/15.

Chúng ta vẫn tự hào về cha ông chúng ta – những anh hùng trung kiên với đức tin, đã can đảm hiên ngang đổ máu đào để minh chứng cho đức tin Công giáo. Chúng ta vui mừng tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội Việt Nam nhiều vị tử đạo. Chúng ta vui mừng và thành tâm cầu xin, cung nghinh, tôn kính các thánh tử đạo. Đó là những tình cảm và việc làm thật tốt đẹp.

Thế nhưng là con cháu, chúng ta có trung kiên như các ngài hay không? Giáo hội hôm nay không còn kiểu bách hại dẫn đến đổ máu, nhưng lại đòi hỏi chúng ta phải trung kiên giữ đạo vì những quyến rũ của danh lợi thú trần gian. Cha ông ta đã đổ máu để giữ đạo còn chúng ta lại tìm hưởng thụ để bỏ đạo hay lơ là đạo, phải chăng chúng ta cũng đang làm mất đi công trình của cha ông đã xây dựng bằng xương bằng máu của mình?

Nói đến các Thánh Tử đạo, không thể nào ta không nhắc đến đức tin mà các vị ấy đã tuyên xưng bằng chính máu đào và bằng chính sự sống của mình. Một đức tin quá kiên trung. Một đức tin quá can đảm phi thường. Bất chấp mọi cực hình, các ngài vẫn một lòng sắt son với Thiên Chúa. Và dường như càng bị bách hại, giáo hội lại càng có nhiều người anh dũng chết cho đức tin bấy nhiêu. Vua quan, một mặt ra sức bắt đạo dữ dội, mặt khác ra sức ngăn chặn sự phát triển của đạo, thì lại vô tình làm cho đức tin càng được dồn nén, càng được nung nấu, càng được khẳng định, nếu có dịp sẽ cháy bùng lên, và nhanh chóng lan toả mãnh liệt hơn bất cứ lúc nào.

Điều quan yếu nơi các thánh tử đạo không chỉ là việc đổ máu mà là một chuỗi ngày dài sống đức tin trung kiên. Một đức tin sắt son với Chúa. Một đức mến nồng nàn với tha nhân. Như trường hợp y sĩ Phan Đắc Hòa, ông luôn rộng rãi giúp người nghèo khó, riêng bệnh nhân túng thiếu, không những ông chữa bệnh miễn phí, lại còn giúp tiền giúp lúa. Với ông Martinô Thọ thì “Công bằng chưa đủ phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện, thế nên, ông đã trồng lúa, trồng rau để có tiền làm việc thiện.

Với ông Cai Tả thì yêu thương để xứng với tình Chúa yêu, ông thường châm chước cho những người mắc nợ và nói: “Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình “. Với quan Hồ Đình Hy thì: “Đừng làm việc thiện cách máy móc qua lần chiếu lệ, mà phải làm với thiện ý “. Ông từng chăm sóc nuôi nấng một người bệnh bơ vơ, suốt 15 ngày sáng tối thăm hỏi, và khi người bệnh lìa đời, đã tổ chức lễ an táng tử tế. Ông cũng nuôi hai bé gái bị bỏ rơi cho đến khi trưởng thành: một cô xin đi tu, một xin lập gia đình, ông quảng đại lo đến nơi đến chốn.

Chính đời sống đức tin tỏa sáng bằng việc làm bác ái đã đi vào lòng quan quân, và dân chúng. Mặc cho triều đình nhà Nguyễn ra những chiếu chỉ bách hại, dấu hiệu tình thân giữa bà con chòm xóm đối với người Công Giáo vẫn trước sua như một. Thí dụ trong vụ án linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quý cụ “.

Thế nhưng, cha ông chúng ta đã đổ máu vì đức tin, đã hiến dâng cả mạng sống để chứng tỏ tình yêu mạnh hơn sự chết. Những con người hi sinh cao cả như thế chẳng lẽ lại chỉ mong để con cháu ca hát ngợi khen, rước sách tung hô mình? Người ta đã nhận định là tín hữu Việt Nam rất nhiệt tình trong kinh hạt, rước sách linh đình nhưng lại ngại hi sinh dấn thân trong công việc mục vụ, bác ái yêu thương. Đời sống tôn giáo của tín hữu Việt Nam xanh tốt như cây nhiều cành lá mà ít hoa quả. Những nhận định không hoàn toàn đúng nhưng cũng đáng để suy nghĩ. Từ đó, thiết nghĩ, có lẽ cha ông tử đạo của chúng ta mong nơi con cháu một điều gì đó cao hơn, khó hơn việc hát ca, rước sách.

Thực vậy, Giáo hội ngày hôm nay cần có những chứng nhân giữa dòng đời. Những chứng nhân dám sống niềm tin của mình mà không sợ thiệt thòi khi mất chức, mất địa vị trong xã hội. Những chứng nhân dám sống theo chân thiện mỹ giữa một xã hội gian dối, lừa lọc, cho dù vì thế mà nghèo hèn túng thiếu. Những chứng nhân trung kiên không vì danh lợi thú mà sao lãng bổn phận thờ phượng Chúa nhưng luôn hy sinh từ bỏ tham sân si để sống đạo yêu thương giữa cuộc đời.

Mỗi khi mừng kính các thánh tử đạo là mỗi dịp để khơi dậy tinh thần tử đạo nơi chúng ta. Tinh thần tử đạo không gì khác hơn là làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời. Xưa các thánh tử đạo đã dám chết cho niềm tin của mình, thì nay chúng ta cũng phải dám hi sinh cho những giá trị tinh thần cao quí trong cuộc sống hàng ngày. Xin đừng để những giọt máu đào của cha ông đổ ra cách uổng phí khi con cháu hôm nay chỉ thích hưởng thụ, sống lười biếng, hèn nhát. Amen.

19. Những vị anh hùng âm thầm–Lc 9,22-26

Dân tộc nào cũng có những vị anh hùng và tôn giáo nào cũng có những vị anh hùng, được gọi những danh hiệu khác nhau. Kitô giáo có hàng ngũ các thánh, những tôi trung, con thảo của Chúa, những mẫu mực sống đạo của người công giáo. Là anh hùng trong đạo nhưng không có ai thắng. Có chăng là thắng chính mình, thắng những kẻ thù vô hình không mang quốc tịch nào như ma quỷ, xác thịt và thế gian.

Các vị tử đạo Việt Nam không cuồng tín liều lĩnh, không tự ý tìm đến cái chết: không ai tự thiêu, tự thắt cổ, tự cắn lưỡi, tự đập đầu mà chết để giữ chữ trung với đạo (không ai tự tử mà lại được phong thánh).

Trước khi tử đạo, các ngài là những người muốn sống để phục vụ gia đình, quê hương và Giáo Hội. Muốn sống mà không được sống, tránh không được thì chấp nhận, để rồi vui nhận. Cam lòng chịu chết mà không oán hận: đó là tính cách của các vị tử đạo Việt Nam. Kẻ nuôi lòng hận thù không thể làm thánh vì không xứng danh làm môn đệ của Đấng đã dạy: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình.

Tôn vinh các vị thánh tử đạo Việt Nam là nêu lên một quan điểm tích cực: Lấy tình thương xoá bỏ hận thù. Không khơi lên đống tro tàn để bùng cháy lòng căm thù, nhưng sáng lên một tinh thần bao dung hoà giải. Romeo và Juilette chết đi để hoà giải hai dòng họ thâm thù truyền kiếp. Cũng thế, dòng máu các vị tử đạo đổ ra không phải là vô ích. Các vị ấy về cõi trời nhưng gởi lại một thông điệp, đã có những người quyết tử để đất nước được hồi sinh, đã có những người chết vì niềm tin để con cháu được sống đức tin giữa lòng dân tộc, đã có những người bị đè bẹp vì thành kiến cố chấp để muôn người được thông cảm hoà đồng với nhau.

Đất nước Việt Nam sản sinh nhiều anh hùng: chiến sĩ anh hùng, bà mẹ anh hùng… nay có thêm những anh hùng đức tin làm cho kho tàng này được thêm phong phú.

Hướng về tương lai trong viễn cảnh thái hoà, người công giáo Việt Nam tiếp bước cha ông tiền bối của mình để sống đời chứng nhân, đem tin yêu đến cho mọi nhà. Còn biết bao nhiêu người đang phấn đấu sống theo chính đạo, chống lại bóng đen gian tà, chu toàn bổn phận của mình, làm việc với lương tâm chức nghiệp, sống lương thiện lành mạnh, chống lại các tệ nạn xã hội, tránh thoát ma lực của đồng tiền, quên đi lợi nhuận để mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân, hy sinh tiết kiệm để cứu giúp những người bất hạnh. Quả là những anh hùng âm thầm trong bóng tối mênh mông.

20. Tử đạo trong cuộc sống hôm nay–Lm Giuse Đỗ Văn Thụy

Ngày lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay thôi thúc chúng ta hãy theo gương các Ngài để biết tử đạo trong đời sống hằng ngày. Hãy thực hiện lời Chúa dạy chúng ta: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23)

Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19/6/1988 tại Rôma, tức là 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên bậc hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc.

300 năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ.

Các ngài cảm thấy hạnh phúc vì được thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công giáo, các ngài can đảm tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững lập trường đức tin chân chính của mình.

Trong hơn 100.000 vị tử đạo, có 58 giám mục và linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Ý, 15 linh mục Việt Nam, 340 thầy giảng, 270 nữ tu Mến Thánh Giá và 99.182 Giáo dân.

Trải qua ba trăm năm, với 53 sắc dụ cấm đạo dữ dội, Giáo Hội Việt Nam đã bị bách hại và đã biểu lộ hào hùng sức mạnh đức tin qua dọc dài lịch sử.

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã chịu đủ mọi cực hình:

– Bị xiềng xích, lao tù, bị tra tấn, bị bỏ đói, bị chém đầu, bị thắt cổ, bị bá đao, phanh thây, bị kìm kẹp, bị voi dày, bị thiêu sống, bị buộc đá thả trôi sông, bị tống cổ ra khỏi nhà, làng mạc, sống vất vưởng trong rừng sâu nước độc. Các ngài đã bị chết đói, chết khát, chết bịnh và bị dã thú ăn thịt…với sức mạnh đức tin, các ngài đã chiến thắng mọi thứ cực hình dã man.

– Cho dù là gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, thiêu sống, phân thây ra từng mảnh…các ngài chấp nhận tất cả nhờ đức tin mạnh mẽ.

Các vị tử đạo cũng là những con người mang thân xác giòn mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng biết ham sống sợ chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Mỗi vị tử đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng lời nói và mạng sống mình để bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin. Tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình và cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài.

Ngày lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay thôi thúc chúng ta hãy theo gương các Ngài để biết tử đạo trong đời sống hằng ngày. Hãy thực hiện lời Chúa dạy chúng ta: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”(Lc 9,23). Theo Chúa là phải từ bỏ mình, chấp nhận mọi gian nan khốn khó, vâng theo thánh ý Chúa, sống trọn cuộc sống Kitô hữu để làm chứng cho Chúa. Đó là chúng ta đang trải qua cuộc tử đạo tuy âm thầm nhưng đòi hỏi nhiều hy sinh, nhiều cố gắng liên lỷ. Từ bỏ ý riêng, chu toàn bổn phận, trung thành với đặc sủng ơn gọi; có thể là một việc khó khăn, đòi hỏi một sự kiên nhẫn và một lòng mến chân thành. Những việc làm đó không hào quang, không rực rỡ, không một ai biết đến ngoại trừ Thiên Chúa. Chính vì vậy trong Tông Thư “tiến đến thiên niên kỷ thứ ba”, Thánh Giáo Hòang Gioan Phaolô II nói đến các vị tử đạo mới của thời đại hôm nay: “trong thế kỷ này lại có những người tử đạo – thường là âm thầm, họ như thể là “những chiến sĩ vô danh” – vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thầy về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những giám mục, linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em” (số 37).

Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các vị Tử Đạo ngày xưa. Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra những bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện. Ước gì chúng ta không để mất đức tin đã được mua bằng giá máu của bao vị Tử Đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng ta.

Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.

21. Sức mạnh đức tin qua gương tử đạo–Lm. Nguyễn Minh Hùng

Tin Mừng đến với dân tộc Việt nam gần 500 năm, thì hết 300 năm, Giáo Hội Việt Nam thấm đẫm dòng máu các anh hùng tử đạo. Giai đoạn bách hại nặng nề nhất là vào thế kỷ 19, trong các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.

Cuộc bách hại để lại một trang sử đầy nghiệt ngã cho dân tộc Việt Nam: những người Việt Nam tàn nhẫn sát hại nhau. Chính những đồng bào Việt Nam chung cội, chung nguồn lẽ ra phải yêu thương nhau, lại quay mũi kiếm giết nhau hàng loạt.

Thật vinh phúc cho Giáo Hội Việt Nam, một Giáo Hội còn non trẻ, nhưng lại căng tràn sức sống, đạp trên đầu sóng ngọn gió, vượt thắng mọi thử thách, mọi đau đớn, mà cho đến nay, dẫu đã qua đúng một thế kỷ, thời gian đủ bình tĩnh để suy niệm, sao vẫn còn nghe hãi hùng, vẫn còn nghe nhức nhối tâm can, làm lặng đi mọi tư tưởng, mọi lời nói, mọi thanh âm.

Những người con đất Việt tưởng như gục ngã không thể gượng dậy nổi dưới bàn tay tàn bạo của làn kiếm, mã tấu, gông cùm, tù đày, lửa nung, bá đao, tùng xẻo, xiết cổ, chém bay đầu…, lại là sức mạnh ngàn đời của một đức tin không gì lay chuyển nổi. Bởi Thân xác các thánh Tử đạo dù bị giết, nhưng đức tin của các ngài thì không ai giết được.

Một Giáo Hội còn non trẻ đến thế, lại có sức chịu đựng sự giày xéo quá sức tưởng tượng của người đời.

Giờ nhìn lại sự nhiệm mầu của sức chịu đựng, ta chỉ còn có thể bật thốt lên như thánh nữ Têrêsa: “Tất cả là hồng ân”. Hồng ân nhận được không chỉ là một quà tặng, nhưng còn là một quà tặng vinh dự, một quà tặng của niềm kiêu hãnh thánh thiện.

Hồng phúc tử đạo không chỉ là một hành động dâng hiến tận cùng mà còn là một dâng hiến vinh thắng tận cùng.

Đó không là một vinh phúc lớn lao lắm hay sao! Một vinh phúc lớn lao mà một Giáo Hội còn non trẻ như Giáo Hội Việt Nam, lại có thể cùng Giáo Hội hoàn vũ đã qua mấy ngàn năm, vẽ thêm vào đó một đường lịch sử của đức tin không bao giờ mệt mỏi, không bao giờ dừng lại.

Các thánh Tử đạo đã viết sử bằng máu của mình.

Còn chính Thiên Chúa, Người cũng đã làm cho Giáo Hội Việt Nam được khai sinh, lớn lên và phát triển nhờ dòng máu các thánh.

Nếu cuộc bách hại để lại một trang sử đầy nghiệt ngã cho dân tộc Việt Nam, thì đối với đức tin, đó lại là một trang sử hùng tráng cho Giáo Hội Việt Nam nói riêng và Giáo Hội hoàn vũ nói chung: Bởi những người con đất Việt càng yêu mến quê hương, yêu mến bản thân mình, luyến tiếc cuộc đời, luyến nhớ người thân… và điều đặc biệt: yêu mến các vua quan là những người bên trên mình, thì càng yêu mến đức tin khôn cùng.

Chính cái chết của các thánh Tử đạo là một lời nói xác quyết và chung quyết cho mọi lời tuyên xưng đức tin rằng: Không có bất cứ cái gì có thể ngang bằng đức tin…

Hiểu rất rõ Chúa Giêsu, Đấng mà mình tôn thờ vượt trên tất cả, dẫu là chính bản thân các vua quan hay lệnh truyền của các vua quan đi nữa, không có gì sánh ví được với Đức Chúa mà lẽ ra các vua quan cũng phải tôn thờ, các thánh Tử đạo đã chối từ một cuộc sống dễ dãi.

Hiểu rất rõ Chúa Giêsu, Đấng mà mình tôn thờ là Đức Chúa của mình, vì thế, dẫu chỉ là hai que củi vắt chéo trên mặt đất, bình thường chỉ là hai que củi không hơn, không kém, nhưng để biểu lộ đức tin, thì bất cứ một bàn chân giẫm đạp nào, bất cứ lời lỵ mạ nào, hay bất cứ một hành động nào đối lại đức tin khi đứng trước hai que củi ấy, tất cả đều là sự chà đạp đức tin, chà đạp Giáo Hội, chà đạp chính Đấng mà mình tôn thờ.

Ngược lại, bất cứ một hành động hay một lời nói nào để tuyên xưng đức tin mà phải tôn trọng hai que củi hình chữ thập ấy, điều đó không còn đơn thuần là hai que củi hình chữ thập nữa nhưng là hình tượng Thánh Giá, hình tượng của lòng tin, hình tượng của một tâm hồn quả cảm quyết một lòng tôn thờ Đức Chúa của mình!

Hiểu rất rõ điều đó, cho nên dù chỉ là đối điện với hai que củi vắt chéo hình chữ thập, các thánh Tử đạo không chỉ đứng trước hai que củi, nhưng là đối diện với nỗi giằng co mạnh bạo, đối diện với sự chọn lựa không khoan nhượng, nhưng dứt khoát: đức tin hay cuộc sống trần thế.

Và cái giá phải trả cho sự chọn lựa đứng về phía đức tin là bị tước đoạt tất cả những gì đang có trong cuộc trần. Bị tước đoạt cả sự sống, cả đến giọt máu sau cùng.

Máu các thánh Tử đạo Việt Nam đã dệt đỏ thắm dòng lịch sử Giáo Hội Việt Nam, vì thế, các thánh Tử đạo mãi mãi vẫn xứng đáng sống trong lòng Giáo Hội và nơi từng người tín hữu Việt Nam.

Vượt trên tất cả mọi tấm gương, vượt trên tất cả mọi bài học, máu các thánh phải là chính cuộc sống của những người Việt Nam Công Giáo hôm nay, khi làm người Việt Nam giữa dân tộc mình, và làm người giữa đời.

22. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Ngày xưa, khi nhắc đến các Thánh tử đạo, nhất là các vị tử đạo Việt nam, chúng ta thường hình dung đến những cực hình ghê sợ mà người ta nghĩ ra để hành hạ các ngài. Các cực hình dã man ấy không những không làm lung lạc đức tin của các ngài, mà còn khiến các ngài càng mạnh mẽ hơn trong việc đón nhận và tuyên xưng đức tin. Ngày nay, những cái chết vì đức tin như vậy vẫn còn diễn ra dưới nhiều hình thức tử đạo mới. Hằng năm trên thế giới vẫn có hàng ngàn người đang phải chịu khốn khổ, bị kỳ thị vì đức tin của mình. Nhiều người đã phải bỏ quê hương để đi tìm một chỗ nương thân an toàn, ví dụ như tại Irăc và Sirya trong năm vừa qua. Nhà nước IS đã tuyên bố bất cứ ai kêu tên Giêsu mà người khác nghe được thì bị xử bắn. Vì thế, trong năm qua, có đến hàng trăm Kitô hữu đã bị giết tại Sirya chỉ vì họ nhận mình là Kitô hữu. Cũng giống như thế, tại quốc gia Bắc Hàn, các Kitô hữu phải sống một cuộc sống hết sức khó khăn, bị o ép và khủng bố, có thể bị tù đày, bị giết chết bất cứ lúc nào. Tại quốc gia này, cuốn Kinh Thánh trở thành cuốn sách bị cấm. Ai đọc hoặc giữ cuốn Kinh Thánh trong người, có thể bị tử hình.

Tại Việt Nam, kể từ những ngày đầu tiên khi Tin Mừng được gieo vãi trên quê hương đất nước cho đến nay, người Kitô hữu dường như liên tục bị bách hại về niềm tin của mình. Tổ tiên của chúng ta, các vị tử đạo Việt Nam, đã đón nhận đức tin trong hoàn cảnh hết sức khó khăn như thế. Các ngài đã phải chọn lựa và quyết định cho mình một niềm tin, một nếp sống khác với những người đồng hương lúc đó. Trong khi những người khác hoàn toàn sống theo tâm tình tôn giáo dân gian, sống một cuộc sống thoải mái dễ dãi, thì tổ tiên chúng ta đã chấp nhận đi vào con đường của Tin Mừng. Các ngài đi theo con đường hẹp, chấp nhận tuân theo giới răn lề luật của Thiên Chúa, từ chối các thần linh của dân ngoại. Các ngài mặc dù có chọn lựa riêng cho mình, sống giới răn riêng của Tin Mừng, nhưng các Ngài không sống tách biệt khỏi các người đồng hương, trái lại, các ngài đã sống đến cùng giới răn yêu thương, bác ái đối với những người khác. Có những thời kỳ chính quyền đã coi các tín hữu như công dân hạng hai, họ khắc trên mặt người Công giáo chữ “tả đạo” để dễ dàng phân biệt đối xử. Cha ông của chúng ta vẫn không hề thù oán, không phản kháng, không báo thù, các ngài vẫn tận tình sống tình yêu thương chan hoà với hết mọi người, khiến những người dân ngoại đã gọi họ là “những người theo đạo yêu nhau”.

Các vị tử đạo đã sống đúng như lời sách Khôn Ngoan đã nói: Linh hồn những người công chính ở trong tay Thiên Chúa, không một cực hình nào có thể động tới được các ngài…Trước mắt người đời, chúng tưởng như các ngài đã chết, nhưng thực ra các ngài vẫn đang sống… Người đời nghĩ rằng các ngài bị trừng phạt, nhưng các ngài vẫn chứa chan hy vọng. Ba trăm năm đầu tiên là quãng thời gian hết sức khó khăn đối với các tín hữu, thế nhưng, dường như những cơn đàn áp càng khốc liệt, thì Tin Mừng lại càng được loan truyền và con số những người tin theo Chúa lại càng gia tăng. Các ngài bị hành hạ nhưng các ngài vẫn hy vọng vào phần thưởng Nước Trời mà Thiên Chúa đã hứa.

Bước sang thế kỷ 20 – 21, tình hình bắt bớ, giết hại những tín hữu có phần lắng xuống, nhưng không phải đã được tự do hoàn toàn. Người Kitô hữu Việt Nam lại trải qua một hình thức tử đạo khác. Họ vẫn phải cố gắng sống và thể hiện niềm tin của mình trong một môi trường xã hội mới. Nhiều nơi, các tín hữu vẫn bị o ép giới hạn cách này cách khác. Nhiều người đã bị tù tội chỉ vì mang danh là người Kitô hữu, vì nhiệt tâm phục vụ. Nhiều tín hữu đã chết trong tù hoặc nơi rừng sâu nước độc, chỉ vì muốn sống đến cùng đòi hỏi của Tin Mừng. Bên cạnh những người mạnh dạn tuyên xưng đức tin và hết mình bảo vệ quyền được sống và thể hiện đức tin của mình, thì cũng có những người đã chấp nhận thỏa hiệp với cơn bách hại của quyền lợi và danh vọng. Trong số đó, không thiếu những người vì quyền lợi, địa vị xã hội, sẵn sàng che giấu đức tin của mình, không dám nhận mình là người có đạo. Những người này còn muốn thể hiện ra bên ngoài như thể là mình chưa từng biết Chúa Giêsu. Họ công khai từ chối Chúa Giêsu và Tin Mừng, từ chối nếp sống của người tín hữu; họ xấu hổ vì Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài.

Bước vào thời kỳ văn minh hiện đại hôm nay, ở một số nơi, các tín hữu Kitô vẫn đang bị bách hại bởi các nhóm khủng bố, các nhà cầm quyền; còn người Kitô hữu Việt Nam lại phải đương đầu với cơn bách hại khác. Cuộc bách hại này có lẽ không đến từ những áp lực bên ngoài, nhưng là một cuộc chiến liên tục bên trong mỗi người để chọn cho mình một cách sống. Ngày xưa, cha ông chúng ta đã chấp nhận cái chết đổ máu để giữ đạo; ngày nay, chúng ta cũng đang phải từng ngày rỉ máu vì chọn lựa sống đạo. Chúng ta chọn để sống theo Đức Kitô, có nghĩa là chọn sống giống như Ngài, sống nghèo khó và quảng đại phục vụ, sống yêu thương và tha thứ.

Ngày nay, trong khi con người đề cao tự do một cách thái quá thì người Kitô hữu lại chấp nhận khép mình vào trong khuôn thước của Tin Mừng. Chúng ta được mời gọi sống sự tự do của con cái Chúa, tức là thoát khỏi sự ràng buộc của vật chất, dục vọng để vươn lên sống đúng với tư cách là con Thiên Chúa, những người đã được cứu chuộc. Xã hội ngày nay tìm mọi cách để thoả mãn mọi nhu cầu của con người, thì người tín hữu lại chấp nhận một cuộc sống tiết chế, làm chủ bản thân, bắt mình phải quy hướng về Thiên Chúa và thần phục Ngài.

Giàu có, sung túc đang là mục tiêu của nhiều người, nó cũng biến con người trở nên tàn ác với nhau để giành được mục tiêu đó. Người Kitô hữu không thể đứng bên ngoài dòng chảy này. Tuy nhiên, chúng ta được mời gọi không thể để mình sống và đối xử với nhau theo bản năng của con thú, nhưng đối xử bằng tình bác ái và tình yêu thương. Con người khi đã đạt được sự giàu có thì dễ dẫn đến cuộc sống phô trương hưởng thụ, còn người tín hữu được mời gọi sống siêu thoát, tức là sống tinh thần nghèo khó khiêm nhường, phó thác cuộc đời, công viêc, tài sản cho Chúa và sử dụng của cải theo ý Chúa. Cuộc sống khi giàu có dễ biến căn nhà của chúng ta trở thành kín cổng cao tường, làm cho con người trở nên to bụng nhưng tay chân ngắn lại, trở nên khép kín và lạnh lùng đối với nhau. Người Kitô hữu được mời gọi mở rộng cửa nhà và mở rộng đôi tay để có thể bước đến với anh em, để chia sẻ và phục vụ họ.

Cuộc tử đạo của chúng ta hôm nay là liên tục sống tình yêu thương và tha thứ. Có lẽ vì vậy mà Giáo hội đang hoàn thiện hồ sơ để tôn phong Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Fancis Nguyễn Văn Thuận, lên bậc Chân phước Tử đạo cho dù Ngài không trực tiếp chết vì đạo. Giáo hội đã nhìn thấy gương sống yêu thương và tha thứ của Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận như cuộc tử đạo liên tục. Trong thánh lễ an táng ngài, Đức Thánh Giáo Hoàng JP II và cả giáo triều lúc đó đã mặc phẩm phục màu đỏ thay cho màu tím truyền thống. Trong quan tài của Đức Hồng Y, người ta đã đặt vào đó một tấm bia bằng đồng ghi tóm tắt lịch sử cuộc đời của ngài. Việc làm này cho thấy sự kính trọng mà giáo triều đã dành cho ngài như truyền thống Giáo hội vẫn làm cho các vị tử đạo.

Đức hồng Y Fancis đã tử đạo bằng đời sống yêu thương và tha thứ cho những kẻ bách hại ngài. Sau hàng chục năm tù tội bất công, bị biệt giam như một con chó, vậy mà không bao giờ ngài kêu than oán trách. Trái lại, ngài luôn cầu nguyện cho những kẻ giam giữ mình. Trong các tác phẩm để lại, cũng như các cuộc nói chuyện, ngài kể về những năm tháng tù đầy như là những năm tháng ngài được tĩnh tâm, được sống thân mật với Chúa và làm việc mục vụ bằng lời cầu nguyện. Ngài tuyệt đối không dùng một lời lẽ cay cú hay thù oán, nhưng thay vào đó là một tâm hồn bình an, thanh thản đón nhận ý Chúa.

Chúng ta đang sống trong thời hiện đại, chúng ta cũng sẽ phải trải qua những cuộc tử đạo hiện đại và trở thành những vị tử đạo hiện đại. Chúng ta sẽ không chết vì gươm giáo hoặc đạn bắn, nhưng chúng ta sẽ phải chấp nhận chết, chấp nhận thiệt thòi vì Tin Mừng, vì sống đến cùng của lời mời gọi của Chúa: Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá hàng ngày mà theo Ta… Ai liều mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Chúng ta cũng sẽ phải hết mình để chu toàn vuông tròn giới răn lề luật của Chúa và Hội Thánh, không thoả hiệp cũng không giảm thiểu.

Chúng ta sẽ phải tử đạo bằng đổ mồ hôi và nước mắt trong gia đình để bảo vệ sự vĩnh viễn của hôn nhân và để xây dựng một gia đình Công Giáo đúng nghĩa. Trước sự tấn công của các trào lưu xã hội trên các gia đình, chúng ta sẽ phải là những chiến sĩ chấp nhận hy sinh, không ngại thương tích để bảo vệ hạnh phúc và phẩm giá cao quý của đời sống hôn nhân và gia đình. Trước sức ép của cuộc sống vật chất, chúng ta vừa phải lao vào cuộc sống để tìm kiếm cơm ăn áo mặc cho con cái, nhưng cũng phải chấp nhận rướm máu vì giữ giới luật công bằng, yêu thương và bác ái.

Các bạn trẻ cũng phải tử đạo liên tục để sống đúng với ơn gọi là một người trẻ Công Giáo trong xã hội biến chuyển này. Chúng ta sẽ phải đổ máu để bảo vệ sự tinh tuyền của linh hồn và thân xác khỏi cơn bão của hưởng thụ ích kỷ, phim ảnh sách báo và lối sống buông theo dục vọng. Chúng ta vẫn phải sống, phải bước đi với mọi người trong xã hội, nhưng vẫn phải chiến đấu để khỏi đánh mất mình và mục đích cuộc đời trong dòng chảy của xã hội hôm nay.

Như thế, cuộc tử đạo ngày nay xem ra không kém phần khốc liệt như cuộc tử đạo ngày xưa của các vị tiền nhân. Xin Chúa qua sự bầu cử của Đức Maria và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, giúp chúng ta là con cháu của các ngài, biết sống khí tiết anh hùng của các Tiền Nhân, dám sống cho tới cùng lý tưởng của Tin Mừng trong thời đại hôm nay. Amen.

23. “Thà chết vinh còn hơn sống nhục”–‘Cùng Nhau Suy Niệm’–Lm Jos. Tạ Duy Tuyền

Từ ngày tổ tông loài người thoả hiệp với ma qủy quay lưng lại với Thiên Chúa, ma qủy thường dùng chiêu thức này để kiếm thêm đồng minh chống lại Thiên Chúa. Trong vườn địa đàng nó đã nói cùng Adam – Eva: “cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa”. Ông bà đã ăn. Ông bà đã bắt tay cùng sa tan để chống lại Thiên Chúa. Con cháu Adam từ đời này đến đời nọ vẫn còn vô số người vì sự an nhàn bản thân, vì mong tìm kiếm lợi lộc, tìm hư danh trần thế, họ vẫn bằng lòng quay lưng lại với Thiên Chúa để làm tôi cho ma qủy, để tận hưởng khoái lạc mau qua trần gian.

Và cũng từ ngày Con Thiên Chúa từ chối thoả hiệp với sa tan, các môn đệ của Chúa trải qua bao thời đại vẫn còn đó những tấm gương quả cảm, anh dũng can trường từ chối thoả hiệp với sa tan. Họ thà nghèo đói để được bình an tâm hồn hơn là kiếm tiền bằng việc phi nhân thất đức mà lòng chẳng chút bình an. Họ chấp nhận vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời vua chúa trần gian, cho dù phải tù đầy, gian truân khốn khó. Họ chấp nhận đánh mất mùa xuân hạn hẹp trần gian để đổi lấy mùa xuân bất diệt thiên đàng.

Hôm nay chúng ta mừng kính 117 thánh tử đạo Việt Nam, là con số tượng trưng cho hơn 130 ngàn vị tiền nhân đã chết trong các đợt cấm đạo tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19. Họ đã chết không phải vì chống lại triều đình. Họ đã chết không phải vì lỗi công bình bác ái với tha nhân. Họ đã chết vì không chịu thoả hiệp với thế gian. Giữa sự sống và sự chết chỉ cách nhau một lằn ranh. Lằn ranh đó chính là cây thập giá. Bước qua thì được thoát khỏi cực hình trần gian. Bước qua thì được trở về với vợ con, với xóm làng, với chức tước vua ban và bổng lột trần gian, nhưng các thánh tử đạo Việt Nam đã không vì thế mà chối Chúa, bỏ đạo. Không thể vì ham sống sợ chết mà phải chà đạp lên thập giá là bỏ cơ hội sống đời đời để đổi lấy cuộc sống lây lất tạm thời trần gian. Các ngài thà chịu đòn roi, thà chịu án tử hình để trung kiên theo Chúa, để lãnh phúc triều thiên vinh quang bất diệt trên quê trời còn hơn là làm tôi mọi cho ma qủy. Như trường hợp ông đội Bường đã thẳng thắn trả lời với quan quân: “Bên đạo chúng tôi ai chết trẻ là đi đường tắt, ai chết già là đi đường trường. Song đàng nào cũng tới quê thật là nước thiên đàng vậy”. Thế nên, thánh nhân đã khuyên nhủ các đồng đạo rằng: “Chúng ta hãy vui lòng chịu mọi sự khốn khó để giữ nghĩa cùng Chúa cho đến khi nào thánh ý Chúa định thể khác. Nếu quan có hành hạ thì hãy can đảm chịu đựng. Hễ xác chết rồi thì hồn chúng ta bay thẳng về trời, không sợ gì roi đòn. Chịu sự khó như vậy là vác thánh giá theo Chúa Giêsu. Nếu có đau đớn quá thì hãy xin Đức Mẹ phù trợ cho được bền lòng đến cùng”.

Đọc lại tiểu sử các thánh tử đạo Việt nam chúng ta thấy có vô số lời dụ dỗ thật ngọt ngào. Tại Hà Tĩnh, các quan cho gọi những người đứng đầu các họ đạo Công Giáo đến và vẽ hình chữ thập xuống đất rồi bảo họ: “Chúng tôi chẳng muốn bắt ép quí vị điều gì trái nghịch với đạo. Chúng tôi biết đây không phải là thánh giá mà quí vị tôn thờ. Vậy hãy bước qua để chúng tôi có thể trình lại với vua là chúng tôi đã thi hành lệnh, nếu không chúng tôi mắc lỗi trước mặt vua”. Riêng tại Nghệ An, ông quan tỉnh đã nói với người công giáo: “Các ông thật dại dột để mình phải khổ sở. Làm sao chống lại được với lệnh vua? Đạo ở trong lòng chứ đâu có ở bên ngoài. Tạm chối đi, rồi hai ba tháng sau theo trở lại. Hãy xem thánh Phêrô đã chối đạo ba lần mà vẫn còn được cất nhắc lên cao”.

Song le, có nhiều phản ứng khác nhau.Có kẻ giả vờ bước qua để sống an nhàn. Có kẻ đã thản nhiên bước qua vì gia đình và dòng họ còn cần đến mình. Nhưng vẫn còn đó nhiều người không chịu bước qua dù chỉ là giả vờ, dù chỉ là tạm thời bỏ đạo rồi khi sóng gió đi qua lại quay lại với Thiên Chúa. Họ đã vui lòng đón nhận mọi khốn khó để nói lên lòng trung thành với đức tin vào Chúa.

Riêng cha Anrê Dũng lạc, dù rằng quan quân mở lối thoát bằng việc cho giáo dân đem tiền chuộc Ngài nhưng ngài vẫn cương quyết chối từ. Các giáo dân đã tới trại giam khuyên nhủ cha rằng: “Thưa cha, cha chịu chết thì một mình cha lên thiên đàng, mà nếu cha còn ở lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, vậy xin cha nghĩ lại”. Nhưng cha Lạc đã cấm họ đem tiền chuộc, cha nói: “Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì đó đúng là thánh ý Chúa định cho tôi như vậy, anh chị em đừng mất tiền chuộc tôi làm gì. Tôi cũng như Thánh Phêrô, khi phải bắt lần trước được giáo dân cầu nguyện cho và được về, lần thứ hai giáo dân cũng lo liệu cho được thoát khỏi, nhưng ý Chúa đã định cho tôi phải chết vì Người như thánh Phêrô, thì xin anh em đừng chuộc tôi nữa”.

Là con cháu các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta luôn tự hào vì có các vị tiền nhân đã quả cảm để sống niềm tin, nhưng liệu rằng chúng ta hôm nay còn mấy ai dám khước từ những thoả hiệp trần gian để trung kiên với đức tin của cha ông để lại? Vẫn còn đó những con người vì chút bổng lộc trần gian đã bỏ đạo, đã chống đối đạo. Vẫn còn đó những con người vì miếng cơm manh áo, vì tương lai của con cái đã chẳng giữ đạo hay theo đạo một cách hời hợt. Có cũng như không. Vẫn còn đó những con người vì tiền mà bán mình, bán con để kiếm đồng đola bất chính. Họ thà rằng lỗi luật Chúa còn hơn là bỏ lỡ cơ hội lấy tiền, lấy bạc. Họ thà rằng mắt mặt với bà con xóm làng còn hơn là mất túi ba gang mà “quạ đen ban tặng”. Vẫn còn đó những con người bỏ Chúa chứ không bỏ tiền, bỏ Chúa chứ không bỏ tình, bỏ giáo hội chứ không bỏ danh vọng trần gian.

Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam là cha ông của chúng con, xưa các ngài đã dùng máu đào để bảo vệ đức tin xin gìn giữ chúng con luôn trung kiên theo Chúa, dám khước từ danh lợi thú trần gian để nên chứng nhân cho Nước Trời trong cuộc sống hôm nay.

24. Sống chứng nhân–‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền

“Tin đạo chứ không tin người có đạo”. Câu nói này tôi đã nghe nhiều người nói. Nhưng đáng tiếc không phải là những người ngoại đạo nói mà là những người có đạo nói. Đa số họ là những người đã lâu năm không tới nhà thờ. Họ bỏ xưng tội rước lễ. Họ bỏ đồng đạo. Họ có đạo nhưng không sống đạo. Họ mang danh ky-tô hữu nhưng lại bảo rằng “đạo tại tâm” nên không thể hiện ra bên ngoài dấu chỉ là người ky-tô hữu. Thế nhưng, họ lại biện minh cho hành động chối đạo của mình là vì chê ghét một ai đó trong đạo. Họ không đến nhà thờ vì ông A, ông B đã không tốt với họ. Họ bỏ Chúa vì cha xứ quá khắc khe trong lề luật của Chúa. Họ không còn xưng tội rước lễ vì bà A, bà B vẫn chứng nào tật ấy có tốt hơn họ đâu? Họ đòi người khác phải làm chứng cho họ còn bản thân họ thì lại không chịu làm chứng cho tin mừng. Họ đòi người khác sống tốt còn bản thân họ thì lại nuôi thù oán. Họ đòi người khác phải bác ái yêu thương còn bản thân họ thì cô lập một mình không gắn bó với giáo xứ. Họ chính là những cỏ dại đang làm mất đi vẻ đẹp của cánh đồng lúa Giáo hội Chúa Ky-tô. Họ chính là những người có đạo nhưng không đáng tin vì tính cố chấp, nuôi thù hận mà bỏ Chúa, bỏ anh em.

Các thánh Tử đạo Việt Nam năm xưa đã lãnh nhận cái chết tử đạo nhiều khi cũng bởi chính những con người mang danh ky-tô hữu nhưng đã không còn sống men tin mừng. Họ đã tố giác anh em vì một chút bổng lộc. Họ đã bán đứng anh em vì cố chấp trong tội lỗi. Như trường hợp thánh An-rê Kim Thông, ngài đã bị tố giác bởi chính người cháu tội lỗi, ngang ngược. Ngài đã từng nhắc nhở người cháu sửa đổi nhưng chứng nào tật ấy. Hắn đã không sửa đổi mà còn tố giác ngài để cầu vinh.

Trường hợp Thánh Phaolô Hạnh cũng thế. Ngài là một thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới giang hồ tại chợ Quán. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động nghĩa hiệp này, thánh nhân phải trả giá: họ tố cáo ngài ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hoà ngày 28-5-1859.

Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đang tâm nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng, ngày 5-6-1840, Thánh Luca Loan bị chém đầu.

Điểm chung của các thánh Tử Đạo chính là can đảm đón nhận thập giá Chúa gửi đến mà không oán hận kẻ làm hại mình. Các ngài đã vui nhận hy lễ thập giá vì yêu mến Chúa Ky-tô. Các ngài luôn xác tín rằng: những đau khổ đời này không đáng gì so với vinh quang bất diệt mai sau. Các ngài dầu có chịu khổ hình trong giây lát nhưng được sống lại vinh quang muôn đời. Đó là điều mà thánh Đaminh Hạnh đã xác tín, khi mà quan triều đình nói với ngài: “Xem kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo, được tha về, ông cứ làm như thế tôi sẽ tha cho ông”. Nhưng thánh Đaminh Hạnh bình tĩnh trả lời: “Kẻ trung thành với Chúa, khi chết sẽ được lên thiên đàng”.

Mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam là dịp nhắc nhở chúng ta hãy sống thể hiện niềm tin trung kiên của mình trong mọi tình huống. Đừng vì một chút cỏ dại lấn át mà chán nản bỏ đạo. Đừng vì một chút giận hờn mà thù hận cả niềm tin của mình. Đừng chối đạo vì ghét ai đó hay đánh mất niềm tin vì bên trong Giáo hội vẫn có cỏ lung xen lẫn. Và nhất là đừng bán đứng anh em để cầu vinh.

Ngày nay chúng ta không còn những bạo chúa bách đạo bằng gươm đao súng đạn, nhưng đề sống niềm tin đòi hỏi chúng ta phải chiến thắng chính mình. Không ai bắt chúng ta bỏ đạo nhưng vẫn còn đó những người bỏ đạo vì chức vụ trần gian, vì lười biếng ham chơi, vì đam mê truỵ lạc. Không ai ngăn cản chúng ta thực hành đạo nhưng vẫn còn đó những người luôn nuôi dưỡng hận thù, luôn bất mãn với tha nhân nên đã sống thiếu yêu thương trong lời nói và việc làm. Không ai dụ dỗ chúng ta bỏ đạo nhưng nhiều người đã lao vào những con đường tội lỗi, những quan hệ bất chính nên đã không còn xứng đáng mang danh là ky-tô hữu.

Quả thực, ngày nay không cần những cuộc bắt đạo những vẫn có hàng ngàn người bỏ đạo vì những danh lợi thú trần gian. Ngày nay không ai bắt chúng ta bước qua thập giá nhưng vẫn còn đó nhiều người vì danh lợi thú đã tự tháo bỏ thập giá khỏi bàn thờ gia đình, khỏi cuộc sống của mình. Họ đích thực là loại người mà nhân loại kết án “tin đạo chứ không tin người có đạo”, vì lẽ họ không còn sống niềm tin của mình.

Lạy các thánh Tử đạo Việt Nam, là cha ông chúng con. Xin cho chúng con biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, biết noi gương các ngài để thể hiện niềm tin trung kiên của mình trước những cám dỗ lợi lộc của thế gian. Xin giúp chúng con biết thể hiện niềm tin của mình qua đời sống thánh thiện, bác ái yêu thương. Amen.

25. “Đây Bài Ca Ngàn Trùng”–‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền

Hôm nay lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam. Một bầu khí đại lễ thật hào hùng. Phụng vụ trổi lên lời hoan ca chúc tụng: “Đây bài ca ngàn trùng. Dâng về Thiên Chúa. Bài ca thắm đượm máu hồng. Từng bao người anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu”.

Vâng, cuộc đời các thánh tử đạo là một bài ca dâng về Thiên Chúa. Các ngài ca ngợi Thiên Chúa khi bình an, khi gian nan, khi dòng đời êm trôi và cả khi sóng gió ba đào. Các ngài ca ngợi Chúa trong bổn phận thường ngày, khi đầu hôm sớm mai nơi ruộng vườn, nơi phố xá chợ thị. Các ngài còn ca ngợi Chúa khi đối đầu với sự bách hại vì tin mừng. Các ngài ca ngợi Chúa trong mọi nơi, trong mọi lúc. Đỉnh cao của lời ca ngợi là bài ca vinh thắng thắm đượm máu đào. Các ngài đã chiến thắng gian nan, cùm gông, tù đầy. Các ngài đã vượt lên trên sự sợ hãi của đe doạ đến cả tính mạng để tôn vinh Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Các ngài đã dùng cả cuộc đời để ca ngợi Chúa. Cho dù cuộc sống có nổi trôi, bất định, các ngài vẫn trung kiên tin thờ Thiên Chúa.

Cuộc đời các ngài là một bài ca, thế nên các ngài cũng đáng được ca ngợi. Ca ngợi hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vì chưng các ngài là những người có phúc vì dám sống triệt để trang tin mừng yêu thương của Chúa trong cuộc sống của mình.

Các ngài dám nói lời tha thứ ngay trong những xúc phạm mà người đời đang tuôn đổ lên các ngài.

Các ngài đã có thể nhìn thấy hoa hồng nở rộ ngay trong đau đớn của cực hình.

Các ngài dám đi ngược lại với thế gian, vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người ta.

Nhìn vào cuộc đời các ngài, ta thấy, đó là một cuộc đời thật đẹp. Đẹp trong cuộc sống thường ngày luôn chu toan bổn phận của mình, luôn sống chan hoà tình bác ái với mọi người. Như bà thánh Đê là mẹ của sáu người con. Tất cả những người con, cô Nụ, cô Mận khi làm nhân chứng đều nói rằng: “Mẹ tôi rất đạo đức, luôn dạy con cái ăn ngay ở lành, tối sớm kinh nguyện…”.

Đẹp trong cả những gian nan khi bị người đời ghét bỏ, các ngài vẫn thương yêu, vẫn thứ tha, vẫn ôn hoà để làm chứng cho lời tin mừng yêu thương, đế nỗi mà những người hành quyết các ngài vẫn cảm phục yêu mến đức hạnh các ngài. Như trong vụ án linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quý cụ”.

Đẹp trong cả cái chết luôn một mực nói lời yêu thương. Như trường hợp ông Cai Tả thì yêu thương để xứng với tình Chúa yêu, ông thường châm chước cho những người mắc nợ và nói: “Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình “. Với ông Năm Quỳnh thì bác ái rõ rệt là hoa quả của đức tin, ông từng nói với gia đình: “Bà và các con không đồng ý cho tôi lấy của nhà để giúp người nghèo, tôi sẽ đi vay mượn hoặc làm thuê kiếm tiền giúp đỡ họ “. Vì ông nói: “Tôi chưa thấy ai hay giúp người nghèo khó lại túng bấn bao giờ. Kinh Thánh chẳng dạy chúng ta coi họ như chi thể của Chúa đó sao? Chúa đã cho chúng ta sống, tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng”.

Như vậy, tử đạo không chỉ là đổ máu. Tử đạo là dám chết đi con người ích kỷ của mình, chết đi cho thói đời tham sân si mù quáng. Chết đi những đam mê nhục dục để hèn. Tử đạo là dám sống vì tin mừng mà chịu thua thiệt, chịu mất mát. Tử đạo là yêu cho đến cùng và sống trọn vẹn những đòi hỏi của luật yêu thương.

Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, xin cho chúng ta là con cháu biết noi gương các ngài để tiếp tục là bài ca ca ngợi Thiên Chúa. Ca ngợi Ngài bằng cả cuộc sống thắm đượm tình Chúa tình người. Ca ngợi Ngài mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Nguyện xin các thánh Tử đạo Việt Nam dẫn dắt chúng ta luôn bước đi trong tình yêu Chúa. Amen.

26. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam–Lm. Nguyễn Văn Thuyết

Sự hiện diện của chúng ta trước bàn thờ các thánh tử đạo tại Việt Nam hôm nay nói lên lòng hiếu kính của con cháu đối với tổ tiên, nén hương trầm chúng ta dâng lên biểu lộ lòng hiếu thảo đối với các bậc tiền nhân. Và đây cũng là lúc thuận tiện để chúng ta suy ngắm hình ảnh, đời sống và đức hy sinh của các ngài cho niềm tin.

Trước hết chúng ta thành khẩn cúi đầu tạ ơn Thiên Chúa Cửu Trùng đã ghé mắt đến dân tộc Việt bé nhỏ mà ban cho được ơn đón nhận hạt giống Đức tin.

Chúng ta không quên tri ân các vị thừa sai, mà trong số đó có những vị đã được phong thánh. Họ là ai? Về thân nhân gốc gác? Là những người phương tây, chẳng phải dốt nát hay hám lợi, hay thất nghiệp thất tình để chọn đời truyền giáo mà cái chết đã được tuyên trước và bản án treo lơ lửng trên đầu họ. Một ông tây mắt xanh mũi lõ, ngôn ngữ bất đồng, thủy thổ không hợp, nơi lưu ngụ là một chiếc thuyền gỗ lênh đênh.

Đặc biệt chúng ta nhớ đến các vị tử đao tại Việt Nam. Tại quê hương, cơn bách hại đến sớm, nghĩ tưởng hạt giống đức tin bị chết ngạt dưới những áp bức và giết chóc; nhưng không, những con người Việt tuy bé nhỏ về thân xác, niềm tin còn mới mẻ nhưng đã kịp cắm sâu đức tin đời mình dưới chân thập giá, trái tim đã kịp nóng để đối diện cơn hồng thủy của sự khước từ và loại bỏ. Như vậy, từ các ngài, quê hương chúng ta có thể ví được như một mảnh đất màu mỡ chỉ đợi hạt giống đức tin chạm đến thì vươn vai lớn lên. Minh chứng lòng tin bằng máu tử đạo của các ngài chính là hoa quả sau hơn hai thế kỷ kể từ việc khởi đầu của giáo sĩ I-ni-khu năm 1533.

Thành phần tử đạo ngoài giám mục, linh mục là những người chuyên lo về tôn giáo, còn có các giáo dân như quan trường (T.Hy), quan án (T. Khảm), chính tổng, lý trưởng.

Những cám dỗ sống bình yên đã không thay thế được chọn lựa chịu bắt bớ, gông cùm vì đức tin của các ngài như thánh tử đạo Gioan Đạt, Annê Lê thị Thành…

Những cám dỗ sống trong ân huệ này khác đã không thể thay thế được chọn lựa chịu sống thiếu thốn khi bị giam cầm vì đức tin như thánh tử đạo Garelin Kính khi gửi thư về nhà người viết: những thiếu thốn, những cực nhọc đủ thứ đến với chúng tôi, nhưng tôi dám khẳng định rằng: tôi được hạnh phúc trong túp lều tranh của tôi hơn vua nước Pháp trong hoàng cung của ngài; hay như thánh chủng sinh Tôma Trần văn Thiện được hứa tặng cho cả cô gái con quan huyện….

Những cám dỗ sống tự do không thể thay thế được chọn lựa chịu giam trong ngục thất vì đức tin như thánh Cuenot Thể viết: dù chỉ còn một giáo sĩ chẳng làm được gì ngoài việc đọc kinh thần vụ, thì nguyên sự hiện diện của vị đó cũng đủ nâng đỡ niềm tin và sinh hoạt cho các tín hữu rồi…

Và cám dỗ sự sống đời này không thể thay thế được chọn lựa chết vì niềm tin như thánh Hồ Đình Hy: Tôi cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Ky Tô; hay như thầy giảng Nguyễn Cầm, khi được nói nhắm mắt bước đại qua Thập giá thầy đáp: “thưa quan, mắt thì nhắm được chứ lòng và trí khôn không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm”.

Vậy đó, mỗi cuộc đời tử đạo là một cuộc tự hiến. Cuộc đời các chứng nhân đức tin chịu đốt cháy trong lao khổ, trong nhục hình, và cả cái chết đều như một hiến tế dâng lên Thiên Chúa, sẽ trở nên hạt giống trổ sinh các Kytô hữu cho ngàn muôn thế hệ. Hơn nữa, việc chọn chết đi cho đức tin của các vị tử đạo không phải là khơi lên máu nóng tìm đến cái chết vì cái chết nguyên nó chẳng có giá trị gì hết, chính sự sống mới làm nên muôn điều huyền diệu. Vì thế khi chọn lựa mãnh liệt và dứt khoát trong mầu nhiệm tự hủy và hiến tế chính là các ngài chọn lựa sự sống muôn đời bất diệt.

Hạt giống đức tin mà ngày nào các vị tử đạo chịu chôn vùi trong lòng đất quê hương, thì ngày nay chính chúng ta cũng đang được mời gọi chăm bón và vun tưới trong một cơn bão miên trường, ngày một khốc liệt. Có khác chăng là được khoác bằng những chiếc áo hình thức khác nhau mà thôi.

Ngày hôm nay, không gì có thể ngăn trở chúng ta hiến tế. Các thánh tử đạo tại Việt Nam được hồng phúc hiến tế sự sống một lần làm hy lễ. Còn chúng ta cứ phải hiến tế đời mình mỗi ngày và mọi ngày khi chúng ta sống đời nhân chứng đức tin. Khi mà chúng ta thiêu hủy đời mình như ngọn nến; đốt hết những nhát đảm, những yếu đuối, những toan tính thiệt hơn và những khô cằn nội tâm. Can đảm làm chứng cho chân lý và Tin Mừng.

Chúng ta nguyện xin các thánh tử đạo tại Việt Nam nguyện cầu cùng Chúa cho quê hương và con người Việt Nam để dòng máu các ngài đã đổ xuống, đã tưới gội, đã kiến tạo và đã đặt nền móng cho tòa nhà Giáo Hội tại quê hương tiếp tục lớn lên, trổ sinh ngàn vạn hoa trái mới để ánh sang đức tin sẽ là bình minh, một bình minh chiếu rọi rạng ngời trên đất Việt cho đến thời viên mãn, ngày chúng ta đoàn tụ với cha anh chúng ta trên cõi bất diệt.

27. Phải tôn kính Các Thánh Tử Đạo thế nào?–Lm Ignatio Nguyễn Ngọc Rao

Hôm nay chúng ta hân hoan mừng đại lễ Các Thánh tử đạo Việt Nam. Giáo Hội chúng ta hãnh diện vì có các thánh, nhưng lễ này cũng là một dịp để chúng ta tự hỏi: chúng ta đã tôn sùng các thánh đúng mức chưa?

1. Chúng ta hãnh diện vì có các thánh

Người Việt Nam hãnh diện về các anh hùng dân tộc. Giáo Hội Việt Nam chúng ta cũng có đủ lý do để hãnh diện với Giáo Hội toàn cầu, vì tuy đức tin mới có mặt trên đất nước này được 500 năm (so với 2000 năm lịch sử Giáo Hội thì không có là bao), nhưng chúng ta đã đóng góp cho Giáo Hội được 117 vị thánh, một con số khá cao sánh với các giáo Hội kỳ cựu hơn. Nhưng chúng ta không phải chỉ có 117 vị đã được phong thánh, mà còn có hàng ngàn, hàng vạn tín hữu Việt Nam khác đã anh dũng hy sinh mạng sống vì đức tin, người thì bị chém đầu, bị phân thây, bị thắt cổ, bị voi giày, người thì bị thiêu sống, bị chết trong tù hay trong nơi đày ải chỗ rừng thiêng nước độc. Hiện nay chúng ta chỉ còn biết tên tuổi của chừng mấy ngàn vị có hồ sơ phong thánh tại Rôma. Nhưng tổng số là bao nhiêu, không ai biết. Có người đã ước lượng con số khoảng 100.000 người tín hữu Việt Nam đã chết vì đức tin.

Dù sao chúng ta có thể hãnh diện vì là con cháu các vị tử đạo, vì dòng máu anh hùng của các ngài vẫn chảy trong mạch máu chúng ta. Chúng ta vui mừng vì các ngài đã chấp nhận nên như hạt lúa phải mục nát đi, để trổ sinh mùa màng tươi tốt mà chúng ta đang đuợc hưởng. Vâng, chính nhờ công đức các ngài mà chúng ta có ngày nay.

2. Chúng ta đã tôn sùng các thánh đúng mức chưa?

Hãnh diện về các vị tử đạo, nhưng chúng ta phải tự hỏi: chúng ta đã tôn sùng các vị cho đúng mức chưa? Hay chúng ta chỉ phấn khởi về việc phong thánh, rồi để đấy? Chúng ta chỉ mừng lễ Các Thánh Tử đạo một năm một lần, rồi chẳng nói gì đến nữa?

Muốn tôn sùng Các Thánh Tử Dạo Viêt Nam cho xứng đáng, chúng ta phải:

* học hỏi về các ngài;

* năng cầu nguyện với các ngài;

* nhất là noi gương các ngài.

a) Học hỏi về các ngài:

Các cụ ta xưa có câu: “Vô tri bất mộ”, không biết thì không mộ mến, muốn mộ mến thì phải biết đã. Ngày nay có lẽ chỉ có giáo dân ở những nơi là quê hương các thánh hoặc còn giữ hài cốt các ngài mới còn biết tên tuổi các thánh. Còn thì đại đa số những người khác hỏi rằng có thể kể ra tên được mấy vị? Mà có lẽ hầu hết chúng ta cũng không biết được đích xác những thánh tử đạo nào đã sinh ra, đã sống, đã làm việc hay đã chết trong giáo phận nhà. Thật là điều đáng tiếc!

Vì thế chúng ta cần phải học hỏi thêm về đời sống và cái chết anh dũng của các thánh tử đạo, nhất là của những vị gần với chúng ta hơn. Rồi chúng còn phải dạy cho con cháu biết nữa. Như vậy chúng ta sẽ mộ mến các ngài hơn, đồng thời sẽ lấy làm hạnh phúc vì được sống trên quê hương các thánh.

b) Cầu nguyện với các ngài:

Giáo Hội dạy rằng: các thánh ở trên trời hằng cầu thay nguyện giúp chúng ta trước toà Chúa. Chúng ta hay cầu xin thánh Antôn, thánh Vincentê, thánh Martinô v.v…. nhưng chúng ta có nhớ cầu xin các thánh tử đạo của chúng ta không? Các ngài đẹp lòng Chúa, ở gần Chúa hơn, nên có thể nói là có thần thế trước mặt Chúa. Các ngài lại là đồng bào, đồng hương, thậm chí là bậc cha ông chúng ta, lẽ nào các ngài bỏ rơi chúng ta? chắc chắn các ngài sẵn sàng cầu cùng Chúa cho chúng ta.

Vì thế chúng ta nên nhớ đến Các thánh Tử Đạo Việt Nam và cầu nguyện với các ngài mỗi ngày. Nhất là khi gặp gian nan thử thách, chúng ta hảy chạy đến với các ngài, thì Chúa sẽ vì các ngài mà ban cho chúng ta được can đảm thắng vượt thử thách, được bền lòng giữ đức tin và sốn đức tin cho đến cùng.

c) Noi gương các thánh:

Sau cùng, lòng sùng kính các vị tử đạo phải thúc đẩy chúng ta noi gương các ngài. Các vị tử đạo ngày xưa, có một số là giám mục. Linh mục. Tu sĩ, thầy giảng, còn phần lớn là giáo dân bình thường, cũng có gia đình như ai khác. Các vị là thầy đồ, thầy lang, làm quan, làm lính, làm thợ, làm nội trợ, làm nghề buôn bán. Nghề nông v.v…

Mức hiểu biết về đạo chắc cũng không được sâu lắm, vì thời đó các linh mục phải trốn tránh, ít khi gặp, còn sách đạo cũng thiếu thốn, lại viết bằng chữ hán chữ nôm, ít người đọc được. Nhưng các vị có lòng thành, hiểu được bao nhiêu thì cố gằng thực hành hết điều mình hiểu. Cậy vào ơn Chúa giúp, các ngài đã chấp nhận môi thiệt thòi để trung thành với Chúa. Các ngài đã đặt Chúa lên trên tất cả, trên của cải, gia đình, danh giá, hạnh phúc trần gian, trên cả tự do và chính mạng sống nữa.

Đó là gương sáng các ngài để lại cho chúng ta. Chúng ta có noi theo thì mới xứng đáng là con cháu các ngài. Hay là chúng ta còn ngại vất vả, hy sinh vì Chúa, còn để cho cái gì khác (như của cải, danh giá, thú vui) lôi cuốn, mà sẵn sàng bỏ Chúa?

Hôm nay, khi mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã ban ơn cho các ngài được can đảm đến cùng, chúng ta hãnh diện vì là con cháu các ngài, và ý thức rằng, muốn sùng kính các ngài cho xứng đáng và thiết thực, chúng ta còn phải tìm hiểu thêm về các ngài để dạy cho con cháu biết, phải năng cầu nguyện với các ngài và nhất là phải ra sức noi gương các ngài mà chu toàn các bổn phận và trung thành với Chúa trọn đời.

Giờ đây chúng ta tiếp tục cử hành thánh lễ. Cùng với Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu, chúng ta cũng dâng lên Chúa Cha máu các thánh tử đạo đã đổ ra, hoà với những mồ hôi, nước mắt của chúng ta, và xin Chúa Cha chấp nhận tất cả làm của lễ đẹp lòng Người.

28. Anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì?–Lm. Trầm Phúc

Từ khi vị tử đạo thần linh bị treo trên thập giá, từ khi tình yêu của Thiên Chúa được bày tỏ nơi con người Giêsu bị treo giữa trời và đất, trong một nỗi thống khổ vô cùng không thể tả xiết, từ hơn 20 thế kỷ nay, khắp nơi trên thế giới vẫn còn những người dám chết vì yêu người tử tội thần linh đó. Chúng ta gọi là các thánh tử đạo.

Hôm nay, chúng ta họp mừng các Thánh Tử Đạo Việt Nam, là dịp để ngợi khen và cảm tạ Chúa cùng với các Ngài, vì Chúa đã cho các Ngài vinh dự tuyệt đỉnh trong Nước Chúa.

Cảm tạ Chúa vì niềm tin Chúa thương ban cho chúng ta.

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam không khác gì các vị tử đạo khắp nơi trên thế giới, vì tất cả đều có một mẫu số chung: Tình Yêu. Các Ngài đã yêu mến Chúa đến tận cùng, như Chúa Giêsu đã nói: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng dám chết cho bạn hữu”.

Vì yêu thương mà các ngài đã chấp nhận tù đày, khổ hình và cái chết…

Đối với những người không có niềm tin, cái chết của các Ngài là điên rồ hay cuồng tín… nhưng đối với chúng ta là một hồng ân.

Trước mặt thế gian, cuộc tử nạn của Chúa Giêsu là một thất bại khủng khiếp nhưng lại là một của lễ cho Thiên Chúa, của lễ của tình yêu dâng hiến. Thất bại trước mắt thế gian, nhưng là chiến thắng vẻ vang vì Ngài đã triệt hạ được một đối thủ không ai thắng được: đó là sự chết.

Chúa Giêsu đã sống lại. Sự phục sinh của Ngài mở một con đường mới cho con người. Con người không còn là miếng mồi ngon cho tử thần nữa mà là kẻ chiến thắng. Ngài trở nên nguồn hy vọng không tàn phai cho tất cả những ai là nạn nhân của tội lỗi, bất công, hận thù, vũ lực…

Vì Chúa Giêsu không bị treo mãi trên thập giá. Ngài đã sống lại vinh hiển.

Ai có thể lượng giá sự phục sinh của Ngài?

Ngài đã sống lại, Ngài mang lại cho những kẻ tin một nguồn sống mới. Từ nay, những cuộc bách hại, gông cùm, xiềng xích, tra tấn dã man…, tuy vẫn là một sư đau khổ cho thân xác, không còn nặng nề nữa nhưng lại trở nên nhẹ nhàng, vì cuộc sống hôm nay đã được hiến dâng cùng với Đấng đã “thương tôi và đã nộp mình vì tôi”. Khi được hiến dâng, cái chết trở nên nhẹ nhàng thanh thoát.

Sức mạnh của Kitô giáo là đó, là tình yêu không tính toán, là tình yêu được biến thành hiến tế.

Giáo hội hôm nay chưa phải là Giáo hội chiến thắng. Những cuộc bách hại dưới mọi hình thức vẫn đang tiếp diễn, công khai hay âm thầm. Những nạn nhân vô tội của hành hạ tra tấn… vẫn tiếp tục vẽ lên khuôn mặt giập nát của Đấng chịu đóng đinh… Giáo hội của thập giá vẫn tiếp tục tồn tại, vẫn tiếp tục chết cho thế gian… tiếp tục làm chứng cho thế gian thấy tình yêu của Thiên Chúa không tàn phai trước bạo lực. Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa Tình Yêu trước hận thù độc ác.

Tiếng kêu: “Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào thập giá” xé rách màn tai chúng ta… là tiếng hét đầy hận thù của thế gian, muốn tiêu diệt sự sống, công bằng và tình yêu… Nhưng thế gian có oán ghét hận thù đến đâu, cũng không thể dập tắt ngọn lửa tình yêu trong tim Ngài. Ngọn lửa đó vẫn còn cháy sáng trong tâm hồn những kẻ theo Ngài, và vẫn còn mãi, những người dám chết cho tình yêu. Chứng nhân anh dũng của Tình yêu Thiên Chúa.

Hơn 20 thế kỷ sau Thứ Sáu Tuần Thánh, vẫn còn biết bao nhiêu người bị đóng đinh, nạn nhân của bất công, hận thù…

Chúng ta sẽ làm được gì?

Các thánh tử đạo đã đổ máu, minh chứng cho tình yêu, là tiếng gọi mãnh liệt mời chúng ta bước vào cuộc tử đạo của chúng ta trong đời thường.

Tử đạo bằng máu đòi hỏi một nghị lực phi thường, tập trung cao độ, tối đa; tử đạo hằng ngày của chúng ta đòi hỏi một sự trung thành, kiên trì trong mọi giây phút. “Vì không ai sống cho chính mình cũng không ai chết cho chính mình. Sống là sống cho Thiên Chúa, và chết là chết cho Thiên Chúa.” Chết cho Thiên Chúa là gì nếu không phải là “tử đạo”?

Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, là một vị tử đạo anh hùng trong bốn bức tường tu viện, anh hùng trong từng giây phút, anh hùng trong bác ái không thối thoát… Chúng ta cũng tử đạo trong gia đình, trong nghề nghiệp, trong công việc của chúng ta…

Tử đạo hôm nay, không phải là chịu gông cùm xiềng xích, mà là nỗ lực hết mình để cứu thế giới khỏi nền văn minh của sự chết, của ích kỷ, dã man…

Tử đạo hôm nay là chết dần chết mòn cho công lý hòa bình…

Tử đạo hôm nay là dấn thân phục vụ tất cả những nạn nhân của bất công, tàn ác… là yêu thương đến cùng.

Tử đạo hôm nay là quan tâm đến những người cùng sống với chúng ta, đến những người quanh ta, tạo nên một hòa khí êm đềm cho anh em chúng ta.

Giờ phút này là giờ phút linh thiêng cao cả, khi chúng ta cùng với Vị Tử Đạo Thần Linh của chúng ta dâng hiến lên Cha trên trời, của lễ là cuộc sống hôm nay để cùng với Ngài trở thành hiến tế và trở nên những con người xây dựng một trần gian tươi sáng hơn với tất cả con tim.

29. Làm chứng–Lc 9,23-29

Lâm nguy mới rõ tôi trung, vào sinh ra tử anh hùng ghi tên. Đó là lòng dũng cảm của hơn một trăm ngàn nhân chứng đức tin mà Giáo Hội Việt Nam mừng kính ngày hôm nay. Từ ngày đạo Chúa được rao giảng, lúc nào cũng có những tấm gương anh dũng như vậy. Trong Cựu Ước, cụ già Eleazarô và bảy mẹ con Machbêo đã chết để làm vinh danh Chúa. Trong Tân Ước, khởi đầu bằng cuộc tàn sát các trẻ thơ vùng Belem, rồi đến việc chém đầu Gioan Tiền hô, tiếp đến là cuộc tử nạn của Chúa. Rồi từ Chúa, qua các tông đồ và mãi mãi về sau, ở mọi nơi và trong mọi lúc đều có những cuộc bách hại và cũng đều có những tấm gương anh dũng và bất khuất, mà hơn 100.000 các bậc tử đạo Việt Nam ngày hôm nay là một bằng chứng cụ thể.

Vậy các thánh tử đạo Việt Nam là những ai? Các ngài là những người như chúng ta, cũng biết đau khổ, cũng yêu mến sự sống, cũng sợ hãi trước cái chết. Và thực sự các ngài đã chết chỉ vì muốn trung thành với Chúa. Phần xác tuy chết nhưng tinh thần của các ngài vẫn bừng cháy trong dòng thời gian.

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là ai? Các ngài là những Giám mục như Đức Cha Vinh, Đức cha Xuyên. Các ngài là những linh mục như cha Tịnh, cha Hưởng. Các ngài là những tu sĩ như thầy Khang, chú Bột. Các ngài là những viên chức phần đời như ông án Khảm, ông lý Mỹ. các ngài là những chức sắc phần đạo như ông trùm Đích, các ngài là những quân nhân như binh Thể, binh Huy, binh Đạt. Các ngài là những phụ nữ như bà Thành mà chúng ta quen gọi là thánh Đê. Các ngài đã ra đi với sự tự do tuyệt đối, với nụ cười tha thứ và với niềm tin kiên vững.

Trong suốt thời gian bị giam giữ, bị tra tấn và bị hành quyết, các ngài đã tỏ ra thái độ mến Chúa và yêu người ở một mức độ cao, khiến cho bọn lý hình cũng phải cảm phục và suy tư. Cha Triệu bị giam trong tù, ngài rất băn khoăn khi nghĩ đến mẹ già. Ngài xin được phép về quê thăm mẹ, và chú lính đi theo đã hỏi: Ngài yêu mẹ như thế, sao không chối đạo để về nuôi mẹ. Ngài trả lời: tôi yêu mẹ tôi lắm. Nhưng trên mẹ tôi còn có Thiên Chúa. Hôm nay gặp được mẹ tôi trước ngày ra đi chịu chết, tôi thấy đã giữ trọn giới luật của Chúa. Tại pháp trường Bảy Mẫu tỉnh Nam định, bọn lý hình được lệnh xử lăng trì Đức cha Tuyên, chúng chặt tay chặt chân rồi đút một miếng thịt vào miệng ngài, Đức cha ngạc nhiên và nói: Tôi không ngờ người Việt Nam mà lại có thể độ như thế hay sao? Lời nói này làm cho một người trong bọn lý hình cảm động và trở lại. Vậy đâu là nguyên nhân đem lại cho các ngài sức mạnh và tình thương như thế?

Tôi xin thưa đó là chính Thiên Chúa. Thực vậy Đức Kitô đã nói với chúng ta: Các con đừng sợ những người có quyền giết xác nhưng hãy sợ Đấng có quyền giết cả xác lẫn hồn. Chúa dạy và Chúa ban cho những ai vâng giữ lời Ngài. Bởi thế từ Eleazarô, bảy mẹ con Macbêo cho đến Gioan Tẩy Giả và mãi mãi về sau, đều có một sức mạnh và một tình thương như thế. Các ngài tin rằng khi chịu cực hình, thì không chịu lẻ loi một mình, mà còn có Chúa ở bên cạnh. Bởi thế thánh Phaolô đã nói: Tôi không có gì để khoe khoang ngoài sự yếu đuối, nhưng tôi lại có thể làm được mọi sự trong Đấng nâng đỡ tôi. Nhân ngày mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy suy nghĩ như thế, hãy tin tưởng như thế, hãy cầu xin như thế, để khi gian nguy xảy đến, chúng ta sẽ có đủ sức mạnh và tình thương để làm chứng cho Chúa.

30. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, Giáo Hội luôn duy trì một thủ tục khắt khe để phong thánh hầu tránh đi mọi lạm dụng có thể xảy ra. Khởi đầu thì bất cứ người giáo dân nào cũng có quyền làm đơn xin Giáo Hội xúc tiến thủ tục điều tra để phong thánh cho một hay nhiều Kitô hữu. Đó là những người công giáo đã qua đời, mà còn để lại những mẫu gương thánh thiện cao độ, nhất là khi họ chết vì đạo với những bằng chứng rõ rệt vì đức tin.

Tất cả 117 vị tử đạo Việt Nam mà chúng ta mừng kính hôm nay đều có đủ bằng chứng đích thực về cái chết anh hùng đó. Qua thủ tục điều tra từ hơn một thế kỷ nay, các vị ấy đã lần lượt được Giáo Hội nhìn nhận là Đấng đáng kính, vì đã nêu gương thánh thiện cho các Kitô hữu. Tiếp đến là nâng lên hàng Chân phước, tức là các vị ấy được nhìn nhận là đang được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa. Tuy việc tôn kính còn giới hạn chưa phổ quát khắp nơi trên thế giới. Cuối cùng là được phong lên bậc thánh nhân, tức là được tôn vinh hiển thánh với lễ kính có thể được cử hành ở khắp mọi nơi.

Nhìn vào con số 117 vị tử đạo Việt Nam, chúng ta nhận thấy các ngài là những bậc cha ông của chúng ta, trong đó gồm đủ mọi thành phần: 8 giám mục, 50 linh mục, 16 thầy giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân.

Ngoài các giám mục và các linh mục là những người lo đáp ứng những nhu cầu thiêng liêng, chúng ta thấy các ngài thuộc đủ mọi giai cấp xã hội. Thánh Hồ Đình Hy là quan thái bộc, đặc trách ngành dệt tơ lụa vải vóc trong cả nước. Thánh Phạm Trọng Khảm là quan án. Thánh Vinhsơn Tường làm chánh tổng. Thánh Nguyễn Huy Mỹ làm lý trưởng. Các thánh Đạt, Huy, Thể là quân nhân. Có người làm thầy thuốc, làm nhà buôn, làm thợ mộc, thợ may, có người làm ngư phủ hay nông dân.

Mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy chiêm ngưỡng những mẫu gương thánh thiện các ngài để lại. Nhưng chiêm ngưỡng mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải cố gắng noi theo và bắt chước, vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.

Là những thanh thiếu niên, chúng ta hãy chiêm ngưỡng và bắt chước một chàng trai tuấn tú 18 tuổi đã trả lời quan toà: Tôi chỉ mong chức quyền trên trời chứ không màng danh vọng trần thế. Chàng trai tuấn tú ấy là thánh Tôma Thiện.

Là những người đang sống trong bậc vợ chồng, chúng ta hãy khắc ghi lời bà lý Mỹ: Gia đình tôi luôn sống trong hoà thuật và yêu thương, nhà tôi chuyên chăm đạo đức, tham dự thánh lễ hằng ngày. Nếu vợ con hay người giúp việc vì bận rộn không đi lễ được, ông bắt phải đọc kinh chung và nghe sách thiêng liêng để suy niệm. Ông xưng tội nhiều lần trong năm. Ông không đánh bạc, không uống rượu hay to tiếng với ai bao giờ. Bà lý Mỹ đã nói như vậy về chồng bà là thánh Nguyễn Huy Mỹ.

Cụ Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười khi họ yêu cầu cụ đọc kinh, thì cụ lớn tiếng: Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các quan trị nước cho yên, càng ngày càng thịnh. Tại pháp trường, khi chịu xử tử, thánh Lê Văn Phụng còn nhắn nhủ người con trai của mình: Con ơi, hãy tha thứ, đừng báo thù kẻ tố giác ba nhé. Là con cháu của các bậc anh hùng tử đạo chúng ta đã làm được những gì để tuyên xưng đức tin của mình?

31. Các thánh Tử Đạo Việt Nam

Mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta cũng kỷ niệm việc thiết lập hàng giáo phẩm đến nay được 50 năm. Vì thế trong một vài phút ngắn ngủi này chúng ta cùng ôn lại đôi dòng lịch sử.

Kể từ khi cha Buzomi, vị thừa sai đầu tiên đặt chân lên đất nước này vào năm 1615, cho tới khi hàng giáo phẩm được thiết lập vào năm 1960, thời gian kéo dài là ba thế kỷ rưỡi. Trong khoảng thời gian này, những thành phần nhân sự dần dần được thiết lập để xây dựng cho Giáo Hội Việt Nam.

Trước hết là cha Đắc Lộ đã khai sinh ra hồi Thày giảng năm 1650. Chín năm sau, tức là năm 1659, Tòa Thánh thiết lập hai Giáo phận Đàng Trong và Đàng Ngoài, đặt dưới quyền quản trị của hai vị Tân Giám mục là Lambert de la Motte và Francois Pallu, thuộc hồi thừa sai hải ngoại Paris. Chính Đức cha Lambert de la Motte trong ba năm, từ năm 1668-1670 đã truyền chức linh mục cho chín người Việt Nam đầu tiên xuất thân từ hội Thày giảng.

Chín linh mục này làm nên hàng giáo sĩ Việt Nam đầu tiên. Từ việc phong chức linh mục đầu tiên này tới cuộc tấn phong Giám mục cho Đức cha Nguyễn Bá Tòng năm 1933, thời gian kéo dài gần hai thế kỷ rưỡi. Rồi từ khi có giám mục Việt Nam cho tới khi hàng giáo phẩm được thiết lập, thời gian chỉ có 37 năm. Về nhân sự của Giáo Hội địa phương, kế tiếp việc thiết lập hàng giáo sĩ Việt Nam là việc thiết lập dòng nữ Mến Thánh Giá tại Kiên Lao (Nam Định) và Bãi Vàng (Hà Nam) do Đức cha Lambert de la Motte, vào năm 1670.

Cũng trong khoảng thời gian ấy, trải dài hơn ba thế kỷ, Giáo Hội Việt Nam đã gặp phải những cuộc bách hại và cấm cách đẫm máu, khiến cho hàng vạn người đã bị mất mát tài sản, hàng ngàn người đã ngã gục ngoài pháp trường, trong đó có 117 vị đã được tôn lên hàng hiển thánh, gồm tám giám mục, năm mươi linh mục và 59 giáo dân. Chính các ngài đã trở thành những hạt giống đức tin, đem lại cho Giáo Hội Việt Nam một vụ mùa bội thu.

Mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cũng như kỷ niệm ngày thành lập hàng giáo phẩm, mỗi người chúng ta hãy hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống xem chúng ta đã thực sự thuộc về Đức Kitô hay chưa? Bởi vì tinh thần của Chúa và tinh thần của thế gian là hai cái gì đối kháng, cho nên chúng ta không được phép bắt cá hai tay, hay lửng lơ con cá vàng, như lời Chúa đã nói: không nóng không lạnh, chỉ dở dở ương ương thì Ta sẽ mửa mi ra.

Hơn nữa, Chúa cũng đòi chúng ta phải dứt khoát lập trường và dành cho Ngài địa vị số một trong cuộc đời chúng ta, vì ai đã cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau thì không xứng đáng với Nước Trời. Tuy nhiên chọn lựa Chúa mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải thể hiện sự lựa chọn ấy trong cuộc sống thường ngày bằng cách thực thi những điều Ngài truyền dạy. Bởi vì có thực thi những điều Ngài truyền dạy, chúng ta mới thực sự trở nên là những môn đệ và chứng nhân của Ngài. Mỗi hy sinh chúng ta chấp nhận để chu toàn Lời Chúa, sẽ là một giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra từng giây từng phút để làm chứng cho Chúa.

32. Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng – Mt 10,17-22–‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

Qua những lời Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về những bách hại gặp phải và thái độ phải có khi đối diện với những bách hại này. “Đừng lo sợ phải nói gì và nói thế nào, vì Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho biết phải nói gì”. Sự bách hại là số phận không thể tránh được của người đồ đệ, bởi vì nếp sống và sứ điệp của người đồ đệ của Chúa phơi bày những tật xấu của thế gian.

Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan viết rõ ra lý do của sự thù nghịch giữa thế gian và người đồ đệ như sau:

“Nếu thế gian ghét các con, các con nên nhận biết rằng thế gian đã ghét Thầy trước các con. Nếu các con thuộc về thế gian thì thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó, nhưng vì các con không thuộc về thế gian và vì Thầy đã chọn các con và tách các con ra khỏi thế gian, nên thế gian ghét các con. Các con hãy nhớ lời Thầy dạy bảo: “Tôi tớ không trọng hơn chủ”. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, chắc chắn họ sẽ bắt bớ các con”.

Người đồ đệ được đồng hóa với Chúa Giêsu và chia sẻ số phận của Ngài, nhưng người đồ đệ cảm thấy mình như là yếu đuối, không sức mạnh để tự mình chống lại những bách hại. Sự yếu hèn của môn đệ là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì biết mình yếu đuối, người đồ đệ hết lòng tin tưởng vào Chúa, sống gắn bó với Người.

Phúc Âm theo thánh Mátthêu đã được viết ra sau cuộc bách hại đầu tiên mà cộng đoàn Giáo Hội đầu tiên đã trải qua, như cuộc bách hại và tử đạo của thầy Stephano tại Giêrusalem. Các tông đồ cũng đã từng bị tù rồi chịu chết vì đạo. Phản ứng tự nhiên của con người trước những khó khăn, những bách hại là lo sợ. Và Chúa Giêsu tiếp tục khuyên các tông đồ hãy can đảm làm chứng cho Ngài. Người đồ đệ của Chúa cần sẵn sàng cho mọi nghịch cảnh xảy ra.

Trong đoạn Phúc Âm chúng ta đọc trên đây, chúng ta có thể ghi nhận là Chúa Giêsu đã kêu gọi “đừng sợ” đến ba lần:

– “Các con đừng sợ những kẻ vu oan vì không có gì ẩn khuất mà không bị lộ, vì sự thật luôn là sự thật”.

Trung thành với sự thật đôi khi làm ta phải trả một giá rất đắt và có khi phải trả cả bằng chính mạng sống mình.

– Lần thứ hai Chúa Giêsu nhắc: “Các con đừng sợ và đừng sợ những kẻ có thể làm hại thân xác, làm thiệt thòi cho phần vật chất, nhưng không thể nào giết được linh hồn”.

Lý do sâu xa của lòng can đảm Phúc Âm mà Chúa muốn cho các đồ đệ là quan niệm đích thực về con người, bao gồm thể xác và linh hồn. Thể xác, vật chất có thể bị thiệt thòi, nhưng linh hồn, tinh thần của con người sẽ không hề hấn gì nếu người đó vững lòng tin tưởng vào Chúa.

– Lần thứ ba Chúa Giêsu nhắc: “Các con đừng sợ vì lý do các con quí trọng hơn chim sẻ nhiều. Thiên Chúa quan phòng chăm sóc mọi sự, Ngài chăm lo cho chim sẻ ngoài đồng thì huống hồ là con người cao trọng hơn mà không được Thiên Chúa chăm sóc cho hay sao”.

Đó là ba lý do để đừng lo sợ và hãy tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc, người đồ đệ sẽ nhất quyết dấn thân nhiều hơn, dấn thân làm chứng cho Chúa.

“Ai nhìn nhận Thầy trước mặt mọi người, thì Thầy cũng nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Thầy ở trên trời”. Đó là những lời dạy của Chúa Giêsu cho những đồ đệ đầu tiên ngày xưa, những vẫn luôn còn giá trị cho những đồ đệ của Chúa ngày hôm nay. Đừng sợ gian nan thử thách để theo Chúa, đó là sự can đảm của người Kitô qua mọi thời đại.

Lạy Chúa,

Xin giúp con mở rộng mọi cửa nẻo tâm hồn để đón nhận Chúa đến sống với chúng con, để ban sức mạnh cho chúng con. Xin vì công nghiệp các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con được trở thành những chứng nhân trung thành của Chúa trong mọi hoàn cảnh.

33. Tử Đạo

Trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã tiên báo cho các môn đệ:

– Người ta sẽ ghét bỏ các con, sẽ bắt bớ và xua đuổi các con ra khỏi nhà hội. Sẽ đánh đập và nhốt các con vào ngục tù, và sau cùng họ giết các con vì môn đệ không trọng hơn thày.

Lời tiên báo của Chúa Giêsu đã được thực hiện, trải qua dòng thời gian, hằng triệu các tín hữu đã đi vào dấu chân của các tông đồ, chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng Phúc âm.

Có thể nói được rằng Kitô giáo đã lớn lên trong máu và nước mắt. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, Giáo Hội đều gặp phải những bắt bớ và cấm cách, từ những thế kỷ đầu khi Giáo Hội còn phôi thai, cho đến tận ngày hôm nay khi Giáo Hội đã có mặt ở tận cùng bờ cõi trái đất.

Nào là những cuộc bách hại đẫm máu ở Đại Hàn, Nhật Bản, Phi Châu và ngay cả trên đất nước Việt Nam thân yêu, suốt ba thế kỷ, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, biết bao nhiêu bắt bớ cũng đã xảy ra. Thực vậy, Tin mừng được chính thức loan truyền trên quê hương Việt Nam vào thời Hậu Lê thuộc thế kỷ 16. Thế nhưng, ngày từ lúc còn phôi thai Giáo Hội Việt Nam đã gặp phải những cấm cách đúng như lời Chúa đã phán: Nếu họ đã bắt bớ Thày, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con. Cuộc bách hại khởi đầu từ thời Hậu Lê, qua nhà Tây sơn, rồi tới triều Nguyễn và đặc biệt trở nên gắt gao dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Suốt ba trăm năm, biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ làng mạc thân yêu trốn chạy vào những nơi rừng thiêng nước độc, cốt bảo toàn đức tin của mình. Hơn 130 ngàn người đã ngã gục dưới những cực hình dã man, để trờ thành những chứng nhân bất khuất cho Đức Kitô. Trong đó 117 vị đã vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh, gồn 8 giám mục, 50 linh mục, 16 thày giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân.

Thế gian thù ghét Chúa Giêsu và Giáo Hội, Sự thù ghét ấy vẫn còn đó, cho dù con người hôm nay đã bước vào thời đại văn minh và tiến bộ. Thực vậy, Ngày hôm nay trên thế giới vẫn còn có biết bao nhiêu Giám mục, Linh mục và giáo dân bị tù tội, bị áp bức chỉ vì một lý do duy nhất đó là đã tin theo Đức Kitô.

Thế nhưng như người ta vẫn thường bảo:

– Cái đe làm cho chiếc búa bị hỏng.

Thế gian nhục mạ, bắt bớ Giáo Hội và rồi họ đã chết, còn Giáo Hội thì vẫn đứng vững, vẫn giữ được vẻ tươi trẻ và sức sống của mình. Chúng ta thử nhớ lại ảnh hưởng to lớn mà Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã tạo được trên thế giới và cái chết của ngài đã gây ra một sự mất mát đớn đau. Rồi những tình cảm nồng hậu người ta đã dành cho Đức Phaolô VI, cũng như Đức Gioan-Phaolô II trong những chuyến công du.

Từ đó chúng ta nhận thấy gian nguy và thử thách là một cái gì gắn liền với thân phận của Giáo Hội, hay nói cách khác, là một phần của đời sống Giáo Hội, bởi vì không một vị thánh nào mà không bị khổ đau, mà không bị đổ máu.

Thế nhưng chấp nhận cái chết trong phút chốc có thể là một việc dễ dàng. Nhưng từng giây từng phút, từ bỏ những ước muốn riêng tư để làm vui lòng Chúa, chu toàn mọi bổn phận nhỏ bé không tên, tha thứ mọi lỗi lầm, mọi vấp phạm, mọi va chạm, đó có thể là một việc khó, đòi phải có một đức tính kiên nhẫn và một lòng mến chân thành. Việc làm đó không hào quang, không rực rỡ, không một ai biết đến trừ ra chính Thiên Chúa.

Đôi lúc đau khổ và thử thách còn là một phần của đời sống người Kitô hữu: Nào cám dỗ, nào bệnh tật, nào khó khăn, nào chết chóc. Dĩ nhiên chúng ta phải làm việc, để tạo dựng một cuộc sống ấm no hạnh phúc và tiện nghi. Thế nhưng chúng ta phải nhớ rằng: Sống đạo và chạy theo vui thú là hai việc làm không thể đội trời chung với nhau. Bởi vì đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu không ngừng chống lại sự bành trướng của tinh thần thế gian. Hay như lời thánh Phaolô đã nói:

– Những người thuộc về Đức Kitô thì đóng đinh xác thịt mình cùng với mọi đam mê dục vọng vào thập giá.

Chính những đau khổ và thử thách sẽ giúp chúng ta vượt lên trên tinh thần thế tục, thanh tẩy chúng ta và đền bù tội lỗi chúng ta.

Bởi đó đừng nguyền rủa phẫn uất nhưng hãy biết đón nhận vì lòng yêu mến Chúa, để góp phần vào thập giá của Ngài. Trong những giờ phút đen tối, hãy ngước nhìn thập giá và sẽ tìm được niềm an ủi và khích lệ vì chính Chúa cũng đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.

Cuộc đời thì ngắn ngủi, đừng lãng phí và làm cho nó bị hư đi, vì sau cơn mưa trời lại sáng, sau thập giá là vinh quang phục sinh.

34. Làm Chứng

Hôm nay Giáo Hội cho phép chúng ta mừng kính chung toàn thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Đây thực là một ngày giỗ tổ làm cho mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi vui mừng. Chúng ta đều biết từ khi đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước chúng ta cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là từ khoảng năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm, lịch sử Giáo Hội Việt Nam là cả một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tục năm này qua năm khác, không mấy khi ngừng, mà nếu có ngừng thì chỉ tạm ngừng để chuẩn bị tiến sang một giai đoạn chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn.

Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130 ngàn anh hùng tử đạo, và như thế nước Việt Nam chúng ta, tuy nhỏ hẹp và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước nhỏ hẹp nhưng danh tiếng vang lừng quốc tế. Chúng ta đã đóng góp cho gia sản của Giáo Hội một sự nghiệp đức tin to lớn. Tuy nhiên, trong số đó mới chỉ có 117 vị được phong chân phước. Và ngày 19.06.1988, cả 117 vị này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn lên bậc hiển thánh. Các ngài được suy tôn hiển thánh để cho toàn thể thế giới tôn kính và noi gương anh dũng của các ngài. Đồng thời để cho chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, là con cháu các ngài, biết nối gót cha ông, dù sống trong hoàn cảnh nào cũng luôn trung thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin Mừng giữa lòng dân tộc.

Các vị tử đạo cũng là những con người mang thân xác giòn mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng biết ham sống sợ chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định: các ngài là những nhân chứng cho đạo Chúa. Đúng thế, danh từ “Tử Đạo” có nghĩa là kẻ làm chứng, và dùng đau khổ, tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Mỗi vị tử đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng lời nói và mạng sống mình để giảng đạo, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin. Tóm lại, tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Và cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài.

Người ta thường nói: “An quả nhớ kẻ trồng cây” hay “uống nước nhớ nguồn”. Chúng ta là con cháu các vị tử đạo, chúng ta được thừa hưởng một di sản đức tin phong phú, được chiêm ngưỡng một Giáo Hội phát triển tốt đẹp như ngày nay, chúng ta không thể quên đó là kết quả của những dòng máu cha ông đã đổ ra. Bởi vậy, chúng ta phải tưởng niệm đến công lao to lớn của tiền nhân mà đáp đền cho xứng đáng và ra công phát huy di sản quí báu cha ông đã để lại. Nhưng nếu chỉ có những cảm tình hân hoan phấn khởi và biết ơn mà thôi thì chưa đủ, chúng ta còn phải chú ý lắng nghe tiếng gọi tha thiết của dòng máu tử đạo và khám phá ra những bài học cao quí để áp dụng vào đời sống. Vậy máu tử đạo nói gì với chúng ta?

Trước hết, máu tử đạo nói lên niềm tin mãnh liệt, sâu xa và lòng trung thành sắt son của cha ông đối với đạo thánh Chúa. Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào tâm hồn các ngài đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào có thể lay chuyển được. Đối với các vị tử đạo, đức tin là một cái gì cao quí vô cùng, phải bảo vệ bằng mọi giá. Dầu bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ đến giọt máu cuối cùng, các ngài cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin nguyên vẹn.

Đàng khác, được hấp thụ tinh thần nho giáo, các ngài đặt chữ “trung” lên trên hết. Không những trung thành với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất là trung thành với vua chúa trên các vua, chúa trên các chúa, trung thành với quê hương tổ quốc siêu nhiên là Giáo Hội. Đó là tấm gương sán lạn cha ông để lại cho chúng ta.

Thứ hai, máu tử đạo cũng nói lên đức hy sinh can đảm phi thường của tiền nhân. Người ta ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ham sống sợ chết. Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thướng vượt mọi trở lực, dầu khó khăn đến đâu, để duy trì đức tin. Ai kể được những khổ hình dã man các ngài đã phải chịu: kìm kẹp, xiềng xích, voi giày, thiêu sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì, bá đao… Nhưng các ngài can đảm chịu đựng, các ngài đã thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình.

Các vị tử đạo đã chết để nêu cao lòng hiếu trung. Các ngài đã từ bỏ tất cả, nhận lấy cái chết, không chút oán giận những kẻ giết mình. Các ngài đã hy sinh đời sống để theo một tôn giáo, minh chứng cho mọi người biết tôn giáo đó là từ trời ban xuống và đạo Chúa Kitô là đạo thật. Các ngài chết nhưng luôn sống trong ký ức chúng ta. Các ngài là những hạt giống tốt đã được gieo để đem lại hoa trái phong phú cho chúng ta. Chúng ta đang thừa hưởng gia sản của các ngài, chúng ta hãy sống tốt đẹp, xứng đáng với những hy sinh của các ngài.

Chúng ta hãy nhớ rằng: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả. Là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời cụ thể của mình. Nói rõ hơn, cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái yêu thương. Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo chúng ta bằng cách sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.

35. Tử Đạo hay Sống Đạo?

Nếu như anh chị chúng ta là những người giàu có và thành công trên đường đời, hẳn chúng ta sẽ lấy làm hãnh diện. Nếu cha mẹ chúng ta là những người tốt lành và thánh thiện, hẳn chúng ta cũng sẽ rất lấy làm hãnh diện. Cũng thế, hôm nay khi mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta càng phải hãnh diện hơn nữa vì các ngài những bậc cha ông của chúng ta đã lấy mạng sống cùng với những giọt máu đào để làm chứng cho Chúa.

Thực vậy, Giáo Hội Việt Nam đã góp phần vào tiến trình chung của Hội Thánh Công giáo những trang sử hào hùng và dũng cảm.

Bên Âu Châu, thời kỳ đen tốt nhất Giáo Hội đã phải trải qua chính là thời kỳ Giáo Hội còn phôi thai, trải dài từ cuối thế kỷ thứ nhất đến đầu thế kỷ thứ tư, từ triều Nêron đến triều Maximinus. Suốt trong khoảng thời gian này, Giáo Hội đã bị bắt bớ và cấm cách. Biết bao nhiêu người đã chết hay đã ngã gục trên pháp trường. Những người muốn sống sót đều phải chui rúc dưới những hang, được gọi là hang toại đạo., hiện nay vẫn còn tìm thấy tại Roma. Các sử gia đã gọi đó là thời kỳ Giáo Hội sống dưới hầm. Nhưng sau cùng, Giáo Hội đã chiến thắng với biến cố hoàng đế Constantinô trở lại và ngọn cờ thập giá được tung bay trên toàn đế quốc La mã.

Nếu so sánh, chúng ta thấy Giáo Hội Việt Nam cũng có những điểm thật giống với Giáo Hội Rôma. Đó là ngay sau khi hạt giống Tin mừng được gieo vãi trên đất nước này, thì lập tức gông bão đã nổi lên. Từ thời vua Lê chúa Trịnh cho tới những triều đại nhà Nguyễn, trải dài gần ba trăm năm. Trong suốt thời gian này, biết bao nhiêu người đã bị nhà tan cửa nát, phải di tản vào những nơi rừng thiêng nước độc, như các giáo dân vùng La Vang, Quảng Trị. Biết bao nhiêu người đã phải chịu những cực hình khủng khiếp. Trong số đó, có 117 vị đã được nâng lên hàng hiểm thánh. Ai cũng tưởng rằng ngọn lửa Phúc âm sẽ bị dập tắt. Thế nhưng, máu các thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh các tín hữu. Vì thế, Giáo Hội Việt Nam đã lớn lên và trưởng thành trên nền móng vững chắc ấy, xứng đáng được gọi là trưởng nữ của các Giáo Hội tại Á châu.

Tuy nhiên, hãnh diện mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải noi gương bắt chước các ngài, bởi vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Đừng vì một con sâu mà làm rầu nồi canh, đừng vì cuộc sống tội lỗi của chúng ta mà làm nhơ bẩn khuôn mặt Giáo Hội Việt Nam. Hãy sống thế nào để xứng đáng là con cháu của những bậc anh hùng tử đạo.

Hồi còn bé, tôi rất thích đọc hạnh các thánh tử đạo và thầm mong một ngày nào đó, tôi cũng đưa cổ cho lý hình chém một nhát và thế là nghiễm nhiên trở thành thánh tử đạo. Thế nhưng, lớn lên tôi mới nghiệm ra rằng: mơ ước như vậy chỉ là một sự hão huyền, bởi vì không phải thời buổi nào cũng có những cấm cách. Hơn thế nữa, hành động chịu chết vì đạo là một hành động cao cả và tuyệt vời nhất, như lời Chúa Giêsu đã xác quyết:

– Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.

Hành động cao cả và tuyệt vời này phải là kết quả của những tháng ngày sống niềm tin yêu và thấm nhuần đạo đức. Không phải một sớm một chiều mà một thằng quỷ có thể trở nên một vị thánh. Không phải hễ có bắt bớ là mọi người đều có thể tử đạo, bởi vì sống sao chết vậy, cây xiêu chiều nào sẽ đổ theo chiều ấy.

Kinh nghiệm cho hay mổi khi có những khó khăn xảy ra, thì rất nhiều kẻ đã trở cờ, chối bỏ Chúa. Họ chối bỏ Chúa chỉ vì chén cơm manh áo, họ chối bỏ Chúa chỉ vì một chút địa vị xã hội, họ chối bỏ Chúa chỉ vì muốn chạy theo những dục vọng thấp hèn. Thế nhưng, lý do chính yếu, là như phần chìm của tảng băng, đó là họ đã không thực sự sống đạo, đã không thực sự sống niềm tin của mình. Cũng giống như khi xây nhà, nếu không đổ nền đổ móng cho vững chắc, thì chẳng bao lâu căn nhà sẽ bị sụp đổ.

Vì thế, chúng ta nên hiểu tử đạo theo một nghĩa rộng, đó là làm chứng cho Chúa. Chúng ta có thể làm chứng cho Chúa bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta. Đó chính là cái nền tảng vũng chắc để xây dựng tòa nhà đức tin. Chính trong ý nghĩa này mà Mẹ Maria đã được gọi là Nữ vương các thánh tử đạo, mặc dù Mẹ đã không đổ máu để làm chứng cho đức tin của mình.

Hãy tập sống tinh thần tử đạo bằng cách thực hiện những điều tốt lành, bởi vì mỗi khi hành động như vậy là chúng ta đã tuyên xưng niềm tin của chúng ta. Hơn thế nữa, mỗi hy sinh chúng ta chịu trong khi phục vụ và giúp đỡ người khác sẽ là như một giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra từng giây và từng phút để làm chứng cho Chúa.

Hãy sống đạo, sống niềm tin của mình. Nếu cha ông chúng ta đã tuyên xưng niềm tin bằng cái chết anh hùng, thì khi sống đạo, chúng ta cũng tuyên xưng niềm tin của chúng ta bằng chính cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương của chúng ta.

36. Sống đạo và chết vì đạo

Theo truyện kể, thì thánh Giuse Xuyên Giám mục địa phận Trung Đàng ngoài, đã được phúc tử vì đạo ngày 28.10.1858, ngài đã bị xử án lăng trì, nghĩa là bị chặt chân chặt tay và bị cắt thịt ra từng mảnh. Tương truyền rằng khi thọ án ngài đã có những lời ta thán những kẻ hành hình ngài là độc ác. Nên vì câu nói ấy mà mãi tới ngày 29.04.1951 ngài mới được tôn lên bậc chân phước.

Truyền thuyết trên đây có thể không đúng với sự thật, nhưng dù sao nó cũng nhắc nhở chúng ta về điều này: Người tử đạo không phải là một anh hùng theo kiểu các anh hùng khác của nhân loại.

Thật vậy, các vị tử đạo không phải là những anh hùng ngã gục trên chiến trường với vũ khí trong tay, trong một cuộc chiến chống lại quân thù. Các ngài là những con người không biết thù ghét, mà cũng không được thù ghét bất cứ ai, trái lại luôn luôn tuân giữ mệnh lệnh Chúa Kitô truyền là “Yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình”. Nếu các ngài có phải chiến đấu, thì đó là chiến đấu chống lại sự hèn nhát, khiếp sợ của chính mình.

Vì thế, nếu có một người nào bị giết, tuy trên danh nghĩa vì đạo, nhưng lại căm thù những kẻ bách hại mình, hay kiêu hãnh tự phụ vì tính anh hùng của mình, thì người đó không thể nào là thánh được, mà cùng lắm chỉ có thể được coi như một anh hùng thôi. Cũng vì lý do đó mà Giáo Hội Công giáo không bao giờ chấp nhận các tín hữu của mình tự sát, ngay cả trong trường hợp gọi là để bảo vệ đức tin hay Giáo Hội.

Nói cách khác, người Kitô hữu được mời gọi trước hết để sống đạo, chứ không phải chết vì đạo, bởi vì Thiên Chúa là Chúa của sự sống, chứ không phải là Chúa của sự chết. Đàng khác, nếu chúng ta sống đạo đúng theo đòi hỏi của Tin Mừng, nghĩa là sống trọn tình bác ái đối với tất cả mọi người, thì cái chết chúng ta cũng có ý nghĩa là một cái chết vì đạo. Bởi lẽ chết vì đạo, trước hết phải là chết vì lòng yêu mến.

Các thánh Tử Đạo Việt Nam xứng danh là những vị tử đạo theo cả hai nghĩa: Các ngài đã chết để tỏ lòng trung thành với Chúa, với Giáo Hội, nhưng các ngài cũng chết cũng chết vì tình yêu mến, yêu Chúa, yêu Giáo Hội, và yêu cả những người bắt bớ và làm khốn mình. Các ngài đã không thù ghét, không nguyền rủa, mà có khi còn tỏ lòng biết ơn vì vô tình họ đã trở thành những người Thiên Chúa dùng để ban phúc tử đạo cho các ngài.

Vua quan phong kiến có thể coi các ngài như những kẻ phản bội tổ quốc vì theo tả đạo, nhưng các ngài thực sự là những người yêu nước, yêu đồng bào, nên có vị tuy ước ao được phúc tử vì đạo, nhưng lại chấp nhận một cuộc sống chui nhủi, nay trốn chỗ này, mai trốn chỗ khác, đói khát, hiểm nguy không ngại, chỉ muốn tiếp tục được phục vụ anh em tín hữu của mình. Rồi một khi bị bắt, không một vị nào đã tìm cách chống cự, hay tỏ vẻ thù nghịch với vua quan lính tráng, trái lại vui vẻ chấp nhận cái chết như một cách tỏ lòng trung thành với Chúa và tổ quốc.

Thật vậy, nếu không vì muốn trung thành với tổ quốc, thì các ngài đã có thể phản đối hay chống cự, hoặc lên án những kẻ cầm quyền đã bách hại mình, nhưng các ngài đã cam tâm và bình thản chấp nhận cái chết mà không hề oán hận và hối tiếc. Trường hợp của thánh Phanxicô Trần văn Trung, cai đội, càng chứng tỏ là người Kitô hữu này chẳng hề muốn phản bội tổ quốc, vì ngài đã tình nguyện xin đi đánh giặc, nhưng vua quan từ chối, vì ngài không chịu bỏ đạo.

Noi gương ông cha mình, người Việt Nam Công giáo chúng ta hôm nay cũng phải gắn bó đời sống đức tin của mình với những đòi hỏi của đời sống con người trong xã hội, và trong cộng đồng dân tộc. Chẳng có gì mâu thuẫn giữa đức tin và lòng yêu nước. Nếu các vua chúa thời trước tôn trọng tự do tín ngưỡng, thì nhiều vị tử đạo thay vì phải chết vì đạo, đã có thể sống đạo mà phục vụ tổ quốc và dân tộc một cách hữu hiệu và tốt đẹp biết bao.

37. Niềm tin

Một viên sĩ quan trẻ trong quân đội Nga xin được nói chuyện riêng với vị mục sư người Hungary. Khi hai người ở trong một căn phòng đã đóng kín cửa, viên sĩ quan hung hãn chỉ lên cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng:

– Ông biết không, cái đó là sự dối trá cho các ông bày đặt ra để làm mê hoặc dân chúng. Ở đây bây giờ chỉ có tôi và ông. Ông hãy thú nhận rằng: Ông không hề bao giờ tin rằng ông Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa.

Vị mục sư cười và trả lời:

– Này anh bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật.

Viên sĩ quan hét lên:

– Ông đừng có lừa dối tôi, đừng diễu cợt tôi.

Rồi anh rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào vị mục sư và hăm dọa:

– Nếu ông không nhận rằng đó là một sự dối trá thì tôi sẽ nổ súng.

Vị mục sư điềm tĩnh trả lời:

– Dù anh giết tôi, tôi cũng không thể nói điều anh muốn tôi nói. Đối với tôi, Đức Giêsu Kitô thật sự là Con Thiên Chúa.

Cũng như vị mục sư kia, các thánh Tử Đạo đã kiên cường giữ vững đức tin trước mọi thử thách, mọi gian lao, mọi giông tố của cuộc đời. Các ngài đã dám đánh đổi điều cao quí nhất là mạng sống của mình để làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Chúng ta có thể kể ra đây một vài khuôn mặt của những vị thánh giáo dân như những chứng từ cho điều chúng ta vừa nói:

– Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, cai tổng. Người đã viết khi bị bắt bước qua thánh giá: “Tôi là một Kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ”.

– Thánh Giuse Lựu, trùm họ Mặc Bắc (Vĩnh Long) đã tâm sự với một linh mục bạn tù rằng: “Xin cha cầu Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho con. Con sắp phải đi đày. Con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về con. Con bằng lòng dâng cho Người hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình, vợ con của con”.

– Thánh Matthêu Gẫm, 34 tuổi, một thương gia giầu có, dù bị hành hạ, bị gông xiềng nhưng người luôn bình tĩnh vui tươi. Người nói: “Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”.

– Thánh Laurensô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân, đã trả lời khi các quan bắt người bước qua thánh giá: “Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất. Thánh giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn lòng chịu chết vì đức tin vào Thiên Chúa của tôi”.

– Thánh Matthêu Phượng, trùm họ, đã nói với các con mình rằng: “Các con của cha ơi! Đừng khóc, đừng buồn làm chi vì cha đang gặp được vận hội may mắn”.

– Thánh Đaminh Ninh, 21 tuổi, nông dân, đã hiên ngang phát biểu: “Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình, thì làm sao người Kitô hữu lại có thể chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thành trời đất? Xin các quan thi hành điều các quan muốn. Còn tôi không bao giờ xúc phạm thập giá Chúa tôi đâu”.

– Thánh Phêrô Dũng yên ủi vợ: “Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Chúa Kitô”.

– Thánh Anê Thành, một người mẹ của 6 người con. Trong cơn đau đớn vì bị tra tấn đã nhắn nhủ cô con gái đến thăm người trong tù rằng: “Con chuyển lời mẹ nói với các anh chị em con: Hãy coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, đọc kinh sáng tối, dâng lễ mỗi ngày, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên đàng”.

– Thánh Emmanuel Phụng, trùm họ, trước khi bị siết cổ đã trao cho con gái một ảnh thánh giá và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của cha. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Anh này quí giá hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé”.

Chúng ta không thể kể ra đây hết những hình khổ các thánh Tử Đạo đã phải chịu. Chúng ta cũng không thể nói hết ở đây những lời di chúc quí báu của các ngài. Đối với các ngài, Thiên Chúa là trên hết. Thiên Chúa là tất cả. Lập trường của các ngài là: “Thà chết chứ không thà bỏ đạo, bỏ Chúa”. Có lẽ ngày hôm nay chúng ta không còn được diễm phúc đổ máu và hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa nữa. Nhưng nếu phải hy sinh một món lợi vật chất, nếu phải đánh đổi một chức vụ trong xã hội, nếu phải từ bỏ một thú vui tội lỗi vì Chúa, vì luật lệ, và vì Tin Mừng của Người, chúng ta có dám không, thưa quí ông bà và anh chị em? Phải chăng lập trường của chúng ta vẫn là: “Thà bỏ đạo, bỏ Chúa chứ không bỏ những thứ đó”?

38. Tử đạo, một chọn lựa của lòng tin

Hôm nay, chúng ta hân hoan cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Đây là một ngày vui mừng chung của tất cả chúng ta, những kitô hữu mang trong mình dòng máu con Rồng, cháu Tiên. Cách đây gần 400 năm, hay đúng hơn từ lễ Phục sinh năm 1615, khi cha Bugiơmi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giơ, đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam. Hạt giống Tin mừng đã được gieo vãi trên mảnh đất hình chữ “S” thân yêu này. Cha ông chúng ta những con người có tâm hồn hiền hậu, chất phác đã đón nhận và sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin mừng đó.

Thật vậy, “Tử Đạo” theo nguyên ngữ là “Martyr” có nghĩa là “làm chứng”. Vậy thì việc cha ông chúng ta, từng lớp lớp người sẵn sàng bỏ tất cả vinh hoa, phú quý, vợ con để chết đi làm chứng điều gì? Chắc chắn việc các ngài sẵn sàng chết không phải vì các ngài không muốn sống, nhưng là để làm chứng rằng, sự sống nơi trần thế này không phải là tuyệt đối, và mọi vinh dự ở đời này không phải là vĩnh cửu. Với cái chết của mình, cha ông chúng ta đã cho thấy rằng: chết chưa phải là hết, nhưng là cửa ngõ để đi vào một đời sống vĩnh cửu đúng như tâm thức từ bao đời nay trong lòng người dân Việt: “sống gởi, thác về”. Và chính dòng máu nóng của các ngài đổ ra trên mảnh đất này, đã làm phát sinh một Giáo Hội Việt Nam hôm nay, như lời Đức Kitô: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.

1. Chọn lựa của dân Do thái:

Tuy nhiên, để có thể sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho Tin mừng, cha ông chúng ta đã phải làm một cuộc chọn lựa thật quyết liệt trong tâm hồn. Bởi vì, trong thực tế, hạnh phúc đời sau thì bây giờ chúng ta không thấy, còn tiền của, danh vọng cùng với những vinh hoa phú quý của nó, thì lại nằm ngay trước mắt. Chính dân Do Thái khi bước vào được Đất Hứa, sau cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc, cũng đã phải làm một cuộc chọn lựa cơ bản này. Ông Môisê đã nói với họ: “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là bị chết, bị tai hoạ”. Khi dân Do thái chọn lựa “yêu mến Đức Chúa,… và gắn bó với Người”, thì không phải vì trước mắt họ nhận được một cuộc sống sung sướng, dễ dãi. Họ chọn lựa Thiên Chúa chỉ vì họ tin tưởng vào tình yêu của Giavê Thiên Chúa, Đấng đã từng giải thoát họ thoát ách nô lệ Ai Cập, kết ước với họ, để họ được làm dân của Ngài. Đồng thời, còn ban cho họ Đất Hứa làm gia nghiệp.

2. Chọn lựa của cha ông chúng ta:

“Trung thành với Thiên Chúa” cũng chính là chọn lựa, mà cha ông chúng ta ngay từ những ngày đầu đón nhận Tin mừng đã quyết định. Một cuộc chọn lựa nhìn bên ngoài có vẻ đơn giản: đó là bước qua thập giá hay không bước qua. Bước qua thì có ngay tiền bạc, vinh hoa phú quý, còn như không bước qua thì có thể lập tức lãnh lấy cái chết. Đứng trước thập giá, đã có người bước qua, nhưng cũng đã có nhiều người không bước qua, không quá khoá. Đã có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua thánh giá, nhưng sau lại hối hận: đó là trường hợp của ba vị thánh Augustin Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đaminh Đinh Đạt. Vua quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển.”

Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của chính mình. Chọn lựa này bày tỏ thái độ của bản thân tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được”. Còn Thánh Têphanô Ven, một linh mục trẻ, chỉ mới 31 tuổi, thuộc Hội Thừa Sai Paris đã bày tỏ chọn lựa của mình một cách thật dứt khoát, khi trả lời cho viên quan bảo ngài bước qua Thánh giá: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”. Một chọn lựa có thể nói là đầy bấp bênh theo cái nhìn tự nhiên của con người. Chính vì bấp bênh như thế mà những chọn lựa này trở nên có giá trị, vì nó đúng là một chọn lựa của lòng tin.

Vâng, mỗi người chúng ta chỉ nhờ có lòng tin chứ không phải nhờ bất cứ điều gì khác, mới có thể giúp mỗi người chúng ta lãnh nhận ơn cứu độ. Ý thức điều đó, thánh Phaolô mời gọi tín hữu thành Côlôsê và cũng là lời nhắc nhở từng người chúng ta: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc kiên quyết, và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy vọng anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin mừng”. Đức tin này mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận khi chịu phép Rửa, nhưng như thế thì chưa đủ. Đức tin đó còn phải được minh chứng bằng chính cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua thánh giá, để quan có cớ mà tha, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không? Đứng trước thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hoà hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ (x. Mt 6, 24), điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu chúng ta qua mọi thời đại.

3. Chọn lựa của chúng ta hôm nay:

Mừng lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam hôm nay, lời Chúa một lần nữa mời gọi mỗi người chúng ta xét lại chọn lựa của mình. Chọn lựa này không phải chỉ một lần là xong, nhưng cần đựơc lập lại mỗi ngày. Tôi đang chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì để chứng minh cho lựa chọn của mình? Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể không đòi chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho Chúa, nhưng tôi thiết nghĩ, cũng không kém phần gian khó. Đứng trước những bất công, tôi có dám bênh vực, hay tôi sợ phiền hà rồi im lặng? Trước một trận bóng đá, một bộ phim hay, một giấc ngủ ngon, một lời rủ đi chơi của bạn bè và tiếng mời gọi của Chúa nơi ngôi Thánh đường này, tôi chọn điều gì?

Chớ gì, nhờ lời cầu bầu của các thánh Tử Đạo tại Việt Nam và nhất là sức mạnh của Thánh Thể, quý ông bà anh chị em và tôi đủ sức thực hiện những chọn lựa của mình. Nhờ đó, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ cùng được đoàn tụ với cha ông chúng ta như lời hứa của Đức Giêsu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”. Amen.

39. Tử đạo

“Tôi thấy một số đông người không thể đếm được thuộc đủ mọi dân tộc, mọi quốc gia và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước tòa Thiên Chúa và trước Chiên Con, mình mặc áo trắng và trên tay cầm cành lá chiến thắng”.

Đó là lời thánh Gioan diễn tả cảm tưởng đoàn người chiến thắng đứng trước Ngai Thiên Chúa trên trời mà thánh nhân được Chúa cho thị kiến. Tiếp theo thánh Gioan viết trong sách Khải Huyền như sau:

“Những người mặc áo trắng ấy là ai và họ từ đâu tới? Chính vị trưởng lão cho biết, đó là những người đã qua cơn đại họa, đã giặt áo họ trong Máu Chiên Con và nay trở về. Vì thế họ được hân hạnh đứng trước tòa Thiên Chúa và phụng thờ Ngài ngày đêm trong đền thờ. Đấng ngự trên tòa sẽ chở che và phù trợ họ, họ sẽ không còn phải đói khát nữa, không còn bị mặt trời và nóng bức làm khổ nữa. Vì Chiên Con đứng ở giữa tòa sẽ chăn dắt họ, sẽ đưa họ đến suối nước thiêng và Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt họ”.

Qua ngày lễ kính các thánh Tử Đạo Việt Nam được toàn thể anh chị em Công giáo khắp Năm Châu mừng hôm nay, Giáo Hội muốn khẳng định cho chúng ta và toàn thể Giáo Hội hoàn vũ. Trong số đoàn người đông đảo đứng trước ngai Thiên Chúa có cả những người thuộc dân tộc Việt Nam, có cả con cháu dòng giống lạc hồng, các ngài đã trải qua những cơn thử thách gian truân, lấy mạng sống của mình để minh chứng cho niềm tin và nay được trở về với Thiên Chúa.

Các vị tử đạo Việt Nam là ai? Các ngài là những nhà truyền giáo đến từ các nước, là các giám mục, các linh mục người Pháp, Tây Ban Nha, nhưng đa số là những người Việt Nam gồm 37 linh mục, 16 thầy giảng, một chủng sinh và đặc biệt là rất nhiều giáo dân. Số đông đảo giáo dân Việt Nam đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin là điểm son thứ nhất tôi muốn nêu bật trong bài chia sẻ hôm nay.

Điểm son thứ hai tôi muốn lưu ý với anh chị em hôm nay, các thánh Tử Đạo là những công dân hiền hòa, sống đời gương mẫu, nêu gương lý tưởng trung kiên với Thượng đế, không phò vua bách hại, nhưng một lòng tùng phục quốc gia. Họ bị bắt bớ, tra tấn, ngục tù nhưng không một người nào có ý định cầm khí giới để phòng thân. Trái lại, họ chỉ cam chịu, chỉ cầu nguyện cho tất cả mọi người, cầu cho quốc thái dân an, cầu cho các quan đã ký sắc lệnh tử hình và thật lòng tha thứ cho những kẻ hành quyết mình. Cử chỉ này không phải là hèn nhát, nhưng xứng đáng đối với những bậc thượng nhân như câu: “Đấng thượng phu đừng thù mới đáng. Đấng anh hùng đừng hoảng mới hay”.

Cuối cùng điểm son thứ ba tôi muốn nêu bật, là những thành tích vẻ vang để chứng tỏ niềm tin sắt đá các thánh Tử Đạo Việt Nam đã ghi vào những trang sử của Giáo Hội, là lòng tôn kính của các ngài đối với thập giá. Đối với các thánh Tử Đạo Việt Nam, chết tang thương, chết treo trên thập tự để minh chứng tình yêu tột đỉnh của mình đối với Thiên Chúa và đối với nhân loại, vì thế không một khổ hình nào có thể di chuyển đôi chân của các ngài tự ý bước qua thập giá. Không bước qua thập giá để không chối bỏ đạo dù phải đòn vọt, tra tấn, dù phải chịu tử hình, các vị Tử Đạo Việt Nam đã nêu gương yêu mến thập giá để đáp lại tình yêu của Đấng đã chết treo trên ấy bằng chính mạng sống của các ngài.

Cùng với anh chị em Công giáo khắp năm châu mừng kính lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải một lần nữa ý thức rằng, cuộc sống và cái chết của các ngài có thể nói được là những dòng chữ đầu trong các trang sử của Giáo Hội Việt Nam mà mỗi người chúng ta được kêu mời và thách đố. Hãy noi gương các vị tiền nhân anh dũng để chúng ta cùng nhau viết lên thành tích của lòng trung thành và can đảm sống đạo, sống cuộc sống chứng nhân cho tình yêu qua những hành động cụ thể, để tha thứ, hòa giải và chung tay xây dựng đất nước cũng như chứng nhân cho ý nghĩa thập giá qua nếp sống hằng ngày của mình, mỗi người trong địa vị, mỗi người trong môi trường sống của mình.

Nguyện xin các thánh Tử Đạo Việt Nam cầu bầu cho quê hương đất nước được quốc thái dân an, xin cầu bầu cho Giáo Hội Việt Nam được luôn trung thành với niềm tin, đức cậy và lòng mến trung thành.

40. Chứng nhân

Trong những năm giảng dạy, có lần Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Các con sẽ làm chứng về Thầy”. Và chứng ấy là “Người ta sẽ hành hạ và giết các con”. Dù không thuộc lịch sử Giáo Hội cho lắm, chúng ta đều biết rằng: Trong ba thế kỷ đầu, Giáo Hội Công giáo đã bị bắt bớ, hành hạ ghê rợn, và không biết bao nhiêu người, từ Giáo hoàng trở xuống, đã đổ máu ra làm chứng đạo Chúa. Rồi lịch sử đạo Công giáo ở Việt Nam cũng thế, dù chúng ta không hiểu biết nhiều lắm, nhưng ai cũng biết rằng: Đây là những trang sử oai hùng, những trang sử mà không một trang nào lại không được tô điểm bằng những nét vàng son chói lọi, và những cái chết anh hùng của tiền nhân chúng ta dưới đủ mọi hình thức tàn bạo, ghê gớm.

Quả thực, có thể nói: Đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam từ lễ Phục sinh năm 1615, khi cha Bu-giơ-mi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giờ. Vài chục năm sau, cuộc bắt đạo đầu tiên xảy ra thời chúa thượng Nguyễn Phúc, khiến hai thày Inhaxiô và Âu tinh chịu trảm quyết năm 1645 ở Huế. Kể từ năm 1665, việc cấm đạo xem ra liên tục hơn, lúc căng lúc dùng. Hầu hết các thánh đường bị triệt hạ, đất đai nhà chung bị tịch thu và hàng trăm người được phúc tử đạo vào thời Trịnh Cương và Trịnh Giang. Từ năm 1706 đến 1740. Cuộc bách hại kéo dài khốc liệt và đẫm máu hơn qua thời các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đến thời Văn Thân, khiến nhiều thừa sai ngoại quốc và không biết bao nhiêu linh mục và giáo dân Việt Nam đã phải đổ máu để gieo vãi hạt giống Tin Mừng.

Suốt ba thế kỷ cấm đạo, dưới sáu triều đại, khi thăng khi trầm, Giáo Hội Việt Nam có được khoảng 100.000 vị tử đạo. Trong số đó có 117 vị được phong thánh Tử Đạo vào ngày 19.6.1988 do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Hiện nay cũng có mười vị được phong “đáng kính” và 1.000 vị được kể vào bậc “tôi tớ Chúa”. Cái chết của các vị tử đạo nói lên điều gì và dạy chúng ta điều gì?

Chúng ta không những nhìn nhận mà còn xác tín rằng: Những người chết vì Chúa như thế được gọi là tử đạo, nghĩa là những chứng nhân của đạo Chúa. Tại sao vậy? Bởi vì khi ấy cũng như ngày nay, Giáo Hội dùng cái chết của các ngài để minh chứng đạo Công giáo là đạo của Chúa. Các ngài lấy máu mình để làm chứng, không phải là làm chứng cho một lý tưởng, nhưng là cho một việc. Chết cho một lý tưởng chưa phải là bằng chứng quyết định cho lý tưởng ấy, vì người ta có thể tưởng lầm rằng: Lý tưởng ấy là đúng, và chết cho một lý tưởng chỉ minh chứng mình có lòng ngay, mình thành thực. Nhưng khi người ta chết cho một việc thì khác, đó chính là cái chết của các vị tử đạo: Trước cái chết, các ngài tỏ ra can đảm, anh hùng, cương quyết, bình tĩnh, khiến cho mọi người phải thán phục.Trước cái chết, các ngài không sợ hãi, khuyến khích nhau, tha thứ, cầu nguyện cho kẻ bách hại mình, và vui vẻ tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó, cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định: Các ngài là những chứng nhân cho đạo Chúa. Vì thế, danh từ “Tử Đạo” có nghĩa là làm chứng, và dùng đau khổ, cái chết để bảo đảm cho lời chứng. Pascan tiên sinh đã nói: “Tôi sẵn sàng tin những truyện mà người thuật lại giơ cổ cho người khác chém để làm chứng”.

Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: Tử Đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho một số người, nhưng bổn phận làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả, là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng, và chúng ta đều biết cách làm chứng tốt nhất là bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta. Chúng ta cần thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng chính đời sống tốt đẹp, dù chúng ta không nói hay chưa làm gì cả.

Người ta kể rằng: tại Trung Quốc trong những năm trước năm 1950, có nhiều giáo sĩ đã được gửi đến truyền giáo tại nước này. Người ta đã mở những lớp dạy tiếng Trung Hoa cho những giáo sĩ ngoại quốc để có thể tiếp xúc với dân chúng địa phương. tại một lớp nọ có khoảng 70 người theo học, trong buổi học đầu tiên, bà giám đốc của trường bước vào lớp học. Bà ta đi qua từng hàng ghế từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên, tươi cười nhìn các học viên, rồi cuối cùng đi ra khỏi lớp mà không nói một lời nào. Các học viên đều ngạc nhiên về việc làm của bà giám đốc. Một lát sau, bà ta trở lại lớp và hỏi: “Quí vị đã tiếp thu được điều gì hôm nay chưa?”. Mọi người đều ngơ ngác vì bà đã dạy gì đâu? Có một người đứng lên nói: “Chúng tôi chưa nghe bà nói một lời nào. Nhưng chúng tôi chỉ để ý có một điều, khi bà đến lớp này, bà đã xức một loại nước hoa thơm quá”.

Cả lớp phá lên cười. Lúc đó, bà giám đốc tươi cười nói: “Tôi cố ý xức nước hoa thật nhiều để quí vị chú ý đấy. Nếu quí vị đã nhận ra được điều ấy là hôm nay quí vị đã học được một bài rồi. Qua điều ấy tôi muốn nói với quí vị rằng: Quí vị sẽ sống khoảng hai năm ở nước này như những người câm vì quí vị không nói chuyện được với những người Trung Hoa. Tuy nhiên, quí vị vẫn có thể để lại cho những người chung quanh quí vị một mùi thơm đặc biệt qua nếp sống của quí vị, để dầu không nói một lời nào, nhưng người khác cũng vẫn nhận ra được hương thơm của Chúa qua quí vị”.

Là con cái của Chúa, chúng ta có thể đem đến cho trần gian, cho những người chung quanh, hương thơm ngào ngạt của Chúa qua nếp sống hàng ngày của chúng ta mà không cần nói một lời nào. Xin các thánh Tử Đạo cầu bầu và trợ giúp để chúng ta luôn sống đúng và sống đầy đủ bổn phận làm chứng của chúng ta.

41. Các thánh Tử Đạo Việt Nam

Lễ kính các thánh tử đạo là sự tuyên dương những con người đã dám chết.

Tại sao tuyên dương? Thưa vì người ta thường nghĩ “Không có gì quí hơn mạng sống”. Khi mạng sống bị đe dọa thì bằng bất cứ giá nào, người ta cũng tìm cách để thoát khỏi cái chết và bảo tồn mạng sống của mình. Thí dụ có người khi đói quá đã kiếm cỏ, kiếm vỏ cây để ăn, những thứ mà bình thường không bao giờ họ ăn; có người bình thường rất tự trọng nhưng khi quá đói đã phải ăn cắp thức ăn của người khác, đã dành ăn với người khác; thậm chí có người còn dám ăn thịt người trong lúc không còn gì ăn để giữ mạng sống. Thực ra những việc làm trên không có gì lạ, vì người ta đã làm theo bản năng, gọi là bản năng sinh tồn.

Tuy nhiên có những người đã không theo bản năng sinh tồn ấy. Những người này không nghĩ rằng mạng sống là giá trị cao quí nhất, mà còn có những giá trị không cao hơn nhiều. Thí dụ:

– Trong trận động đất ở nước Nga, một người mẹ bị kẹt trong đống gạch vụn cùng với đứa con của mình. Vì không có gì để ăn, hai mẹ con dần dần yếu. Người mẹ nghĩ rằng nếu tình hình cứ tiếp tục thì sau cùng cả hai mẹ con đều chết, bởi đó bà đã cắn đầu ngón tay mình, lấy máu cho con uống. Bà dám chết để con bà được sống.

– Hay như các anh hùng liệt sĩ, những người đã can đảm hy sinh mạng sống mình để bảo vệ tổ quốc quê hương. Họ đã coi quê hương đất nước trọng hơn mạng sống bản thân.

– Và các vị thánh Tử Đạo cũng vậy, các ngài coi đức tin trọng hơn mạng sống thể xác.

Tất cả những người vừa kể trên đều đã dám chết, tất cả đều đáng ta kính phục. Riêng các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta thấy kính phục đặc biệt vì các ngài có thể thoát chết cách dễ dàng thế mà các ngài vẫn can đảm chết: chỉ cần nói với quan một câu là “Tôi chịu bỏ đạo” thì lập tức được thả tự do, hay đơn giản hơn chỉ cần thưa “vâng” khi quan hỏi “có chịu bỏ đạo không?”, hay đơn giản hơn nữa, không cần nói một lời nào cả, chỉ một cái gật đầu hay chỉ để yên cho người ta khiêng mình ngang qua cây thập giá thôi. Thế nhưng các ngài đã không làm như vậy, các ngài dám chịu chết. Cái chết của các ngài gợi lên cho chúng ta nhiều điều suy nghĩ:

Điều thứ nhất cái chết ấy nói lên một quan niệm sống: sống không phải chỉ là tồn tại, tồn tại bằng bất cứ giá nào. Nhưng sống còn là sống theo một lý tưởng. Người không sống theo một lý tưởng thì chỉ sống như một sinh vật, chỉ lo ăn lo uống, lo sinh tồn. Còn người có lý tưởng và quí chuộng lý tưởng của mình thì không làm những gì nghịch với lý tưởng ấy; nếu bị buộc làm điều nghịch với lý tưởng, hay bị cấm cản không cho sống theo lý tưởng thì các ngài thà chết để trung thành với lý tưởng cao đẹp của mình.

Một trong những điều tệ hại hiện nay là nhiều người không còn lý tưởng sống, nhất là các thanh niên ở các nước giàu bên Âu Mỹ, cả đời họ không biết tìm gì khác hơn là kiếm tiền, rồi ăn nhậu, rồi mua sắm, rồi vui chơi. Nhưng cũng như người ta không thể ăn hoài được, khi đã no thì không thể ăn thêm nữa, các thanh niên ấy ăn uống mãi rồi cũng chán, vui chơi mãi rồi cũng nhàm, thế là họ nghĩ ra những cách hưởng thụ khác như xì ke ma túy, nghĩ đến những hình thức tình dục khác thường… kết quả là bị mắc bệnh Aids. Có lẽ không bao lâu nữa cách sống đó cũng du nhập vào xã hội chúng ta, bởi vậy nhắc lại gương sống của các thánh Tử Đạo là một điều hữu ích: sống không phải chỉ là tồn tại và hưởng thụ, mà còn phải là sống theo một lý tưởng cao đẹp.

Điều thứ hai chúng ta kính phục nơi các thánh Tử Đạo là sự trung thực của các ngài: Trung thực là sống đúng theo điều mình tin và nói. Các thánh tử đạo tin rằng và nói rằng có Thiên Chúa, có linh hồn, có đời sau. Vậy khi các ngài dám chết là các ngài đã tỏ ra trung thực với niềm tin ấy, cái chết của các ngài cho người ta thấy rõ là các ngài thực sự tin rằng sau khi chết các ngài sẽ gặp được Chúa, linh hồn các ngài vẫn còn sống trong cõi vinh quang hạnh phúc với Chúa. Thực tế ngày nay, nhiều người không còn trung thực nữa: họ nói rất hay nhưng họ không làm theo điều họ nói, có khi họ cũng muốn làm nhưng lại không dám làm vì sợ bị thiệt thòi…

Và điều thứ ba khiến chúng ta kính phục các thánh tử đạo là các ngài đã mở trí cho chúng ta hiểu rằng đời này không phải là tất cả. Năm 1980 tại câu lạc bộ những nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một buổi nói chuyện và người được mời nói chuyện một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên nói năng cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác. Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giàu sang danh vọng trong xã hội? Anh mở đầu như sau: “Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận “Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”. Không biết cử tọa của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo: các ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại hết khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các ngài thì dám bỏ tất cả những gì quí nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.

42. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam vui mừng mừng kính các anh hùng Tử Đạo Việt Nam của chúng ta. Trong bầu khí linh thiêng và cảm động này tôi muốn chia sẻ với anh chị em một vài tâm tình của tôi.

1. Tâm tình thứ nhất là tâm tình tự hào.

Các thánh Tử đạo Việt Nam của chúng ta làm cho chúng ta tự hào.

Chúng ta phải tự hào vì chúng ta đã có được những vị tổ tiên anh hùng thật xứng đáng. Các Ngài đã được sinh ra, đã làm việc, đã cùng sống với những người Việt Nam chúng ta ngay trên mảnh đất quê hương thân yêu này. Các Ngài đã sống như biết bao nhiêu những con nguời khác đã sống, nhưng các Ngài đã sống hơn hẳn rất nhiều người khác ở chỗ các Ngài đã biết sống anh hùng, không để cho mình bị mua chuộc, không để cho mình bị khuất phục. Tiền bạc không làm cho các Ngài mù tối. Khổ đau không làm cho các ngài chùn bước, nhục hình không làm cho các ngài ngã qụy, và cả cái chết cũng không uốn cong được lòng trung tín của các Ngài.

Chúng ta hãy đọc lại sắc dụ cấm đạo được ban hành ngày 18-9-1855 để chúng ta thấy được một phần nào những hình khổ mà các Ngài phải chịu như thế nào: “Các quan theo đạo Giatô tại triều đình Huế hạn cho một tháng phải bỏ đạo. Các quan tỉnh thì ba tháng. Lính tráng và người dân thì sáu tháng, bằng không thì phải kể là trọng phạm.

Các người theo đạo Giatô không được thi cử, không được giữ chức tước gì.

Ai đưa đường hay chứa chấp đạo trưởng thì bị xử tử. Đạo trưởng Tây phương thì chém đầu vất xác xuống sông. Các giáo đồ giúp các đạo trưởng thì phải chém đầu.

Các cụ đạo bản quốc cũng phải chém đầu. Các giáo đồ theo các cụ đạo này thì phải thích chữ vào mặt và phát lưu.

Phải đốt cho sạch các nhà thờ nhà xứ “

Lịch sử còn ghi lại những hình phạt mà người ta đã nghĩ ra và đã dùng để phạt những người theo đạo như sau:

– Nhẹ nhất là bị gông cùm. Bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói cho tới chết.

– Nặng hơn một chút thì bị voi dầy, bị trói ném xuống sông, bị chôn sống, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng.

– Quyết liệt hơn một chút thì bị xử trảm, xử giảo (thắt cổ) và thiêu sống.

– Ác liệt nhất là bị xử lăng trì (phân thây ra từng mảnh) hay bá đao (bị xẻo từng mảnh thịt cho tới chết)

Tôi xin trích ra đây một đoạn trong bản báo cáo về việc xử Cha cố Du tại Thợ Đức ngày 30-11-1835:

“Họ cột chân tay Ngài vào một cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Sau hồi chuông báo hiệu, tên lính cầm kìm đã được nung đỏ kẹp vào ngực kéo ra hai miếng thịt nơi vú liệng xuống đất. Tên khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông – rồi đến dùi thì chúng lấy kìm kéo thịt ra rồi dùng lưỡi dao xẻo đứt từng miếng. Cha ngất đi, đầu rũ xuống và Ngài tắt hơi về chầu Chúa lúc 17giờ.

Cha chết rồi, lính chặt đầu Ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi… đoạn họ cởi trói lật úp xác xuống, phân thây ra từng khúc bỏ vào thùng vôi. Tiếp theo họ lấy đầu đầu của ngài treo giữa chợ ba ngày… rồi lấy xuống nghiền nát ra bỏ vào thùng đựng xác rối vất tất cả xuống biển cho mất tích”

Vâng, kính thưa anh chị em,

Gian khổ có cao, hình phạt có nặng nhưng lòng thành của các Ngài còn cao hơn. Cái chết của các Ngài thật đáng làm cho chúng ta phải tự hào. Trong sắc phong chân phước cho 64 anh hùng tử đạo Việt Nam ngày 27-5-1900 Chính Đức Thánh Cha Léo XIII đã nói về các Ngài với tất cả lòng khâm phục như sau: “Đây là những chiến sĩ trung liệt và kiên cường không kém gì những chiến sĩ ngày xưa vào những thế kỷ khai nguyênh của Giáo Hội Chúa Kitô”.

2. Tâm tình thứ hai là lòng biết ơn.

Việc mừng lễ hôm nay làm tôi nhớ lại những lời rất cảm động sau đây của Chúa Giêsu: “Kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì chúng con không vất vả làm ra. Những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng công lao khó nhọc của họ” (Jn 4,36-37).

Sử gia Tertulianô ngày xưa khi nhìn lại những năm trời Giáo Hội bị bách hại và những cuộc trở lại đạo hàng loạt sau đó, ông đã phải viết lên những lởi rất rất đáng cho chúng ta suy nghĩ như thế này: “Những hạt máu của những vị tử đạo là những hạt giống làm nảy sinh ra những người Kitô hữu khác”

Hàng trăm ngàn các anh hùng Tử Đạo Việt Nam của chúng ta đã vất vả khó nhọc gieo vãi. Các Ngài đã gieo vãi không phải là những hạt giống thông thuờng nhưng bằng những giọt máu của các Ngài. Và chính nhờ những giọt máu này mà chúng ta mới được như ngày hôm nay.

Chúng ta phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta có được những con người anh hùng như thế. Đồng thời chúng ta cũng phải biết ơn các Ngài vì chính nhờ các Ngài mà hạt giống đức tin đã nảy mầm và lớn lên trong chúng ta.

3. Tâm tình thứ ba là bổn phận phải sống làm sao cho xứng đáng với danh nghĩa con cháu của những anh hùng.

Châm ngôn Việt Nam có câu rất hay: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”

Phải sống xứng đáng để những thế hệ mai sau khi nhìn vào thế hệ này, họ cũng cảm thấy tự hào.

Năm 1934 khi nhắn nhủ một số các em nhỏ đến mừng sinh nhật của mình nhà bác học bổi danh nhất của thế kỷ thứ 20, Albert Einstein đã nói với các cháu những lời cảm động như sau: “Các cháu nên nhớ rằng những điều kỳ diệu các cháu được học ở trường là do công lao của biết bao thế hệ trên khắp thế giới đã hăng hái gắng sức và cặm cụi làm việc không ngừng rồi truyền lại cho các cháu như một di sản để cho các cháu tiếp nhận, tôn trọng, tăng gia thêm và một ngày nào đó các cháu sẽ lại trung thành truyền lại cho con cháu các cháu. Nhờ vậy mà chúng ta, những con người hữu sinh hữu tử mới thành bất tử trong những vật trường tồn mà chúng ta tạo chung với nhau”

Chúng ta đang thừa hưởng một di sản vô cùng quí giá do cha ông chúng ta để lại. Cách trả ơn tốt nhất đối với các Ngài là tiếp nhận và trung thành truyền lại cho các thế hệ mai sau.

Nhưng truyền lại bằng cách nào?

– Thưa bằng chính cuộc sống mà tổ tiên của chúng ta đã sống.

Văn hào Tagore khi bàn về cái chết của Thánh Gandhi, đã nói: “Có lẽ thánh Gandhi không thành công, có lẽ thánh sẽ thất bại như Đức Thích Ca đã thất bại, như Đức Giêsu đã thất bại vì chưa hủy diệt được lòng ác độc của loài người. Nhưng loài người luôn nhớ tới thánh vì thánh đã đem đời mình ra để làm bài học cho muôn thế hệ mai sau”

a- Bài học đầu tiên mà mỗi người chúng ta phải noi gương bắt chước đó là phải trung thành với niềm tin.

Đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta. Hãy bảo vệ lấy, đừng để cho nó bị hao mòn đi.

Phaolô Mợi bị bắt, bị giải đến quan. Quan dụ:

– Anh đạp ảnh đi, tôi sẽ cho anh một nén bạc.

-……………………..?

– Vậy một nén vàng!

– Bẩm quan chưa đủ.

– Vậy anh muốn bao nhiêu?

– Bẩm quan lớn, quan lớn muốn cho tôi quá khóa thì quan phải cho tôi đủ vàng để mua được một linh hồn khác.

Nguyễn văn Lựu: “Đạo đã nhập vào xương tủy tôi, làm sao tôi có thể bỏ được.”

b- Bài học thứ hai phải can đảm sống niềm tin đó.

Trong một bài diễn văn đọc cho binh lính trước khi họ lâm trạn. Hitler đã nói: “Thế giới này sẽ thuộc về những kẻ gan dạ”

Victor Hugo: “Đồi Calvario ở đầu đường và hào quang cũng xuất hiện ở đó”

Chúa Giêsu: “Nước Trới phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy”

Không có chiến thắng cho những kẻ chưa lâm trận đã đầu hàng.

Không có vinh quang cho những kẻ hèn nhát.

Phần thưởng càng lớn, vinh quang càng cao thì cái giá phải trả cho nó càng đắt.

Phải xử dụng sức mạnh mới chiếm hữu được Nước Trời.

Lời cuối cùng của tôi. Tôi xin mượn lời của Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Roma. Ngài gửi những lời này cho họ vào lúc cơn bắt bớ đạo giáo tại đó bắt đầu trở thành khốc liệt. Ngài muốn dùng những lời này để khích lệ họ, để họ can đảm, để họ tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng: “Ai có thế tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?

Ngài nói tiếp như một xác tín: “Trong mọi thử thách, chúng ta sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” Và Ngài kết luận: “Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô Chúa chúng ta” (Rom 8,35-39). Amen.

43. Niềm Tin

Một viên sĩ quan trẻ trong quân đội Nga xin được nói chuyện riêng với vị mục sư người Hungary. Khi hai người ở trong một căn phòng đã đóng kín cửa, viên sĩ quan hung hãn chỉ lên cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng:

– Ông biết không, cái đó là sự dối trá cho các ông bày đặt ra để làm mê hoặc dân chúng. Ở đây bây giờ chỉ có tôi và ông. Ông hãy thú nhận rằng: Ông không hề bao giờ tin rằng ông Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa.

Vị mục sư cười và trả lời:

– Này anh bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật.

Viên sĩ quan hét lên:

– Ông đừng có lừa dối tôi, đừng diễu cợt tôi.

Rồi anh rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào vị mục sư và hăm dọa:

– Nếu ông không nhận rằng đó là một sự dối trá thì tôi sẽ nổ súng.

Vị mục sư điềm tĩnh trả lời:

– Dù anh giết tôi, tôi cũng không thể nói điều anh muốn tôi nói. Đối với tôi, Đức Giêsu Kitô thật sự là Con Thiên Chúa.

Cũng như vị mục sư kia, các thánh Tử Đạo đã kiên cường giữ vững đức tin trước mọi thử thách, mọi gian lao, mọi giông tố của cuộc đời. Các ngài đã dám đánh đổi điều cao quí nhất là mạng sống của mình để làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Chúng ta có thể kể ra đây một vài khuôn mặt của những vị thánh giáo dân như những chứng từ cho điều chúng ta vừa nói:

– Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, cai tổng. Người đã viết khi bị bắt bước qua thánh giá: “Tôi là một Kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ”.

– Thánh Giuse Lựu, trùm họ Mặc Bắc (Vĩnh Long) đã tâm sự với một linh mục bạn tù rằng: “Xin cha cầu Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho con. Con sắp phải đi đày. Con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về con. Con bằng lòng dâng cho Người hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình, vợ con của con”.

– Thánh Matthêu Gẫm, 34 tuổi, một thương gia giầu có, dù bị hành hạ, bị gông xiềng nhưng người luôn bình tĩnh vui tươi. Người nói: “Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”.

– Thánh Laurensô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân, đã trả lời khi các quan bắt người bước qua thánh giá: “Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất. Thánh giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn lòng chịu chết vì đức tin vào Thiên Chúa của tôi”.

– Thánh Matthêu Phượng, trùm họ, đã nói với các con mình rằng: “Các con của cha ơi! Đừng khóc, đừng buồn làm chi vì cha đang gặp được vận hội may mắn”.

– Thánh Đaminh Ninh, 21 tuổi, nông dân, đã hiên ngang phát biểu: “Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình, thì làm sao người Kitô hữu lại có thể chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thành trời đất? Xin các quan thi hành điều các quan muốn. Còn tôi không bao giờ xúc phạm thập giá Chúa tôi đâu”.

– Thánh Phêrô Dũng yên ủi vợ: “Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Chúa Kitô”.

– Thánh Anê Thành, một người mẹ của 6 người con. Trong cơn đau đớn vì bị tra tấn đã nhắn nhủ cô con gái đến thăm người trong tù rằng: “Con chuyển lời mẹ nói với các anh chị em con: Hãy coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, đọc kinh sáng tối, dâng lễ mỗi ngày, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên đàng”.

– Thánh Emmanuel Phụng, trùm họ, trước khi bị siết cổ đã trao cho con gái một ảnh thánh giá và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của cha. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Anh này quí giá hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé”.

Chúng ta không thể kể ra đây hết những hình khổ các thánh Tử Đạo đã phải chịu. Chúng ta cũng không thể nói hết ở đây những lời di chúc quí báu của các ngài. Đối với các ngài, Thiên Chúa là trên hết. Thiên Chúa là tất cả. Lập trường của các ngài là: “Thà chết chứ không thà bỏ đạo, bỏ Chúa”. Có lẽ ngày hôm nay chúng ta không còn được diễm phúc đổ máu và hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa nữa. Nhưng nếu phải hy sinh một món lợi vật chất, nếu phải đánh đổi một chức vụ trong xã hội, nếu phải từ bỏ một thú vui tội lỗi vì Chúa, vì luật lệ, và vì Tin Mừng của Người, chúng ta có dám không, thưa quí ông bà và anh chị em? Phải chăng lập trường của chúng ta vẫn là: “Thà bỏ đạo, bỏ Chúa chứ không bỏ những thứ đó”?

44. Suy niệm của Lm. Giacôbê Tạ Chúc

117 vị Thánh Tử Đạo và chân phước An-rê Phú Yên, cùng với hơn 130 ngàn các Kitô hữu khác đã lấy mạng sống mình để làm chứng cho đức tin. Con số không phải là trọng điểm mà chính tình yêu đối với Đức Giê-su, đã khơi nguồn và là nền tảng cho cái chết trung kiên và can trường của các Ngài. Mừng kính ngày lễ của các bậc tiền bối, là dịp để con cháu nhớ ơn và tự hào về những tấm gương cao cả mà các Ngài đã để lại cho hậu thế. Như lời Đức Giê-su đã tiên báo: “Nếu thế gian ghét các con thì phải biết rằng họ đã ghét Thầy trước” (Ga 15,18).

Tử đạo theo nguyên nghĩa là: làm chứng cho Đức Ki-tô. Martus, Martyr có nghĩa là người chứng, người làm chứng. Các Thánh làm chứng về cuộc khổ nạn và Phục sinh của Ngài. Sống giữa một xã hội và môi trường của mình, các chứng nhân của niềm tin vào Danh Giê-su đã hoàn thiện đời mình bằng con đường Thập Giá của Đức Giê-su. Các Ngài đã tô thắm cuộc đời mình bằng niềm tin, tình yêu và lòng chung thủy sắt son với Đấng mà các Ngài tôn thờ. Trong một bối cảnh hết sức đa phức của xã hội trong những thế kỷ 16,17, 18, 19 và 20. Dưới các triều đại của các Vua chúa, sự bách hại tàn khốc và đẫm màu hòa trong nước mắt cuộn cuộn chảy. Các anh hùng Tử đạo không hề nao núng trước những cuộc truy lùng, tàn sát với những hình phạt ghê rợn của các bạo chúa thời bấy giờ. Chúng ta hãy xem một số hình phạt man rợ và bất công đó:

– Bá đao: bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng. Cách chết này có một vị.

– Lăng trì: chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu. Cách chết này có 4 vị.

– Thiêu sinh: bị thiêu sống. Chết cách này có 6 vị.

– Xử trảm: bị chém đầu. Chết cách này có 75 vị.

– Xử giảo: bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết. Cách chết này có 22 vị.

– Chết rũ tù: bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù. Chết cách này có 9 vị. (Lm Giuse Đinh Lập Liễm).

Mặc dù bi ai là thế, nhưng các Ngài vẫn không sờn lòng và nản chí. Trái lại, trong những cơn cùng cực và có vẻ tối tăm, các Ngài đã làm rạng rỡ cho trang sử của Giáo hội và như lời của một sử gia: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu” (Tertullianô).

Cuộc làm chứng cho Chúa Giê-su và Tin mừng mà Ngài, đã rao giảng vẫn luôn là lời mời gọi mang tính thời sự cho mọi Ki-tô hữu trong cuộc sống ngày hôm nay. Máu vẫn đổ, nước mắt vẫn tuôn rơi khi xoáy trong dòng đời nghiệt ngã, trước những cạm bẫy của cuộc sống tục hóa, hưởng thụ và đánh mất niềm tin, niềm cảm thức tôn giáo, đức tin đang bị lung lay và xói mòn trước những thay đổi của xã hội. Người Ki-tô hữu theo nguyên ngữ tử đạo là tiếp tục thực thi lời dạy của Chúa Giê-su, mang yêu thương và bình an của Chúa đến với mọi người trong cuộc sống hằng ngày.

Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi thì nó sẽ trơ trọi một mình. Còn nếu nó thối đi, nó sẽ sinh nhiều bông hạt luôn là chân lý mà các Thánh Tử đạo đã trải nghiệm bằng cả cuộc sống, mạng sống mình, vì ai yêu sự sống mình thì sẽ mất còn ai đành mất mạng sống mình thì sẽ được.

45. Các thánh Tử Đạo Việt Nam

Lễ các Thánh tử đạo Việt Nam (được gọi là lễ Thánh Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo) ấn định trong niên lịch phụng vụ vào ngày 24 tháng 11 mỗi năm, và Hội Đồng Giám mục quyết định dời lễ kính vào ngày Chúa Nhật liền trước hoặc liền sau ngày 24 tháng 11, để giáo dân có dịp tham dự dễ dàng.

Thực ra việc kính Thánh Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo bao gồm việc kính tất cả 117 vị tử đạo đã được Giáo Hội phong lên bậc hiển Thánh. 117 vị Thánh này có 96 Thánh Việt Nam (37 Linh mục, 14 thầy giảng, một chủng sinh và 44 giáo dân), 11 Thánh người tây Ban Nha (6 Giám mục và 5 Linh mục), 10 Thánh người Pháp (2 Giám mục và 8 Linh mục).

Thánh Anrê Dũng Lạc tử đạo ngày 21 tháng 12 năm 1839, hai vị Thánh tử đạo đầu tiên là Linh mục Tế và Linh mục Đậu tử đạo ngày 22 tháng 1 năm 1745, và vị Thánh tử đạo sau cùng là giáo dân Phêrô Đa tử đạo ngày 17 tháng 6 năm 1862. Như vậy khi nói các bạn tử đạo với Thánh Anrê Dũng Lạc ta phải hiểu là các Thánh tử đạo kể từ năm 1745 tới năm 1862 (trong khoảng thời gian 117 năm).

Tất cả các vị Thánh này, chỉ vì kiên trung giữ vững đức Tin, quyết tâm không bỏ Chúa, không bỏ Giáo Hội, nên đã trải qua nhiều đau khổ, cơ cực, như bị tra tấn, bị đòn vọt đánh nát thịt da, bị kìm nung đỏ cặp vào chân tay, bị đói khát, bị mình trần phơi nắng nhiều ngày, bị gông cùm xiềng xích trong tù ngục nhiều tháng trời.v.v. và sau cùng hoặc bị chém đầu (án trảm), hoặc bị thiêu đốt (án thiêu sinh), hoặc bị xiết cổ đến chết (án giảo), hoặc bị cắt các chi thể rồi mới chém đầu (án lăng trì), hoặc bị cắt xẻ da thịt ra hằng trăm miếng (án bá đao). Cũng có vị, vì bị tra tấn quá dã man, bị đói khát, ngày đêm nhốt trong cũi chật hẹp, lại phải đeo xiềng xích, cùm chân tay, nên đã trút hơi thở cuối cùng, trước khi bị đem ra pháp trường.

Thánh Linh mục Du bị trói vào một cây cọc. Có 3 lý hình, một cầm kìm, một cầm dao, còn một người lo đếm cho đủ 100 lát cắt. Trước đó, lính đã nhét đá vào miệng ngài và cột chặt, để không có thể kêu la hay bỏ chạy được. Sau một hồi trống, lý hình cắt lớp da trên trán Cha Du lệt xuống che mắt, rồi cắt từng mảng hai bên ngực, sau lưng, tay chân. Quá đau đớn Cha Du giãy giụa quàn quại, ngướv mắt lên trời cao, rồi gục đầu xuống nhắm mắt lìa trần. Tiếp theo quân lính cắt đầu của vị tử đạo, bổ thân mình làm 4 và ném xuống biển. Còn thủ cấp Cha được đem đi bêu tại nhiều nơi, rồi đưa trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và cho rắc xuống biển.

Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lện quan án sát. Vừa nghe lện, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.

Hai Cha Điểm và Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nhge hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.

Sáng ngày 5-6-1862, trước sự chứng kiến của rất đông người, hai giáo dân: Thánh Toại và Thánh Huyên bước vào cũi tre để bị thiêu sinh. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ông cất tiếng nguyện cầu thật lớn, trong khi ngọn lửa hồng phừng phực bốc cao, thiêu đốt hai ông.

Sau ba tháng tù tại Bình Định ông Anrê Nguyễn Kim Thông nhận được án phát lưu vào Vĩnh Long. Đường từ Bình Định vào Nam xa xôi, ông Thông cùng với bốn chứng nhân khác. Vì tuổi già sức yếu, lại phải mang gông siềng, ông bước đi một cách rất khó khăn, mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ đi được bảy tám dặm, dưới ánh nắng gay gắt. Tối đến, đoàn tù nhân được tạm giam trong các đòn quan, hay nhà tù địa phương. Được vài ba ngày, lính thấy ông Thông đuối sức quá, sợ không thể đi tới nơi, thì thương tình tháo gông xiềng cho ông.

Đến Chợ Quán, thấy tình trạng sức khỏe của ông quá tàn tạ, Cha Được đã đến ban phép xức dầu cho ông. Sau đó ông lại phải mang gông xiềng tiếp. Khi ông đặt chân lên đất lưu đày, ông chỉ kịp đọc kinh an năn tội, vài kinh kính mừng, rồi tắt thở. Hôm đó là ngày 15 tháng 5 năm 1855.

Bà Thánh Inê Đê (Lê Thị Thành), sau khi đã bị tra tấn và chịu đòn, coi trong người không có chỗ nào không bị thương tích, áo quần đầy máu me, bà đã trút hơi thở cuối cùng trong ngục. Lời sau cùng của bà là:

“Giêsu Maria Giuse, con phó thác hồn con và thân xác con trong tay Chúa, xin ban cho con trọn niềm tin ở Chúa.”

Hôm đó là ngày 12-7-1841, sau 3 tháng bị giam cầm về đức Tin.

Riêng những vị xử trảm, cũng có những gương sáng lạng về việc các ngài coi thường sự đau đớn lúc bị chém đầu. Coi như các ngài ước ao được chém nhiều lần để biểu lộ lòng yêu mến Chúa.

Trước khi bị chém Thánh Giám mục An nói với viên quan chỉ hay:

“Tôi gửi quan 30 quan tiền để xin một ân huệ: Đừng chém tôi một nhát nhưng 3 nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi, và dẫn tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành ra tôi. Nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí chết vì đức Tin, theo gương vị chủ chăn. Và như thế họ đáng hưởng hạnh phúc cùng các Thánh trên trời.

Năm ông Đaminh Nhi, ông Đaminh Mạo, ông Đaminh Nguyên, ông Anrê Tường, ông Vinhsơn Tưởng, bị xử chém đầu, thì trừ ông Đaminh Nhi, bốn vị ông Đaminh Mạo cùng cá ông Đaminh Nguyên, Anrê Tường, Vinhsơn Tưởng, đều yêu cầu lý hình, thay vì chém một nhát, thì xin được chém 3 nhát để tỏ lòng tôn kính Chúa Ba Ngôi.

Riêng Thánh Hồ Đình Hy bị chém đầu, nhưng trước khi đem đi xử, giữa kinh thành Huế, trong ba ngày 15,18 và 21 tháng 5 năm 1857, thân mình ngài đầy thương tích, quần áo tả tơi, dính đầy máu, đi đứng lảo đảo như muốn té nhào, bị điệu qua các đường phố, những khu chợ và quanh thành nội. Lính mở đường đi trước rao tên tử tội, mỗi khi tới ngã ba đường, phố, chợ và công trường, người tử tội bị đánh 30 trượng, lính vác loa rêu rao;

“Thằng theo tà đạo, đức ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình. Vì thế bị kết án tử hình. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó có đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?”

Sau một năm tù giam, Anrê Trọng vẫn cương quyết tuyên xưng đức Tin, các quan quyết định ngày xử là thứ bảy ngày 28-11-1835. Sáng hôm đó, anh gặp lại người anh họ. Người anh họ hỏi Thánh nhân có muốn ăn gì không? Anrê Trọng trả lời: “Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo”, rồi nói tiếp: “Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa, cho đến chết.”

Nhưng người anh họ chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ Anrê Trọng đã đến đón convà theo con đến tận đầu chợ An Hòa, nơi Anrê sẽ phải xử. Gặp con, bà chỉ nói một câu: “Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần gì ai không? Nếu có thì cho mẹ biết, mẹ sẽ trả thay con.”

Khi được con cho biết không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh nói với con những lời đầy khích lệ. Đến nơi xử, khi quân lính tháo gông xiềng, Thánh Trọng đón lấy, đưa cho anh lính cạnh bên và căn dặn:

“Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm.”

Mẹ anh đứng gần bên nghe rõ, nhưng bà nhưa lấy kỷ vật đó là đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa. Bà can đảm, bước ra xin viên quan chỉ huy trao thủ cấp con bà, cho bà.

Bọc trong vạt áo rồi ghìm chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lập đi lập lại:

“Ôi con yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ.”

Rồi bà đem về an táng trong nhà.

46. Suy niệm của Lm. Augustine

Làm chứng cho đức tin

Đoạn Tin Mừng Mt 10,17-22 mà chúng ta vừa nghe rất phù hợp với hoàn cảnh của các thánh tử đạo Việt Nam. Các ngài đều đã trải qua kinh nghiệm bị bắt, bị nộp, bị hạch hỏi trước quan quyền và vua chúa, bị tra tấn, đánh đòn, bị ghét bỏ và cuối cùng là bị giết. Tất cả những đau đớn đó, các ngài đều chịu vì Đức Giêsu Kitô (c.18), vì Danh của Ngài (c.22).

Thử thách quan trọng nhất mà các ngài phải trải qua, đó là bước hay không bước qua thánh giá. Bước qua là được tiếp tục sống ở đời này, được trả lại tất cả những gì đã mất, được tặng thêm bao phú quí vinh hoa. Không bước qua là chấp nhận tù đày, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một quyết định là mọi chuyện sẽ thay đổi. Chỉ cần một bước chân…

Đã có người bước qua, và đã có nhiều người không bước qua, không quá khoá. Đã có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua thánh giá, nhưng sau lại hối hận: đó là trường hợp của ba vị thánh Âu tinh Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đa minh Đinh Đạt. Vua quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển.” Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của tôi. Chọn lựa này bày tỏ thái độ của tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được.” Thánh Tê ô phanô Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”

Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua thánh giá, để quan có cớ mà tha, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không? Đứng trước thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hoà hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ, điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu qua mọi thời đại.

Không bước qua thánh giá là làm chứng về niềm tin vào Đức Kitô. Dù chỉ là hai cây gỗ xếp chéo nhau, nhưng đó vẫn là một biểu tượng cho Thày chí thánh, Đấng đã chịu chết trên thánh giá. Các vị tử đạo đã không bước qua thánh giá, vì họ tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhưng các ngài không phải chỉ là những chứng nhân đức tin, mà còn là chứng nhân đức mến. Đức Giêsu không phải chỉ là Đấng các ngài tin, mà còn là Đấng các ngài yêu bằng một tình yêu lớn nhất: “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Cuối cùng các vị tử đạo còn là những chứng nhân cho một niềm hy vọng mãnh liệt vào sự sống đời sau. Cái chết khủng khiếp đang chờ họ, nhưng họ như nhìn thấy thế giới ở đằng sau cái chết tạm thời. Họ thấy thiên đàng, thấy sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường tồn. Chính vì thế cái chết tử đạo không bao giờ mang nét bi đát của sự tuyệt vọng. Trái lại, nó ẩn chứa một sự bình an, vui tươi của người được hạnh phúc gặp Đấng mình mới tin mà chưa giáp mặt. Trước khi đưa đầu cho lý hình, thánh Micae Hồ Đình Hy, một vị quan to của triều đình, đã thong thả rửa chân tay, rồi ngồi xếp bằng trên chiếu, bình tĩnh hút hết một điếu thuốc. Sau đó ông đứng lên thật bình thản sửa soạn lại đầu tóc, y phục cho chỉnh tề, rồi sốt sắng quỳ xuống cầu nguyện… Chính cách chết của các vị tử đạo nói với chúng ta nhiều điều. Nó vén mở cho chúng ta thấy đời sống thiêng liêng sâu xa của các ngài, đời sống tin – cậy – mến ở mức độ trổi vượt.

Có những thời điểm quan trọng trong đời vị tử đạo: lúc quyết định không bước qua thánh giá, lúc nghe bản án tử của mình hay lúc gươm kề cổ. Trong những lúc ấy chúng ta thường thấy các ngài can đảm, vững vàng, kiên quyết. Nhưng chúng ta có khi không thấy hết được những cuộc chiến nội tâm, những giằng co đau đớn diễn ra trước đó trong ngục thất. Chính Đức Giêsu cũng đã nếm trải kinh nghiệm này trong Vườn Dầu, khi Ngài đứng trước cái chết gần kề. Thời gian từ khi bị bắt đến khi bị tra hỏi, và bắt bước qua thánh giá, là thời gian lòng tin – cậy – mến chín mùi và trưởng thành. Những đau đớn do tra tấn, những lời mời mọc khéo léo, những đêm tối của đức tin, những khao khát muốn kéo dài cuộc sống: tất cả đều góp phần thanh luyện con người vị tử đạo. Đời sống cầu nguyện trong ngục thất, việc xưng tội rước lễ, lời cầu nguyện và sự nâng đỡ tinh thần của những người bên ngoài, đã giúp cho các vị chứng nhân dần dần dứt khoát trong lựa chọn của mình. Họ trở nên bình tâm, chẳng còn muốn điều gì ngoài Chúa, chẳng còn sợ những gì đe doạ mình. Ơn Chúa thấm vào con người vị tử đạo đến độ họ được mang một sức mạnh kỳ diệu từ trên. Nhờ ơn Chúa, một tạo vật nhỏ bé, yếu đuối, đã làm được điều phi thường này, đó là đặt Chúa lên trên mạng sống của mình, yêu Chúa trên hết mọi sự.

Làm chứng cho tình yêu

Khi nói đến các thánh tử đạo, chúng ta thường nghĩ đến những người chết vì tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô Giêsu. Đó là trường hợp của 117 vị thánh tử đạo tại Việt Nam. Nhưng Hội thánh Công Giáo cũng coi thánh Gioan Tẩy Giả và thánh nữ Gôretti là các vị tử đạo, dù hai vị này chết vì dám nói lên một sự thật hay vì muốn bảo vệ nhân đức trinh khiết. Như thế khái niệm về tử đạo cần được hiểu rộng rãi hơn nữa. Vị tử đạo là người chết vì Đạo, chết vì muốn sống theo con Đường Tin Mừng của Chúa Giêsu, sống cho chân lý Phúc Âm. Trường hợp của cha Mác-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê là một thí dụ mới mẻ. Khi phong chân phước cho cha Kôn-bê vào năm 1971, Đức Phaolô VI không coi ngài là vị tử đạo, chỉ coi ngài là một người chịu đau khổ vì đức tin thôi (confessor). Nhưng khi phong thánh cho ngài vào năm 1982, Đức Gioan Phaolô II đã coi ngài là vị tử đạo (martyr). Chúng ta ai cũng biết cha Kôn-bê đã bị quân Đức bắt giam trong trại tập trung, và ở đây ngài đã tự nguyện chết thay cho một người tù khác có gia đình. Trong bài giảng lễ phong thánh cho cha Kôn-bê, Đức Thánh Cha đã nói như sau: “Cái chết được ngài hồn nhiên đón nhận vì yêu người đồng loại, cái chết ấy lại không làm trọn những lời của Đức Kitô sao? Cái chết ấy lại không làm cho cha Kôn-bê đặc biệt giống Đức Kitô sao, Đức Kitô là mẫu mực của mọi vị tử đạo, là Đấng hiến mạng sống mình cho anh em?”

Các vị tử đạo là những chứng nhân dám chết cho niềm tin, cho tình yêu, cho chân lý của Tin Mừng. Có thể chúng ta không được ơn tử đạo, nhưng chắc chắn chúng ta phải trở nên chứng nhân cho Chúa (Lc 24,48). Làm chứng cho Chúa, nếu không phải đổ máu thì cũng phải chấp nhận mất mát, thiệt thòi, bị coi rẻ. Làm chứng đòi trả giá. Giá càng cao thì lời chứng càng đáng tin. Mỗi thời đại nhạy cảm với một lối làm chứng. Lối làm chứng của cha Kôn-bê, của mẹ Têrêsa ở Calcutta, của cộng đoàn Taizé bên Pháp, rất hấp dẫn con người hôm nay. Cần tìm được những lối sống Tin Mừng phù hợp khiến người ta dễ tin có Chúa, có linh hồn, có đời sau. Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi vật chất và không cần đến Thiên Chúa, phải chăng người Kitô hữu được mời gọi sống một đời sống đơn sơ, chia sẻ và phục vụ trong vui tươi? Khi con người hôm nay như bị cuốn vào cơn lốc hưởng thụ, khoái lạc, quyền lực, phải chăng người Kitô hữu được mời gọi làm chứng bằng thái độ thanh thoát, trong sáng và vô cầu?

Làm chứng cho Chúa bao giờ cũng là lội ngược dòng với thế gian. Nếu không gắn bó với Chúa, chúng ta không có can đảm làm chứng cho Ngài. Các thánh tử đạo tổ tiên chúng ta đã làm chứng trong thời bị bách hại. Là con cháu các ngài, chúng ta được mời gọi làm chứng trong thời đất nước chuyển mình theo kịp thế giới. Thời nào, người Kitô hữu cũng được đặt trước thánh giá, dấu hiệu của một tình yêu hiến thân, một sự từ bỏ tận căn, một sự khiêm hạ đến cùng. Chúng ta có bước qua thánh giá không?

Một số câu hỏi gợi ý

1. Nếu các Kitô hữu sống đúng theo Lời Chúa dạy, thì xã hội sẽ trở nên tốt hơn nhiều. Bạn thấy đất nước Việt Nam chờ đợi gì nơi người Kitô hữu Việt Nam? Chúng ta có thể đóng góp gì để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn?

2. Theo ý bạn, sống yêu thương, tha thứ, phục vụ, có phải là cách làm chứng hiệu quả cho Đức Kitô trên quê hương Việt Nam không?

47. Bài giảng của Thánh Gioan Phaolô 2, GH.

(Mt 25,14-30)

Suy niệm 1.

Trong cộng đồng rộng lớn của Giáo Hội, tôi xin chào thăm đặc biệt anh em Việt kiều quí mến đến đây từ mọi phương trời từ Châu Mỹ và Châu Á, từ Úc Châu và tất cả các nước Âu Châu. Tôi biết anh em đến đây vì muốn tôn kính các vị Tử Đạo của anh em, nhưng cũng muốn tái tạo chung quanh các vị Tử Đạo tình huynh đệ, tình thân hữu, tình yêu thương vốn đầy tràn trong tâm hồn anh em, bởi vì tất cả anh em đều có cùng một tổ quốc quê hương. Khi gợi lại những kỷ niệm của anh em, tức là anh em hướng về quê hương với lòng yêu và lòng thương nhớ, với một ước muốn sống giây phút hiệp thông đầy hy vọng giữa cuộc sống ở hải ngoại này. Khi cùng với anh em tuyên xưng Chúa Kitô chịu đóng đinh, tất cả chúng tôi hôm nay đều muốn cảm tạ Thiên Chúa vì những chứng tá đặc biệt mà các thánh Tử Đạo này là những người con đông đúc của Việt Nam, hay là những vị thừa sai đã có những truyền thống Đức tin vào Chúa Kitô một cách sâu xa. Truyền thống của anh em nhắc nhở chúng tôi trong lịch sử Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam từ lúc khởi đầu còn bao la và phức tạp hơn nữa. Từ năm 1533, tức là từ khi cuộc rao giảng Tin mừng Kitô bắt đầu từ Đông Nam á, Giáo Hội Việt Nam trong ba thế kỷ đầu đã phải chịu những cuộc bách hại nặng nề nối tiếp nhau, với một vài giai đoạn lắng dịu giống như các cuộc bách hại mà Giáo Hội Tây phương đã phải chịu trong ba thế kỷ đầu tiên. Đã có hàng ngàn tín hữu Kitô chịu Tử Đạo và đã có rất nhiều người chết trên rừng núi, trong những vùng rừng thiêng nước độc, nơi mà họ bị lưu đầy tới. Làm sao có thể gợi hết các vị Tử Đạo ra đây được, và cho dù chỉ được giới hạn vào những vị Tử Đạo được tôn phong hiển thánh hôm nay, chúng ta cũng chỉ có thể dừng lại nơi một vài con số trong những vị Tử Đạo của họ. Thực vậy, có tất cả 117 vị thánh Tử Đạo, gồm 8 giám mục, 50 linh mục, 59 giáo dân, trong số này có một phụ nữ là bà Anê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người con. Chỉ cần nhắc lại đây một, hai khuôn mặt như cha Vicente Dòng Đaminh chịu tử đạo năm 1773, đó là vị đầu tiên trong 96 vị Tử Đạo Việt Nam. Rồi có một linh mục khác là cha Anrê Dũng Lạc, cha mẹ của ngài vốn là những người ngoại đạo và nghèo túng. Từ thuở nhỏ ngài được ký thác cho một thầy giảng và sau trở thành linh mục vào năm 1823, rồi làm cha sở và làm nhà truyền giáo ở nhiều nơi khác nhau tại Việt Nam. Hơn một lần ngài đã được cứu thoát khỏi tù ngục nhờ giáo dân quảng đại nộp tiền chuộc. Ngài nhiệt tình ao ước được chịu phúc Tử Đạo, ngài thường nói những người chết vì Đức tin thì được lên trời, thế mà ta cứ tiếp tục trốn tránh, chi phí tiền bạc để tránh thoát những kẻ bách hại, ta hãy để mình bị bắt và chịu chết thì hơn. Nhờ lòng nhiệt thành và ơn Chúa nâng đỡ như thế ngài đã chịu tử đạo, bị chém đầu tại Hà Nội ngày 21.12.1839. Như vậy hôm nay chúng ta có trước mắt các thánh Tử Đạo Việt Nam là những người theo Chúa Thánh Vịnh đã nói về các ngài như sau: “Những ai gieo trong nước mắt sẽ gặt trong hoan ca, họ đi và khóc nức nở gieo hạt giống nhưng trở về ca hát, tay mang bó lúa trĩu hạt”: Dưới ánh sáng của những lời huyền nhiệm này, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa đích thực của chứng tá lịch sử của các vị Tử Đạo trong Giáo Hội Việt Nam đã thực hiện với nước mắt. Họ đã gieo vãi hạt giống Tin mừng và ơn thánh, từ đó đã nảy sinh dồi dào hồng ân Đức tin “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất và không nát đi thì không sinh hoa trái, trái lại nếu nó chết đi thì sẽ mang lại nhiều hoa trái (Jn 12,24-25). Trong thực tế khi gieo trong nước mắt, các vị Tử Đạo Việt Nam đã khởi sự công cuộc đối thoại sâu xa và có tính cách giải phóng đối với dân tộc và văn hoá quốc gia Việt Nam, họ rao giảng trước mặt mọi người tính cách chân thực và phổ quát niềm tin vào Thiên Chúa. Và hơn nữa, các vị đề ra các giá trị và các bổn phận đặc biệt thích hợp với nền văn hóa tôn giáo của tất cả miền Viễn Đông. Dưới sự hướng dẫn của cuốn giáo lý đầu tiên, các vị Tử Đạo đã làm chứng rằng “Cần phải thờ lạy Thiên Chúa, Chúa Tể duy nhất, một Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã tác tạo nên đất trời”. Đứng trước sự cưỡng bách của nhà cầm quyền trong việc hành đạo, họ đã xác quyết quyền tự do tín ngưỡng và đã can đảm mạnh mẽ khẳng định trong đạo Kitô là điều duy nhất mà họ không thể từ bỏ được, vì họ không thể bất tuân lệnh vị Chúa Tể Tối Cao là Thiên Chúa. Ngoài ra các vị đã tỏ ý muốn trung thành với các nhà cầm quyền của đất nước, không vi phạm những gì là chính đáng và ngay thẳng, các vị cũng đã dạy phải tôn kính tổ tiên, các tập tục của quê hương mình dưới ánh sáng mầu nhiệm Phục sinh. Với các vị Tử Đạo của mình và nhờ những chứng tá của các vị, Giáo Hội Việt Nam tuyên tín ý chí và quyết tâm không loại bỏ truyền thống văn hóa và các luật thể chế của đất nước. Trái lại, Giáo Hội đã tuyên bố và chứng tỏ rằng mình muốn nhập thể vào truyền thống, văn hoá đó bằng cách trung thành góp phần vào việc xây dựng tổ quốc một cách đích thực.

Suy niệm 2

“Tôi thấy một số đông người không thể đếm được thuộc đủ mọi dân tộc, mọi quốc gia và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước tòa Thiên Chúa và trước Chiên Con, mình mặc áo trắng và trên tay cầm cành lá chiến thắng”. Đó là lời thánh Gioan diễn tả cảm tưởng đoàn người chiến thắng dừng trước ngai Thiên Chúa trên trời là thánh nhân được Chúa cho thị kiến. Tiếp theo thánh Gioan viết trong sách Khải Huyền như sau: “Những người mặc áo trắng ấy là ai và họ từ đâu tới”. Chính vị trưởng lão cho biết, đó là những người đã qua cơn đại họa, đã giặt áo họ trong máu Chiên Con và nay trở về. Vì thế họ được hân hạnh đứng trước toà Thiên Chúa và phụng thờ Ngài ngày đêm trong Đền Thờ. Đấng ngự trên toà sẽ chở che và phù trợ họ. Họ sẽ không còn phải đói khát nữa, không còn bị mặt trời và nóng bức làm khổ nữa. Vì Chiên Con đứng ở giữa toà sẽ chăn dắt họ, sẽ đưa họ đến suối nước thiêng và Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt họ. Qua ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam được toàn thể anh chị em Công giáo khắp năm châu mừng hôm nay, Giáo Hội muốn khẳng định cho chúng ta và toàn thể Giáo Hội hoàn vũ. Trong số đoàn người đông đảo đứng trước ngai Thiên Chúa có cả những người thuộc dân tộc Việt Nam; có cả con cháu dòng giống Lạc Hồng. Các ngài đã trải qua những cơn thử thách gian truân, lấy mạng sống của mình để minh chứng cho niềm tin và nay được trở về với Thiên Chúa. Các Vị Tử Đạo Việt Nam là ai? Các ngài là những nhà truyền giáo đến từ các nước, là các giám mục, các linh mục người Pháp, Tây Ban Nha, nhưng đa số là những người Việt Nam gồm 37 linh mục, 16 thầy giảng, một chủng sinh và đặc biệt là rất nhiều giáo dân. Số đông đảo giáo dân Việt Nam đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin là điểm son thứ nhất tôi muốn nêu bật trong bài suy niệm hôm nay. Điểm son thứ hai tôi muốn lưu ý với anh chị em hôm nay là các thánh Tử Đạo là những công dân hiền hoà sống đời gương mẫu, nêu gương lý tưởng trung kiên với Thượng Đế không phò vua bách hại nhưng phải một lòng tùng phục quốc gia. Họ bị bắt bớ, tra tấn, ngục tù nhưng không một người nào có ý định cầm khí giới để phòng thân. Trái lại họ chỉ cam chịu, chỉ cầu nguyện cho tất cả mọi người, cầu cho quốc thái dân an, cầu cho các quan đã ký sắc lệnh tử hình và thật lòng tha thứ cho những kẻ hành quyết mình. Cử chỉ này không phải là hèn nhát, nhưng xứng đáng đối với những bậc thượng nhân như câu: “Đấng trượng phu đừng thù mới đáng. Đấng anh hùng đừng hoảng mới hay”. Cuối cùng điểm son thứ ba tôi muốn nêu bật những thành tích vẻ vang, chứng tỏ niềm tin sắt đá các thánh Tử Đạo Việt Nam đã ghi vào những trang sử của Giáo Hội là lòng tôn kính của các ngài đối với Thập Giá. Đối với các thánh Tử Đạo Việt Nam chết tang thương, chết treo trên Thập Tự để mimh chứng tình yêu tột đỉnh của mình đối với Thiên Chúa và đối với nhân loại. Vì thế không một khổ hình nào có thể truyền đôi chân của các ngài tự ý bước qua Thập Giá. Không bước qua Thập Giá để không chối bỏ đạo dù phải đòn vọt, tra tấn, dù phải chịu tử hình, các vị Tử Đạo Việt Nam đã nêu gương yêu mến Thập Giá để đáp lại tình yêu của Đấng đã chết treo trên ấy bằng chính mạng sống của các ngài. “Thưa anh chị em thân mến! Cùng với anh chị em Công Giáo khắp năm châu mừng kính lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải một lần nữa ý thức rằng cuộc sống và cái chết của các ngài có thể nói được là những giòng chữ đầu trong các trang sử của Giáo Hội Việt Nam mà mỗi người chúng ta được kêu mời và thách đố hãy noi gương các vị tiền nhân anh dũng. Để chúng ta cùng nhau viết lên thành tích của lòng trung thành với can đảm sống đạo, sống cuộc sống chứng nhân cho tình yêu qua những hành động cụ thể để tha thứ hoà giải và chúng ta xây dựng đất nước cũng như làm chứng cho ý nghĩa Thập Giá qua nếp sống hằng ngày của chính mỗi người trong địa vị, trong môi trường sống của mình. Nguyện xin các thánh Tử Đạo Việt Nam cầu bầu cho quê hương đất nước được quốc thái dân an. Xin cầu bầu cho Giáo Hội Việt Nam được luôn trung thành với niềm tin, đức cậy và lòng mến trung thành. Amen.

48. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

(Mt 10, 17-22)

Hôm nay chúng ta mừng lễ kính thánh Anrê Trần Dũng Lạc và các bạn Tử Đạo, hay nói chung là mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam, các ngài cũng là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, giờ đây cùng nhau chúng ta nghe lời Chúa qua Phúc âm (x. Mt 10, 17-22). Khi kêu gọi mọi người “Hãy Vui Lên”, các giám mục đã mời gọi từng giới, từng thành phần trong dân Chúa. Hôm nay chúng ta nghe các ngài ngỏ lời với các cụ cao tuổi và mời gọi các cụ bước vào Năm Thánh như những chứng nhân cho tình. yêu Chúa “Các cụ vui vì lại được sống thêm một Năm Thánh nữa, Năm Thánh 2000” Chúng ta đã có dịp nói với nhau về niềm vui của chúng ta, niềm vui đích thực, niềm vui mà các thánh Tử Đạo đã hân hoan vui mừng khi được đi ra pháp trường. Các giám mục của chúng ta cũng muốn qua các cụ lão ông, lão bà kêu gọi chúng ta vui niềm vui chứng tá ấy. Ở Việt Nam có hội phụ lão, ở bên Mỹ có hội người già trong các cộng đồng Việt Nam, mục đích để giúp các cụ có dịp gặp gỡ nhau, cùng nhau trao đổi và giúp nhau trong cảnh già nua tìm được niềm vui trong những ngày cuối của đời mình, dĩ nhiên là niềm vui thánh thiện nâng cao quí cụ ngày càng được gần hơn đến với Chúa. Chúng ta cũng phải coi chừng vì nhiều khi việc ngồi lại với nhau chẳng những không tạo điều kiện để nâng cao, nhưng lại ghì kéo xuống làm cho chúng ta rơi vào những phù phiếm không lợi ích chi cho mình, đồng thời trở thành gương xấu cho con cho cháu và là gánh nặng cho xã hội. Chẳng hạn ở Việt Nam ngày ngày người ta vẫn thấy ba, bốn cụ già chân nam đá chân chiêu, lai rai hết ly này đến ly khác, gia đình con cháu buồn, người ngoài lắc đầu, tuổi già và niềm vui ấy trở thành gánh nặng cho mọi người. Rồi tại một hội người già trong một Tiểu Bang nọ, các cụ cũng than phiền là có nhiều chuyện không trong sáng giữa các cụ với nhau nên có nhiều cụ ở nhà. Một chương trình truyền hình nọ mời một cụ lão phỏng vấn: xin cụ cho biết cảm tưởng của cụ, niềm vui của cụ vẫn có mỗi ngày trong cuộc sống, kế đó họ xin cụ bí quyết để sống vui. Cụ trả lời rằng: “chẳng có bí quyết gì hết”, nếu có bí quyết gì đi chăng nữa nó cũng dễ như trở bàn tay, như uống nước lã vậy thôi. Đó là khi tôi thức dậy mỗi buổi sáng, tôi chỉ có hai điều để lựa chọn, một là sống an vui hạnh phúc, hai là sống lầm than khổ sở, dĩ nhiên là tôi đã chọn điều thứ nhất. Lạy Cha, chúng con lại có một ngày sống mới, đó là ngày sống mà mọi người trong gia đình như ông bà, cha mẹ và con cháu, tất cả đểu được mời gọi sống niềm vui của Tin mừng, niềm vui ấy nhiều khi chúng con phải sống như các thánh Tử Đạo cha ông chúng con đã từng sống trước đây Xin cho chúng con can đảm và trung thành sống trọn niềm vui ấy. Chúng con cảm tạ Cha cho tuổi già của ông bà, cha mẹ và chúng con cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam thân yêu nhân danh các thánh Tử Đạo. Amen.

49. Tử Đạo Việt Nam

Cuối thế kỷ 16 đạo Công giáo được rao truyền tại Việt Nam. Tới thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 thì đã có nhiều người Việt Nam được lãnh nhận triều thiên Tử Đạo. Các Ngài là những người đã vì Chúa mà cam chịu mọi cực hình kể cả sự chết. Trong số những vị Tử Đạo này đã có 117 vị được Giáo Hội dần dần phong lên hàng chân phước rồi sau được phong lên hàng hiển thánh. Về việc phong chân phước cho các ngài thì Đức Lêo XIII phong 64 vị, Đức Piô X phong 28 vị, Đức Pio XII phong 25 vị. Tất cả các vị này: gồm 8 Giám mục, 50 Linh mục, 15 Tu sĩ và 44 giáo dân đã được chính Đức đương kim Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong lên hành hiển thánh trong một buổi lễ rất long trọng được tổ chức tại Công trường Thánh Phêrô tại Roma cách đây đúng 10 năm tức là ngày 19-6-1987.

Đi vào chi tiết hơn một chút thì ta thấy trong số 117 vị có 37 Linh mục Việt Nam, 13 Linh mục ngoại quốc dòng và triều. Đáng nhớ hơn cả là cha Vinh sơn Liêm, Cha Phê-rô Nguyễn văn Lựu, Cha Gioan Đoàn trinh Hoan, Cha Philipphê Phan văn Minh nhất là Cha Andrê Trần an Dũng Lạc và Cha Phaolô Lê bảo Tịnh. Có thể nói các ngài là tinh hoa của hàng Giáo sĩ Việt Nam.

Ngay từ nhỏ cha Phaolô Lê bảo Tịnh đã có một đời sống rất đạo đức. Hồi mới được vào nhà trường để được đào luyện thành Linh mục Có lần Thầy đã trốn vào rừng để sống cuộc đời ẩn tu. Sau đó vì vâng lời Thầy đã bỏ chốn ẩn tu về học trở lại. Đang khi theo học khoa Thần học thì thầy bị bắt, bị giam cầm tra tấn gông cùm suốt 7 năm rồi cuối cùng bị đi dầy. Sau một thời gian Thầy được phóng thích. Thầy đã được chịu chức Linh mục sau đó, rồi vì nhu cầu của Chủng Việc Cha Lê bảo Tịnh đã được Bề trên đặt Ngài làm Giám Đốc. Cuộc đời của Ngài rất gương mẫu. Nhưng chỉ được một thời gian thì Ngài bị bắt trở lại, bị tra tấn hạnh hạ thật dã man rồi cuối cùng Ngài bị trảm quyết.

Còn Cha André Trần an Dũng Lạc thì bị bắt đi bắt lại tới 3 lần. Ngài được giáo dân rất thương mến cho nên mỗi lần bị bắt ngài lại được giáo dân chuộc ra. Sau ba lần thì Ngài không để cho chuộc nữa. Ngài vâng theo thánh ý Chúa…can đảm chịu chết để làm gương cho các tín hữu. Có một chi tiết khá đặc biệt là Ngài rất được cảm tình của đám binh lính và lý hình. Trước khi hành hình họ đã thành tâm xin lỗi ngài vì lệnh mà họ phải làm như vậy.

Về phía các Thầy giảng thì chúng ta thấy các ngài cũng không kém anh hùng. Các Ngài cũng rất sẵn sàng chịu mọi cực hình để được làm chúng cho Chúa. Trong số này phải nhắc đến Thầy Phêrô Đoàn cap Văn. Thần Văn đã già. Già nhưng họ cũng không nương tay. Thầy bị gông cùm, bị đánh đòn và bị bỏ đói cho đến chết. Bên cạnh đó có Tôma Trần văm Thiện. Thầy Thiện là mộ chủng sinh dự bị. Thầy quyết một lòng theo Chúa cho đến cùng. Đến khi bị điệu ra pháp trường quan toà còn dùng đủ mọi cách để cám dỗ thầy quá khóa kể cả việc hứa thưởng những bổng lộc lớn lao cho Thầy. Thế nhưng chẳng có gì có thể làm thầy lìa bỏ Chúa. Thầy đã chọn vinh quang nước trời hơn mọi thứ lợi lộc ở trần gian.

Sau cùng là 44 giáo dân Nam nữ ở mọi lứa tuổi thuộc đủ mọi thành phần giai cấp xã hội. Chúng ta hãy nhắc đến một số những tên tuổi đặc biệt. Trần văn Trung là một viên cai đội. Giuse Lê đăng Thị là một chưởng vệ. Giuse Nguyễn huy Mỹ là một lý trưởng. Chính người vợ của Ngài đã khuyến khích Ngài chịu chết để làm gương cho mọi người. Andrê Trần văn Trông là một binh sĩ trẻ. Ngài được chính Mẹ của mình đưa đến pháp trường và sau khi ngài chịu hành hình chính bà đã ôm hôn thắm thiết xác con mình. Việc làm của bà chẳng khác gì việc làm của Mẹ Maria khi Mẹ ôm xác Chúa Giêsu sau khi xác xủa Chúa được đưa từ trên cây Thánh giá xuống. Cũng phải nhắc ở đây một người đàn bà rất đặc biệt đó là bà Inê Lê thị Thành. Người ta vẫn thường gọi là bà Đê. Bà là người có công che giấu các Linh mục tại nhà mình. Khi bị bắt bà đã nhất định không bước qua cây Thập giá dù đã bị tra tấn rất dã man. Cuối cùng bà đã chết ở trong ngục.

Ngoài ra chúng ta cũng thể không nhắc đến một chi tiết này đó là trong số những vị Tử Đạo được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô tuyên phong lên hàng hiển thánh kỳ này có 8 Giám mục ngoại quốc. Trong sắc phong 117 vị tử đạo Đức Thánh Cha đã xử dụng một cụm từ rất chính xác. Ngài nói các vị tử đạo TẠI Việt Nam. Cụm từ đó làm cho các Giám mục ngoại quốc tham dự lễ tấn phong hôm đó rất cảm động. Trong số 8 vị đó thì có 3 vị nổi tiếng hơn cả. Đó là Đức cha Thể, Đức cha Y, Đức cha Xuyên. Đây là những vị mục tử nhân lành đã theo thật sát gót chân Thầy chí thánh hy sinh mạng sống của mình vì đoàn chiên. Đức cha Thể thì chết rũ tù. Đức cha Y thì cũng bị giam trong tù trước khi bị trảm quyết.. Đức cha Xuyên thì bị hình phạt rất man rợ đó là Ngài bị lăng trì….thịt xương bị xẻo bị cắt ra từng mảnh cho tới chết.

Chúng ta cũng nên nhắc lại đây một vụ sát hại thảm khốc xẩy ra ở gần chúng ta. Tôi muốn nói đến vụ thảm sát tại Bà rịa vào ngày 7-1-1862.

Vào năm 1861 số tín hữ tại Bà rịa có vào khaỏng hơn 2000 người. Cuộc sống được yên ổn cho đến tháng 8 năm 1861 nghĩa là cho tới khi quan tuấn vũ Biên Hòa ra chỉ thị cho quan phủ Bà rịa lập danh sách những người có đạo. Sau khi lập danh sách, nhưng người có đạo đếu bị khắc tự ở hai bên má: Một bên thì bị khắc hai tiếng “Biên Hòa”, bên kia thì bị khắc hai tiếng “Tả đạo”.

Tháng 9 năm đó người ta thấy bốn ngục giam được thiết lập. Đây là ngục dành riêng để giam giữ những người có đạo.

Ngục Dinh (Phước lễ) được lập ngay tại Bà rịa để giam 300 đàn ông.

Ngục Thơm ở Long Kiên gần đó để giam 135 người vừa đàn bà vừa trẻ em.

Ngục Thành ở Long điền cũng để giam vừa đàn bà vừa trẻ em. Số người ở đây là 140 người tất cả.

Ngục cuối cùng là ngục Đất đỏ (Phước thọ). Ở đây người ta giam 125 người cũng vừa đàn bà vừa trẻ em.

Như vậy chỉ tính ở Vùng Bà rịa cũng đã có đến gần 700 người bĩ bắt và bị giam. Cuộc sống bị giam cầm rật khổ. Mùa khô thì còn đỡ, đến mùa mưa thỉ cuộc sống lao tù thật rất khổ. Các tín hữu bị canh giữ nghiêm ngặt, nhiều nơi phải ăn uống và xử lý mọi việc có liên đến đời sống hằng ngày trong cùng một chỗ, rất là mất vệ sinh nhưng không còn cách nào khác. Đối với ba ngục giam giữ đàn bà và trẻ con thì tương đối được dễ hơn một chút.Chính vì thế mà Cha Trí mới có thế giả dạng làm người lái buôn nước mắm để vào tiếp tế cũng như ban các phép Bí tích cho bổn đạo.

Một việc rất không may là cuối tháng 12 năm 1861 thì Biên Hòa thất thủ. Quân nhà Nguyễn phải chạy về hướng Bà rịa. Tại đây họ cũng chỉ cấm cự được đến tháng ngày 7 tnáng 1 năm 1862. Trước khi rút đi họ ra lệnh phóng hỏa thiêu rụi tất cả các trại giam với tất cả những người bị giam ở trong đó. Họ canh giữ một cách rất cẩn thận. Ai đào thoát mà họ bắt được thì sẽ bị chém ngay lập tức. Dịp này trại Dinh bị thiệt hại nhiều nhất. Trong số 135 người bị giam tại đó thì đã có tới 106 người bị chết. Ba trại kia vì là đàn bà con trẻ cho nên những lính canh đỡ khắc nghiệt hơn. Một vài người lính còn nhân đạo hơn. Họ phá cửa cho những người bị giam trong đó được thoát thân. Chỉ trừ có trại Thơm ở Long Kiên là bị hại nhiều hơn cả. Lý do là tên cai ngục ở đó quá tham lam. Ông ta chặn những người ở đó để cướp của.

Tổng kết lại trong thảm họa này số những người giam ở bốn trại bị chết là 288 người. Trong số này có đủ mọi lứa tuổi:

Bà cụ Maria Nở ở Long điền 75 tuổi

Ông Giuse Vệ ở Phước lể cũng 75 tuổi.

Em Micae Giao, Phê-rô Ban, Carôlô Nhỏ ở Long Kiên và Long Điền mới chỉ có 10 tuổi.

Em Madalena Lợi ở Long Kiên và Maria Mới ở Đất đỏ mới chỉ được một tuổi.

Đặc biệt là hai cháu sơ sinh Antôn Trước và Antôn Sau. Đây là hai anh em sinh đôi trong trại Đất đỏ. Các cháu chẳng khác gì các tánh anh hài thời Chúa Giêsu vừa mới Giáng sinh.

Ngày hôm sau tức là ngày 8-1-1862 những nơi bị phóng hỏa chỉ còn là một đống tro tàn với những thi thê các vị tử đạo còn nằm ngổn ngang tại đó.

Cha Hòa và Cha Trí âm thầm lo mai táng cho các ngài. Hai cha đào 3 cái huyệt lớn bên ngục Dinh và an táng các đấng tử đạo trong ba cái huyệt này. Riêng các đấng bị chết ở ba ngục kia thì không có tài liệu nào nói rõ.

Ngày nay tại Bà rịa nơi an táng các ngài người ta vẫn còn thấy một tấm bia trên đó có khắc những dòng chữ này:

Ba trăm bổn đạo xác nằm đây

Những trông sống lại hưởng phúc đầy.

Vì Chúa tù, lao, dư ba tháng,

Cam lòng chịu cháy, chết chỗ này.

Lập mộ cùng táng chung một huyệt.

Giáo nhơn coi đó, nhớ hằng ngày.

Chúng ta là con cháu của các Ngài. Chúng ta hãy noi gương các Ngài.Noi gương yêu Chúa và yêu người. Noi gương can đảm không lùi bước trước những thử thách gian nan. Noi gương hy sinh không màng danh lợi, quyết một lòng trung tín với Chúa cho đến cùng. Lời Chúa nói ngày xưa vẫn còn như mãi nhắc nhở cho mọi người chúng ta:”Ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được ơn cứu độ”.

50. Tử Đạo Việt Nam

Hôm nay chúng ta vui mừng và cảm dộng mừng lễ các thánh anh hùng Tử Đạo Việt Nam. Việc mừng lễ hôm nay phải làm bộc phát lên trong lòng chúng ta niềm tự hào chan chứa. Chúng ta tự hào vì trong những trang sử của Giáo Hội Việt Nam chúng ta có những trong sử đầy chất anh hùng. Đây là những biến cố có tầm vóc không phải chỉ với chúng ta mà còn cả với Giáo Hội toàn cầu. Chính Đức Thánh Cha Lêô XIII trong sắc phong 64 vị tử đạo Việt Nam lên hàng chân phước ngày 27.5.1900 đã nói:”Đây là những chiến sĩ trung liệt và kiên cường không kém gì những chiến sĩ ngày xưa trong những thế kỷ khai nguyên của Giáo Hội “

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ II trong bài giảng ngày lễ tôn phong 117 vị anh hùng tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh cũng phát biểu tương tự như thế. Ngài nói: “ Từ năm 1533 tức là từ khi cuộc rao giảng Tin Mừng Kitô bắt đầu tại vùng Đông Nam Á, Giáo Hội Việt Nam trong suốt 3 thế kỷ đã phải chịu những cuộc bách hại liên tiếp nhau với một vai giai đoạn lắng dịu giống như các cuộc bách hại mà Giáo Hội tại Tây Phương đã chịu trong 3 thế kỷ đầu tiên. Đã có hàng ngàn tín hữu Kitô chịu tử đạo và rất nhiều người khác đã chết trong rừng núi, những vùng ma thiêng nước độc, nơi mà họ bị lưu đầy tới.

I. Sự kiện.

Hôm nay trên khắp mọi nẻo đường của đất nước, chúng ta vẫn còn thấy hiển lộ ra nhiều dấu tích đau thương nhưng rất hùng tráng này. Một trong các dấu tích sáng ngời nhất đó là Thánh địa Lavang mà mọi người chúng ta đều biết, nơi đây chúng ta mới kỷ niệm 200 năm ngày Mẹ hiện ra với con cái của Mẹ vào một trong những giờ phút đau thương nhất của những người con cái Mẹ trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này. Giờ đây tôi xin dành một ít phút để đi sâu vào một vài khiá cạnh làm nên những trang sử anh hùng đáng tự hào này.

1. Trước hết là thời gian và con số:

+ Thời gian không xa chúng ta lắm. Nó bắt đầu vào năm 1580 và chỉ kết thúc hoàn toàn vào năm 1888 có nghĩa là chỉ cách chúng ta hơn một thế kỷ và kéo dài gần 3 thế kỷ. 3 thế kỷ ba thế hệ của cuộc sống làm người.

+ Con số người chịu ảnh hưởng của cuộc bách hại này không nhỏ: Lịch sử cho chúng ta thấy những người chịu ảnh hưởng của cuộc bách hại rất lớn.

* Có khoảng 400.000 người bị lưu đầy, phát lưu và phân sáp.

* 130.000 người đã chết vì đạo trong số này đã có 117 vị được Giáo Hội chính thức tôn phong lên hàng hiển thánh vào ngày 19.6.1988 cách đây 12 năm.

2. Về các hình khổ: Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được

– Còn một chút nhân đạo như bị gông cùm, bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói.

– Nhẹ nhàng như bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng vv.

– Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết – tức là bị chặt đầu- bị xử giảo – tức là bị thắt cổ -, hay bị thiêu sống.

– Vô cùng man rợ và hiểm độc như bị xử lăng trì – phân thây ra từng mảnh hay là xứ bá đao.

Xin được dịch ra ở đây một đoạn được viết trong cuốn La Cochin-chine Religieuse về cái chết của Cha Cố Du theo kiểu bị xử bá đao.

Ngày 30-11-1835 họ chọn Thợ Đức làm pháp trường để xử Ngài.

Sáng sớm hôm đó, họ điệu ngài đến nơi hành hình. Bên một lò than đang cháy đỏ rực có 5 tên lính cầm 5 chiếc kìm sắt đã được nung đỏ.

Nghe lệnh, cùng một lúc cả 5 tên kẹp kìm nung đỏ vào mình ngài kéo ra những miếng thịt khét lẹt.

Họ vu cho ngài móc mắt trẻ con khi rửa tội. Làm điều ám muội khi cử hành lễ cưới và cho ăn thịt người khi rước lễ.

Sau đó họ tiếp tục gây thêm những thương tích nữa cho đến khi ngài bất tỉnh thì họ mới hành quyết.

Họ cột chân tay ngài vào cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Cha Du ngửa mặt lên trời cầu nguyện dâng mạng sống mình cho Chúa.

Sau hồi trống báo hiệu, hai tên lính cầm kìm kẹp vào ngực ngài kéo ra 2 miếng thịt nơi vú liệng xuống đất – một tên lính khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông – rồi đến bắp đùi thì chúng lấy kìm kéo ra rồi láy dao xẻo đứt từng miếng… làm cha rất đau đớn. Không được bao lâu thì ngài ngất đi, đầu rũ xuống và ngài về chầu Chúa lúc 17g ngày 30-11-1835

Cha chết rồi bọn lính chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi, cởi trói lật xác úp xuống rồi phân thây ra từng khúc bỏ tất cả vào thùng vôi. Đầu ngài họ đem treo 3 ngày ở giữa chợ rồi xay nát, bỏ chung với thùng vôi đựng xác ngài đoạn quăng cả xuống biển cho mất tích”

3. Bây giờ tôi xin nói thêm một chút về 117 thánh tử đạo đã được Giáo Hội phong lên hàng hiển thánh. Quá trình này đã được chuẩn bị khá lâu.

* Ngày 27-5-1900 Đức Thánh Cha Lêo XIII phong 64 vị lên hàng chân phước. Đây là lần đầu tiên.

* Ngày 20-5-1906 Đức Thánh Cha Pio X phong thêm 8 vị.

* Ngày 02-5-1909 cũng Đức Thánh Cha Piô X phong thêm 20 vị nữa.

* Ngày 29-4-1951 Đức Thánh Cha Pio XII phong 25 vị.

Trong 117 vị được phong chân phước có

8 Giám mục (Giám mục thuộc dòng Đaminh và 2 Giám mục thuọc Hội thừa sai Paris)

50 Linh mục (Gồm 37 là người Việt Nam, 8 thuọc Hội thừa sai Paris

và 5 thuộc dòng Đaminh)

15 thầy giảng

và 44 giáo dân thuộc đủ mọi thành phần xã hội: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v..v.

4. Xét theo loại hình phạt thì

* 79 vị bị trảm quyết tức là bị chặt đầu. Như vậy là con    số bị trảm quyết nhiều nhất

* 18 vị bị xử giảo tức là bị thắt cổ.

* 8 vị chết rũ tù

* 6 bị thiêu sinh

* 4 bị lăng trì – tức là phân thây ra từng mảnh

* 1 bị tử thương và

* 1 bị bá đao

5. Xét về thời gian thì

* 2 vị chịu tử đạo thời Trịnh Doanh

* 2 vị chịu tử đạo thời Trịnh Sâm

* 2 vị chịu tử đạo thời Cảnh Thịnh.

* 57 vị chịu tử đạo thời Minh Mạng

* 3 vị chịu tử đạo thời Thiệu Trị

* 51 vị chịu tử đạo thời Tự Đức

Kính thưa anh chị em tôi vừa lược lại một số những sự kiện Lịch sử còn in thật đậm trong Lịch sử Giáo Hội Việt Nam.

II. Bài học.

Bàn về cái chết của Gandhi một con người mà người dân Ấn độ lúc nào cũng kính trọng và coi ông như một vị thánh nhà văn hào Tagore đã viết: “Có lẽ thánh Gandhi không thành công, có lẽ thánh sẽ thất bại như Đức Thích Ca đã thất bại, như Đức Giêsu đã thất bại vì chưa hủy diệt được lòng ác độc của loài người. Nhưng loài người luôn phải nhớ tới thánh vì thánh đã đem đời mình ra để làm bài học cho muôn thế hệ mai sau”

1. Bài học thứ 1 có vẻ hơi tiêu cực một chút.

Anh chị em ai có dịp đi thăm cố đô Huế, vào thăm các lăng tẩm đặc biệt là Lăng Minh Mạng Và Tự Đức và nếu chúng ta hỏi những người coi sóc các lăng tẩm về vị trí của những ngôi mộ các vua được chôn ở trong đó thì người ta sẽ cho chúng ta biết sự thật này: Không ai biết họ được chôn tại vị trí nào. Theo truyền thuyết kể lại vì sợ người ta trả thù do lối sống quá tàn ác của mình cho nên những người thân với Minh Mạng và Tự Đức đã phải dùng tới việc “phi tang” bằng cách cho giết hết những người tham dự vào cuộc mai táng hai ông Vua này.

Trong bài diễn văn nổi tiếng đọc tại Hà nội ngày 17/11/2000 ông Bill Clinton, tổng thống Mỹ có nói một câu làm cho mọi người phải suy nghĩ: “Chúng ta không có thể sửa lại được quá khứ”.

Không biết khi con sống Minh Mạng và Tự Đức có thấy được cái sự nhục nhã mà họ để lại sau khi họ qua đời hay không. Những ông Vua mà khi chết còn sợ người ta quật mồ lên để trả thù! Vậy thì sống mà để làm gì?

Chúng ta hãy cố sống thế nào để hiện tại chúng ta đang sống không trở thành một quá khứ tủi nhục cho tương lai mà ngược lại phải trở nên bài học đáng tự hào cho hậu thế như các thánh tử đạo cha ông của chúng ta.

2. Bài học thứ 2: Giá trị của niềm tin.

Đức tin là quà tặng nhưng không của Thiên Chúa nhưng nhiều khi chúng ta không ý thức được giá trị của nó. Phải ở trong những hoàn cảnh Đức tin bị đe dọa con người mới thấy được Đức tin có một gía trị to lớn như thế nào.

Phaolô Mợi bị bắt bị đem ra xử.

Quan nói với Anh: “Anh đạp lên ảnh đi, tôi sẽ cho anh một nén bạc.

Phaolô Mợi không trả lời.

Quan nói tiếp: “ Vậy thì một nén vàng.”

+ Dạ bẩm quan chưa đủ.

– Vậy anh muốn bao nhiêu?

+ Bẩm quan lớn, quan lớn muốn cho tôi quá khoá thì quan lớn phải cho tôi đủ vàng bạc để tôi mua được một Linh hồn khác! Vâng làm sao mà có đủ vàng bạc để mua được một linh hồn!

3. Bài học về lòng trung thành.

Trong một bài diễn văn Hitler đã tuyên bố một câu làm nức lòng các chiến sĩ của ông. Ông nói: “Thế giới này sẽ thuộc về những kẻ gan dạ”

Nietszche: “Lao công của các bạn là chiến đấu. Hoà bình của các bạn là chiến thắng”

Victor Hugo: “Đồi Calvaire ở đầu đường và hào quang cũng xuất hiện ở đó”

Chính Chúa Giêsu cũng đã có lần tuyên bố: “Nước Trời phải dùng sức mạnh mà cướp lấy”

Còn Nguyên văn Lựu thì nói: “Đạo đã nhập vào xương vào tủy tôi, làm sao tôi có thể bỏ được “

Sẽ không có vinh quang cho nhưng ai không chịu chiến đấu.

Sẽ chẳng có chiến thắng cho những ai không dám ra chiến trường.

Sẽ không có phần thưởng cho những ai không chịu hy sinh vì chính nghĩa Nước trời.

Tôi xin được kết thúc bằng một lời tuyên xưng trung thành của thánh Phaolô: “ tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.

51. Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu rỗi

Hôm nay Giáo Hội Việt Nam mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, trước tiên chúng ta hãy hợp cùng các ngài để tạ ơn Chúa. Các ngài là cha ông của chúng ta đã từng sống trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này, và từng dấu chân của các ngài đã đặt trên các con đường chúng ta đang đi. Nói chung, các ngài là những con người như chúng ta, cùng một phong tục, một văn hoá như chúng ta. Và xét về mặt con người, các ngài cũng có những mặt tình cảm, mặt giới hạn, những yếu đuối như chúng ta. Nhưng các ngài đã trung thành với ơn Chúa cho đến cùng, bất chấp mọi gian nan thử thách, bất chấp những dã man và các ngài đã dùng cái chết thảm thương của mình để nói với tất cả con cháu và toàn thể thế giới rằng: “Chỉ có Thiên Chúa là Đấng đáng được tôn thờ và yêu mến mà thôi”.

Nhờ đâu mà các ngài được can đảm và mạnh mẽ như thế? Chính là nhờ ơn Chúa, vậy chúng ta hãy cùng với các ngài tạ ơn Chúa. Ngày hôm nay mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta hãy cùng chia vui với các ngài, vì những đau khổ chóng qua của đời này đã hết, số phận đời đời của các ngài đã được định đoạt. Các ngài hưởng nhan thánh Chúa đến muôn thuở muôn đời và không còn lo âu sợ hãi gì nữa, nhất là sợ mất Thiên Chúa. Vì từ nay Chúa chính là phần gia nghiệp của các ngài. Chúng ta hãy chia vui với cha ông của chúng ta và cùng vui mừng với Giáo Hội Việt Nam yêu quí của chúng ta, vì đã có những người con ưu tú đang sống trọn vẹn niềm vui, sự an bình và sung mãn của Nước Trời.

Mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay chúng ta cũng đừng quên cầu xin Chúa cho Giáo Hội, nhất là cho Giáo Hội Việt Nam thân yêu của chúng ta. Bởi vì hầu như bất cứ ở đâu và thời nào, Giáo Hội cũng luôn luôn bị bắt bớ và thách hại và những người con trung thành của Giáo Hội vẫn luôn chịu tử đạo. Nhất là ngày nay, sự tử đạo dần mòn vì bị trị áp đảo tinh thần. Lý do là vì những đường lối hướng dẫn của Giáo Hội trong mọi lãnh vực của đời sống con người luôn là ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa, luôn bênh vực cho những quyền căn bản của con người, để giúp tất cả mọi người không phân biệt màu da ngôn ngữ, văn hoá, chủng tộc… luôn sống đúng nhân phẩm của mình trong vũ trụ này, hầu chu toàn bổn phận làm con cái của Chúa.

Nhưng một thực tại không chối cãi được nơi trần gian này mà thánh Gioan đã ghi ngay trong những câu đầu Phúc âm của ngài, ngài viết: “Ánh Sáng chiếu trong bóng tối, nhưng bóng tối không chịu tiếp nhận ánh Sáng”. Và chính Chúa Giêsu, Ngài cũng đã quả quyết: “Ai thích làm những điều ám muội trong bóng tối thì ghét ánh Sáng”. Cho nên hầu như lúc nào lực lượng của bóng tối cũng tìm đủ mọi lý do để phủ nhận ánh sáng bằng cách nhân danh một nền văn hoá, nhân danh một cá nhân, một bè đảng trần thế, nhân danh một ý thức hệ để loại trừ Giáo Hội.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo Hội luôn vững tin vào Thiên Chúa và luôn nhớ rằng, chính Chúa Giêsu, Đấng Sáng Tập Giáo Hội đã nói với Simon con ông Giona, tức là Phêrô rằng: “Này con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa địa ngục sẽ không thắng nổi. Chúng ta hãy cầu xin cho những người con của Giáo Hội biết trung thành bền vững đi trong ánh sáng và hướng dẫn người khác luôn tiến bước trong ánh sáng của Giáo Hội. Đừng bao giờ hùa theo sức mạnh của bóng tối, đừng chạy theo cặn bã phù vân để bách hại Giáo Hội là Mẹ của mình.

Nhìn lại lịch sử của Giáo Hội, có một điều làm chúng ta an ủi là Giáo Hội vẫn trường tồn và phát triển qua bao nhiêu bách hại. Mặc dù các đế quốc quyết tâm tiêu diệt Giáo Hội, nhưng họ đã bị sụp đổ, các cá nhân vì những quyền lợi riêng tư đã thù ghét đàn áp Giáo Hội, nay đã nằm yên trong lòng đất lạnh và không còn ai nhắc đến nữa. Gần đây, các thế lực vô thần độc tài bài trừ Giáo Hội một cách khoa học và tinh vi cũng đã tan tành bể vụn ra từng mảnh trước mắt chúng ta.

Nhiều nơi sau thời bách hại đã qua, các tín hữu đã cùng hát lên với nhau Thánh Vịnh 125:

“Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về,

Chúng con thuở ấy dường như đang mơ.

Miệng cười thú vị làm sao,

Lưỡi dân rối rít xôn xao nỗi mừng.

Ai gieo trong lệ sầu,

Sẽ gặt trong hân hoan.

Ai vừa khóc vừa đi,

Đem hạt giống ra vãi,

Ắt sẽ trở về vui vẻ, mang theo bó lúa bên mình”.

Vì thế, chúng ta hãy cầu xin cho Giáo Hội Việt Nam đem hạt giống chôn vùi trong lòng đất, nhưng không phải để mục nát thối rữa, mà là để nảy mầm tươi tốt trong mùa xuân của dân tộc đang như con nhộng nằm trong kén, nhưng không phải để ngủ mê mà để âm thầm chuyển mình chờ ngày cánh kén tung bay thành con bướm nhởn nhơ với muôn màu muôn sắc trên cánh đồng đầy hoa tươi rực rỡ trên bầu trời trong mát.

Anh chị em thân mến!

Sau cùng, mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, mỗi người chúng ta hãy cầu nguyện cho chính bản thân và cho gia đình của mình, nhờ công nghiệp và lời cầu bầu của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Xin cho mỗi người, mỗi gia đình biết noi gương các thánh luôn trung thành yêu mến Chúa, sống đời đạo đức gương mẫu, để ngày kia chúng ta được sum vầy trong Nước Chúa, bên Các Thánh Tử Đạo cha ông của chúng ta.

Thật là đau khổ biết bao nhiêu khi chúng ta tường tượng thấy người thân yêu sẽ không cùng với chúng ta để hưởng hạnh phúc đời đời trong Nước Thiên Chúa, mà phải trầm luân muôn kiếp trong chốn tối tăm. Cho nên, yêu thương nhau thật sự chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau và luôn luôn khuyến khích, hướng dẫn nhau giữ đạo cho tử tế, thờ kính yêu mến Chúa hết lòng, để một ngày kia tất cả chúng ta cùng với các thánh ca khen danh Chúa mãi mãi muôn đời. Amen.

52. Đừng sợ–Lm. Nguyễn Minh Hùng

Anh em đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Nếu có ai giết được linh hồn thì Đấng đó phải là Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ làm như vậy. Người chỉ cứu rỗi chứ không bao giờ hành hạ con người. Chỉ có con người mới tàn sát nhau thôi. Mà con người dẫu có hành hạ nhau dã man cách mấy, vẫn chỉ là hành hạ nhau trên thân xác. Lời Chúa dạy Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn, trở thành lời an ủi, động viên niềm tin, niềm hy vọng của ta vào Chúa Giêsu: Người là Thiên Chúa mà con người còn không tha, thì huống hồ là con người với nhau.

Người Do thái nghĩ rằng, khi giết Chúa Giêsu, họ đã khử trừ được một thứ tôn giáo mới. Và do cái chết thê thảm đó, sẽ làm cho các môn đệ thoái chí, buộc lòng phải giải táng. Nhưng họ lầm. Họ lầm vì họ không biết rằng, họ chỉ có thể giết được thân xác của Giêsu, chứ không giết được linh hồn Người. Họ lầm vì họ chỉ có thể giết được thân xác Giêu, nhưng chính Thiên Chúa nơi con người Giêsu ấy, làm sao giết được! Họ lầm vì họ không ngờ rằng cái thân xác mà họ treo trên cây thập giá đó đã sống lại chỉ trong một thời gian ngắn: trên dưới 50 tiếng đồng hồ. Bởi vì loài người không thể giết Thiên Chúa, nên Kitô giáo vẫn tồn tại, đạo Chúa Kitô vẫn không ngừng phát triễn.

Các thánh tử đạo Việt Nam cũng vậy. Một lòng trung kiên kính thờ Thiên Chúa. Sợ Thiên Chúa chứ không sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Trước mặt vua quan, các ngài đã khẳng khái tuyên xưng đức tin của mình, sẵn sàng dâng hiến mạng sống của mình. Mỗi người chỉ có một thân xác, một hơi thở, một mạng sống, mất đi là không còn có mặt trong cuộc đời nữa. Các thánh tử đạo biết rõ điều đó, nhưng vì đức tin: tin vào Chúa Giêsu, Đấng đã chết và sống lại, các thánh không sợ chết, quyết tâm dâng hiến mạng sống để tôn thờ Chúa đến cùng.

Còn vua quan, cũng giống những nhười Do thái trước kia: tưởng giết Chúa Giêsu là xong chuyện. Vua quan tưởng rằng bách hại và giết chết người có đạo là xóa được một tôn giáo mới, nhưng họ cũng lầm y như những người Do thái vậy: chỉ giết được thân xác chứ không giết được linh hồn người có đạo. chỉ giết được người có đạo chứ không thể giết chính Thiên Chúa của người có đạo. Các vua, các quan càng ra sức bách hại và cấm đạo triệt để bao nhiêu, thì trong hoàn cảnh trốn tránh hết sức khó khăn, đức tin của người tín hữu càng mạnh mẽ, càng kiên vững bấy nhiêu. Gần 3 thế kỷ bắt đạo, có lúc gay gắt, có lúc nới lỏng, thì 3 thế kỷ hãi hùng mà chính nggười Việt Nam sát hại nhau đó, đã giết chết khoản 150 ngàn người Việt Nam Công Giáo. Điều đó chứng tỏ trong khó khăn, đức tin không lùi bước mà sẵn sàng đương đầu với khó khăn đó. Con số 118 vị tử đạo được tuyên phong trên bàn thờ chỉ là một phần nhỏ, chỉ là con số tượng trưng. Ba thế kỷ bắt đạo, đạo Công Giáo không mất mà vẫn tồn tại, và đang phát triển. Cho nên Lời Chúa: Anh em đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn đúng vô cùng.

Mừng lễ Các Thánh Tử Đạo hôm nay, bạn và tôi tự hào vì mình là con cháu các thánh, các thánh là tổ tiên của mình. Tự hào là con cháu các thánh, bạn cũng như tôi càng phải sống đức tin trung kiên như lời Chúa dạy: Anh em đừng sợ. Cái đừng sợ của chúng ta hôm nay đó là ý thức đức tin từ những việc làm hết sức nhỏ nhặt hằng ngày. Ví dụ làm dấu Thánh Giá trang nghiêm. Tôi thử hỏi một điều để mọi người suy nghĩ: mỗi khi vào tiệm ăn, mình có dám tuyên xưng đức tin bằng dấu thánh giá trước khi bưng một tô phỡ hay cầm một dĩa cơm không? Từ những việc xem ra rất nhỏ nhặt ấy lại là hành động tuyên xưng đức tin rất quí giá! Tại sao có những việc lớn lao ta lại làm được, còn những việc rất nhỏ bé như thế lại không thể được? Bao hàm trong cái không thể đó, là sự sợ hãi: sợ người ta thấy, người ta biết mình có đạo, sợ người ta cười Những cái sợ không đáng sợ lại là thực tế của người Công Giáo hôm nay. Ngày xưa tuyên xưng đức tin như thế, các thánh đã trả bằng giá máu, nhưng các ngài vẫn kiên tâm, không sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Ngày nay có ai giết ta đâu tại sao ta lại không giữ nổi những điều căn bản nhất mà cha ông đã làm? Tôi xin gởi lại câu hỏi này để đánh động lương tâm chúng ta.

53. Lửa yêu–Trầm Thiên Thu

Lửa rất mềm mà cũng rất mạnh. Một đốm lửa có thể dập tắt bằng một hơi thổi nhẹ hoặc làn gió nhẹ, nhưng ngọn lửa lớn thì rất khó dập tắt. Lửa càng chia sẻ càng tăng thêm nhiều. Và “lửa yêu” cũng vậy!

Máu Thánh của Đức Kitô đã đổ ra vì thương xót và cứu độ nhân loại. Nhờ đó mà có nhiều người không “tham sanh, úy tử”, dám liều mạng sống vì Chúa. Đó là những nhân chứng đức tin, là các vị tử đạo. Chính máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống sinh các tín hữu. Việt Nam là quốc gia có hằng trăm ngàn nhân chứng đức tin đã xả thân vì đức tin Kitô giáo. Các ngài cũng là những người có cuộc sống bình thường như chúng ta, nhưng có cách sống khác thường, dù thời đó Việt Nam mới nhận biết đức tin Kitô giáo chưa được bao lâu.

Thánh Anrê Phú Yên (1625-1644) mới rửa tội được 4 năm, thế nhưng đức tin của “chàng trai trẻ” đã trưởng thành nên mới có thể thí mạng vì Đức Kitô khi mới 19 tuổi đời. Thánh Anê Lê Thị Thành (1781-1841), thường gọi bà Đê, là một bà mẹ Công giáo bình thường, nhưng lại có một đời sống đức tin khác thường, để rồi dám chết vì Đức Kitô. Biết tin vua Thiệu Trị ra lệnh xử trảm, Thánh Matthêu Lê Văn Gẫm (1813-1847) vẫn thản nhiên nói: “Tôi có ăn trộm ăn cướp gì đâu mà sợ, mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”.

Và còn hằng trăm ngàn người Công giáo Việt Nam đã chết vì Đạo Chúa, điều mà Đức Kitô đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Và đó cũng là một trong Bát Phúc: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:10). Chúng ta quen đọc kinh Tám Mối Phúc Thật: “Phúc thay ai chịu khốn nạn vì đạo ngay ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được Nước Đức Chúa Trời làm của mình vậy”.

Với người đời, những cái chết đó là dại dột, là ngu xuẩn; nhưng với Thiên Chúa lại là sự khôn ngoan. Chúa Giêsu đã giải thích: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10:28). Thật vậy, tác giả sách Khôn Ngoan nói: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa” (Kn 3:1). Đối với những người yêu Chúa thì đau khổ chẳng nghĩa lý gì.

Như kiểu nói của người Việt là “gậy ông đập lưng ông”, tác giả sách Khôn Ngoan nói: “Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi; khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng tưởng là họ bị tiêu diệt, nhưng thực ra, họ đang hưởng an bình. Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử” (Kn 3:2-4). Tất cả xem chừng là những nghịch lý, nhưng lại là nghịch-lý-thuận. Mọi khổ hình dã man nhất của loài người đối với các nhân chứng đức tin cũng chỉ là cách “chịu sửa dạy đôi chút”, và rồi “họ sẽ được hưởng ân huệ lớn lao” (Kn 3:5). Đó mới là mục đích của họ!

Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng với Ngài: “Ngài đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy” (Kn 3:6-7). Rồi họ sẽ được quyền “xét xử muôn dân và thống trị muôn nước”, chính “Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời” (Kn 3:8). Thiên Chúa giúp họ lật lại thế cờ, chuyển bại thành thắng, đúng như lời Chúa hứa: “Những ai trông cậy vào Ngài, sẽ am tường sự thật; những ai trung thành, sẽ được Ngài yêu thương và cho ở gần Ngài, vì Ngài ban ân phúc và xót thương những ai Ngài tuyển chọn” (Kn 3:9).

Tác giả Thánh vịnh vui mừng trong niềm tín thác: “Chúc tụng Chúa là núi đá cho tôi nương ẩn, là Đấng dạy tôi nên người thiện chiến, luyện thành tay võ nghệ cao cường” (Tv 144:1). Tại sao? Vì “Chúa là đồng minh, là đồn luỹ che chở, là thành trì bảo vệ, là Đấng giải thoát tôi. Chúa là khiên mộc cho tôi ẩn núp, Người bắt chư dân quy phục quyền tôi” (Tv 144:2). Chẳng có gì có thể làm cho người tôi trung phải khiếp sợ, họ vẫn thản nhiên tôn thờ Chúa và vững tin: “Lạy Chúa Trời, xin dâng Chúa một bài ca mới, thập huyền cầm, con gảy đôi cung. Chính Ngài cho các vua thắng trận, cứu mạng Đa-vít, kẻ trung thần, khỏi lưỡi gươm ác nghiệt” (Tv 144:9-10).

Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?. Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8:31-32). Thánh nhân tiếp tục chất vấn một loạt: “Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta? Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8:33-35). Chính những câu hỏi đó đã ngầm chuyển tải những câu trả lời.

Có lời chép: “Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh”. Nhưng trong mọi thử thách ấy, “chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8:37). Thánh Phaolô tin chắc: “Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:39). Tất cả chỉ là “số không”, và chẳng gì cản bước hoặc ngăn cấm được người ta yêu mến Thiên Chúa. Lúc này “lửa yêu” đã bùng cháy, không gì có thể dập tắt!

Trong một lần rao giảng, Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23). Điều kiện “theo Chúa” vừa dễ, vừa khó. Lửa yêu của ai mạnh thì là dễ, nhưng lửa yêu của ai yếu thì là khó. Chính người đời cũng ví von: “Tình yêu trong cách xa như ngọn lửa trong gió: Gió thổi tắt ngọn lửa nhỏ, nhưng thổi bùng ngọn lửa lớn”.

Chúa Giêsu nói thêm: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9:24). Đặc biệt là cách đặt vấn đề của Ngài: “Người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?” (Lc 9:25). Cách nói “nghi vấn xác định” là cách xác định mạnh mẽ hơn.

Rồi Ngài kết luận: “Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần” (Lc 9:26). Rất rõ ràng. Rất mạch lạc. Rất dễ hiểu. Nhưng Ngài vẫn tôn trọng tự do của mỗi người, chứ Ngài không hề ép buộc bất kỳ ai.

Lạy Thiên Chúa, xin thêm đức tin-cậy-mến và lòng can đảm cho chúng con, và giúp chúng con biết noi gương sáng các nhân chứng đức tin là tiền nhân của chúng con. Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin nguyện giúp cầu thay chúng con hôm nay và mãi mãi, nhất là trong Năm Đức Tin này. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

54. Sống Đức Tin là làm chứng–Jos. Vinc. Ngọc Biển

Hôm nay, chúng ta hân hoan, tự hào và hãnh diện khi mừng kính trọng thể lễ các thánh tử đạo Việt Nam. Với con số 118 đấng đã được Giáo Hội tuyên phong và tôn kính, đây là con số đông đảo nơi sổ bộ các thánh trong Giáo Hội hoàn vũ. Tuy nhiên, còn hàng trăm ngàn đấng chưa được tuyên phong, nhưng các ngài đều mang một mẫu số chung, đó là chết vì Chúa để làm chứng cho đạo của Chúa là đạo thật.

Như vậy, mỗi khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, thiết tưởng chúng ta nên gợi lại những gương sáng của các ngài để như một lời nhắc nhớ chúng ta về tấm gương anh dũng qua đời sống chứng tá của các thánh, đồng thời như một lời mời gọi mỗi chúng ta hãy noi gương các bậc tiền nhân qua đời sống đức tin hiện nay.

1. Các ngài là những người đã sống Tin Mừng yêu thương

Trong rất nhiều nhân đức cao đẹp của các thánh tử đạo Việt Nam, thì nhân đức yêu thương, tha thứ của các ngài là nhân đức đi đầu, tiên phong trong hàng loạt các nhân đức. Các ngài đã noi gương Chúa Giêsu để yêu và yêu cho đến cùng, yêu đến nỗi chấp nhận chết để chứng tỏ tình yêu của mình vào Thầy Chí Thánh mà các ngài đã tin theo (x.Ga 15,13).

Khi sống và diễn tả tình yêu ấy, chúng ta thấy có thánh y sĩ Phan Đắc Hòa. Ngài đã sẵn sàng chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, sẵn lòng cứu giúp những người túng thiếu. Hay thấy được nỗi đau khổ của cái nghèo hoành hành nơi dân làng, các ngài đã không chịu ngồi yên trong khi nhìn thấy cảnh người anh em đau khổ, đói khát, nên đã chấp nhận vất vả, tăng gia thêm để có của dư giả nhằm giúp anh chị em đang lâm cảnh nghèo túng, trong số đó, phải kể đến thánh Martinô Thọ, ngài sẵn sàng trồng thêm vườn dâu để có thêm thu nhập giúp người nghèo. Cụ trùm Đích thì thường xuyên góp nhặt tiền bạc để đi thăm viếng trại cùi và nuôi nấng những người dịch tả trong vùng. Còn với quan Hồ Đình Hy, ngài luôn giúp đỡ những người bơ vơ, mồ côi ngay ở trong nhà, và khi họ qua đời thì lo an táng đàng hoàng như một người bình thường.

Đỉnh cao của tình thương ấy nơi các ngài là yêu luôn cả những người thù ghét mình. Tình yêu của các ngài là một tình yêu không biên giới. Lời của Chúa Giêsu trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ; vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 43) luôn thường trực trong suy nghĩ, hành động của các thánh. Về điểm này, chúng ta thấy toát lên chân dung của cha thánh Hoàng Khanh, ngài đã sẵn lòng chữa bệnh cho cả những viên cai ngục trong tù…

Các ngài bỏ qua tất cả, không nghĩ cho riêng mình, không còn lằn ranh giữa bạn và thù, bởi vì: “tận cùng của tình yêu là yêu không giới hạn”.

2. Các ngài là những người sống và chết vì sự thật

Có nhiều cái chết và cách chết. Những giá trị của cái chết cũng hoàn toàn khác nhau nhờ vào thái độ của mỗi người. Nhưng chấp nhận cái chết vì sự thật, vì công lý thì thật là điều cao thượng.

Trong Cựu Ước, có cụ Eleazaro, cụ là người cương trực, không chấp nhận giả vờ ăn thịt cúng để được tha (x. 2 Mac 6, 18-31). Lời dụ dỗ giả vờ bỏ đạo để được tha và thăng quan tiến chức là những chiêu bài mà nhà cầm quyền thời bấy giờ thường xuyên dùng để khuyên dụ các ngài. Có những đấng nếu chỉ khai mình là lương y chứ không phải là linh mục thì sẽ được tha ngay. Trong số đó, phải kể đến thánh Lê Tùy, Đỗ Yến, Hoàng Khanh, Nguyễn Văn Hưởng, Lê Bảo Tịnh… Các ngài đã chấp nhận cái chết để chứng minh cho chân lý và sứ vụ của mình.

Rồi có những đấng các quan chỉ yêu cầu nhắm mắt, giả bộ bước qua thập giá là sẽ được tha như thầy giảng Nguyễn Cần chẳng hạn, thầy đã được quan gợi ý như thế, nhưng ngài đã nói: “Thưa quan, mắt thì nhắm được, chứ lòng và trí khôn không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm”. Thua keo này, các quan đã bày keo khác! Có những đấng, họ chỉ yêu cầu đi vòng quanh thánh giá và các quan sẵn sàng tha cho vì coi đây như là hình thức bỏ đạo. Nhưng các ngài đã khẳng khái khước từ. Trong số này có thánh Phan Văn Minh, các thầy giảng Hà Trọng Mậu, Bùi Văn Úy và các anh Nguyễn Văn Mới, Nguyễn Văn Đệ, Nguyễn Văn Vinh.

Như vậy, mặc cho những lời đường mật hứa hẹn. Các ngài đã cương quyết không thỏa hiệp. Các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết, không bước qua thập giá, hoặc bất cứ hình thức nào được trưng ra dưới chiêu bài “đánh lận con đen”. Các ngài đã chấp nhận cái chết để làm chứng cho sự thật, công lý.

3. Các ngài là người sống niềm hy vọng Phục Sinh

Chúng ta nhớ lại trong thư gửi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đã viết: “Nếu chết là hết, thì quả thực chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ” (x. Cr 15,19). Thật vậy, vì tin vào Đức Kitô, Đấng đã được “Thiên Chúa làm cho […] sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại” (1 Cr 6,14). Vì thế, các thánh tử đạo Việt Nam luôn coi cái chết như là hy lễ cuối cùng và đẹp nhất dâng lên cho Thiên Chúa để được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc Trên Trời. Niềm tin này đã được thày giảng Hà Trọng Mậu đại diện cho những người bị bắt thưa với quan rằng: “Thưa quan, chúng tôi mong ước về bên Chúa như nai mong tìm thấy suối vậy”; hay như quan Án Khảm, ngài đã hé mở cho mọi người đang đứng chung quanh mình về một cuộc sống hạnh phúc trên Thiên Quốc khi nói: “Cha con chúng tôi hôm nay vào Nước Thiên Đàng đây”; hoặc như thánh linh mục Nguyễn Văn Hạnh thì nói: “Anh em ở lại, chúng tôi đi về Thiên Đàng nhé”; còn thầy giảng Nguyễn Đình Uyển thì đã bình tĩnh và dõng dạc tuyên xưng niềm tin tuyệt đối vào mầu nhiệm phục sinh khi nghe quan quát lớn: “Mày không bước qua, tao sẽ chém đầu mày” thầy điềm tĩnh trả lời: “Thưa quan, nếu tôi bị chém chết, thì tôi mới hy vọng được phục sinh với Chúa Kitô”. Khi phải lựa chọn giữa sự sống trần gian và cuộc sống vĩnh cửu, cha thánh Nguyễn Văn Xuyên đã nói một cách xác tín rằng: “Thưa quan, tôi chọn cái chết để được sống đời đời, hơn là nghe quan sống thêm ít lâu rồi muôn đời bị tiêu diệt”. Rồi như hạt lúa gieo vào lòng đất, chấp nhận mục nát đi để trổ sinh một mùa lúa bội thu, cha thánh Lê Bảo Tịnh đã nói: “Thân xác tôi đây, các ông muốn làm gì thì làm, tôi sẵn sàng không oán thán, nó chết đi, nhưng mai này sẽ sống lại vinh quang”. Quả thật, không có gì tách các ngài ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Mặc cho đòn vọt, gông cùm và ngay cả cái chết.

4. Cái chết của các ngài là lời tạ ơn

Cuối cùng, cuộc đời, sứ vụ và cái chết của các ngài là một bài ca tạ ơn. Tạ ơn Thiên Chúa đã tác tạo nên mình, cám ơn những bậc sinh thành đã dày công dưỡng dục và như một gương sáng cho giáo dân noi theo. Tâm tình này đã được thánh Giám Mục Giuse Diaz Sanjurjo An diễn tả khi tới giờ hành xử đã đến, ngài nói: “Tôi xin gửi quan 30 đồng tiền để xin quan một ân huệ: xin quan đừng cho chém tôi một nhát. Nhưng tôi xin chém tôi 3 nhát: Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Chúa đã dựng nên tôi, và đưa tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ đã sinh thành ra tôi. Còn nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí dù có phải chết cho đức tin, theo gương vị chủ chăn của mình. Và như thế họ đáng lãnh phần hạnh phúc cùng các thánh trên Trời”. Với các thánh Phạm Khắc Khoan và hai thày Nguyễn Văn Hiếu và Đinh Văn Thanh, các ngài đã chia bè và hát kinh Tạ Ơn “TE DEUM” bằng tiếng Latinh ngay trong nhà giam. Rồi khi ra pháp trường để chịu tử hình, cha Khoan xướng ba lần lời ALLÊLUIA, mỗi lần với cung giọng cao hơn. Hai thày cũng lập lại ALLÊLUIA, ALLÊLUIA, ALLÊLUIA ba lần như đêm vọng phục sinh vậy.

Có được tâm tình đó là vì các ngài đều xác tín rằng: “Đối với các ngài, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”, vì thế “Trong mọi thử thách, các ngài đã toàn thắng nhờ Đấng yêu mến các ngài” (x. Rm 8, 37). Và, giờ chết của các ngài là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu tuyệt đối mà cha ông chúng ta đã dâng lên Thiên Chúa như của lễ tinh tuyền thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Thật vậy: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo? […] sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8, 35-39).

Cuộc tử đạo của các ngài được ví như người nông dân đã vất vả ra đi gieo giống, để rồi hôm nay hân hoan vì thấy một vụ mùa bội thu: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau sẽ khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo. Lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 125,6-7).

Như vậy, khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy cùng với các ngài tạ ơn Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã yêu thương các ngài đặc biệt. Chúng ta cũng ngước lên các ngài để chiêm ngưỡng, noi theo những nhân đức anh hùng, can trường của các ngài để lại hầu mai sau cũng được hưởng hạnh phúc với các ngài trong Cõi Trường Sinh.

Bài học cao quý nhất của các ngài để lại không phải là bài học hận thù, chia rẽ, không phải là ích kỷ nhỏ nhen, không phải là tự phụ kiêu căng, nhưng là bài học của tình yêu, của bao dung, vị tha và khiêm nhường. Sống được như thế là chúng ta đang làm chứng cho Chúa và đang sống niềm hy vọng phục sinh một cách rõ nét nhất.

Mong thay, mỗi khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta cùng với các ngài hát lên bài ca Tạ Ơn “TE DEUM” ngay trong cuộc sống hiện tại của mình.

Lạy Chúa, khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, xin Chúa cho chúng con xác tín rằng: quê hương của chúng con ở Trên Trời, vì thế chúng con chỉ có một điều duy nhất là làm mọi việc vì Chúa và vì phần rỗi của mình cũng như tha nhân, qua đó biết khước từ những điều bất chính, để sau này chúng con được chung hưởng phúc vinh quang với các thánh trên Thiên Quốc. Amen.

55. Các thánh Tử Đạo Việt Nam là người sống”đạo” yêu nhau–Jos. Vinc. Ngọc Biển

Cách đây ít lâu, có một bạn trẻ ngoài Công Giáo hỏi tôi rằng: “Này anh, anh cho em hỏi bên đạo Công Giáo các anh tôn thờ những người mà gọi là thánh tử đạo, vậy họ là ai mà phải thờ”[1].

Lúc đó tôi đã trả lời cho bạn trẻ đó rằng: “Các thánh tử đạo chính là những con người như chúng ta, nhưng các ngài đã theo, sống và làm chứng cho đạo của mình theo là đạo thật, trong khi đó vua quan thời đó lại cho là tà đạo nên cấm và bắt bớ. Ai không chịu bỏ đạo Giatô thì giết, và các ngài đã bị giết vì không chịu bỏ đạo”. Sau đó bạn trẻ đó lại hỏi tiếp: “Khi bị bắt và giết như thế thì các vị tử đạo và người Công Giáo hiện nay có căm thù những người đã làm hại mình không?”. Tôi trả lời: “Không những không căm thù, mà các thánh tử đạo và ngay cả chúng tôi đã yêu và sẽ yêu họ nhiều hơn. Bởi vì cha ông chúng tôi và cả chúng tôi đã, đang đi theo “Đạo Yêu Nhau”[2];[3]. Bạn trẻ nghe đến đây thì tỏ vẻ ngỡ ngàng.

Đúng vậy, ngỡ ngàng là phải. Đạo gì mà lại là “Đạo Yêu Nhau”. Tại sao các ngài lại được gọi như vậy? Thưa bởi vì các ngài đã noi theo gương Đức Giêsu, Ngài là Chúa và là Thầy của mình đã sống và chết vì yêu. Tình yêu đó được khởi đi từ Thiên Chúa Cha: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Đức Giêsu xuống trần gian chính là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, cả cuộc đời và sứ mạng của Ngài đều quy về tình yêu và dạy cho các môn đệ và mọi người bài học về tình yêu: “Đây là Điều Răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); Ngài nói tiếp: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12,33), bởi vì: “Không có tình yêu nào quý hơn tình yêu của người hiến mạng vì người mình yêu” (Ga 15,13).

Khi soi chiếu cuộc đời của mình vào trong mầu nhiệm tình yêu của Đức Giêsu, các ngài đã rút ra được một định nghĩa về Đấng mà các ngài yêu mến và tin theo, định nghĩa đó là: “Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 4,16). Chính vì thế các thánh tử đạo của chúng ta đã đã sống và minh chứng cho mọi người biết về Thiên Chúa là Tình Yêu qua chính cuộc sống của mình: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).

Trải qua suốt thời kỳ bách hại đạo, các thánh tử đạo là những người đã dám chấp nhận cái chết vì tình yêu và niềm tin để minh chứng Đạo mà các ngài theo là Đạo thật, là Đạo yêu thương. Quả thật, cây đức tin đã được các ngài vun xới và phát triển. Tuy nhiên, cây đức tin đó được lớn lên ngay trong thử thách và đau thương: hơn 300 Hội Thánh Chúa tại Việt Nam đã chia sẻ nỗi thăng trầm của quê hương, thì cũng là hơn 300 năm Hội Thánh được lớn lên trong hồng ân của Thiên Chúa[4].

Ngoài việc làm chứng bằng cả mạng sống, các ngài còn nhân chứng về chính nội dung Tin Mừng và tìm mọi cách để loan báo Tin Mừng ấy với vua quan thời bấy giờ. Vậy nội dung Tin Mừng mà các ngài làm chứng là gì?

Các ngài là những người luôn trung thành với Chúa, sẵn sàng đón nhận cái chết để minh chứng niềm tin của mình vào đạo thật: “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2Tm1,12). Vì thế, các ngài luôn tin tưởng, phó thác trong tay Chúa: “Mọi âu lo hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em” (1 Pr 5:7). “Người ban cho mọi loài sự sống, hơi thở và mọi sự” (Cv 17,25). “Chính nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17,28); “Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và qui hướng về Người” (Rm 11,36:) và các ngài xác tín thật mạnh mẽ: “Chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8:37). Hay: “Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:39). Chính vì vậy mà càng bị đòn vọt nhiều bao nhiêu thì các ngài lại vui mừng bấy nhiêu. Những trận đòn chí tử không làm các ngài nản chí, sờn lòng, mà trái lại các chứng nhân của chúng ta còn lấy thế làm hạnh phúc, vì được hiệp thông với Đức Kitô chịu đóng đinh[5]. Các ngài luôn nhớ Lời Chúa phán: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế. (Mt 5, 10-12). Và đây là thước đo sự trung thành của người môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23); và như trở thành quy luật: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9:24); cuối cùng: “Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần” (Lc 9:26). Như vậy, các ngài đã chấp nhận tinh luyện cuộc đời của mình như thử vàng trong lò lửa, khi chấp nhận tinh luyện như thế, các ngài được đón nhận như của lễ toàn thiêu. Quả thật, khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, các ngài đã rực sáng như những vì sao trên vòm trời và như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy (x. Kn 3:6-7). Và các ngài thật xứng đáng lãnh nhận phần thưởng Nước Trời, vì đã sống trung thành với Chúa đến cùng. Cái chết của các ngài đã không đi vào quên lãng, bởi vì: Linh hồn các ngài ở trong tay Chúa, đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Trước mặt người đời và những người không hiểu biết thì hình như các ngài đã chết và đi vào cõi tiêu diệt. Không phải vậy, các ngài đang sống trong bình an. Vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu (x. Kn 3,1-9).

Các ngài cũng là những người yêu nước; kính trọng vua quan, nhưng không vì thế mà bỏ đạo:

Có thể nói, các thánh tử đạo là những người rất mực yêu nước như bao người yêu nước khác và kính trọng vua quan hết lòng. Là thần dân trong nước, các tín hữu sẵn sàng thi hành nghĩa vụ công dân, từ thuế khóa cho đến gia nhập quân ngũ, điều này đã được chứng minh qua cuộc sát hạch thân thế và tôn giáo của các binh lính tại tỉnh Nam Định, năm 1838, nguyên tại tỉnh Nam Định, quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh đã tụ tập được 500 binh sĩ Công giáo, để rồi bắt đạp lên Thánh Giá[6].

Cũng vậy, chốn quan trường, theo chiếu chỉ tháng 9-1855 ra lệnh sàng lọc các quan Công Giáo, cấm đạo đồ đi thi hay nhận chức vụ trong làng trong tổng[7], thế mà sáu năm sau (1861), trong một đợt thanh trừng, triều đình còn bắt được 32 viên quan[8] và đã cấm bỏ đạo, nhưng phần đông các ngài đã khước từ. Khi khước từ bỏ đạo như vậy, các ngài đã bị tra hỏi, bị đòn vọt đau đớn, nhưng các ngài vẫn rất ôn tồn nhã nhặn, thưa gửi đàng hoàng. Bởi lẽ, các ngài được Thánh Thần Thiên Chúa dạy cho biết phải nói thế nào. Vì có Chúa ở cùng, nên các ngài không hề sợ hãi, ngược lại, thái độ ôn tồn và kiên trì là đặc trưng chung của các thánh tử đạo Việt Nam. Điển hình như linh mục Nguyễn Văn Tự đối đáp với quan tòa: “Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được “[9]. Giám mục Alonso Phê trong thư chung năm 1798 xác định khí giới đánh giặc bách hại “chẳng phải là súng ống gươm giáo đâu, mà là đức tin, lời cầu nguyện và đức bác ái”[10]. Giám mục Hemosilla Liêm nhắc nhở các tín hữu phải tuân giữ luật nhà phép nước, còn nếu bị vu cáo tội chính trị thì cứ an tâm, vì Đức Giêsu xưa từng bị dân Do Thái lấy cớ chính trị để giết (x. Ga 19,12). Ngài nói tiếp: “….Phô con đừng hòa tập vuối giặc, đừng nghe chúng nói dối dá đấng ấy đấng khác sai chúng nó, vì cái ấy là không hẳn”[11]. Làm được điều đó là vì các ngài luôn xác tín rằng mọi sự đều không nằm ngoài thánh ý Chúa. Vì thế, những người làm khổ mình là những tác nhân trong chương trình quan phòng của Chúa. Nên thái độ của các ngài là: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”(Lc 23,34). Tuy nhiên, lòng kính trọng phải được xây dựng trên nền tảng sự thật, tức là nếu sự kính trọng mà trái với lương tâm, đức tin và chân lý của mình thì các ngài cũng khẳng khái khước từ cách dứt khoát: khi vua Minh Mạng có ý định ban đặc ân làm quan cho các vị thừa sai, linh mục Gagelin Kính đại diện anh em từ chối đặc ân đó, ngài nói: “Tuy nhiên, những việc đó nào có thể dung hòa với nhiệm vụ linh mục của tôi”[12]. Hay như binh sĩ Trần Văn Trung, sẵn sàng đi lính để đáp lại lệnh truyền của vua, nhưng phải bỏ đạo trước khi đi lính thì đã không chấp nhận, ngài nói: “Tôi là Kitô hữu tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ” [13].

Các ngài còn là những người luôn sống nhân ái, yêu thương hết mọi người:

Có lẽ điều nổi bật nhất nơi các vị tử đạo của chúng ta là tình bác ái, các ngài luôn yêu thương hết thảy mọi người, bất luận họ là ai, làm gì. Điều này đã được các vị tử đạo của chúng ta thể hiện rất xuất sắc. Điển hình như y sĩ Phan Đắc Hòa, ông luôn giúp đỡ người khác qua việc bốc thuốc cứu người, đồng thời ông luôn khuyên họ trung thành mà giữ đạo để được sống đời đời. Còn ông Trùm Đích thì khi có điều kiện là ông tới thăm trại cùi và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch tại nhà mình. Linh mục Emmanuel Triệu sẵn sàng nhường tiền bữa ăn ân huệ trước giờ xử tử để đổi lấy tiền mà cho người nghèo. Biết giáo dân sẽ tổ chức an táng cho mình linh đình thì Linh mục Phan Văn Minh đã kịp can ngăn và gợi ý lấy tiền đó giúp cho người nghèo. Với ông Cai Tả, thì yêu thương để xin ơn tha tội, nên ông sẵn sàng cho vay mà không cần trả lại. Ông Năm Thuông thì quả quyết: “Tôi chưa thấy ai hay giúp người nghèo khó lại túng bấn bao giờ. Kinh Thánh chẳng dạy chúng ta phải coi họ như chi thể của Chúa đó sao? Chúa đã cho chúng ta sống, tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng”. Với quan Hồ Đình Hy thì: “Đừng làm việc thiện cách máy móc qua lần chiếu lệ, mà phải làm với thiện ý” [14].

Còn về lòng bao dung, các ngài sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù của mình. Điều này đã được chứng tỏ qua thái độ của các thừa sai. Thừa sai Gagelin Kính gửi thư cho bạn bè: “Tôi sẵn lòng tha thứ cho những kẻ áp bức tôi”. Chuyện linh mục Théophane Vénard Ven, khi viên quan nói: “Tôi phải theo lệnh vua, đừng giận tôi nhé”, ngài đáp: “Tôi chẳng ghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan”. Cụ Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười, vì khi cụ cầu nguyện: “Cầu Chúa Giêsu, xin cho các quan trị nước cho yên càng ngày càng thịnh”. Ông Lê Văn Phụng tại pháp trường nhắn nhủ con trai mình: “Con ơi, hãy tha thứ, đừng tìm báo thù kẻ tố giác ba nhé”. Và dặn dò thân hữu: “Hãy tha thứ các bạn ơi. Hãy tha thứ, vì chính tôi đã thứ tha”[15].

Thật vậy, các ngài luôn yêu thương, tha thứ cho hết mọi người. Luôn coi sự sống của người khác như là của mình, và hạnh phúc của con người là vinh quang của Thiên Chúa.

Khi lược lại một số hành vi mà các thánh tử đạo của chúng ta đã thể hiện trong việc tuyên xưng đức tin tuyệt đối vào Chúa; lòng kính trọng vua quan và luôn tỏ ra yêu thương, bao dung với hết mọi người. Ai trong chúng ta cũng hết lòng cảm phục trước thái độ bao dung và kiên cường của các ngài. Tuy nhiên, điều làm cho chúng ta đáng lưu tâm hơn cả, đó là học được bài học gì qua những gương sáng của các ngài.

Trước tiên, luôn biết chọn Chúa làm điểm tựa của cuộc đời, là niềm hy vọng và ơn cứu độ, là gia nghiệp của ta. Luôn biết đón nhận đau khổ như là ân huệ Chúa ban. Đồng thời phải can đảm làm chứng cho sự thật, cho tình yêu trong khi thi hành bác ái. Sẵn sàng chấp nhận thân phận của hạt lúa gieo vào lòng đất, thối đi để trổ sinh hoa trái dồi dào.

Thứ đến: luôn yêu thương hết mọi người, vợ chồng chung thủy với nhau, con cái biết nghe lời cha mẹ trong những điều ngay lẽ phải. Luôn sống chan hòa yêu thương với dân làng, giáo xứ, công sở, trường học…Như thế là chúng ta đã trở thành muối, thành men và ánh sáng cho đời. Trung thành với những điều đó phải chăng cũng là cuộc tử đạo liên lỉ thời nay.

Tắt một lời, các thánh tử đạo là những người luôn trung thành với Chúa, sẵn sàng chết để bảo vệ đức tin. Các ngài cũng là những người có tấm lòng bao dung với hết mọi người, nhất là với những người nghèo khổ, yếu đau và cả với những người bách hại mình nữa. Như thế, các ngài đã sống đúng như lời Chúa dạy về giới luật yêu thương. Thế nên, người ta gọi các ngài là những người sống “Đạo Yêu Nhau” thì quả là đúng không sai.

Ước gì, mỗi khi nhớ đến các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta làm mới lại tinh thần của các ngài trong cuộc sống thường ngày nơi các mối tương quan của chúng ta. Tinh thần đó chính thánh Anrê Phú Yên đã khẳng định: “Tình yêu không thể chết”

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn trung thành với Chúa, biết sẵn sàng làm chứng cho Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời. Xin cho chúng con một tấm lòng quảng đại và bao dung, để yêu thương và sẵn lòng tha thứ cho hết mọi người, kể cả những người bách hại chúng con. Amen.

______________________________

[1] Vì là người ngoài Công Giáo, nên bạn trẻ đó dùng chữ “thờ” để nói về hành vi tôn kính của người Công Giáo đối với các thánh tử đạo Việt Nam. Người Công Giáo “thờ” là thờ Chúa, còn tất cả các thánh là tôn kính.

[2] Lm. Đỗ Quang Chính, Tản Mạn Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, nxb Tôn Giáo, 2008, tr. 61.

[3] Bức thư của linh mục thừa sai Gaspar d’Amaral viết ngày 31/12/1632, trong đó cho biết “lương dân gọi bổn đạo là những người theo đạo yêu nhau”.

[4] Xc. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (biên soạn cho giáo dân Việt Nam), không rõ tác giả, 1997, tr. 153.

[5] Xc. Mai Tuyến, OP. Tử Đạo Hôm Nay, truy cập ngày 12-11-2012; http://tinmung.net/ TimHieu/Tu-dao-hom-nay.htm

[6] Gispert, Historia de las Misiones Dominicas en Tunkin, Avila 1928, tr. 428.

[7] Louvet, La Cochinchine Religieuse II, tr.204-207.

[8] Ibid. 267.

[9] Xc. Đào Trung Hiệu, OP. Cuộc Lữ Hành Đức Tin, quyển II, tr. 207.

[10] Thư chung các đấng Vicario, Kẻ sặt 1903, tr.63-68.

[11] Thư chung các đấng Vicario II, tr.53-54.

[12] Xc. Đào Trung Hiệu, OP. Cuộc Lữ Hành Đức Tin, quyển II, tr. 208.

[13] Thư chung các đấng Vicario II, tr.53-54.

[14] Xc. Đào Trung Hiệu, OP. Cuộc Lữ Hành Đức Tin, quyển II, tr. 211.

[15] Ibid. tr. 231.

56. Tử đạo trong đời sống thường ngày–Huệ Minh

Thánh lễ hôm nay nhuốm đỏ màu của máu. Máu của hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh. Máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền giáo tại Việt Nam

Các thánh Tử Đạo Việt Nam có lòng tin mạnh mẽ. Lòng tin của các ngài không biểu lộ trong những hành vi cuồng tín, nhưng diễn tả trong thái độ chan chứa yêu thương. Đã nhận biết Chúa, các ngài yêu mến Chúa tha thiết. Đã cảm nhận được tình yêu của Chúa các ngài mong muốn được đáp đền tình yêu đó.

Chúa Giêsu nói trong tin mừng theo thánh Luca: “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Theo Đức Yêsu, là một thái độ sống liên lỉ chứ không chỉ là một hành vi riêng lẻ một lần cho tất cả. Để có thể có hành vi dám chết cho tình yêu, các anh hùng tử đạo đã luôn chết cho chính mình trong cuộc sống hằng ngày để sống cho Chúa trong từng hành vi sống của mình.

“Được lời lãi cả thế gian, mà phải mất mạng sống mình, thì ích gì?” Điều quan trọng là phải sống. Nhưng nếu chỉ sống một trăm năm, mà phải khổ nhục vĩnh viễn thì ích lợi gì? Sự khôn ngoan đi kèm với hành vi anh hùng nơi các thánh tử đạo. Các thánh tử đạo, là những người khôn ngoan, anh hùng và đức hạnh. Các ngài là những người dám sống và dám chết cho tình yêu. Các ngài chọn đời sống vĩnh cửu hơn đời sống chóng qua này.

Niềm tin Kitô là một nghịch lý trước mọi suy nghĩ, tính toán của thế gian, ngay từ lời mời gọi của Đức Kitô: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,23-24).

Nhưng ai đi theo Đức Kitô, bỏ mình vì yêu, người ấy nghiệm được nơi mình một kho báu vượt trên tất cả và không bao giờ bị mất.

Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh nghiệm sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay: bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra trước vua quan, bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết. Tất cả những gì các ngài phải chịu đều vì Đức Giêsu (c.18), vì Danh Đức Giêsu (c.22).

Các vị tử đạo thường bị đặt trước thánh giá. Bước qua là được tiếp tục sống sung sướng an nhàn. Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một bước chân, là mọi sự thay đổi. Các bậc cha ông tử đạo của chúng ta ngày trước đã can đảm khước từ tất cả những hứa hẹn hấp dẫn đó, và đã kiên quyết nói không: Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa, không từ bỏ niềm tin.

Đã có người bước qua, và cũng có người không. Có người bị khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận. Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Có người được mời giả vờ bước qua thánh giá để quan có cớ mà tha, như thánh Micae Hồ Đình Hy, nhưng họ đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.

Đứng trước thánh giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng. Giây phút đứng trước thánh giá là giây phút quan trọng. Quyết định không bước qua thánh giá là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất…

Thời nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá, dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ. Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua thánh giá, bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của mình.

Giữa sự sống và sự chết chỉ cách nhau một lằn ranh. Lằn ranh đó chính là cây thập giá. Bước qua thì được thoát khỏi cực hình trần gian. Bước qua thì được trở về với vợ con, với xóm làng, với chức tước vua ban và bổng lột trần gian, nhưng các thánh tử đạo Việt Nam đã không vì thế mà chối Chúa, bỏ đạo.

Không thể vì ham sống sợ chết mà phải chà đạp lên thập giá là bỏ cơ hội sống đời đời để đổi lấy cuộc sống lây lất tạm thời trần gian. Các ngài thà chịu đòn roi, thà chịu án tử hình để trung kiên theo Chúa, để lãnh phúc triều thiên vinh quang bất diệt trên quê trời còn hơn là làm tôi mọi cho ma qủy. Như trường hợp ông đội Bường đã thẳng thắn trả lời với quan quân: “Bên đạo chúng tôi ai chết trẻ là đi đường tắt, ai chết già là đi đường trường. Song đàng nào cũng tới quê thật là nước thiên đàng vậy”.

Thế nên, thánh nhân đã khuyên nhủ các đồng đạo rằng: “Chúng ta hãy vui lòng chịu mọi sự khốn khó để giữ nghĩa cùng Chúa cho đến khi nào thánh ý Chúa định thể khác. Nếu quan có hành hạ thì hãy can đảm chịu đựng. Hễ xác chết rồi thì hồn chúng ta bay thẳng về trời, không sợ gì roi đòn. Chịu sự khó như vậy là vác thánh giá theo Chúa Giêsu. Nếu có đau đớn quá thì hãy xin Đức Mẹ phù trợ cho được bền lòng đến cùng”.

Khi nâng 117 vị tử đạo Việt Nam lên bậc hiển thánh, Giáo Hội muốn đưa ra những mẫu gương cho chúng ta bắt chước. Qua cái chết khổ nhục, các ngài đã làm chứng cho Đức Kitô trong những hoàn cảnh giới hạn của mình. Noi gương cái ngài, chúng ta cũng hãy sống làm chứng cho Đức Kitô trong hoàn cảnh riêng của chúng ta.

Ta mừng kính 117 thánh tử đạo Việt Nam, là con số tượng trưng cho hơn 130 ngàn vị tiền nhân đã chết trong các đợt cấm đạo tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19. Họ đã chết không phải vì chống lại triều đình. Họ đã chết không phải vì lỗi công bình bác ái với tha nhân. Họ đã chết vì không chịu thoả hiệp với thế gian.

Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công Giáo muốn trung thành với Tin Mừng, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng tiền dễ dãi để chối từ Tin Mừng và Luật Chúa.

Ngày nay, khái niệm về tử đạo hiểu rộng rãi hơn. Người tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, chết cho quyền sống của con người, nhất là những người nghèo khổ, bị áp bức. Nói chung là chết vì Chính Đạo, chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu.

Ta hiểu tử đạo theo một nghĩa rộng, đó là làm chứng cho Chúa. Chúng ta có thể làm chứng cho Chúa bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta. Đó chính là cái nền tảng vũng chắc để xây dựng tòa nhà đức tin. Chính trong ý nghĩa này mà Mẹ Maria đã được gọi là Nữ vương các thánh tử đạo, mặc dù Mẹ đã không đổ máu để làm chứng cho đức tin của mình.

Ta phải noi gương bắt chước các ngài, bởi vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Đừng vì một con sâu mà làm rầu nồi canh, đừng vì cuộc sống tội lỗi của chúng ta mà làm nhơ bẩn khuôn mặt Giáo Hội Việt Nam. Hãy sống thế nào để xứng đáng là con cháu của những bậc anh hùng tử đạo.

57. Hy sinh mạng sống mình–Huệ Minh

Khi nói đến tử đạo, nhiều người dân ngoại và kể cả chính quyền, họ có cái nhìn về việc tử đạo giống như những anh em Hồi Giáo. Đối với người Hồi Giáo cực đoan, một trong những hành động được coi là tử đạo đó là đánh bom liều chết, mà thế giới ngày nay gọi là khủng bố. Những người này được dạy rằng khi ôm bom đi giết người vì lòng yêu mến Đức Ala và bảo vệ quyền lợi của người Hồi Giáo, thì được coi là tử vì đạo và được lên thiên đàng.

Ta thấy họ cũng coi là tử đạo khi cuộc chiến tranh được tuyên bố là thánh chiến, thì những chiến binh nào càng bắn chết nhiều người càng được vinh quang, và những ai chết trong những trận chiến đó thì được coi là tử vì đạo. Chắc chắn nếu Đức Ala là một vị thiên chúa thật và tràn đầy tình yêu, thì Ngài không thể chấp nhận và để cho con cái của ngài gieo sợ hãi và chết chóc cho nhân loại như thế, và người ta cũng không thể nhân danh Đức Ala để làm điều ác như vậy.

Các Thánh Tử Đạo nói chung hay các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam hoàn toàn khác. Các Ngài không tử vì đạo theo kiều Hồi giáo, nhưng ngược lại, vì niềm tin vào Chúa Kitô và giới răn lề luật của Ngài, và để bảo vệ trọn vẹn đức tin của mình, họ đã chấp nhận cả cái chết để giữ lòng tín trung với Chúa. Chữ Tín và chữ Trung là hai đức tính của bậc anh hùng mà chúng ta có thể thấy rõ nét nới các vị tử đạo cha ông của chúng ta.

Chữ Tín hay còn gọi là tin, là nét đẹp được thể hiện nới các vị tử đạo. Ngay từ ngày đầu khi Tin Mừng vào Việt Nam, thì cha ông chúng ta đã mở rộng tâm hồn để đón nhận hạt giống đức tin, và với một tấm lòng đơn sơ chân thành hoàn toàn tin tưởng và phó thác, tâm hồn các Ngài đã trở nên như mảnh đất màu mỡ cho hạt giống đức tin nảy mầm và sinh hoa kết qủa.

Dẫu rằng chưa được học biết nhiều về giáo lý của Chúa, nhưng với một đức tin chân thành, tin vào Thiên Chúa là Đấng quyền năng tạo dựng và điều khiền vũ trụ, an bài và xếp đặt mọi sự, Đấng thấu suốt tâm hồn mọi người và Ngài sẽ trả lại cho mỗi người cuộc sống hạnh phúc đích thực, mà tổ tiên của chúng ta đã kiên trì sống với niềm tin ấy và dám chết vì niềm tin ấy.

Niềm tin đơn sơ của cha ông chúng ta cũng giống như câu chuyện thuật lại trong sách Macabe. Lúc bấy giờ người Hy lạp cai trị đất Do Thái, họ đem theo nhiều tập tục lối sống nghịch với lề luật của cha ông và nhất là họ đem vào đất Do Thái nhiều thứ thần linh và đòi buộc người Do Thái phải cúng tế các thần linh này.

Ta thấy trong khi có nhiều người Do Thái đã gục ngã trước một lối sống mới, thì ngược lại cũng có nhiều người can đảm từ chối lối sống đó để được trung thành với giới răn của Thiên Chúa dù có phải chết. Câu chuyện cho thấy, một bà mẹ đã can đảm giáo dục con cái trung thành với Chúa và chấp nhận mọi cực hình. Bà chứng kiến cái chết của bảy người con, mà không một chút xiêu lòng.

Trái lại bà vẫn dùng những lời lẽ khôn ngoan để chỉ cho con cái biết chọn lựa Thiên Chuá là nguồn hạnh phúc thật, thay vì chọn lựa lối sống xa lạ vô luân của người Hy lạp. Cuối cùng tất cả họ đã chấp nhận cái chết. Cũng vậy trong số những người tín hữu Việt nam, bị bắt bớ lúc bấy giờ, cũng đã có không ít người ham sống sợ chết, thích sống dễ dãi hơn là khó khăn, thích những lời hứa hẹn tiền của danh vọng mà vua quan đưa ra, để rồi họ chà đạp lên thập giá Chúa. Nhưng ngược lại có cả hàng trăm ngàn người đã chấp nhận sự thiệt thòi và cái chết đau đớn về phần mình để bảo vệ nguyên vẹn gia tài đức tin, và lối sống của người Công giáo. Những người này đã thực sự là những vị anh hùng, có những người chết nơi pháp trường, có những người chết nơi tù ngục vì đòn roi, và có biết bao người chết vì phải trốn nơi rừng thiêng nước độc để chỉ vì giữ trọn chữ tín, chữ trung.

Các thánh tử đạo Việt Nam đã rất anh dũng bước theo đường lối Chúa Giêsu, theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt cũng vẫn không làm cho các ngài từ bỏ đạo Chúa. Chúng ta là con cháu các ngài, mang dòng máu bất khuất anh dũng của các ngài trong huyết quản mình, thì chúng ta cũng kiên quyết đi theo đạo yêu thương của Chúa như các ngài, để mai ngày đáng được hưởng triều thiên vinh hiển với các ngài trên thiên quốc.

Vậy trung thành với Đức Kitô, là trung thành với con đường thập giá, không ham sống sợ chết, không ngại khó khăn gian khổ, không ngại cực hình, mà dám vác thập giá mình để theo Ngài. Các vị tử đạo và người Công giáo không đi tìm đau khổ, nhưng trong đau khổ khó khăn thường ngày, họ nhận ra đó là thập giá cuộc đời của mình, và họ can đảm vui vẻ chấp nhận thập giá, và cuối đường thập giá là cái chết và phục sinh. Song khác với cái chết của các tên tử tội, cái chết của các vị tử đạo đã gây ra không biết bao kinh ngạc cho những người chứng kiến, vì họ thấy các ngài đón nhận cái chết trong vui vẻ và hân hoan, vì họ dám đánh liều đổi mạng sống mình để được Đức Giêsu, như Chúa Giêsu đã hứa: Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất và ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống ấy.

Các Ngài trung thành với tổ quốc, với chính quyền nhà vua. Trước mặt các vua quan, nhiều vị thánh đã công khai nói lên điều đó: Tôi không chống lại nhà vua, tôi không phản bội tổ quốc, nhưng tôi cam lòng chịu chết vì tôi trung thành với Chúa Kitô là Chúa của tôi (Thánh Phaolo Khoan). Trung thành với tổ quốc với nhà vua, là làm cho cuộc sống của mọi người và của đất nước thêm tốt đẹp, cuộc sống của dân chúng thêm an vui.

Tuy nhiên do sự nghi ngờ, các vua quan chính quyền đã không nhận ra sự thiện chí của các tín hữu, họ nghi ngờ khi thấy người tín hữu tụ tập đọc kinh cầu nguyện, họ ghen tỵ khi thấy những người tín hữu dám xả thân vì bác ái, họ khó chịu khi những người Công giáo loan truyền một giáo lý về tình yêu thương tha thứ. Các vua quan và nhà cầm quyền không tin vào lòng nhiệt thành với đất nước của người công giáo, vì nghĩ rằng họ sẽ làm ảnh hương và thiệt hại đến quyền lợi và địa vị của nhà cầm quyền.

Trong khi đó, người công giáo được mời gọi tham gia và mọi hoạt động của xã hội để đem tinh thần yêu thương tha thứ vào trong xã hội, đem yêu thương vào nơi oán thù, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.

Khi sống trọn hai chữ tín trung với Chúa và với đất nước như thế, các Ngài trở thành những vị anh hùng, dám mạnh dạn nói và làm chứng về Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài cho đồng bào và cho cả vua quan chính quyền. Theo gương của Đức Kitô, các Ngài đã chấp nhận cái chết về phần mình, chấp nhận trở nên hạt lúa gieo vào lòng đất, để ngày hôm nay, Hội Thánh Việt nam thu lượm được mùa lúa dồi dào; hạt giống đức tin được tưới gội từ dòng máu của các vị tử đạo đang ngày càng bám rễ sâu và lớn mạnh trên quê hương Việt Nam này. Tuy nhiên với thời đại mới với làn sóng mới của các lối sống mới đang tràn vào Việt Nam, nó đang làm xói mòn mảnh đất đức tin trong tâm hồn nhiều người, và nó đang là một thứ sâu bệnh nguy hiểm đang hủy hoại đời sống đức tin của nhiều tín hữu.

Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin,dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống, nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.

Ngày mỗi ngày, ta thường bị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu, y hệt như các vị tử đạo ngày xưa. Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình, đã chối Chúa bằng chính cuộc sống. Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện. Ước gì chúng ta không để mất đức tin được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho hơn 90 triệu đồng bào trên quê hương.

(Nguồn: gplongxuyen.org)