Thứ Sáu, ngày 19 tháng 04 năm 2024

Suy niệm thứ Năm tuần 2 Phục Sinh

Chuyên mục: Suy niệm ngày thường - Ngày đăng: 19.04.2023
Chia sẻ:

SUY NIỆM THỨ NĂM TUẦN 2 PHỤC SINH

Lời Chúa: Ga 3, 31-36

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: “Đấng từ trên cao mà đến thì vượt trên hết mọi người. Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói những sự thuộc về đất. Đấng từ trời mà đến thì vượt trên hết mọi người. Điều gì Người thấy và nghe, thì Người làm chứng về điều đó. Nhưng lời chứng của Người không ai chấp nhận. Ai chấp nhận lời chứng của Người, thì quả quyết Thiên Chúa là Đấng chân thật.

Đấng được Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa, vì được Chúa ban cho thần linh khôn lường. Cha yêu mến Con, nên đã ban mọi sự trong tay Con. Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Con, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy”.

Ảnh : Google

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

Suy Niệm 1: Đấng từ trên cao mà đến

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Giêsu ơi! Ngài từ đâu đến?

Tôi là Đấng từ trên cao mà đến.

Tôi là Đấng từ trời mà đến (c.31).

Tôi sinh ra trên đất, sống trên đất, chết trên đất.

Nhưng tôi không thuộc về đất, đất không phải là gốc của tôi.

Gốc của tôi ở nơi cung lòng Thiên Chúa (Ga 1, 18).

Dù cư ngụ trên mặt đất, tôi vẫn luôn hướng về Cha tôi trên trời.

Khi làm xong sứ mạng, tôi sẽ trở về với gốc của tôi.

Giêsu ơi! Ngài làm gì vậy?

Tôi làm chứng về điều tôi đã thấy và đã nghe (c. 32).

Tôi làm chứng về Thiên Chúa là Cha của tôi.

Tôi đã thấy việc Người làm và đã nghe tiếng Người nói.

Nhiều vĩ nhân diễn tả rất hay, rất đúng về Thiên Chúa

và cũng có kinh nghiệm rất sâu về Người.

Nhưng họ không phải là Con như tôi.

Họ chẳng thể nào gần mầu nhiệm Thiên Chúa như tôi.

Chẳng ai biết Cha bằng Con, không ai biết Cha trừ ra Con (Lc 10, 22).

Chỉ mình tôi mới có thể vén mở trọn vẹn khuôn mặt Thiên Chúa.

Giêsu ơi! Ngài là ai?

Tôi là người được Thiên Chúa sai đến với nhân loại trên mặt đất (c. 34).

Chẳng có giây phút nào tôi quên mình là Con, người được sai.

Chẳng có giây phút nào tôi quên Cha tôi là Đấng sai tôi.

Khi nhận mình triệt để tùy thuộc vào Cha, tôi chẳng hề xấu hổ.

Tôi đáng tin vì chính sự tùy thuộc đó.

Tôi chẳng làm điều gì tự mình,

tôi chỉ làm điều tôi đã thấy Cha tôi làm (Ga 5, 19).

Tôi chẳng nói điều gì tự mình,

tôi chỉ nói điều tôi đã nghe Cha tôi nói (Ga 8, 26).

Chính khi tôi tùy thuộc trọn vẹn vào Cha mà tôi được tự do.

Giêsu ơi! Ngài có hạnh phúc không?

Tôi hạnh phúc vì tôi yêu và được yêu.

Cha tôi yêu mến tôi và tôi ở lại trong tình yêu của Cha (Ga 15, 10),

Người vẫn ở với tôi và không để tôi cô độc (Ga 8, 29).

Người yêu mến tôi vì tôi dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên (Ga 10, 17).

Tình yêu của Cha thể hiện qua việc Người trao phó mọi sự trong tay tôi (c. 35).

Tôi có quyền phán xét, quyền cho sống lại ngày sau hết, quyền trên mọi xác phàm.

Bởi vậy tôi mới nói mọi sự Cha có là của tôi (Ga 16, 15).

Hãy đón nhận lời chứng của tôi (c. 33).

Hãy tin vào tôi để được sự sống vĩnh hằng ngay từ đời này (c. 36).

Hãy đến với tôi để được chia sẻ cùng một sứ mạng và vinh quang.

Cầu nguyện:

Lạy Cha,

con phó mặc con cho Cha,

xin dùng con tùy sở thích Cha.

Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.

Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.

Miễn là ý Cha thực hiện nơi con

và nơi mọi loài Cha tạo dựng,

thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.

Con trao linh hồn con về tay Cha.

Con dâng linh hồn con cho Cha,

lạy Chúa Trời của con,

với tất cả tình yêu của lòng con,

Vì con yêu mến Cha,

vì lòng yêu mến

thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,

thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,

không so đo,

với một lòng tin cậy vô biên,

vì Cha là Cha của con. Amen. (Charles de Foucauld)

Suy Niệm 2: Đấng từ trên cao

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giê-su cho biết Người đến từ trên cao. Nên trổi vượt trên mọi người.

Chúa từ trên cao vì xuất xứ. Chúng ta sinh ra từ bụi đất. Người sinh ra từ trời cao. Chúng ta từ đất mà ra. Người từ Chúa Cha mà đến. Tuy Người tự nguyện sống như loài người. Chẳng ai nhận ra vì Người cũng giống như mọi người. Và còn trở thành bác thợ mộc tầm thường lao động vất vả. Nhưng nguồn gốc Người vẫn vượt trên mọi người.

Chúa từ trên cao vì khôn ngoan. Chúng ta thuộc hạ giới nên kiến thức hạn hẹp. Chỉ biết những gì thuộc về trần gian. Tầm nhìn hạn hẹp không quá chân trời. Còn Chúa là Ngôi Lời toàn năng, toàn tri, toàn thiện. Người nghe và biết mọi sự trên trời từ Chúa Cha. Tầm nhìn của Người trải rộng vô biên. Sự khôn ngoan của Người khôn dò khôn thấu.

Chúa từ trên cao vì quyền lực. Chúa Cha đã “giao mọi sự trong tay Người. Ai tin vào Người thì được sự sống đời đời”. Trọng thưởng hay trừng phạt. Được sống hay phải chết. Tất cả thuộc quyền lực của Người. Vì thế vận mạng của mọi người tùy thuộc nơi Người. Vận mạng không phải nhất thời như loài người tưởng nghĩ. Nhưng số phận đời đời.

Chúa từ trên cao vì tình yêu. Thánh Phê-rô, trước mặt Thượng hội đồng, đã mạnh mẽ rao giảng. Sở dĩ Chúa Giê-su được tôn vinh trổi vượt mọi loài vì Người yêu thương nên sẵn sàng hi sinh chịu chết. Chính vì thế Chúa Cha đã tôn vinh Người. “Thiên Chúa của cho ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ơn sám hối và tha tội”.

Ý thức được điều đó, nên thánh Phê-rô dạy ta “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”. Thượng hội đồng là người phàm, từ đất thấp, có tầm nhìn hạn hẹp. Nên bắt bớ, cấm đoán các Tông đồ rao giảng chân lý Nước Trời. Nhưng Phê-rô và các tông đồ đã nhận được chân lý Nước Trời. Các ngài đã vượt qua tầm nhìn hạn hẹp của trần gian. Sẵn sàng từ bỏ mọi sự trần gian. Kể cả chấp nhận mất mạng sống. Để đạt tới hạnh phúc Nước Trời.

Suy Niệm 3: Tình yêu thương

(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

“Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Ngài cho thế gian, để những ai tin vào Con của Ngài thì không phải chết, nhưng được sống đời đời”.

Ðó là một sự thật quan trọng được Chúa Giêsu mạc khải cho ông Nicôđêmô trong cuộc đối thoại ban đêm, được ghi lại nơi chương 3, Phúc Âm thánh Gioan. Lời quả quyết trên về tình thương của Thiên Chúa đối với con người được Chúa Giêsu lập lại một lần nữa trong bữa Tiệc Ly như sau: “Thật vậy, Thiên Chúa Cha đã yêu thương các con vì các con đã yêu mến Thầy và tin rằng Thầy từ Thiên Chúa mà đến” (Ga 16,27).

Thử hỏi, có ai có uy tín hơn Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, để mạc khải cho chúng ta biết tình thương của Thiên Chúa Cha đối với thế gian, đối với toàn thể tạo vật đã được dựng nên và nhất là đối với tất cả mọi người đã được dựng nên giống hình ảnh của Ngài?

Lý trí tự nhiên của con người qua những suy tư triết học khó có thể, nếu không muốn nói là không bao giờ có thể đạt đến kết luận chắc chắn rằng Thiên Chúa là Tình Yêu và Ngài yêu thương con người đến mức độ cho đi điều quí nhất là chính Con Một Thiên Chúa, để cứu chuộc con người khỏi nô lệ tội lỗi, khỏi phải chết. Chỉ nhờ mạc khải của Chúa Giêsu Kitô, con người chúng ta mới nghe được sự thật đầy an ủi này, Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, Thiên Chúa Cha hằng yêu thương con người. Lý do thôi thúc hành động của Thiên Chúa cứu rỗi con người chính là tình yêu thương, và Chúa Giêsu đã chứng tỏ cho mọi người biết và cho cả ông Nicôđêmô, là người có đủ uy tín để nói như vậy, bởi vì Người từ nơi Thiên Chúa Cha mà mạc khải cho chúng ta biết.

Những lời tâm sự trên xác nhận căn cứ và nguồn gốc của Chúa Giêsu từ trên cao, từ Thiên Chúa Cha. Những lời này nhắc cho chúng ta nhớ lại những suy tư cao sâu của tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan, nơi khởi đầu sách Phúc Âm của ngài như sau: “không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ. Nhưng Con Một Ngài là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa Cha, chính Ngài đã tỏ cho chúng ta biết nguồn gốc thần linh của Chúa Giêsu Kitô”. Làm cho những sự thật được Chúa mạc khải cho con người có được giá trị trỗi vượt hơn mọi lý thuyết, hơn mọi lẽ khôn ngoan do trí khôn con người nghĩ ra. “Kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Ðấng từ trên trời mà đến thì ở trên mọi người”. Người làm chứng về những gì Người đã thấy và đã nghe trực tiếp từ Thiên Chúa Cha, vì Người hằng ở cùng Thiên Chúa Cha, được sai xuống trần gian để mạc khải cho con người biết.

Ðáp lại mạc khải của Chúa Giêsu, con người cần khiêm tốn, vâng phục và kính tin. Ðây là điều Chúa mời gọi ông Nicôđêmô ngày xưa và mọi người ngày nay hãy thực hiện: “Ai tin vào Con Thiên Chúa thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời”.

Chúng ta đã đáp lại mạc khải của Thiên Chúa như thế nào?

Thảm trạng của con người bắt đầu khi con người tin không có Thiên Chúa và nếu có Thiên Chúa thì họ vẫn lãnh đạm thờ ơ không tin vào Thiên Chúa, và cũng không tin, không quí trọng sự thật được Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, mạc khải nữa. Nhưng thử hỏi, con người có thể dập tắt khát vọng hướng về Thiên Chúa đã ăn rễ sâu trong tâm hồn của mình hay không?

Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha vô cùng vì đã ban cho chúng con Chúa Giêsu Kitô để chỉ cho chúng con biết con đường sống như những con cái Cha, và trở về cùng Cha an toàn. Xin thương giúp cho chúng con trưởng thành trong đức tin mỗi ngày một hơn. Xin củng cố đức tin chúng con trước những thách đố của môi trường xã hội trần tục, không ngừng tìm cách chối bỏ Chúa cũng như cố ý làm méo mó và cười nhạo những sự thật do Chúa mạc khải.

Lạy Cha, xin thương củng cố đức tin của chúng con.

Suy Niệm 4: Hướng nhìn lên cao

(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Tạp chí Time số tháng 4/95 có ghi lại chứng từ rất cảm động của một cựu tù nhân Mỹ tại Việt Nam, ông Avares. Là một phi công Hải quân, ông đã bị bắn hạ trong một phi vụ dọc theo duyên hải Bắc Việt ngày 5/8/1964. Ông đã bị giam tại Hoả lò trong vòng 8 năm rưỡi. Năm 1993, một nhà sản xuất phim mời ông và một nhóm cựu tù binh Mỹ trở lại Việt Nam để thực hiện một cuốn phim tài liệu. Avares đã trở lại căn phòng nơi ông bị giam, điều duy nhất ông muốn nhìn lại là hình Thánh giá trên bức tường đàng sau phòng giam mà ông đã nhìn lên đó để cầu nguyện. Lời cầu nguyện đã nâng đỡ ông trong những tháng ngày dài thiếu thốn và cô đơn. Ngày nay bức tường đã được tô vôi, cây Thánh giá đã bị một lớp sơn vẽ chồng lên, và ông cho biết có một cái gì đó đã được chôn chặt trong ông, đó không phải là hối hận hay căm thù, mà là tâm tình tri ân Thiên Chúa đã cho ông về với gia đình và đã ban cho ông ơn biết tha thứ và quên đi.

Chứng từ của Avares cho thấy khi con người biết nhìn lên cao, con người sẽ cảm nhận được ơn Chúa trong cuộc sống của mình. Đó có lẽ là ý tưởng mà Tin mừng hôm nay gợi lên cho chúng ta. Thánh Gioan ghi lại hai cái nhìn về Chúa Giêsu: một của Nicôđêmô và một của Gioan Tẩy giả. Nicôđêmô nhìn vào Chúa Giêsu với những hiểu biết uyên bác nhưng hoàn toàn phàm tục của ông; ông lượng giá về Chúa Giêsu theo thước đo thông thường của loài người, đó là cái nhìn từ dưới đất. Trong khi đó, Gioan Tẩy giả mời gọi các môn đệ ông vượt qua cái nhìn từ dưới đất để có cái nhìn từ trên cao. Và thánh Phaolô đã nói: “Anh em hãy mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô”. Với tâm tình của Chúa Kitô, nghĩa là với cái nhìn của tin yêu và hy vọng, người ta có thể đứng vững trong mọi nghịch cảnh và thử thách; với tâm tình của Chúa Kitô, người ta sẽ cảm nhận được ơn Chúa ngay những lúc như bị bỏ rơi và đánh mất tất cả; với tâm tình của Chúa Kitô, người ta sẽ cảm nhận được tình thương và tha thứ ngay giữa nơi chỉ có hận thù và chết chóc.

Nguyện xin Chúa gìn giữ chúng ta trong tâm tình ấy.

Suy Niệm 5: Trời và đất bất hòa sao?

Đấng từ trên cao mà đến,

Thì ở trên mọi người;

Kẻ từ đất mà ra,

Thì thuộc về đất

Và nói những chuyện dưới đất.

Đấng từ trời mà đến,

Thì ở trên mọi người;

Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe,

Nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người.

Ai nhận lời chứng của Người

Thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật. (Ga. 3, 31-33)

Từ Công đồng Vatican 2 đã cho chúng ta ý thức lại giá trị và tự trị của những thực thể trái đất thuộc dự tính của con người. Trái đất không phải là thung lũng nước mắt, vật chất và thân xác không là đồ bỏ. Ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô phải ảnh hưởng tới tất cả mọi thực thể. Thánh Phao-lô đã nói: “Toàn thể tạo vật đang rên xiết mong chờ sự giải thoát”.

Kitô hữu không thể núp mình trong phạm vi hoàn toàn tinh thần và trong thế giới bên kia. Marx đã tố cáo loại người này, họ lãnh đạm trước đau khổ trên trái đất để đi tìm chỗ tốt hơn nơi cao xa, họ còn chẳng làm gì trước bất công và tàn ác, vịn lẽ rằng Thiên Chúa sẽ phạt kẻ giàu và thưởng kẻ nghèo.

Thực ra, rất khó phân lìa và liên kết đất và trời, cũng như những giá trị đất và trời. Hôm nay, Đức Kitô phân biệt một cách như sau: Người nói rằng trời và đất có ngôn ngữ riêng của nó.

Tiếng nói của đất dễ giải nghĩa, vì nó thuộc giác quan của ta. Nhờ đó chúng ta nhận được kiến thức và thông truyền kiến thức.

Tiếng nói của trời khá khó lãnh hội, đó là thứ tiếng chứng từ: Chỉ có Đấng từ trời xuống làm chứng về điều đã thấy, đã nghe, chứng nhận, xác quyết về sự này, điều kia là thực. Còn ngay cả những người được nghe những lời chứng đó cũng không thấy được, biết được sự này, Đấng kia thế nào. Họ cũng không được sống trong diễn biến đó.

Đức Giêsu là chứng nhân của Thiên Chúa, Người đã kể lại những gì đã tồn tại trong Thiên Chúa. Đến lượt chúng ta, chúng ta trở nên chứng nhân của Thiên Chúa, nếu chúng ta là thành phần trong thân thể của Đức Kitô.

Tiếng nói trong Thánh lễ là tiếng làm chứng rằng: Đức Kitô hiện diện trong cộng đồng, chứng thực Thiên Chúa đang hành động qua các dấu chỉ của Thánh lễ. Và người ta sẽ không hiểu gì về những dấu chỉ này trong Thánh lễ hàng ngày và Chúa nhật, nếu người ta không đón nhận tiếng nói của chính Thiên Chúa.

C.G

Suy Niệm 6: Giữ lấy bản sắc của mình

Ngày nay, trên thế giới, người Việt Nam của chúng ta gần như có mặt hầu hết nơi các quốc gia! Để gợi nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đã có nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo về nguồn gốc, văn hóa Việt!

Trong các buổi hội họp đó, gần như không thể quên, người ta luôn nhắc nhớ nhau hãy giữ gìn bản sắc, văn hóa, truyền thống của dân tộc Việt, cho dù hiện diện ở bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì!

Tại sao vậy? Thưa, con người chỉ có thể lớn lên cách quân bình khi người ta còn giữ được bản chất, văn hóa, truyền thống của dân tộc mình. Nếu không, họ là một người thiếu trưởng thành!

Là người Công Giáo, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được trở thành Kitô hữu, tức là chúng ta mang trong mình hình ảnh Đức Kitô. Nói cách khác, chúng ta thuộc về Đức Kitô. Vì thế, bổn phận của chúng ta phải làm sao cho Đức Kitô được hiện tại hóa trong lời nói, hành động và cử chỉ của chúng ta. Đồng thời, chúng ta cũng cần phải khước từ những gì không phù hợp với bản chất của mình.

Hôm nay, vẫn trong trình thuật giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô, nhưng câu chuyện ngày càng đi sâu vào cốt lõi của vấn đề, đó là, Đức Giêsu cho Nicôđêmô biết được bản chất của Ngài và những công việc Ngài làm do được lãnh nhận từ Chúa Cha, Ngài nói: “Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn. Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người” (Ga 3, 34 – 35).

Với câu chuyện trên, qua Nicôđêmô, Đức Giêsu mở rộng ra cho mọi người thấy được tầm quan trọng và giá trị cho những ai được hạnh phúc thuộc về Đức Giêsu, đồng thời cũng mạc khải cho biết hậu quả của những kẻ không tin: “Ai tin vào người Con, thì được sự sống đời dời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con, thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy” (Ga 3, 36).

Xin Chúa ban cho chúng ta biết luôn luôn ý thức mình thuộc về Đức Kitô và phải có trách nhiệm làm cho Đức Kitô lớn lên và rạng ngời ngang qua cuộc sống của chúng ta. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Tin vào Chúa Giêsu sẽ trở thành người bất tử

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Tin hoặc không tin, điều ấy tuỳ thuộc tự do của con người. Nhưng kẻ tin vào Chúa Giêsu sẽ trở thành người bất tử, vì họ sống chính sự sống của Thiên Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, con cảm tạ Chúa về hồng ân cao cả là đã được gia nhập Giáo Hội, nghĩa là con đã có đức tin. Chính niềm tin vào Chúa đã tạo cho con một cuộc sống phong phú và đầy hy vọng. Niềm tin ấy đã thắp sáng cuộc đời con.

Lạy Chúa, con tin Chúa đã phục sinh. Ánh sáng Phục Sinh trở thành đuốc sáng hướng dẫn đời con. Chúa đã phục sinh để dẫn đưa con vào nẻo đường sống. Con sẽ trở thành kẻ bất tử nếu biết nuôi dưỡng và phát triển đời sống đức tin. Vậy lạy Chúa, cây đức tin cần được lớn lên mỗi ngày, bằng cách chấp nhận đổi mới, biết thay con người cũ, tâm tình cũ, bằng một con người mới với tâm tình mới. Xin giúp con biết thắp sáng và dưỡng nuôi đức tin bằng những giây phút cầu nguyện, gặp gỡ Chúa, tham dự các bí tích. Như một cục than chỉ có thể rực sáng khi nằm cạnh những cục than khác, con cũng muốn nuôi dưỡng đời sống đức tin con trong đời sống sinh hoạt của Giáo Hội, cùng với anh em con. Xin đừng để con tách riêng ra, kẻo con lâm vào tình trạng èo uột và có thể bị giết chết.

Lạy Chúa, xin hướng dẫn con biết sử dụng tự do Chúa ban bằng cách chọn lựa con đường thực hành Lời Chúa. Xin giúp con biết sống điều Chúa dạy để cây đức tin lớn lên mỗi ngày. Xin dạy con biết hy sinh chính mình để cây đức tin đơm bông kết trái. Amen.

Ghi nhớ: “Ðức Chúa Cha thương mến Con Ngài, nên ban toàn quyền trong tay Con Ngài”.

Suy Niệm 8: Đấng đến từ trời – Thiên Chúa làm người

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Người ta kể rằng: Tin Mừng Chúa được gieo rắc tại Nhật Bản từ hồi thế kỷ XVI do các vị thừa sai ngoại quốc đem đến. Giáo hội Nhật tuy còn non trẻ mà đã bị cấm cách giết hại. Các vị thừa sai, vị thì bị giết, vị thì phải trục xuất, không còn một vị thừa sai nào ở lại để tiếp tục dạy giáo lý, củng cố đức tin cho họ. Ai cũng tưởng rằng Giáo hội Nhật Bản đã bị xóa sổ vì suốt trong ba trăm năm không còn ai đến dạy dỗ họ. Nhưng không ngờ, khi các nhà thừa sai được phép truyền giáo lại ở Nhật, có người xưng mình là Kitô hữu. Khi được hỏi về giáo lý thì họ mù tịt, chẳng hiểu biết gì. Nhưng khi được hỏi là họ thờ ai, thì họ đã mạnh dạn thưa: “Thờ ông đóng khố cởi trần trên thập giá!”.

Suy niệm

Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay, ghi lại lời Chúa Giêsu mạc khải cho ông Nicôđêmô biết về nguồn gốc của Ngài, Đấng đến từ trời cao, Ngài là vị Thiên Chúa làm người như Gioan đã mở đầu Tin Mừng thứ tư bằng việc xác định cội nguồn của Ngài: “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14) và Giáo hội đã tuyên xưng: “Người đã từ trời xuống thế…”. Ngài đã trở nên người trưởng tử của nhân loại (x. Cl 1,15-18), dẫn đưa con người trở về với cội nguồn trời. Ngài trở nên đường dẫn về với Thiên Chúa, về với sự sống đời đời, chính là trời (x. Ga 14,6). Bởi cái chết, sự phục sinh và lên trời, Ngài đã khai thông lối về thiên quốc cho nhân loại. Ngài là trung gian nối đất trời như là chiếc thang mà tổ phụ Giacóp đã thấy trong giấc mộng (x. St 28,12). Trung gian như chiếc thang nối đất trời mà chính Chúa Giêsu cũng nói tới: Trời rộng mở, các thiên sứ lên lên xuống xuống trên Con Người (x. Ga 1,51).

Cho nên, thánh Phaolô không ngừng mời gọi các tín hữu: “Quê hương chúng ta ở trên trời” (Pl 3,20). Ai tin vào Chúa Kitô thì thuộc về trời cao và được sự sống đời đời. Qua bí tích rửa tội, Ðức Giêsu dẫn chúng ta đến ơn cứu độ: Là được làm con Thiên Chúa. Thật thế, Ngài được Chúa Cha sai đến thế gian, để ai tin vào Ngài thì được sự sống đời đời. Chúa Cha đã giao mọi sự trong tay Ðức Giêsu. Thế nên, sứ mạng của Ngài là bảo vệ và cứu vớt những gì Cha đã ban cho Ngài.

Kitô hữu – người tin vào Chúa Kitô, thuộc về Ðức Giêsu, được tiếp nhận sức sống của Thiên Chúa, chúng ta thuộc trọn về Thiên Chúa. Xin cho chúng ta ý thức rằng cuộc sống của chúng ta trong mọi hành vi, suy nghĩ, lời nói biểu lộ niềm tin và yêu mến Ðức Giêsu Con Cha qua Ngài, chúng ta tin và yêu mến Cha. 

Ý lực sống: “Một đức tin nhỏ sẽ đưa linh hồn bạn vào thiên đàng; một đức tin lớn sẽ đưa thiên đàng vào linh hồn bạn” (H. Spurgeon).

Suy Niệm 9: Hãy tin để được sống

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Bài Tin Mừng hôm nay vẫn tiếp tục câu chuyện giữa Đức Giêsu và ông Nicôđêmô. Chúa nói cho ông cũng như cho mọi người biết sứ mạng của Ngài đến trần gian là để cứu chuộc mọi người, và bổn phận của mỗi người là phải biết lựa chọn: tin hay không tin Ngài. Tin thì được sống, không tin thì sẽ bị trầm luân.

2. “Đấng từ trên cao mà đến…”.

Qua câu này, chủ đich thánh sử Gioan là làm nổi bật sự tương phản:

– Đức Giêsu thuộc về thiên giới, Ngài đến để thiết lập Nước Thiên Chúa: “Nước tôi không thuộc thế gian này”. Ngài thiết lập Hội thánh trần gian và qui tụ mọi người vào Hội thánh để được ơn cứu độ và được sự sống Nước Trời mai sau.

– Dân Do thái tượng trưng bởi Nicôđêmô trong cuộc đàm thoại với Đức Giêsu, đến với Đức Kitô  trong một nhãn giới nhân loại “nói những chuyện dưới đất”. Người Do thái cho rằng Nước Thiên Chúa như một thực tại trần thế, vừa tầm tay họ.

3. “Người làm chứng về những gì…”.

Đức Giêsu đến thế gian để làm chứng về Chúa Cha: “Ai thấy Thầy thì cũng thấy Cha Thầy”. Người Do thái, cũng như những ai từ chối Đức Giêsu, đã không nhận lời chứng của Ngài (lời chứng qua lời giảng dạy, các phép lạ). Đức Giêsu mạc khải Ngài đồng bản tính với Chúa Cha, nếu ai không tin nhận Ngài, thì không thấy Chúa Cha được.

4. Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay, ghi lại lời Đức Giêsu mạc khải cho ông Nicôđêmô biết về nguồn gốc của Ngài – Đấng đến từ trời cao, Ngài là vị Thiên Chúa làm người như Gioan đã mở đầu Tin Mừng bằng việc xác định cội nguồn của Ngài: “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14) và Giáo hội đã tuyên xưng: “Người đã từ trời xuống thế…”. Bởi cái chết, sự Phục sinh và lên Trời, Ngài đã khai thông lối về thiên quốc cho nhân loại. Ngài là trung gian nối đất trời như chiếc thang mà tổ phụ Giacóp đã thấy trong giấc mộng (x. St 28,12). Trung gian như chiếc thang nối đất trời mà chính Đức Giêsu cũng nói tới: Trời rộng mở, các thiên sứ lên xuống trên Con Người (x.Ga 1,51).

5. Đức Giêsu đã xác nhận Ngài là Thiên Chúa xuống thế làm người cứu chuộc nhận loại. Như vậy, vấn đề còn lại là bổn phận của mỗi người chúng ta. Thiên Chúa đã ban sự sống và hạnh phúc cho chúng ta, đón nhận hay từ chối là tùy mỗi người. Thiên Chúa là ánh sáng, ai từ chối ánh sáng là tự đọa đầy mình vào tối tăm, ai từ chối là nhận lấy cái chết, Thiên Chúa không cần tuyên án nữa. Đón nhận ánh sáng hay từ chối là một lựa chọn tự do và tự nguyện của mỗi người. Cũng thế, ai chọn sự thiện  thì ở trên đường đến với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là nguồn mọi sự thiện, ai chọn sự dữ thì ở trên đường lìa xa Thiên Chúa, vì nơi Thiên Chúa không có sự dữ.

6. Maurice Zundel một nhà tu đức học nổi tiếng có nói: “Chúng ta không sinh ra đã thành người. Con người có bổn phận phải thành người”. Sách Tin Mừng nói “phải sinh lại’ lần thứ hai để làm con Thiên Chúa: một người con có phẩm cách, có bản lãnh làm người, có mầm mống của sự trường tồn bất tử. Không có lần sinh này chúng ta không thể trở thành một con người trọn vẹn” (Trích “Sự hiện diện khiêm hạ).

Một bà già 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100 tuổi, một nhà truyền giáo đến thăm bà và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con đó, thì khỏi phải chết và được sống đời đời”.

Bà đáp:

– Thật là tuyệt vời, Thiên Chúa tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm năm không học biết Ngài.

Cuộc trở lại của bà được tạp chí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu “Sinh 1825. Sinh lại 1925” (góp nhặt).

7. Truyện: Chứng từ của Avares.

Tạp chi Time số tháng 4, 1995 có ghi lại chứng từ rất cảm động của một cựu tù nhân Mỹ tại Việt Nam.

Ông Avares là một phi công hải quân, ông đã bị bắn hạ trong một phi vụ dọc theo duyên hải Bắc Việt ngày 05/08/1964. Ông đã bị giam tại Cửa Lò trong vòng 8 năm rưỡi.

Vào năm 1993, một nhà sản xuất phim đã mời ông và một nhóm cựu binh sĩ Mỹ trở lại Việt Nam để thực hiện một cuốn phim tài liệu về chiến sự thời Mỹ ở Việt nam.

Avares đã trở lại căn phòng nơi ông bị giam cầm, điều duy nhất trong ký ức ông muốn nhìn lại là hình Thánh giá trên bức tường đàng sau phòng giam mà ông đã nhìn lên đó để cầu nguyện mỗi khi thất vọng. Lời cầu nguyện đã nâng đỡ ông trong những tháng ngày dài thiếu thốn và cô đơn.

Ngày nay bức tường đã được tô vôi, cây Thánh giá đã bị một lớp sơn vẽ chồng lên, và ông cho biết có một cái gì đó đã được chôn chặt trong ông, đó không phải là hối hận hay căm thù, mà là tâm tình tri ân Thiên Chúa đã cho ông trở về với gia đình và đã ban cho ông biết tha thứ và quên đi.

Suy Niệm 10: Trách nhiệm của con người: Tin hay không tin.

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống…

Phần cuối của bài giáo lý về việc sinh lại: Chúa Giêsu trao trách nhiệm cho chính con người: mỗi người phải suy nghĩ và lựa chọn, rồi lãnh trách nhiệm về sự lựa chọn ấy: “Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời, còn ai không tin vào Con thì không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ đè nặng trên người ấy”.

B…Nẩy mầm.

1. Từ đầu tuần đến hôm nay, Chúa Giêsu đã hết lời giải thích về sự cần thiết phải sinh lại, sinh lại như thế nào, ích lợi của việc sinh lại và tai hại của việc không sinh lại… Hôm nay, tôi phải quyết định và chịu trách nhiệm về sự quyết định của mình: Tôi có sẵn sàng sinh lại thành con người mới hay không?

2. Trở lại với ý tưởng của Maurice Zundel: “Chúng ta không sinh ra đã thành người (…) Con người có bổn phận phải thành người (…) Sách Tin Mừng nói “phải sinh lại”. Có một lần sinh thứ hai, đó là sinh con người, sinh phẩm cách, sinh tính bất khả xâm phạm, sinh sự trường tồn bất tử, lần sinh mà không có nó không thể thành người”. (Trích “sự hiện diện khiêm hạ”). 

Nếu tôi không can đảm sinh lại thì mãi mãi tôi sẽ không thành người. Điều đó là điều Tin Mừng Gioan gọi là “Hư mất”, là “không thấy được sự sống”.

3. Bà già 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100, một nhà truyền giáo đến thăm và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con đó, thì khỏi phải chết và được sống đời đời”. Bà đáp: “Thật là tuyệt vời, Thiên Chúa thật tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm năm không học biết Ngài”. Cuộc trở lại của bà được tạp trí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu: “Sinh 1825. Sinh lại 1925” (Góp nhặt).

4. “Ai tin vào Người Con thì được sống đời đời”.

Nếu có người hỏi tôi: Tại sao bạn tin Chúa?

Hồi nhỏ tôi đã trả lời: Vì ba mẹ bảo tôi phải tin; nếu tin Chúa, tôi sẽ được vào Thiên Đàng đời sau.

Còn bây giờ, tôi đáp: Tôi tin, và tôi biết Chúa yêu tôi . Tôi tin để được Thiên Đàng ngay đời này.

Lạy Chúa, ước gì trong mọi lúc, con luôn biết đáp lại: “Con tin vì con yêu Chúa”.(Epphata).

5. Mầm khác.

Một cha xứ kia thấy một người mới tin vào Chúa Kitô nhưng lại mắc cái tật là nghiện thuốc lá. Ngài đã khuyên ông ta nên bỏ thuốc vì hút thuốc rất có hại cho sức khoẻ. Thế nhưng ông ta không chỉ nghe để mà nghe. Hơn nữa có lần ông ta còn cãi lại:

– Kinh Thánh không hề cấm hút thuốc.

Thấy vậy cha xứ chỉ biết cầu xin cho ông mà thôi.

Nhưng thật là lạ. Sau đó vài tháng thì cha thấy ông bỏ hẳn thuốc lá.Tò mò, ngài hỏi tại sao thì ông trả lời.

– Thưa cha có một đêm kia con chiêm bao thấy Chúa Giêsu đến thăm con. Khi Chúa bước vào nhà thì con đang phì phào thuốc lá. Con mời Chúa vô phòng khách. Trên bàn có gói thuốc lá con vừa mới mua.

Chúa Giêsu hoỉ con:

+ Con đang làm gì đó?

– Dạ con ngồi nghỉ và hút thuốc cho đỡ buồn.

+ Sao con không mới ta hút thuốc?

Con vội vã trả lời:

– Dạ đâu được! Con hút thì được chứ Chúa hút thì coi sao được!

Chúa ôn tồn bảo con:

– Ta là mẫu người để con noi gương bắt chước. Con là môn đệ Ta thì con phải có tâm tình và hành động giống tôi Ta. Nếu con nghĩ Ta không nên hút thuốc, vậy tại sao con lại hút?

Thưa Cha, con đã tỉnh dậy ngay và biết rằng Chúa đã dùng giấc chiêm bao để dạy dỗ con. Bởi đó con đả quyết định bỏ thuốc, không bao giờ con hút thuốc nữa.

Suy Niệm 11: Sinh lại thành con người mới hay không?

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Đây là phần cuối của bài giáo lý về việc sinh lại: Chúa Giêsu trao trách nhiệm cho chính con người: mỗi người phải suy nghĩ và lựa chọn, rồi lãnh trách nhiệm về sự lựa chọn của mình: “Ai tin vào Người Con thì có sự sống đời đời, còn ai không tin vào Người Con thì không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ đè nặng trên người ấy”. (Ga 3,36)

 Như vậy, từ đầu tuần đến hôm nay, Chúa Giêsu đã hết lời giải thích về sự cần thiết phải sinh lại, sinh lại làm sao, ích lợi của việc sinh lại thế nào và tai hại của việc không sinh lại ra sao… Hôm nay, Chúa đòi mỗi người phải quyết định và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình: Chúng ta có sẵn sàng sinh lại thành con người mới hay không?

Một cha xứ kia thấy một người mới tin vào Chúa Kitô nhưng lại mắc cái tật nghiện thuốc lá. Ngài đã khuyên ông ta nên bỏ thuốc vì hút thuốc rất có hại cho sức khỏe. Thế nhưng, ông ta không chỉ nghe để mà nghe mà hơn nữa có lần ông ta còn cãi lại:

– Kinh Thánh không hề cấm hút thuốc.

Thấy vậy cha xứ chỉ biết cầu xin cho ông mà thôi.

Nhưng thật là lạ. Sau đó vài tháng thì cha thấy ông bỏ hẳn thuốc lá. Tò mò, ngài hỏi tại sao thì ông trả lời.

– Thưa cha có một đêm kia con chiêm bao thấy Chúa Giêsu đến thăm con. Khi Chúa bước vào nhà thì con đang phì phào thuốc lá. Con mời Chúa vô phòng khách. Trên bàn có gói thuốc lá con vừa mới mua.

Chúa Giêsu hỏi con:

+ Con đang làm gì đó?

– Dạ con ngồi nghỉ và hút thuốc cho đỡ buồn.

+ Sao con không mời ta hút thuốc?

Con vội vã trả lời:

– Dạ đâu được! Con hút thì được chứ Chúa hút thì coi sao được!

Chúa ôn tồn bảo con:

– Ta là mẫu người để con noi gương bắt chước. Con là môn đệ Ta thì con phải có tâm tình và hành động giống Ta chứ. Nếu con nghĩ Ta không nên hút thuốc, vậy tại sao con lại hút?

– Thưa Cha, con đã tỉnh dậy ngay và biết rằng, Chúa đã dùng giấc chiêm bao để dạy dỗ con. Bởi đó con đã quyết định bỏ thuốc, không bao giờ con hút thuốc nữa.

Đó là một cuộc tái sinh, sinh lại rất đẹp.

2. Maurice Zundel một nhà tu đức học nổi tiếng có nói: “Chúng ta không sinh ra đã thành người. Con người có bổn phận phải thành người. Sách Tin Mừng nói “phải sinh lại” lần sinh thứ hai để làm con Thiên Chúa: một người con có phẩm cách, có bản lãnh làm người, có mầm mống của sự trường tồn bất tử. Không có lần sinh này chúng ta không thể trở thành một con người trọn vẹn”. (Trích “sự hiện diện khiêm hạ”).

Một bà già 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100 tuổi, một nhà truyền giáo đến thăm và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con đó, thì khỏi phải chết và được sống đời đời”.

Bà đáp:

– Thật là tuyệt vời, Thiên Chúa thật tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm năm không học biết Ngài.

Cuộc trở lại của bà được tạp chí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu: “Sinh 1825. Sinh lại 1925” (Góp nhặt).

3. “Ai tin vào Người Con thì được sống đời đời”(Ga 3,36). Muốn sống đời đời phải biết gìn giữ ơn tái sinh.

Tại những khu rừng ở miền Bắc Âu, có một loài chồn rất đẹp. Vào mùa hạ, lông chồn màu nâu nhạt. Nhưng vào mùa đông, lông chồn bỗng đổi màu và mang sắc trắng như tuyết, trừ có đầu và đuôi chồn vẫn giữ nguyên màu đen. Có lẽ do một bản năng kỳ lạ nào đó, những con chồn này giữ gìn bộ lông đẹp đẽ của mình rất cẩn thận. Chúng không bao giờ để thân thể dính bụi đất dơ bẩn.

Những người thợ săn Âu châu đã biết được đặc tính kỳ lạ này. Do đó, thay vì đặt bẫy để bắt chồn, họ đi tìm những khe đá hoặc gốc cây nơi chồn cư ngụ, rồi bôi nhựa đường lên. Sau đó, họ thả chó ra để bắt đầu cuộc săn đuổi. Những con chồn bị đuổi vội chạy về chỗ ở. Nhưng khi thấy nơi ở của mình bị hoen ố, chúng không chịu vào ẩn núp. Chúng đành chịu đương đầu với nguy hiển và ngay cả sự chết, hơn là để thân thể hóa ra hoen ố…

Đối với giống chồn đẹp đẽ trên đây, sự trong sạch còn quí hơn cả mạng sống: Chúng sẵn sàng chiến đấu và chết hơn là để cho thân thể phải ra hoen ố.

Cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta cũng phải như thế. Được tái sinh trong Đức Kitô Phục Sinh, mỗi người Kitô hữu chúng ta đã được khoác lên mình một chiếc áo trắng tinh tuyền. Chiếc áo trắng ấy, như lời khuyên của Giáo Hội trong ngày chúng ta chịu phép rửa, chúng ta phải mang nó tinh tuyền cho đến ngày ra trước mặt Chúa…

Lạy Chúa, Chúa đã thương cho chúng con được trở nên con của Chúa. Xin cám tạ ơn Ngài mãi mãi. Amen.

(Nguồn: giaophanlongxuyen.org)