Thứ Sáu, ngày 29 tháng 03 năm 2024

Suy niệm thứ Năm tuần 8 Thường Niên – Thánh Giúttinô, tử đạo. Lễ nhớ (1/6)

Chuyên mục: Suy niệm ngày thường - Ngày đăng: 31.05.2023
Chia sẻ:

SUY NIỆM THỨ NĂM TUẦN 8 THƯỜNG NIÊN – THÁNH GIÚTTINÔ, TỬ ĐẠO. LỄ NHỚ (1/6)

Lời Chúa: Mc 10, 46-52

Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ, và một đám đông, thì có con ông Timê tên là Bartimê, một người mù ăn xin đang ngồi ở vệ đường. Khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nagiarét, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Ðavít , xin thương xót tôi”.

Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”. Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: “Anh muốn Ta làm gì cho anh”? Người mù thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Chúa Giêsu đáp: “Ðược, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.

Ảnh : tonggiaophanhanoi.org

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

Suy Niệm 1: Xin thương xót tôi

(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Con mắt là một bộ phận hết sức mong manh,

dễ bị tổn thương, dễ bị nhiễm trùng,

nhất là trong điều kiện vệ sinh ngày xưa.

Chúng ta không rõ nguyên nhân khiến anh Báctimê bị mù,

chỉ biết anh không mù từ lúc lọt lòng mẹ.

Anh đã từng được thưởng thức ánh nắng ban mai

hay nhìn ngắm những người thân yêu, bè bạn.

Bây giờ chỉ có bóng tối triền miên.

Anh Báctimê sống bằng nghề hành khất,

ngồi ăn xin bên vệ đường, sống bên lề xã hội.

Danh tiếng của Ðức Giêsu Nadarét, anh đã được nghe nhiều.

Ngài có thể làm người mù bẩm sinh sáng mắt.

Anh tin vào Ngài, thầm mong có ngày được gặp.

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc hạnh ngộ ấy.

Rất tình cờ, Ðức Giêsu đi ngang qua đời anh.

Anh mù lòa, ngồi đó như chỉ chờ giây phút này.

Khi nghe biết là Ðức Giêsu cùng với đám đông đi qua,

anh thấy cơ may đã đến.

Tất cả sức mạnh của anh nằm ở tiếng kêu,

tiếng kêu thống thiết bi ai của một người đau khổ,

nhưng cũng là tiếng kêu đầy tin tưởng, hy vọng.

“Lạy ông Giêsu, Con vua Ðavít, xin thương xót tôi!”

Tiếng kêu báo hiệu một sự hiện diện, một cầu cứu.

Nhiều người muốn bịt miệng anh,

nhưng anh chẳng sợ gì đe dọa.

Càng bị đe dọa, anh càng gào to hơn nhiều.

Cuối cùng tiếng của anh đã đến tai Ðức Giêsu.

Ngài dừng lại và sai người đi gọi anh,

vì Ngài cũng chưa rõ anh đang ở đâu.

Khi biết mình được gọi, anh vội vã và vui sướng

vất bỏ cái áo choàng vướng víu,

nhẩy cẩng lên mà đến với Ðức Giêsu.

Anh đi như một người đã sáng mắt,

bởi thực ra mắt của lòng anh đã sáng rồi.

Khi được khỏi, lòng tin của anh thêm mạnh mẽ hơn.

Anh thấy lại mặt trời, anh gặp Ðấng cho anh ánh sáng.

Không ngồi ở vệ đường nữa, anh đứng lên đi theo Ðức Giêsu.

“Xin thương xót tôi. Xin cho tôi nhìn thấy lại.”

Ðây có phải là tiếng kêu của tôi không?

Khả năng thấy là một khả năng mỏng dòn.

Ta có thể thấy điều này mà không thấy điều kia.

Tôi có thể lúc thấy lúc không, hay cố ý không muốn thấy.

Lắm khi tôi không đủ sức để ra khỏi sự mù lòa của mình.

Tôi có kêu gào với Chúa để xin được ơn thấy lại không?

Một người mù chữ, dù đã được xóa mù, vẫn có thể mù lại.

Chính vì thế tôi cứ phải xin cho mình được thấy luôn.

Thấy mình bé nhỏ, thấy Chúa bao la, thấy anh em dễ mến.

Thấy là đi vào một con đường dài hun hút.

Chúng ta phải được Chúa xóa mù suốt đời.

Chỉ trong ánh sáng của Chúa, tôi mới nhìn thấy ánh sáng.

 

Cầu Nguyện

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Xin cho con được thấy bản thân

với những yếu đuối và khuyết điểm,

những giả hình và che đậy.

Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con

cả những khi con không cảm nghiệm được.

Xin cho con thực sự muốn thấy,

thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa

chiếu dãi vào bóng tối của con.

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

 

Suy Niệm 2: Xin cho con được thấy

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và quyền năng. Người làm ra biết bao điều kỳ diệu. “Vinh quang Đức Chúa bao phủ công trình Người sáng tạo. Các thánh của Đức Chúa không tài nào kể lại mọi kỳ công của Người”. Vì những công trình quá lớn lao. Vượt quá tầm hiểu biết của con người. Bao thiên niên kỷ qua rồi mà người ta chưa hiểu thấu hết những bí mật Chúa đặt vào trong vũ trụ. Bao nghiên cứu tìm hiểu, nhưng “những gì thấy được chỉ như một ánh lửa” nhỏ bé. (năm lẻ).

Chính vì thế mà điều con người cần cầu xin là xin cho được thấy. Thấy những kỳ công Chúa thực hiện. Thấy những bí mật của đời mình. Và quan trọng nhất thấy Chúa và thấy được con đường mình phải đi để đạt tới Chúa. Đó chính là điều anh mù Ba-ti-mê đã xin. Trong cảnh mù loà anh tuyệt vọng. Vì chẳng ai có thể cho anh được thấy. Chỉ mình Chúa Giê-su. Anh đã tin Người là Đấng Cứu Thế khi anh tuyên xưng Người là Con Vua Đa-vít. Lòng tin lớn mạnh vượt qua được những chướng ngại. Nên đã được Chúa nhận lời. “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Và khi được thấy anh đã làm điều cơ bản nhất. Không dùng ánh sáng để đi tìm trần gian. Tìm tiền của. Nhưng anh “nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi”. Thật khôn ngoan. Và cơ bản. Thấy Chúa và đi theo Chúa. Đó là đi vào điều cốt lõi trong đời sống. Đi vào ơn cứu độ. Đi vào sự sống đời đời. Đó là thành đạt lớn nhất đời.

Đó chính là điều thánh Phê-rô khuyên nhủ ta. “Hãy khao khát sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ”. “Hãy tiến lại gần Đức Ki-tô”. Vì do lòng thương xót, Chúa “mời gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền”. Chúng ta đang trên đường từ bỏ bóng tối để tiến về ánh sáng. Chúng ta hãy noi gương anh mù Ba-ti-mê đi theo Chúa trên đường Chúa đi. Nghĩa là “tránh xa những đam mê xác thịt, vốn gây chiến với linh hồn”. Hãy làm chứng cho Chúa bằng đời sống ngay chính giữa ban ngày. “Anh em hãy ăn ở ngay lành giữa dân ngoại, để ngay cả khi họ vu không, coi anh em là người gian ác, họ cũng thấy các việc lành anh em làm, mà tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Người đến viếng thăm” (năm chẵn).

Lạy Chúa, xin cho con được thấy ánh sáng của Chúa. Đi theo ánh sáng của Chúa. Và chiếu sáng ánh sáng của Chúa.

 

Suy Niệm 3: Ðến với Chúa

(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trước cửa Thiên Ðàng, một tu sĩ gõ cửa và cầu khẩn: “Lạy Chúa, xin cho con được vào”. Cánh cửa vẫn đóng kín, nhưng có tiếng hỏi: “Con có mang theo điều gì không?”. Vị tu sĩ đáp: “Con mang theo một bị chứa đầy những nhân đức của con”. Có tiếng vọng lại: “Ðiều ấy tốt, nhưng Ta không thể mở cửa cho con vào”.

Vị tu sĩ ra đi, nhưng buổi chiều ông lại đến gõ cửa để xin được vào. Lần này, khi được hỏi có đem theo điều gì không?, ông cho biết có đem theo công nghiệp của việc Suy Niệm và cầu nguyện lâu giờ. Tuy nhiên, ông vẫn chỉ nhận được lời này: “Thật là tốt, nhưng Ta vẫn không thể mở cửa cho con vào”.

Vị tu sĩ lại ra đi, đến tối, ông trở lại. Lần này, ông chỉ đến với con người của ông mà thôi. Nhưng tức khắc cánh cửa mở rộng để cho ông bước vào.

Câu chuyện trên đây nhắc chúng ta về thái độ tinh thần cần phải có để đến với Chúa, đó là đến với Chúa bằng chính thực tế con người mình; bằng tâm tình tin tưởng và cậy trông vào lòng nhân từ của Chúa, hơn là dựa vào sức riêng của mình. Ðó cũng là thái độ chúng ta có thể thấy được nơi anh mù gần thành Yêricô mà Tin Mừng hôm nay ghi lại.

Anh mù đến với Chúa bằng chính thực tại đau thương của mình và trông cậy vào tình thương của Chúa: “Lạy con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi”. Ðây là lời cầu xin của một tâm hồn khiêm tốn và tin tưởng, như Chúa Giêsu đã ghi nhận sau khi chữa lành anh: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Ðức tin nơi anh mù đã giúp anh vượt qua thử thách, người ta càng ngăn cản anh, anh càng kêu to hơn cho đến khi được Chúa nghe thấy và cho gọi anh lại.

Liệu chúng ta có đủ khiêm tốn, kiên trì chờ đợi gặp Chúa không? Chúng ta có ý thức mình cần đến ơn Chúa, cần đến tình yêu và sự tha thứ của Chúa không? Như anh mù, chúng ta hãy thưa: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta nhìn thấy những kỳ công Chúa đã và đang thực hiện trong lịch sử nhân loại và trong chính đời sống chúng ta, để chúng ta trở thành bài ca tôn vinh Chúa luôn mãi.

 

Suy Niệm 4: Người mù thấy rõ hơn những kẻ sáng mắt

Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nagiarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy con vua Đa-vít xin dủ lòng thương tôi!” (Mc. 10, 47-48)

Thời Chúa Giêsu y khoa chưa phát triển, những bệnh tật về mắt ở thời đó thật là bi thảm, hy vọng chữa khỏi thực tế coi như không có. Người mù chẳng có cách thế phục hồi và sớm muộn phải lâm vào số phận những người đi ăn xin. Việc chữa khỏi mù thời ấy hầu như mang tính chất một cuộc cải tử hoàn sinh. Người ta coi những người mù và phong hủi là những “đại diện ưu tiên” của nỗi khốn khổ của con người. Trong mọi tập tục tôn giáo, thể thức chữa trị tật nguyền này đóng một vai trò quan trọng. Ở thời Chúa Giêsu, người ta coi đó là dấu chỉ thiên sai. Chẳng thế mà khi người ta hỏi Người có phải thật là Đấng Mêsia không, thì Người đã trưng dẫn việc Người chữa lành những người mù dể làm bằng chứng.

Người mù Giêricô phát hiện ra

Ai cũng biết rằng những người mù phát triển một sự chú ý mà những người sáng mắt hiếm khi có được. Điều họ cảm nhận dù chỉ nhỏ nhoi, thì họ lại suy nghĩ sâu xa, và nhờ sự chú tâm như thế, họ cảm nhận được bằng trực giác nhiều thực tại mà ta không thấy; phương ngôn ta đã chẳng nói “kẻ có tật, có tài” là gì. Đám đông đi theo Chúa Giêsu mù tịt về sứ mệnh đích thực của Người, đang khi người mù Giêricô, trong mịt mù đêm tối của đôi mắt, anh lại thành công: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít! Xin dủ lòng thương tôi!”

Tiếng kêu của anh lạc lõng trong tiếng huyên náo của mọi người. Vậy mà Chúa Giêsu nghe thấy và gọi anh. Giữa đám đông, một người nào đó nhận ra Người và người nào đó ấy lại mù cả đôi mắt. Một người không trông thấy Người lại nói đúng tên Người!!! Từ vực sâu khốn khổ của đời anh, người con trai ông Timê đã thấy rõ được cái bí mật thiên sai, đang khi các môn đệ của Người là những chứng nhân thường ngày nghe Người nói thấy Người làm, thì lại luôn luôn mơ tưởng những địa vị đặc biệt người ta dành cho mình trong cái tôi chẳng biết là vương quốc trần gian nào.

Chuyện đẹp mắt trong câu chuyện này không phải là chuyện người mù đã được chữa khỏi, mà là chuyện con người hèn mọn này, con người bé nhỏ này của Nước Trời đã là người, trước cả mọi người, làm chứng về Đức Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa. Nếu có bao giờ câu nói “Tin là thấy” có được trọn vẹn ý nghĩa, thì đúng là ở đây Với lòng khiêm tốn, chúng ta hãy cầu xin cho những người chưa có hay đã từ bỏ con đường của Chúa.

 

Suy Niệm 5: Nhạy bén để được dứu độ

Trước mỗi dấu chỉ hay sự kiện, mỗi người nhìn dưới góc độ khác nhau. Người thì trầm trồ khen ngợi; người thì chê bai không ngớt, kẻ thì dửng dưng…

Sự xuất hiện của Đức Giêsu cũng vậy. Ngài đi đến đâu cũng có nhiều người tin và theo Ngài, nhưng cũng không thiếu kẻ chống đối kịch liệt, lại có những người vô tình đến vô tâm, nên họ không cần quan tâm gì đến sự xuất hiện của Ngài.

Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật cho chúng ta thấy phản ứng nhạy bén của anh mù. Anh vừa nghe thấy nói là Đức Giêsu thành Nazarét, anh ta đã cố nhoi lên và không ngừng kêu xin: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”. Lời kêu cầu này của anh mù không chỉ đơn thuần là lời van xin, mà còn là lời tuyên xưng niềm tin mãnh liệt của anh vào một Đức Giêsu đã được loan báo từ bao đời nay, hôm nay anh đã được gặp. Điều này đã được chứng minh bằng lời khen ngợi và sự chữa lành của Đức Giêsu: “Đức tin của anh đã cứu anh”.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta về tinh thần sống đạo. Liệu trong cuộc sống, chúng ta có nhạy bén với Lời Chúa, với các dấu chỉ, hay nhiều khi chúng ta dửng dưng với những sứ điệp mà hằng ngày Thiên Chúa không ngừng gửi đến cho chúng ta qua nhiều hình thức???

Thực tế, nhiều khi thay vì nhạy bén và thi hành, chúng ta lại ngụy biện và phớt lờ như người không biết. Như vậy, anh mù trong bài Tin Mừng hôm nay chỉ mù về thể lý, còn tâm anh thì sáng, trong khi đó chúng ta thì ngược lại!

Lạy Chúa Giêsu, xin cho tâm hồn chúng con luôn biết nhạy bén với sứ điệp Lời Chúa, để chúng con thi hành và được cứu độ. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Anh mù sáng mắt sáng tâm hồn

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Khi chữa lành anh mù Bac-ti-mê, không những Chúa Giêsu cho anh được sáng mắt, mà còn cho anh được sáng tâm hồn. Đó là anh tin tưởng hoàn toàn nơi Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, mù bao giờ cũng đáng buồn. Thân xác mù thì chỉ thiệt hại cho bản thân mình, còn tâm hồn mù thì thiệt hại cho cả xã hội. Xã hội hôm nay đang nỗ lực mang ánh sáng đến cho người mù. Đó là điều cần thiết vì mang lại hạnh phúc cho người tàn tật. Nhưng điều cần thiết hơn là giúp con người tìm thấy ánh sáng cho cuộc đời. Lạy Chúa, ngày nay xã hội đang nỗ lực thực hiện công việc từ thiện là chữa mắt miễn phí cho những người mù lòa. Đó là việc cụ thể của tình người. Từ đó, xin cho con biết trao tặng ánh sáng Lời Chúa cho các tâm hồn khi chính mình đi trong ánh sáng của Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con biết học thái độ của anh mù Bac-ti-mê. Đó là biết rằng mình đang mù. Đó là tin rằng: chỉ một mình Chúa mới có thể chữa lành. Xin cho con can đảm vượt qua mọi chướng ngại, sẵn sàng từ bỏ mọi quyến luyến ràng buộc, sẵn sàng từ bỏ mọi tính hư tật xấu, như anh mù can đảm vất bỏ cả áo khoác, để đến với Chúa. Lạy Chúa, xin thương xót con.

Lạy Chúa Giêsu, biết bao kẻ gặp Chúa nhưng không biết Chúa. Trong khi đó, anh mù đã nhận ra Chúa là Đấng cứu độ duy nhất và tin tưởng nơi Chúa. Xin cho con biết đến với Chúa mỗi ngày, để đón nhận hồng ân cao cả, là nhận biết Chúa là Đấng Toàn Năng, và con là người mang thân phận yếu hèn cần được cứu giúp. Xin Chúa chữa lành con và giúp con đi theo Chúa tiến về Giêrusalem với nhiều hứa hẹn đau khổ và vinh quang. Lạy Chúa, xin thương xót con. Amen.

Ghi nhớ: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”.

 

Suy Niệm 7: Người mù thành Giêricô

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Thánh Marcô thuật lại cho chúng ta việc Đức Giêsu chữa người mù từ mới sinh tại cổng thành Giêricô. Lời kêu van của người mù: “Lạy Con vua Đavít, xin thương xót tôi”, cho thấy dân chúng tin Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Đấng khôi phục và giải phóng dân tộc. Nhưng khi Đức Giêsu chữa lành cho người mù được sáng mắt, Ngài muốn hướng người ta về sứ mạng đích thực của Ngài là cứu độ muôn dân. Ngài đến để giải thoát nhân loại khỏi đau khổ và tối tăm của sự dữ. Như thế, tin vào Đức Giêsu, con người mới được ánh sáng, được giải phóng và được tự do làm con Thiên Chúa.

Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Nhờ cặp mắt chúng ta có thể nhận biết và tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chúng ta có thể nhìn thấy mọi người, mọi vật. Có những người mù từ thuở mới sinh, hay bị mù do tai nạn, bệnh tật. Họ giống như ngọn đèn bị tắt, suốt đời phải chịu lần mò trong bóng tối, không còn được hưởng ánh sáng mặt trời và những vẻ đẹp của thế tới sự sáng, họ phải buồn phiền khổ cực biết bao. Vì thế, anh mù thành Giêricô hôm nay đang phải ở trong tình trạng đó, anh đau khổ nên anh đã phải tha thiết xin Chúa giúp đỡ: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương xót tôi”.

Hôm nay, nghe biết Đức Giêsu đi qua, anh mù kêu xin Chúa cứu chữa, người ta cấm anh, anh càng kêu lớn hơn. Anh không xin tiền, xin gạo, xin bánh như mọi khi, nhưng xin được xem thấy. Khi nghe tiếng Đức Giêsu gọi, anh vội vàng vứt áo choàng, nhảy chồm về phía Chúa. Lời kêu xin và thái độ của anh chứng tỏ anh tin tưởng sâu xa mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa, chính vì niềm tin này Đức Giêsu đã cứu chữa anh, và khi được sáng mắt anh đã đi theo Chúa.

Mắt là cảm hứng cho thi sĩ làm thơ, cho nhạc sĩ viết nên cung nhạc. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương và nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng đẹp. Trái lại khi nói về mắt, Phúc âm lại nói về đôi mắt mù. Mù đôi mắt thân xác đã bất hạnh, còn mù đôi mắt tâm hồn lại là một bất hạnh lớn. Mù đôi mắt tâm hồn là “mù” mà không chấp nhận mình “mù”, vì nghĩ rằng mình vẫn sáng suốt để nhìn ra Chúa. Nhưng đâu ngờ, đàng sau đôi mắt ấy, có thể chỉ là một màn đêm lạnh lẽo. Một tâm hồn trống trải, buồn tênh. Chẳng buồn nghe và thực thi Lời Chúa nữa (Hosanna).

Ngày nay trên thế giới số người mù về thể xác có lẽ suy giảm đi đôi chút, nhưng ai dám nói số người mù về tinh thần đã giảm đi? Số người “thấy mà xem chẳng thấy” (kinh cám ơn rước lễ xưa) thì rất nhiều. Người ta biết mọi cái trên thế giới, kể cả cung trăng, một số hành tinh và một vài vì sao, nhưng có cái gần nhất người ta lại không thấy, đó là cái “tôi” của mình, là con người của mình, là bản thân mình.

Nói chi đến thực tại siêu nhiên, người ta mù tịt trước những vấn đề thiêng liêng. Anh mù Bartimê đã nhìn ra Đức Giêsu là ai, là Đấng Cứu Thế trong khi đám đông chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Họ có con mắt sáng, nhưng lòng họ vẫn còn u tối. Họ cần được Chúa soi sáng cho họ để họ nhìn ra chân lý.

Còn chúng ta, những người sáng mắt thì sao? Không những chúng ta phải cảm tạ Chúa, phải quí trọng giữ gìn, bảo vệ tâm hồn nữa. Nếu chúng ta đã lỡ để cho tâm hồn không còn trong sáng vì nhìn xem những hình ảnh xấu… thì chúng ta hãy bắt chước anh Bartimê cương quyết, can đảm và dứt khoát ném áo choàng, đến với Chúa Giêsu trong phép Giải tội để xin Ngài chữa lành, lấy lại ánh sáng tươi đẹp cho đôi mắt.

Truyện: Chiếc đèn lồng

Có một người mù, một đêm kia đến thăm người bạn thân. Hai người trò chuyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một chiếc đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói:

– Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như nhau.

Người bạn trả lời:

– Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối người ta có thể đụng phải anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi.

Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đụng phải anh. Với vẻ tức giận, anh mù nói:

– Người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi?

Người kia đáp:

– Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không trông thấy. Mong anh thông cảm.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu truyện kết luận: con người tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy.

Nhiều khi cuộc đời chúng ta chỉ là chiếc lồng đèn bị tắt lửa không còn ánh sáng để soi chiếu cho người khác, chúng ta bắt chước anh mù Bartimê mà kêu lên: “Lạy Chúa, xin thương xót con”.

 

Suy Niệm 8: Sáng mắt sáng lòng

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống…

Liền sau chuyện Giacôbê và Gioan xin địa vị ưu tiên trong “nước” Chúa Giêsu sắp thành lập, Mc viết tiếp chuyện anh Bartimê như để “sửa lưng” các môn đệ. Bartimê là tấm gương cho tất cả những ai muốn “thấy” Chúa Giêsu thực sự là ai và thực lòng muốn “đi theo” Ngài.

– Mặc dù mù, nhưng anh tha thiết “xin cho tôi được thấy”, và cuối cùng anh đã thấy. Khi thấy rồi, anh còn “đi theo” Chúa Giêsu lên Giêrusalem (ở đó Ngài sẽ chịu nạn chịu chết và sống lại).

– Trước đó, khi được Chúa Giêsu gọi, anh đã từ bỏ (“liệng áo choàng”), thay đổi nếp sống (từ “ngồi ở vệ đường” đến “đứng dậy”), quy hướng về Chúa Giêsu (“nhảy đến với Chúa Giêsu”).

B…. nẩy mầm.

1. “Xin cho con được thấy”: Đây cũng là lời cầu xin của các tín hữu trong cộng đoàn của Mác-cô. Họ đang sống trong một thời kỳ bị bách hại, nghi kỵ và khinh miệt. Họ không biết phải sống như thế nào. Họ xin Chúa cho họ thấy con đường mà họ phải sống và đi theo Ngài. Một phần nào đó, tôi cũng không biết phải sống thế nào trong hoàn cảnh hiện tại của tôi. Tôi hãy mượn lời anh Bartimê để cầu xin với Chúa: “Lạy Chúa, xin cho con được thấy”.

2. “Nhiều người mắng anh… Người ta gọi anh mù và bảo ‘Hãy vững tâm đứng dậy. Ngài gọi anh đó”: tha nhân có khi là cản trở, có khi là trợ lực giúp ta đến với Chúa. Xin Chúa giúp con, khi bị tha nhân cản trở, vẫn cương quyết một lòng hướng về Chúa; và khi được tha nhân trợ lực, con càng tiến đến Chúa cách tích cực hơn.

3. “Mỗi năm một lần vào mùa xuân, những sức mạnh ẩn mình của trái đất bỗng bừng dậy. Hoa nở, lá cây đâm chồi, cỏ mọc, lúa vươn lên… Sức sống mà Thiên Chúa dấu ẩn bấy lâu trong lòng đất bỗng đột ngột vươn dậy. Vài tháng trước đó, nếu không có kinh nghiệm của những mùa xuân đã qua, thì có ai mà ngờ sẽ thấy được cảnh sống lại huy hoàng của thiên nhiên như vậy. Đối với mùa xuân vĩnh cửu cũng thế. Có nhiều điều rất kỳ diệu tự ta không thấy nhưng Chúa có thể cho ta thấy… Lạy Chúa, xin mở mắt con” (Newman)

4. Lời kể của một bà mẹ:

Tôi có một đứa con mù từ lúc mới sinh. Khi cháu được 20 tháng, lần đầu tiên tôi đưa cháu đến một siêu thị. Cứ vài bước, nó lại dừng lại để lắng nghe những tiếng động chung quanh: tiếng chân của những người đi bộ, tiếng xe chạy, tiếng chim đang hót, tiếng gió mát từ xa thổi đến…

Trên đường về, tôi nhận thấy con tôi vui vẻ rộn rã hơn bao giờ hết. Nụ cười của nó nói với tôi rằng buổi sáng hôm đó là buổi sáng đẹp nhất đối với nó vì nó đã khám phá được những điều mới mẻ kỳ diệu.

Riêng tôi, tôi tự hỏi: con tôi và tôi, ai thực sự là kẻ mù loà? (Chờ đợi Chúa)

5. “Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy tới gần Chúa Giêsu. Người hỏi: Anh muốn tôi làm gì cho anh? Anh mù đáp: Thưa Thầy, xin cho con nhìn thấy được”. (Mc 10,50-51)

“Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”

Mắt là cảm hứng cho thi sĩ làm thơ, cho nhạc sĩ viết nên cung nhạc. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương và nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng đẹp. Trái lại khi nói về mắt, Phúc Âm lại nói về đôi mắt mù. Mù đôi mắt thân xác đã bất hạnh, còn mù đôi mắt tâm hồn lại là một bất hạnh lớn. Mù đôi mắt tâm hồn là “mù” mà không chấp nhận mình “mù”, vì nghĩ rằng mình vẫn sáng suốt để nhận ra Chúa. Nhưng đâu ngờ, đằng sau đôi mắt ấy, có thể chỉ là một màn đêm lạnh lẽo. Một tâm hồn trống trải, buồn tênh. Chẳng buồn nghe và thực thi lời Chúa nữa.

Lạy Chúa Giêsu, xin mở mắt tâm hồn con vì con cần được khai mở để nhận ra Chúa và bước theo Ngài là Đường, là sự Thật và là sự Sống của con (Hosanna)

 

Suy Niệm 9: Người mù sáng mắt

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

1. Người mù sáng mắt.

Trình thuật người hành khất mù lòa được sáng mắt đã được thánh Marcô diễn tả thật rõ ràng và vô cùng sinh động, khiến chúng ta có cảm tưởng như được chứng kiến tận mắt sự kiện xảy ra. Chúa Giêsu, các môn đệ và đoàn lũ dân chúng đang theo Ngài rảo qua đường phố. Bên lề đường, một người hành khất mù lòa đang nhẫn nại nài xin của bố thí từ các khách bộ hành. Người hành khất ngồi đó, và với thời gian, có lẽ anh không còn hy vọng tìm được một phương thế chữa trị sự mù lòa của mình, anh buồn tủi chấp nhận định mệnh và sống bằng của bố thí từ những người giàu lòng bác ái.

Với một người sống trong hoàn cảnh đó, thì sự ồn ào xao động chung quanh có lẽ không làm cho anh ta bận tâm. Tuy nhiên, sự ồn ào xao động của buổi sáng hôm ấy có gì khác thường, khiến anh ta không thể không lưu ý. Anh hỏi thăm những người chung quanh, và khi được biết có Đức Giêsu thành Nazareth đang đi qua nơi ấy, anh cảm thấy như bừng lên sức sống và cất tiếng kêu gào át cả tiếng ồn ào của đám đông: “Lạy Giêsu Con vua Đavid, xin thương xót tôi” (Mc 10, 47). Lời kêu gào của anh nhẫn nại, tha thiết, đánh động lòng người, nhưng nhiều người chung quanh đã bảo anh im đi, có lẽ vì họ nghĩ rằng Chúa Giêsu trong sứ mệnh rao giảng của Ngài, Ngài phải thực hiện những việc vĩ đại hơn là quan tâm đến người hành khất mù lòa ngồi bên vệ đường.

Nhưng Chúa Giêsu cho gọi anh đến. Người hành khất mù lòa như nhận được một sức sống mãnh liệt, và dường như quên là mình đang mù lòa cần người dẫn dắt, anh vứt áo choàng sang một bên và chạy về phía Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi anh: “Anh muốn Tôi làm gì cho anh” (Mc 10, 51). Người mù đáp: “Lạy Thầy xin cho con được thấy” (Mc 10, 51). Chúa Giêsu trả lời: “Hãy đi, lòng tin của anh đã chữa anh” (Mc 10, 52). Người hành khất mù lòa được sáng mắt và đi theo Chúa.

2. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của chúng ta.

Đã bao lần qua nhiều phương nhiều cách, Chúa muốn gọi chúng ta như đã gọi người hành khất mù loà thuở xưa, nhưng hình như nhiều lần tiếng gọi ấy đã bị tắt lịm vì tiếng ồn ào của xã hội chung quanh. Chúa gọi, nhưng chúng ta đã không quảng đại đáp trả, chính vì thế chúng ta vẫn còn dẫm chân trong đống tội của sự đui mù thiêng liêng.

Người hành khất mù loà trong bài Tin Mừng hôm nay, khi vừa được biết cho gọi mình, đã mau mắn vất bỏ cái áo anh đang mang trên người, cái áo rất cần thiết cho một người sống trong vùng đất sa mạc, để chạy nhanh về phía Chúa. Việc anh làm như thế chứng tỏ niềm tin anh đặt vào Chúa rất mạnh. Chính Chúa đã xác nhận điều đó: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Mc 10, 52).

Xét như thế thì chúng ta thấy niềm tin có một chỗ đứng rất quan trọng trong cuộc sống.

Abraham là một người dân quê ở thành Ur, thuộc xứ Kalđê. Một ngày nọ, Thiên Chúa nói với ông: “Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, khỏi nhà của cha ngươi, đến đất ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn …” (St 12, 1-2). Abraham ra đi. Đâu là đất Chúa hứa? Làm sao trở thành tổ phụ một dân lớn với một người vợ không con lại đã quá già? Bao nhiêu câu hỏi đã được đặt ra, nhưng Abraham cứ đi, lao mình vào nơi vô định. Khi đã sinh được một cậu con trai đầu lòng Thiên Chúa lại phán: “Ngươi hãy đem con ngươi, đứa con một ngươi yêu dấu là Isaac, mà đi tới đất Hôria và ở đó, hãy dâng nó làm của lễ thượng hiến cho Ta” (St 22, 2). Abraham, ruột đau như cắt vì quá yêu con, nhưng vẫn thắng lừa dắt con lên núi tế lễ Chúa.

Suốt đời ông là một thử thách không ngừng, nhưng ông hoàn toàn tin Chúa, sẵn sàng nghe Chúa mọi nơi, mọi lúc. Bởi thế, ông được Chúa gọi là “cha các kẻ tin” (Rm 4, 11).

Mẹ Têrêsa nói: “Biết đón nhận đau khổ trong đức tin, chúng ta sẽ có cơ hội san sẻ nỗi thống khổ của Đức Giêsu và bày tỏ tình yêu với Ngài.”

Ước gì trong từng giây phút, chúng ta luôn biết lắng nghe tiếng Chúa và đến với Ngài để được Ngài nâng đỡ trong cuộc sống thiêng liêng của chúng ta.

Lạy Chúa,

xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin

để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,

nơi khuôn mặt khốn khổ

của tất cả những người bị thử thách:

những kẻ đói không chỉ vì thiếu của ăn,

nhưng vì thiếu Lời Chúa;

những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,

nhưng còn vì thiếu sự bình an, sự thật,

công bằng và tình thương;

những kẻ vô gia cư,

không chỉ tìm kiếm một mái nhà,

nhưng còn tìm trái tim hiểu biết, yêu thương;

những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,

không chỉ trong thân xác,

nhưng cả trong tinh thần,

bằng cách thực thi lời hy vọng này:

“Điều các con làm cho

người bé mọn nhất trong anh em

là các con làm cho chính Ta”.

(Mẹ Têrêxa Calcutta).

(Nguồn: giaophanlongxuyen.org)