Thứ Bảy, ngày 15 tháng 03 năm 2025

CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY NĂM C

Chuyên mục: Suy niệm Chúa Nhật - Ngày đăng: 15.03.2025
Chia sẻ:

CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY NĂM C

Lời Chúa: Lc 9, 28b-36

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem.

Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị đang đứng với Người. Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Khi nói thế, Phêrô không rõ mình nói gì. Lúc ông còn đang nói, thì một đám mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàng. Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: “Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Và khi tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu.

Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.

Ảnh: Google

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY C

Lời Chúa: St 15,5-12.17-18; Pl 3,17–4,1; Lc 9,28b-36

MỤC LỤC

1.     Vinh quang của Đức Giêsu–Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ. 4

2.     Hãy vâng nghe lời Người–Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ. 6

3.     Khuôn mặt Ngài biến đổi–Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ. 8

4.     Học hỏi phúc âm CN 2 mùa chay–Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu S.J. 10

5.     Biến hình–TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 12

6.     Cuộc phiêu lưu–TGM Giu-se Vũ Văn Thiên. 13

7.     Sự khiêm hạ của Thiên Chúa–TGM. Giuse Vũ Văn Thiên. 15

8.     “Đấng tín trung”–TGM. Giuse Vũ Văn Thiên. 17

9.     Biến hình và đổi đời–ViKiNi–‘Xây Nhà Trên Đá’–Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 19

10.   Mau biến đổi–Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 21

11.   Đức Giêsu biến hình–Lm Giuse Đinh Lập Liễm.. 27

12.   Chúa biến hình trên núi–Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 32

13.   Chúa biến hình trên núi Ta-bo–Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 34

14.   Giải Phẫu Thẩm Mỹ–phaolomoi.net 36

15.   Hãy vui lên–Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ. 38

16.   Sống trong niềm tin–Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ. 40

17.   Mùa chay biến đổi đời sống–Lm. Đan Vinh. 42

18.   Dung mạo Người bỗng đổi khác–Lm. Trầm Phúc. 47

19.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay–Lm. Trầm Phúc. 49

20.   Vinh quang Chúa–Lm Trầm Phúc. 51

21.   Chúa Giêsu biểu lộ thần tính trên núi Tabore–P.Trần Đình Phan Tiến. 53

22.   Gói hành trang duy nhất–Lm. Giuse Trương Đình Hiền. 55

23.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay–Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 58

24.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay–Lm. Ga. Phan Tiến Dũng. 63

25.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay–Lm. GB. Phạm Hồng Thái 65

26.   Đâu là những dấu chỉ của sự biến đổi?–Jaime L. Waters–Nhóm Sao Biển chuyển ngữ. 67

27.   Theo Chúa đến núi Tabor–MINH HỌA LỜI CHÚA–Nguyễn Hiếu. 69

28.   Sống xứng tầm người con Thiên Chúa –Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 72

29.   Nhìn vào mặt tốt–Lm. Ignatiô Trần Ngà. 74

30.   Biến hình trong đời thường–Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy. 76

31.   Đau khổ và vinh quang–Lm Hồng Phúc. 78

32.   Lắng nghe lời–Lm. Anmai, CSsR. 79

33.   Hãy biến hình để được sống trong vinh quang–Jos. Vinc. Ngọc Biển. 82

34.   Qua Thập Giá đến vinh quang–Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc. 84

35.   Kinh ngạc–Lm. Vũ Đình Tường. 86

36.   Nếm trước–Lm. Vũ Đình Tường. 88

37.   Chúa biến hình để biến đổi ta–Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 90

38.   Chúa đẹp vô cùng–Lm. Micae Võ Thành Nhân

39.   Đức Giêsu đang cầu nguyện –Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

40.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay–Lm. Anthony Trung Thành

41.   Tin là tín thác vào Chúa–Lm. Joshepus Quang Nguyễn

42.   Biến đổi cuộc đời như Chúa–Huệ Minh

1.Vinh quang của Đức Giêsu–Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.

Suy Niệm

“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui…”

Một bài hát của Trịnh Công Sơn đã bắt đầu như thế.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, ba môn đệ của Đức Giêsu

đã chẳng phải chọn một niềm vui.

Niềm vui chợt đến với họ như một quà tặng.

Đêm hôm ấy, một đêm giống như nhiều đêm,

Đức Giêsu lên núi cầu nguyện cùng với ba môn đệ.

Ngài chìm sâu trong cuộc đối thoại thân tình với Cha.

Ngài biết khá rõ những gì đang chờ mình:

khổ đau, nhục nhã, cái chết và phục sinh (x Lc 9,22).

Đức Giêsu đón lấy con đường Cha muốn Ngài đi.

Đêm đã khuya, Ngài vẫn còn trò chuyện với Cha.

Các môn đệ đã chìm sâu trong giấc ngủ.

Khi chợt tỉnh, họ ngất ngây trước cảnh tượng phi thường.

Thầy Giêsu đang đàm đạo với hai ông Môsê và Êlia.

Vinh quang rạng ngời bao trùm ba đấng.

Khuôn mặt Thầy Giêsu trở nên đổi khác.

Cả y phục Ngài cũng trở nên trắng tinh chói lọi.

Không rõ các môn đệ đã chiêm ngưỡng cảnh này bao lâu,

nhưng chắc chắn họ muốn kéo dài hạnh phúc đó.

Khi ông Phêrô thấy hai vị sắp chia tay Đức Giêsu,

ông đòi dựng ba lều để tất cả ở lại qua đêm.

Đêm đẹp quá, đêm huyền diệu!

Đêm bừng sáng như ban ngày!

Bỗng chốc một đám mây bao phủ các môn đệ,

đưa họ đi vào huyền nhiệm của sự hiện diện thần linh.

Họ khiếp sợ khi thấy Thiên Chúa quá ư gần gũi.

Tất cả những gì đã xảy ra đều nhằm chuẩn bị

để các môn đệ nghe được lời giới thiệu của Cha:

“Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn”,

và đón nhận lời Cha nhắn nhủ: “Hãy vâng nghe lời Người”.

Kinh nghiệm thấy Đức Giêsu toả sáng thật cần thiết.

Nó là một nâng đỡ cho các môn đệ

đang cùng đi với Thầy trên đường lên Giêrusalem.

Nó giúp các ông đón nhận số phận như Thầy,

để được cùng Thầy chia sẻ vinh quang (x. Lc 9,23-26).

Vinh quang của Con Thiên Chúa được dấu ẩn khi làm người.

Vinh quang ấy loé sáng lúc Ngài biến hình trên núi.

Nhưng ngay sau Phục Sinh, Ngài cũng chẳng tỏ hết vinh quang.

Vinh quang tỏ tường chỉ bừng toả khi Ngài trở lại.

Đám mây rồi cũng tan, Môsê và Êlia biến đi.

Chỉ còn mình Đức Giêsu ở lại,

với khuôn mặt bình thường, với con đường phía trước.

Rồi hôm sau Thầy trò lại xuống núi ruổi rong.

Trong mùa Chay, chúng ta cần gặp được Chúa bừng sáng.

Và chúng ta cũng cần được biến hình.

Sám hối đích thực, dẫn tới sự bừng sáng rực rỡ.

Bừng sáng qua cầu nguyện thâm trầm, qua chay tịnh lặng lẽ.

Bừng sáng qua chia sẻ với tha nhân.

Ước gì tôi bừng sáng qua việc biến đổi lối nghĩ, lối sống.

Gợi Ý Chia Sẻ

Cầu nguyện, ăn chay, chia sẻ cho người nghèo: đó là 3 hướng chính của mùa Chay. Bạn thấy 3 hướng đó cần thiết không và bổ sung cho nhau như thế nào?

Nhiều đoàn phẫu thuật giúp trẻ em tìm lại nụ cười trên khuôn mặt tươi tắn. Bạn nghĩ mình có thể đem lại nụ cười cho ai trong mùa Chay này?

Cầu Nguyện

Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng

tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,

chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,

tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.

Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,

có bao điều con lãng phí bên cạnh những Ladarô túng quẫn,

có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác,

có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.

Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa.

Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.

Con phải chịu trách nhiệm về cảnh nghèo trong xã hội.

Lạy Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó

là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.

Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,

vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.

Thế giới còn nhiều người đói nghèo

là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.

Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,

nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.

2.Hãy vâng nghe lời Người–Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.

SUY NIỆM

Tâm sự của Thầy Giêsu

Tôi thích núi, thích lên núi, nơi thanh tịnh.

Núi là nơi tôi hay chọn để cầu nguyện, có khi một mình.

Nhưng hôm nay tôi dẫn theo ba môn đệ thân tín.

Tôi mong họ cùng cầu nguyện với tôi

khi tôi biết mình sắp bắt đầu một cuộc hành trình mới,

cuộc hành trình lên Giêrusalem lần cuối của đời tôi.

Tôi đã báo cho các môn đệ biết về con đường tôi sắp đi,

con đường của khổ đau, nhục nhã và cái chết (Lc 9,22).

Nhưng đó không phải là con đường cụt,

vì tôi tin Cha sẽ không bỏ rơi tôi, nhưng sẽ nâng tôi lên.

Con đường ấy sớm muộn cũng là con đường họ phải đi.

Tiếc là các môn đệ không hiểu điều tôi nói (Lc 9,45).

Khi cầu nguyện với Cha, tôi rất hạnh phúc,

vì được gần Cha, Abba của tôi, Đấng sai tôi đến thế gian.

Chỉ mình Cha biết tôi, hiểu tôi, và không để tôi một mình.

Khi gặp gỡ Cha, tôi được đưa vào thế giới thần linh.

Hôm nay, đang khi cầu nguyện,

tôi bỗng thấy mình được biến đổi lạ lùng.

Vinh quang của Cha như chiếm trọn con người tôi.

Cả khuôn mặt và y phục của tôi bừng sáng.

Tôi như trở thành một con người khác.

Đây là một kinh nghiệm phi thường mà tôi trải qua.

Hơn nữa, Cha còn đến với tôi trong đám mây.

Mây vừa che khuất, vừa bày tỏ sự hiện diện của Cha.

Cha nói với các môn đệ, cũng là nói với tôi (Lc 9,35).

Cha khẳng định tôi là Con của Cha, được Cha ưu tuyển.

Tôi thích nghe Cha gọi tôi là Con,

và tôi cũng thích gọi Ngài là Cha, Abba.

Tình Cha-Con giữa chúng tôi thân mật và ấm áp.

Dù đời tôi sắp đi vào ngõ hẹp, vào bóng tối mịt mù,

nhưng tôi chỉ muốn mình đi đúng đường Cha muốn.

Môsê và Êlia hiện ra nói với tôi về cuộc xuất hành.

Tôi biết cuộc xuất hành ấy sẽ kết thúc ở Giêrusalem.

Và tôi tin đây sẽ là một kết thúc có hậu.

Tâm sự của ba môn đệ

Chúng tôi vui vì được Thầy dẫn lên núi để cầu nguyện.

Chìm đắm trong cầu nguyện như Thầy là điều khó.

Chính vì thế chẳng mấy chốc chúng tôi đã ngủ mê mệt.

Thầy cứ cầu nguyện, còn trò thì cứ ngủ!

Khi bừng tỉnh, chúng tôi thấy một cảnh tượng lạ lùng.

Thầy chúng tôi rực rỡ vinh quang đứng với Môsê và Êlia.

Chúng tôi ngây ngất, như không tin vào mắt mình.

Khi hai ông Môsê và Êlia sắp từ biệt Thầy,

anh Phêrô muốn kéo dài giây phút kỳ diệu này

nên xin Thầy cho phép dựng ba lều trên núi cho ba vị.

Sau này chúng tôi mới hiểu đây không phải là chỗ dựng lều,

vì Thầy trò chúng tôi còn phải xuống núi,

phải leo những ngọn núi khác, như núi Cây Dầu, núi Sọ,

và phải trải trải qua những kinh nghiệm đau thương ở đó.

Chúng tôi không được dừng lại lâu ở ngọn núi này,

dù hạnh phúc và an ủi ở đây là điều rất cần và quý.

Khi  một đám mây bất ngờ kéo đến và bao phủ chúng tôi,

chúng tôi cảm nhận ngay sự hiện diện của Thiên Chúa.

Điều đó khiến chúng tôi khiếp sợ (Lc 9,34).

Mà đúng là Thiên Chúa muốn ngỏ lời với chúng tôi.

Ngài như Người Cha giới thiệu Thầy Giêsu là Con,

Người Con cao trọng, vượt cả Môsê và Êlia.

“Các anh hãy lắng nghe Người” (Lc 9,35).

Chúng tôi và các tín hữu vẫn cố gắng sống lời nhắn nhủ ấy.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha,

con phó mặc con cho Cha,

xin dùng con tùy sở thích Cha.

Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.

Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.

Miễn là ý Cha thực hiện nơi con

và nơi mọi loài Cha tạo dựng,

thì lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.

Con trao linh hồn con về tay Cha.

Con dâng linh hồn con cho Cha,

lạy Chúa Trời của con,

với tất cả tình yêu của lòng con.

Vì con yêu mến Cha,

vì lòng yêu mến thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,

thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,

không so đo, với một lòng tin cậy vô biên,

vì Cha là Cha của con.

3.Khuôn mặt Ngài biến đổi–Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.

Suy Niệm

Khuôn mặt phản ánh đời sống nội tâm của con người.

Ai cũng muốn mình có khuôn mặt dễ mến.

Người ta bỏ ra nhiều tiền để sửa sang lại khuôn mặt,

vì họ muốn người khác đổi cái nhìn về họ.

Bài Tin Mừng hôm nay mời chúng ta chiêm ngắm

khuôn mặt ngời sáng của Chúa Giêsu trên núi cao.

Chỉ mình thánh Luca nói rõ chi tiết này:

“Đang khi Ngài cầu nguyện, thì khuôn mặt Ngài biến đổi”.

Gần đèn thì sáng.

Gặp gỡ Thiên Chúa làm biến đổi nội tâm con người,

thậm chí làm biến đổi thân xác, biến đổi khuôn mặt,

và cả những gì con người sử dụng cũng bừng toả:

“y phục Ngài nên trắng ngời như chớp sáng”.

Trong mùa Chay, chúng ta muốn biến đổi cuộc sống mình,

chúng ta muốn mang bộ mặt mới.

Chúng ta đã làm nhiều điều, trừ một điều quan trọng,

đó là lên núi cao để gặp gỡ Thiên Chúa.

Núi cao ở ngay trong sâu thẳm lòng ta,

nơi đây ta gặp gỡ Ngài, diện đối diện.

Mọi biến đổi nơi cá nhân cũng như tập thể,

nơi gia đình, giáo xứ, dòng tu và cả Giáo Hội

đều phải khởi đi từ việc tiếp xúc với Thiên Chúa.

Chúng ta dễ lãng quên việc gặp Chúa mỗi ngày,

lấy cớ mình bận làm những việc của Chúa.

Thế giới hôm nay đói những người cầu nguyện,

và thừa ứ những người lăng xăng…

Ba môn đệ thân tín cũng đâu có cầu nguyện.

Họ ngủ li bì.

Sau này ở núi Cây Dầu, họ cũng say ngủ.

Thế nên họ chẳng biến đổi gì.

Dù họ chợt tỉnh và thấy khuôn mặt ngời sáng của Chúa,

điều đó chỉ đem lại cho họ chút hưng phấn chóng qua,

nhưng không cho họ sức để trung thành theo Chúa.

Họ mơ ước dựng lều ở ngọn núi thánh này,

vì họ thích ngắm khuôn mặt rực sáng của Đức Giêsu.

Nhưng họ không có can đảm ở lại Núi Sọ,

để chiêm ngưỡng khuôn mặt đầy thương tích của Thầy.

“Các ngươi hãy nghe Ngài”:

một lời nhắc nhở hiếm hoi của Chúa Cha dành cho ta.

Bạn có nghe thấy lời nào của Đức Giêsu

vang vọng nơi lòng bạn trong mùa Chay không?

Gợi Ý Chia Sẻ

Các môn đệ buồn ngủ khi cầu nguyện. Còn bạn, bạn gặp khó khăn nào khi cầu nguyện? Làm sao vượt qua được những khó khăn đó?

“Con người cầu nguyện có khả năng biến đổi thế giới”: Bạn có tin điều đó không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,

xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.

Mỗi lần con thấy Chúa,

xin biến đổi ánh mắt con.

Mỗi lần con rước Chúa,

xin biến đổi môi miệng con.

Mỗi lần con nghe lời Chúa,

xin biến đổi tai con.

Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn

sau mỗi lần gặp Chúa.

Ước gì mọi người thấy

nét mặt tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con,

thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.

Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu

có bộ mặt chán nản và thất vọng.

Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm

cùng đi với Chúa và với tha nhân trên

những nẻo đường gập ghềnh. Amen.

4.Học hỏi phúc âm CN 2 mùa chay–Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu S.J.

1. So sánh Mc 9,2-3 với Lc 9,28-29. Có gì khác biệt không? Đâu là nét đặc biệt của Luca?

2. So sánh Lc 3,21-22 với Lc 9,28-35. Có gì giống nhau và khác nhau không?

3. So sánh tiếng nói từ trời ở Lc 3,22 với tiếng từ đám mây ở Lc 9,35, có gì khác nhau không?

4. Trong các sách Tin Mừng Nhất lãm, Đức Giêsu được hiển dung sau những biến cố nào? Đọc Mt 17,1-9; Mc 9,2-10; Lc 9, 28-36 và những đoạn đi trước ba đoạn này.

5. Mục đích chủ yếu của việc Đức Giêsu được Chúa Cha hiển dung là gì?

6. Hai vị Môsê và Êlia nói về cuộc xuất hành của Đức Giêsu mà Người sẽ hoàn tất ở Giêrusalem (câu 31). Cuộc xuất hành (exodos) ở đây nghĩa là gì? Đọc Lc 24,246.

7. Trong bài Tin Mừng này có mấy từ vinh quang, mây. Tại sao ba môn đệ lại hoảng sợ?

8. Tại sao Giáo hội luôn cho đọc bài Tin Mừng về việc Chúa Hiển dung vào tuần 2 Mùa Chay? Chúa Giêsu được hiển dung, có nâng đỡ chúng ta trong Mùa Chay không?

9. Chúa Cha phán: “Các ngươi hãy lắng nghe Người” (Lc 9,35). Câu này có giống chút nào với câu Đức Maria nói với gia nhân ở tiệc cưới Cana không: “Các anh hãy làm tất cả những gì Người bảo.”

CÂU HỎI SUY NIỆM:

Nhiều người đi thẩm mỹ để có được khuôn mặt đẹp. Trong Mùa Chay, chúng ta cần làm gì để có được khuôn mặt bừng sáng như Chúa Giêsu?

PHẦN TRẢ LỜI

1. Có hai khác biệt giữa Mc 9,2-3 với Lc 9,28-29. Theo Mác-cô, biến cố Hiển Dung xảy ra “sáu ngày” sau khi Đức Giêsu tiên báo cái chết và sự phục sinh của Ngài, nghĩa là vào ngày thứ bảy (xem Xh 24,16). Còn theo Luca, biến cố này xảy ra “khoảng tám ngày sau.” Nhìn chung biến cố Hiển Dung xảy ra khoảng một tuần sau khi Đức Giêsu tiên báo cuộc Khổ nạn. Điểm khác biệt quan trọng hơn, đó là chỉ Luca mới nói rõ mục đích của Đức Giêsu khi lên núi là để cầu nguyện. Và Ngài đã được bừng sáng khi đang cầu nguyện.

2. Lc 3,21-22 và Lc 9,28-35 có những điểm giống nhau: đang khi Đức Giêsu cầu nguyện thì xảy ra biến cố, và có tiếng của Chúa Cha. Tuy nhiên cũng có những điểm khác nhau: lúc Đức Giêsu chịu phép rửa thì chưa có mặt các môn đệ; lúc Đức Giêsu hiển dung thì không nói đến sự hiện diện của Thánh Thần, nhưng lại có mặt hai ông Môsê và Êlia; khi chịu phép rửa, tiếng Chúa Cha từ trời nói trực tiếp với Đức Giêsu (Lc 3,22), còn khi hiển dung, tiếng Chúa Cha từ đám mây nói với các môn đệ (Lc 9,35).

3. Trong Mc 3,22, Chúa Cha từ trời long trọng tuyên bố cho Đức Giêsu biết Ngài thật là Con yêu dấu của Cha, được Cha yêu dấu và hài lòng. Còn trong Lc 9,35, Chúa Cha từ dám mây giới thiệu Đức Giêsu cho các môn đệ và khuyên họ hãy vâng lời Người.

4. Trong các sách Tin Mừng Nhất lãm, Đức Giêsu được hiển dung sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin (Mc 9, 27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,18-21), sau khi Ngài tiên báo cuộc Khổ nạn lần thứ nhất (Mc 8,31-33; Mt 16,21-23; Lc 9,22), và dạy về những đòi hỏi của ơn gọi làm môn đệ (Mc 8,34 – 9,1; Mt 16,24-28; Lc 9,23-27).

5. Ba môn đệ thân tín đã có những kinh nghiệm độc nhất vô nhị trên núi. Họ đã được thấy vinh quang của Đức Giêsu, và của hai ông Mô-sê và Êlia (Lc 9, 31-32). Kinh nghiệm được thấy tận mắt khuôn mặt và y phục của Đức Giêsu bừng sáng khi Ngài đang cầu nguyện (câu 29), kinh nghiệm thấy Ngài trò chuyện với hai nhân vật quan trọng là Mô-sê và Êlia (câu 30), cùng với kinh nghiệm được nghe tận tai lời nhắn nhủ của Chúa Cha từ đám mây (câu 35). Tất cả những kinh nghiệm đó chủ yếu nhằm nâng đỡ đức tin của ba môn đệ, trước khi họ chứng kiến cuộc khổ nạn nhục nhã và cái chết kinh hoàng của Đức Giêsu trên thập giá.

6. Trong Lc 9,31, hai ông Mô-sê và Êlia nói đến cuộc xuất hành mà Đức Giêsu sắp hoàn tất tại Giêrusalem. Cuộc xuất hành ở đây (exodos) để chỉ cái chết, sự phục sinh và lên trời của Đức Giêsu. Đức Giêsu sẽ chết ở Giêrusalem, sẽ được phục sinh và hiện ra ở đó, rồi cuối cùng lên trời từ đó (Lc 24,51). Cuộc xuất hành cũng là cuộc Vượt qua của Đức Giêsu, vượt qua đau khổ mà vào vinh quang (Lc 24,26), vượt qua cõi chết để vào cõi sống (Lc 24,46).

7. Trong bài Tin Mừng này có hai từ vinh quang (các câu 31 và 32) và ba từ đám mây (các câu 34 và 35). Ba môn đệ hoảng sợ khi thấy mình ở trong đám mây (Lc 9,34). Đối với người Do-thái, đám mây là dấu hiệu cho sự hiện diện của Thiên Chúa (x. Xh 24,15-18), và Thiên Chúa phán ra từ đám mây (Lc 9,35). Các môn đệ hoảng sợ vì họ tin rằng “không ai thấy Thiên Chúa mà còn sống được” (Xh 33,20).

8. Trong tuần 1 Mùa Chay, Giáo Hội luôn cho chúng ta đọc bài Tin Mừng về Chúa chịu cám dỗ và đã chiến thắng. Tuần 2 Mùa Chay luôn là bài về Chúa Hiển dung. Mầu nhiệm Chúa Hiển Dung nâng đỡ đức tin chúng ta, để khi chúng ta nhìn thấy khuôn mặt dị dạng của Đức Giêsu trên thập giá, chúng ta vẫn tin Ngài là Người Con yêu quý của Thiên Chúa.

9. Cả hai câu cho thấy Chúa Cha và Mẹ Maria đều mời gọi chúng ta vâng phục Đức Giêsu.

5.Biến hình–TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Mùa Chay mang mầu tím ảm đạm. Mầu tím buồn để ta nhớ đến thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Mầu tím buồn để đến cuộc sống mong manh chóng tàn nơi cõi thế. Mầu tím buồn đưa ta đi theo bước Chúa Giêsu trên đường khổ nạn. Mầu tím buồn nhắc ta nhớ đến cái chết đau khổ của Người trên thánh giá.

Giữa bầu khí ảm đạm của mùa Chay, hôm nay bỗng bừng lên làn ánh sáng chói chang từ đỉnh núi Ta bo. Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện. Đang khi cầu nguyện, dung mạo Người bỗng dưng đổi khác. Thần tính phát lộ khiến dung mạo Người trở nên sáng láng, ánh sáng rực rỡ làm say mê tâm hồn các môn đệ. Được sống trong khung cảnh thần thiêng thánh thiên, các ông không muốn rời bỏ đỉnh núi nữa.

Ta hãy nhớ lại, trước đó 8 ngày, khi Chúa Giêsu loan báo Người đi lên Giêrusalem để chịu khổ và chịu chết, Phêrô đại diện cho các môn đệ đã phản đối. Ông không muốn chấp nhận thánh giá. Ông không muốn Thầy mình dấn thân vào con đường chịu chết khổ nhục. Thế mà hôm nay, đứng trước vinh quang của Thầy, ông đã say mê và đề nghị Thầy trò cùng ở lại trên ngọn núi hạnh phúc. Trốn khổ tìm sướng vẫn là cái thường tình của con người. Nhưng Chúa Giêsu đã dẫn các môn đệ xuống núi để tiếp tục con đường lên Giêrusalem chịu chết.

Việc Chúa Giêsu biến hình trên núi như thế là có chủ đích. Người hé lộ thần tính của Người để các môn đệ thêm niềm tin tưởng. Người cho các ông thấy vinh quang của thần tính để các ông chấp nhận con đường đau khổ Người sắp trải qua.

Việc Chúa biến hình ban cho các môn đệ niềm hy vọng. Hy vọng đó là: con đường đau khổ sẽ dẫn đến hạnh phúc. Cái chết tủi nhục sẽ dẫn đến ngày Phục Sinh hân hoan. Thiếu niềm hy vọng không ai có thể sống ở đời. Người nông phu chăm bẵm mảnh ruộng, thức khuya dậy sớm, dãi nắng dầm mưa cấy cầy, vì hy vọng vào mùa gặt bội thu. Người học sinh kiên nhẫn ngày ngày cắp sách đến trường, đêm đêm chong đèn đọc sách, vì hy vọng vào kết quả mùa thi tốt đẹp. Người cha, người mẹ tần tảo sớm hôm, quên mình để lo cho con cái, vì hy vọng tương lai con cái sẽ tốt đẹp hơn. Niềm hy vọng vào vinh quang Phục Sinh sẽ giúp các môn đệ can đảm chấp nhận cuộc khổ nạn thương đau và cái chết tủi nhục của Thầy chí thánh.

Việc Chúa Giêsu biến hình đã biến đổi cách nhìn của các môn đệ về con người và cuộc đời. Từ nay các ông sẽ không nhìn ở bề mặt mà biết nhìn vào bề sâu. Bên trong thân xác phàm nhân của Chúa Giêsu có ẩn chứa bản tính Thiên Chúa. Bên trong cuộc khổ nạn tủi nhục có gieo sẵn mầm mống Phục Sinh vinh quang. Cũng thế, bên trong mỗi thân xác có hiện diện của một linh hồn. Bên trong mỗi con người phàm trần có ẩn tàng mầm mống thần linh. Bên trong những thửa ruộng khổ đau có gieo sẵn hạt mầm hạnh phúc. Trong những vất vả nhọc nhằn tăm tối hôm nay đã hứa hẹn thành công tươi sáng của ngày mai.

Việc Chúa biến hình giúp các môn đệ hiểu biết định mệnh con người. Bản tính Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu đã chiếu sáng trên xác phàm con người. Con người được rạng ngời vinh quang Thiên Chúa. Đó là điềm báo trước: mang sẵn trong mình mầm mống thần linh, con người sẽ trở về với Thiên Chúa. Cuộc trở về phải vượt qua những đớn đau, những gian nan, những thử thách. Nhưng đã biết được đích đến, ta sẽ vui lòng đón nhận tất cả. Vì thế, đạo Công giáo tuy đề cao đau khổ, nhưng không rơi vào yếm thế, bi quan. Đau khổ chỉ là phương tiện. Chấp nhận thánh giá, vì đó là nhịp cầu cần thiết để con người vượt qua từ sự chết đến sự sống, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ tủi nhục đến vinh quang.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Những đau khổ góp phần rèn luyện bạn nên người. Bạn có kinh nghiệm gì về điều đó?

2. Bạn thường đánh giá người khác theo tiêu chuẩn nào? Qua diện mạo bên ngoài, hay qua giá trị bên trong?

3. Qua thập giá tới vinh quang. Bạn có quyết tâm gì để thực hiện điều đó trong mùa Chay năm nay?

6.Cuộc phiêu lưu–TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

Mỗi người sống trên trần gian đều bước vào một cuộc lữ hành. Trong cuộc lữ hành này, nhiều khi chúng ta phải chấp nhận phiêu lưu, nếu không, cuộc đời sẽ như chiếc ao tù, quanh năm bùn lầy nước đọng, không có sức sống. Cuộc phiêu lưu nào cũng chất chứa những rủi ro và nguy hiểm. Người sợ nguy hiểm rủi ro thì chẳng dám đi đâu bao giờ. Một tác giả đã viết: “Nhiều người không dám ra khỏi nhà vì sợ ngã gẫy chân; nhưng nếu cứ ở trong nhà không dám đi đâu, thì dù chân còn lành lặn mà khác gì đã gẫy!”. Mùa Chay nhắc cho chúng ta: đời sống Ki-tô hữu là một cuộc phiêu lưu. Nói như thế không có nghĩa đức tin là một may rủi giống như một canh bạc. Tin cũng được định nghĩa là bước theo tiếng Chúa gọi dù mình không biết sẽ đi đâu. Ông Áp-ra-ham là ví dụ minh chứng cho định nghĩa này. Ông tin vào Chúa. Ông chắc chắn những gì Chúa muốn cho ông đều tốt. Ông như một đứa trẻ hoàn toàn tin tưởng phó thác nơi cha mình, vì đối với một em bé, cha mình luôn là nhất. Ông đã lên đường theo tiếng gọi, mà không vặn hỏi sẽ đi đâu, sẽ làm gì và tương lai ra sao.

Bài đọc I nói với chúng ta về giao ước đầu tiên Chúa ký kết với ông Áp-ra-ham. Nghi thức ký kết được thực hiện trong khung cảnh nghiêm trang. Một bên là Thiên Chúa, bên kia là Áp-ra-ham. Khi chấp nhận giao ước này, Thiên Chúa đã hạ mình để giao kèo kết ước với một con người. Ngài cam kết sẽ cho dòng dõi ông Áp-ra-ham đông đảo như sao trên trời và như cát ngoài bãi biển. Ngài cũng hứa sẽ ban cho dòng dõi ông đất từ sông Ai-cập đến sống Êu-phơ-rát, tức là một phần lớn diện tích của thế giới. Qua giao ước này, Thiên Chúa và con người, mà đại diện là Áp-ra-ham, đều bước vào cuộc phiêu lưu. Thiên Chúa tin con người nhưng nhiều lần con người đã quên lời giao ước. Con người hứa trung thành với Chúa nhưng không phải lời hứa ấy lúc nào cũng được tuân giữ trọn vẹn.

Các Phúc âm nói với chúng ta về cuộc phiêu lưu của các môn đệ Chúa Giê-su. Khi chấp nhận bỏ mọi sự mà theo Người, họ bước vào một cuộc hành trình mà đích điểm thế nào chưa được biết. Tuy vậy, các ông chắc chắn một điều, là theo Thầy sẽ đón nhận Lời Hằng sống. Thánh Phê-rô một ngày nọ đã thưa Chúa Giê-su: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai. Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Hôm nay, thánh Lu-ca kể với chúng ta sự kiện lên núi. Ba môn đệ lên núi trong tâm trạng hết sức hoang mang, vì trước đó, Chúa Giê-su đã nói với họ về cuộc khổ nạn với những hình ảnh làm các môn đệ kinh hoàng. Trên núi này, Chúa Giê-su đã tỏ cho các ông thấy vinh quang của Người. Sự xuất hiện của hai nhân vật có vai trò rất quan trọng trong truyền thống Cựu ước là ông Môi-sen và ông Ê-li-a mang một ý nghĩa đặc biệt: ông Môi-sen đại diện cho truyền thống Lề Luật; ông Ê-li-a đại diện cho truyền thống Ngôn Sứ. Hai truyền thống này đã làm nên lịch sử của dân tộc Do Thái, đồng thời cũng tạo nên sự khác biệt giữa dân tộc được tuyển chọn này với các dân tộc khác xung quanh. Là người Do Thái, ba môn đệ hiểu ngay ý nghĩa của những gì các ông đang chứng kiến. Qua đó, Chúa Giê-su tỏ cho các ông biết, Người đến để kiện toàn Lề Luật và làm cho những gì các Ngôn Sứ loan báo được nên trọn. Hơn thế nữa, những lời các ông đã nghe trước đây bên bờ sông Gio-đan lại vang lên: “Đây là Con Ta, người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”. Đó là lời giới thiệu và cũng là lệnh truyền của Chúa Cha, Đấng đã sai Đức Giê-su xuống trần gian để thực hiện công trình cứu độ vì yêu thương con người. Sự kiện biến hình cùng với những chi tiết đi kèm đã củng cố đức tin nơi các môn đệ. Các ông hân hoan vui mừng đến nỗi thánh Phê-rô xin được làm ba cái lều. Khi xin điều này, có thể ông Phê-rô muốn được chiêm ngưỡng vinh quang này lâu dài, vì lúc đó các ông ngập tràn hạnh phúc.

Chúa Giê-su không chấp nhận cho ông Phê-rô làm những chiếc lều, bởi vì Chúa phải xuống núi và các môn đệ cũng phải xuống núi. Cụm từ “xuống núi” diễn tả sự dấn thân đối diện với những khó khăn thử thách trước mặt. Tuy vậy, sau sự kiện Đức Giê-su biến hình, ba môn đệ mang tâm tình hoàn toàn mới mẻ, lạc quan. Bởi lẽ các ông xác tín Thầy mình là Đấng Thiên Sai.

Mùa Chay nhắc cho chúng ta cuộc lữ hành phiêu lưu mang danh xưng Ki-tô hữu. Quả vậy, bước theo Chúa Giê-su là gắn bó với Người và nhiều khi chấp nhận nhiều hệ luỵ thiệt thòi. Chúng ta mang danh tín hữu nhưng cũng là những con người đang sống nơi trần gian, với biết bao thử thách chông gai, như Chúa Giê-su đã nói với các môn đệ: “Anh em không thuộc về thế gian” (Ga 15, 19). Thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Phi-líp-phê hãy kiên trì nhẫn nại trước khó khăn thử thách, đồng thời hướng về quê trời. Nơi đó, chúng ta cũng sẽ được biến đổi nhờ quyền năng của Thiên Chúa, và chúng ta sẽ trở nên giống như Chúa Giê-su trong vinh quang bất diệt (Bài đọc II).

Đối với người không tin Chúa, theo Đạo là một cuộc phiêu lưu, thậm chí ảo tưởng. Tuy vậy, đối với những ai tin vào Đức Giê-su Ki-tô thì đây là hành trình hạnh phúc, mà hạnh phúc ấy, chúng ta có thể cảm nhận ngay hôm nay, nếu chúng ta chấp nhận biến đổi cuộc đời theo lời mời gọi của Chúa Giê-su, qua Giáo Hội của Người.

7.Sự khiêm hạ của Thiên Chúa–TGM. Giuse Vũ Văn Thiên

Kinh Thánh là mạc khải của Thiên Chúa cho con người. Hành động mạc khải của Chúa giống như “vén một bức màn” để chúng ta là người trần mắt thịt có thể nhìn thấy Ngài. Trong Cựu ước, Thiên Chúa tỏ mình cho ông Abraham và cho dân tộc Do Thái, là dân riêng Ngài đã chọn. Trong Tân ước, chính Chúa Giêsu là Thiên Chúa Ngôi Hai đã xuống thế làm người, mặc lấy thân phận con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, để tiếp tục ngỏ lời với con người và để cho con người được gặp gỡ Thiên Chúa. Việc tỏ mình trong Cựu ước và mầu nhiệm Nhập thể thời Tân ước đều nói lên sự khiêm hạ của Thiên Chúa.

Thiên Chúa khiêm hạ khi chấp nhận ký kết giao ước với con người. Thông thường, người ta ký kết những giao ước giữa hai người ngang hàng với nhau về quyền lực, về khả năng kinh tế hay về trình độ bằng cấp. Sách Sáng thế đã ghi lại giao ước giữa Thiên Chúa với Ông Abraham (Bài đọc I). Ông Abraham đại diện cho cả nhân loại để ký kết giao ước với Chúa. Nội dung của giao ước là lòng trung tín của cả hai bên. Nếu Abraham và con cháu giữ lời giao ước và sống ngay thẳng đẹp lòng Thiên Chúa, thì Ngài sẽ làm cho dòng dõi của ông “đông như sao trên trời và như cát dưới biển”. Qua việc ký kết này, Thiên Chúa khiêm nhường, đã hạ mình trở thành đối tác của con người. Thiên Chúa cũng tự giới hạn mình để chấp thuận những ràng buộc với con người trong giao ước với họ. Lời giao ước này được truyền cho các thế hệ, và đã trở thành một công thức quen thuộc: “Ta là Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và của Giacóp….”

Sự khiêm nhường của Thiên Chúa được thể hiện một cách cụ thể qua chính Chúa Giêsu. Là Thiên Chúa cao sang, Người đã hạ mình để sống thân phận thụ tạo. Khi mặc lấy thân phận con người, Người đã “ẩn mình đi”, đã giấu vinh quang của mình để sống như người phàm nhân. Thánh Luca kể lại sự kiện Chúa Giêsu tỏ vinh quang đích thực của Người cho các môn đệ (Bài Tin Mừng). Sự kiện này được gọi là “biến hình”, vì Chúa thay đổi hình dạng, không giống như thường ngày. Qua sự kiện biến hình này, ba môn đệ là Phêrô Gioan và Giacôbê được thấy vinh quang của Chúa. Các ông ngất ngây chiêm ngắm và không muốn rời những giây phút huy hoàng đó. Chúa Giêsu tỏ vinh quang huy hoàng để giúp các ông có quan niệm chính xác hơn về sứ vụ thiên sai của Người. Trước đó, Chúa Giêsu loan báo cho các ông biết, Người sẽ phải chịu khổ nạn, phải loại bỏ và sẽ bị giết chết (x. Lc 9,22). Trước sự lo lắng đến mức hoảng loạn này, Chúa đã biến hình để an ủi và khích lệ các ông, đồng thời khẳng định rằng: Người là Đấng quyền năng, có quyền trên sự sống và sự chết.

Sứ vụ thiên sai của Chúa Giêsu được khẳng định với hai chứng nhân. Ông Môisen và ông Elia là hai nhân vật quan trọng của Cựu ước. Ông Môisen tượng trưng cho Lề luật, ông Elia đại diện cho truyền thống Ngôn sứ. Chi tiết các tông đồ được thấy hai vị này đàm đạo với Chúa Giêsu, vào lúc Người biến hình, giúp các ông vững tin hơn vào sứ mạng của Thày mình. Trong Cựu ước, ông Môisen và ông Elia cũng đã phải trải qua nhiều thử thách gian nan trong khi thi hành sứ mạng, nay các tông đồ cũng phải đối diện với những nghịch cảnh, nếu muốn trung thành với Chúa để thi hành sứ vụ Người trao. Sự hiện diện của hai nhân vật quan trọng trong Cựu ước giúp các ông vững niềm xác tín ấy, đồng thời tự chuẩn bị cho mình để sẵn sàng đón nhận biến cố thập giá của Thày, cũng như gian nan mà họ sẽ gặp.

Thiên Chúa là Đấng khiêm hạ. Sự khiêm hạ của Ngài thể hiện nơi Đức Giêsu. Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục khiêm nhường hiện diện âm thầm trong Bí tích Thánh Thể. Người cũng khiêm nhường hiện diện nơi những người nghèo khó và đau khổ, đến mức đồng hóa với họ, để rồi, ai giúp đỡ họ là giúp đỡ Chúa, ai xúc phạm họ là xúc phạm Chúa. Trong khi Thiên Chúa là Đấng cao cả tự nguyện hạ mình, thì con người vốn bản tính tội lỗi lại muốn kiêu ngạo. Câu chuyện ông Ađam bà Evà vẫn là câu chuyện của chúng ta hôm nay. Thánh Phaolô đã phê phán một số người tham lam, kiêu ngạo. Họ đam mê trần thế đến mức bỏ Chúa và coi cái bụng mình như một vị thần! Muốn trở nên môn đệ đích thực của Đức Kitô, mỗi chúng ta hãy tìm vinh quang Thiên Chúa chứ không phải vinh quang tạm thời. Sống giữa thế gian này, nhưng lòng chúng ta hướng về quê trời, để chờ đợi và đón chào Đức Giêsu Kitô trở lại. Sự kiện Đức Giêsu trở lại, cũng được gọi là ngày quang lâm, tức là Người sẽ đến trong vinh quang quyền uy, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Chính vì vậy, người tín hữu được mời gọi sống vững vàng, kiên trì trong gian nan, với xác tín rằng Chúa là Đấng quyền năng và nhân hậu (Bài đọc II).

Nếu vào thời Cựu ước, Thiên Chúa đã ký kết giao ước với ông Abraham bằng của lễ toàn thiêu gồm bò, dê, cừu, chim gáy và bồ câu; thì vào thời sau hết, Thiên Chúa lại ký kết giao ước mới (hay là Tân ước) bằng chính máu Chúa Giêsu đổ ra trên Thập giá. Vì vậy chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu độ nhân loại. Khi giới thiệu chân dung Đức Giêsu biến hình vinh quang, Phụng vụ Lời Chúa hôm nay vừa khuyên chúng ta hãy sống khiêm nhường, vừa kêu gọi chúng ta hãy biến đổi chính mình để xứng đáng hơn với danh hiệu Kitô hữu. Biến đổi canh tân, đó chính là mục đích của hành trình Mùa Chay.

“Tôi tin chắc rằng tình yêu thương và sự khiêm nhường là những thành tựu cao nhất trong trường học của Đức Kitô và là minh chứng rõ ràng nhất rằng Ngài thực sự là Giáo sư của chúng ta”  (John Newton).

8.“Đấng tín trung”–TGM. Giuse Vũ Văn Thiên

Một trong những phẩm tính của Thiên Chúa được Kinh Thánh nhấn mạnh, đó là sự trung thành của Ngài. Thiên Chúa là Đấng tín trung. Điều này đã được lịch sử chứng minh. Kinh Thánh chính là cuốn sách về lòng tín trung của Thiên Chúa.

Tín trung, hay trung thành, là luôn giữ những gì mình đã hứa, trước sau như một, dù có phải thiệt thòi hệ luỵ. Trong lịch sử, khi thiết lập mối tương quan với con người, Chúa đã khởi đầu bằng giao ước với ông Abraham. Đây là giao ước đầu tiên Thiên Chúa ký kết với con người. Một vị Thần linh cao cả mà lại đi ký giao ước với con người! Đó là điều không tưởng theo suy luận trần thế, nhưng là một điều kỳ diệu của tình thương. Bởi lẽ ở đời, người ta chỉ ký kết hợp đồng giữa các đối tác tương đương về khả năng tài chính hoặc ảnh hưởng quyền lực. Một người có số vốn một ngàn tỷ đồng chẳng bao giờ ký hợp đồng làm ăn với người chỉ có vốn vài trăm triệu đồng. Đức Thánh Cha Phanxicô đã dùng ngôn ngữ của giới kinh doanh để nói rằng, Thiên Chúa đầu tư luôn luôn chấp nhận lỗ và thua thiệt. Thiên Chúa là Đấng cao cả. Abraham chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt, đến người nối dòng còn chẳng có vào lúc gần đất xa trời. Ấy vậy mà Chúa lại ký kết giao ước với ông, đồng thời hứa hẹn với ông những điều ông không dám mơ ước: đó là một dòng dõi (Dân tộc) và một quê hương (Đất hứa).

Và thế là, từ đời nọ đến đời kia, Chúa luôn trung thành giữ giao ước của Ngài.

Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể đến trần gian để thiết lập giao ước mới. Nói cách khác, Người đến trần gian để đưa giao ước này lên một tầm cao mới. Qua Đức Giêsu, mối tương quan Thiên Chúa – Nhân Loại không còn phải qua trung gian như thời xưa nữa, tức là thời của ông Môisen và ông Êlia. Con người có thể được gặp gỡ trực tiếp Thiên Chúa, “ai thấy Thày là thấy Cha” (x. Ga 14,9).  Cuộc biến hình trên núi mà cả ba tác giả Tin Mừng Nhất lãm đều kể lại, chính là một bằng chứng về lòng trung thành của Thiên Chúa. Những gì Thiên Chúa trong Cựu ước đã ngỏ lời qua truyền thống Lề luật (ông Môisen) và truyền thống Ngôn sứ (ông Êlia) nay đã được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu nhân độ thế. Đức Kitô vừa là Ngôn sứ vừa là Lề Luật. Kitô giáo tách ra khỏi truyền thống Do Thái, nhưng không đi ngược lại với truyền thống đó. Do Thái giáo, hay truyền thống Ngôn sứ và Lề luật nay đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử. Hình ảnh ông Môisen và ông Êlia đàm đạo với Chúa Giêsu, như một gạch nối và chuyển giao giữa Cựu ước và Tân ước.

Nếu như Thiên Chúa là Đấng trung tín, thì con người lại dễ dàng phản bội. Lịch sử Cứu độ ghi lại những bất trung của dân riêng. Đã bao lần Thiên Chúa yêu thương bao bọc và chở che tha thứ, nhưng con người vẫn chống lại Ngài. Không chỉ lịch sử Do Thái, mà là lịch sử nhân loại, là chính chúng ta, những con người sống ở mọi nơi mọi thời cũng đang có khuynh hướng chống lại Thiên Chúa, khi vô tình hay hữu ý phá vỡ chương trình của Ngài. Con người từ khởi đầu luôn có khuynh hướng kiêu ngạo chống lại Thiên Chúa và có ý định phản loạn. Tội lỗi chính là sự phản loạn ấy. Tội lỗi cũng là sự bất trung. Tội lỗi gây hậu quả huỷ diệt chính bản thân mình.

Ba môn đệ gần gũi với Thày Giêsu, là ông Phêrô, Gioan và Giacôbê, đã trải qua kinh nghiệm biến hình. Các ông được chiêm ngưỡng Chúa như Người là, tức là được chiêm ngưỡng Người trong chính vinh quang do bản tính Thiên Chúa của Người. Những lúc thông thường khác trong cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã ẩn vinh quang của Người. Trên núi cao, Người đã tỏ bày vinh quang cho các ông thấy, như một lời hứa hẹn và khích lệ để khẳng định với các ông: nếu các ông trung tín với Thày, các ông sẽ được chia sẻ vinh quang với Thày.  Trên núi cao, một cuộc thần hiện (Epiphany) kỳ diệu đã diễn ra: lời Chúa Cha khẳng định: Đây là Con Ta yêu dấu, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Lời này đã vang lên lúc Đức Giêsu chịu phép Rửa ở sông Giordan, để dân chúng nghe thấy và nhận biết Đấng Messia (x. Mt 3,17). Lời này hôm nay lại vang lên trên đỉnh núi, trong giờ phút Chúa Giêsu biến hình, như một nhắc nhở: hãy trung tín với Người.

Mùa Chay là thời điểm lắng đọng tâm hồn, để tôn vinh Thiên Chúa là Đấng tín trung trong lịch sử nhân loại và lịch sử cá nhân mỗi người. Mùa Chay cũng là thời điểm tự vấn lương tâm, để soi xét về lòng trung thành của người tín hữu đối với Chúa và đối với tha nhân. Thánh Phaolô đau lòng ứa lệ khi thấy có những tín hữu bất trung. Họ không tìm Thiên Chúa, mà chỉ tìm những gì dễ dãi cho đời mình. Vinh quang và lý tưởng của họ là những thứ chóng qua. Người yêu mến Chúa sẽ tìm vinh quang thượng giới, là hạnh phúc vững bền. Chính lòng yêu mến và trung thành sẽ giúp chúng ta biến đổi cuộc đời, trở nên con người mới, mặc lấy Đấng Phục sinh, sáng láng tinh tuyền và vinh quang thánh thiện, như Đấng đã biến hình trên núi năm xưa.

9.Biến hình và đổi đời–ViKiNi–‘Xây Nhà Trên Đá’–Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

Michel Ange và Raphael là hai kiến trúc sư thiên tài, còn là họa sĩ và điêu khắc gia nổi tiếng nhất thế giới, đã được Đức Giáo Hoàng Juliô II trao cho nhiệm vụ thiết kế xây cất và trang trí Đại Thánh đường Thánh Phêrô và địện Vatican ở Rôma.

Suy về đề tài Chúa Biến Hình, Raphael đã thực hiện một bức họa có 3 cấp: Cấp trên là Đức Giêsu đứng giữa cụm mây sáng láng, cấp giữa là Thánh Phêrô, Gioan và Giacôbê, cấp cuối là nhóm các môn đệ và dân chúng vây quanh một thiếu nhi bệnh họan đang nằm chờ chết bên cạnh có 2 môn đệ: một môn đệ đang chỉ tay lên Đức Giêsu, môn đệ kia đang chỉ tay vào bệnh nhân” (ĐGM. Althur Tone). Bức họa đã lột được hết ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay là chỉ có Đức Giêsu mới biến đổi những kẻ bệnh hoạn nên lành thánh. Tin Mừng hôm nay đã giới thiệu Đức Giêsu lên núi cầu nguyện, đang lúc Người cầu nguyện dung nhan Người bỗng biến đổi sáng láng, chói lòa trong vinh quang. Người cầu nguyện để biến đổi ý mình trọn vẹn theo Thánh ý Chúa Cha, Người cầu nguyện cho cuộc tử nạn của Người sẽ phải hoàn tất tốt đẹp tại Giêrusalem và biến cuộc sống ta nên vinh hiển. Người cầu nguyện cho ánh sáng tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần soi sáng cho khắp nhân loại, từ Adam Eva đến Abraham, Maisen, Êlia, từ Phêrô, Gioan, Giacôbê đến những người đang đứng chờ dưới chân núi được sống lại trong vinh quang nước Chúa. Người cầu nguyện nhất là cho các môn đệ và chúng ta biến thành đồng dạng với Con Chúa Cha và biết vâng lời Người: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”.

Phải vâng lời Người để “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta, nên giống thân thể vinh hiển của Người”.

Phụng vụ lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến sự biến đổi con người chúng ta nên giống con người của Đức Giêsu Kitô nhờ vâng lời Thiên Chúa.

Bài I: Abraham đã được Chúa biến đổi từ dòng dõi con cháu thành U của tà thần, nên tổ phụ công chính của một dòng dõi đông đảo sáng láng như các vì sao trên trời. Nhưng ông phải biết nhận Thiên Chúa là Đức Chúa của ông, phải biết vâng lời Chúa từ bỏ Candê tới đất Chúa chỉ định. Ở đó ông dâng lễ tạ ơn Chúa và đón nhận giao ước của Ngài, nhờ đó Abraham đã đổi đời: từ kẻ thờ tà thần nên tổ phụ dòng dõi thờ Thiên Chúa.

Bài II: Thánh Phaolô bảo dân Philiphê hãy noi gương đổi đời của ông. Ông đã đổi đời từ kẻ hung ác bắt bớ hành hung các tín hữu của Đức Giêsu trở thành tông đồ hăng hái nhiệt tình nhất rao giảng Đức Giêsu. Nhưng còn nhiều kẻ chưa đổi đời như ông, họ vẫn còn thờ cái bụng, thờ cái ô nhục của thế gian. Thánh Phaolô đã thương khóc họ, vì họ sẽ phải hư vong. Ông cầu nguyện cho họ nhận ra quê hương thật ở trên trời để họ mong đợi Đức Giêsu Kitô đến biến đổi họ nên giống Người, sống kết hợp khăng khít vững vàng với Người. Đó là niềm vui và vinh dự thực sự của họ và của Phaolô.

Bài Tin Mừng cho ta thấy rõ sự biến đổi của Đức Giêsu Kitô: từ xác phàm loài người, Đức Giêsu đã biến đổi sang thân xác vinh quang chói lọi. Maisen và Êlia cũng được biến đổi nên sáng láng rực rỡ khi đến gặp gỡ Đức Giêsu.

Maisen từ một thanh niên hèn nhát chạy trốn đã biến đổi thành một vị lãnh đạo vĩ đại của dân Israel, nhờ Thiên Chúa đã kêu gọi ông, dạy bảo ông phải về thương lượng với vua Pharaon để giải phóng dân đang làm nô lệ nhà vua, được trở về đất hứa. Maisen đã nghe lời Thiên Chúa đến gặp nhà vua, ông không còn khiếp sợ vua nữa. Trái lại vua và cả dân Ai Cập khiếp sợ Maisen và thúc giục Maisen mau mau dẫn dân Israel ra khỏi Ai Cập. Nhờ Maisen vâng lời Thiên Chúa, Pharaon đã đổi lòng và cả dân tộc Israel nô lệ được đổi đời làm dân Thiên Chúa.

Êlia cũng biết nghe lời Chúa, đến giáp mặt vua Akhab và hoàng hậu Israel đang lùng bắt ông. Thiên Chúa bảo Êlia bỏ lối sống ẩn nấp giữa khe suối rừng hoang, ông đã vâng lời Chúa đến gặp Akhab. Thoạt thấy ông, Akhab nói: “Đây chính là kẻ giáng họa cho Israel”. Êlia đáp: “Không phải tôi, nhưng là chính ông giáng họa, vì ông đã bỏ lệnh truyền của Thiên Chúa, bây giờ ông hãy triệu tập dân chúng cùng 450 sư sãi thần Baal và 400 kẻ ăn nơi bàn Esabel tại núi Karmel”. Khi dân chúng đến, Êlia nói: “Cho đến bao giờ nữa, các ngươi còn khập khễnh đi hai giò? Nếu Giavê là Thiên Chúa, thì hãy theo Người; nếu là Baal thì hãy theo đi”. Rồi hai bên lập bàn thờ để chứng tỏ đâu là Thiên Chúa thật, 450 sư sãi đặt con bò trên đống củi và khấn thần Baal đem lửa đến thiêu của lễ, họ kêu suốt ngày vô ích. Còn Êlia bảo dân lấy nước đổ đẫm của lễ và đống củi, rồi ông cầu nguyện: “Lạy Giavê xin nhận lời tôi, khiến dân này nhận biết chính Người là Thiên Chúa thật, xin giáng lửa xuống thiêu của lễ với củi và cả đá bụi nữa”. Thấy thế, toàn dân sấp mặt xuống và nói: Giavê chính là Thiên Chúa. Họ đã từ bỏ Baal, đổi đời trở về tôn thờ Thiên Chúa. Nhờ đâu Abraham, Maisen, Êlia, Phaolô và dân Isarel được biến đổi như thế. Tin Mừng trả lời: Họ đã vâng lời Người.

Tất cả những ai muốn biến đổi sáng láng, muốn như Phêrô khao khát được ở trên núi vinh quang rực rỡ thì: “Hãy vâng nghe lời Người”. Mùa Chay chính là thời thuận tiện để chúng ta tập luyện vâng nghe lời Chúa dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng như Gioan, Phaolô và Giacôbê.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biến đổi xác phàm ra xác thánh, đau khổ ra vinh quang, chết ra sống lại vinh hiển vì Người đã vâng lời Đức Chúa Cha. Xin cho con biết vâng lời Người biến đổi con người tội lỗi ra người thánh, đau khổ thành hy sinh, chúng con mới được Chúa cho đổi đời trong ánh sáng Phục sinh của Chúa.

10.Mau biến đổi–Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chúa Giêsu Biến Hình

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến,

Chắc hẳn nhiều lần chúng ta phải thất vọng vì con người của mình sao mà tồi tệ xấu xa quá. Nhiều lần chúng ta cố gắng sửa đổi bản thân cho tốt hơn. Nhưng cũng nhiều lần chúng ta thất bại.

Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu biến hình ra vinh quang; Thánh Phaolô hứa chúng ta cũng sẽ được biến đổi như thế nhờ quyền năng Thiên Chúa.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy kết hợp với Chúa Giêsu và xin Ngài biến đổi chúng ta.

II. Gợi ý sám hối

Chúng ta đã được dựng nên giống hình ảnh Chúa, nhưng do tội lỗi, càng ngày chúng ta càng khác xa Ngài.

Sở dĩ chúng ta ngày càng khác xa Chúa là vì chúng ta hay dung dưỡng con người xác thịt mà không bồi dưỡng con người thần linh trong chúng ta.

Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Chúng ta gần gũi tội lỗi nhiều hơn là gần gũi với ơn Chúa.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (St 15,5-12.17-18)

Các bài đọc Cựu Ước từ Chúa nhật II Mùa Chay trở đi tuần tự nhắc lại những chặng đường quan trọng của Lịch sử Cứu độ. Hôm nay, đoạn sách Sáng thế đề cập đến chặng đầu tiên: Thiên Chúa kết giao ước với Abraham. Nhân loại cũ do nguyên tổ Ađam kể như đã hư mất vì tội lỗi. Thiên Chúa quyết định thành lập một nhân loại mới bắt đầu từ Abraham. Nếu Abraham chọn Thiên Chúa là Chúa của mình và tin vào Ngài, thì Thiên Chúa sẽ là Đấng bảo vệ ông, Ngài sẽ làm cho có một dòng dõi đông đức, là dân riêng của Ngài.

Giao ước được ký kết theo nghi thức thời xưa: Một số con vật được xẻ đôi đặt ở hai bên; những người kết ước đi giữa những con vật xẻ đôi ấy, ngụ ý rằng nếu không tuân giữ giao ước thì cũng sẽ bị chết phanh thây như những con vật ấy. Trong bài tường thuật này, chỉ có Thiên Chúa (được tượng trưng bởi lửa và khói) đi qua những con vật ấy, Abraham không đi qua, bởi vì đây là giao ước đơn phương: chỉ mình Thiên Chúa cam kết thôi.

Hình ảnh những mãnh cầm tượng trưng cho những thế lục thù địch. Chúng xà xuống trên những con vật để phá việc ký kết giao ước ấy. Nhưng Abraham đã xua đuổi được chúng.

2. Đáp ca (Tv Tv 26)

Thánh vịnh 26 được phụng vụ chọn đọc tiếp theo bài đọc I vì nó diễn tả đúng tâm tình của Abraham: quyết chọn Chúa là chỗ nương tựa của mình và tuyệt đối tin tưởng nơi Ngài.

3. Tin Mừng (Lc 9,28-36)

Chúng ta nên để ý tới bối cảnh của việc Chúa Giêsu biến hình:

1. Ngài biến đổi hình dạng ra vinh quang sáng láng đang lúc cầu nguyện.

2. Có một số chi tiết cho thấy cuộc biến hình này có liên quan tới việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại:

Việc biến hình xảy ra “khoảng 8 ngày sau”, tức là sau việc Ngài báo tin chịu nạn lần thứ nhất (xem Lc 9,22)

Hai ông Môsê và Êlia đàm đạo với Ngài “về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem.

Tiếng Chúa Cha từ trời phán “Đây là Con Ta, người Ta tuyển chọn” là trích những đoạn Cựu Ước nói về Người Tôi Tớ của Giavê chịu khổ để chuộc tội cho loài người.

Như thế Chúa Giêsu hôm nay biến hình để cho 3 môn đệ thân tín thấy trước một chút vinh quang thật của Ngài, nhờ đó các ông sẽ đỡ hoang mang khi sau này thấy Ngài chịu nạn chịu chết.

4. Bài đọc II (Pl 3,17–4,1)

Mở đầu trích đoạn này, Phaolô kêu gọi tín hữu Philipphê hãy noi gương bắt chước Ngài. Sở dị Phaolô dám kêu gọi như thế vì Phaolô cũng đã bắt chước tổ phụ Abraham, đặt trọn niềm tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa.

Phaolô còn khuyến khích rằng nếu chúng ta đặt trọn niềm tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa thì Ngài sẽ dùng quyền năng của Ngài mà chế ngự tất cả những yếu đuối của thân phận con người và biến đổi chúng ta thành vinh hiển như Ngài.

IV. Gợi ý giảng

*1. Ơn gọi và Biến hình

Ơn gọi của Abraham là bỏ xứ Ur thuộc Mesopotamie tiến vào Canaan. Người không đức tin sẽ cho Abraham là kẻ lắm tham vọng và tin hão huyền: bỏ cái đang có, đi tìm cái viển vông. Abraham bỏ ruộng vườn, nhà cửa theo ơn gọi, tìm sự vất vả, sống thiếu thốn và khó khăn. Ông lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Trước mặt ông là giải sa mạc mênh mông, nắng cháy da diết, cỏ cây úa vàng, giọt nước quí hơn kim cương. Vì tín trung với ơn gọi, Abraham đã thành công, trở thành anh hùng lập quốc, được chúc phúc và biến hình.

Ơn gọi của Phaolô là quên đi dĩ vãng, diệt cái kiêu căng và cuồng tín Biệt Phái. Từ thái cực là một kẻ hung hăng bắt đạo, Phaolô đã mềm nhũn và ngoan hiền dưới ánh sáng kỳ diệu với lời trách nhẹ nhàng: “Saulê, sao người bắt bớ Ta?”. Phaolô làm bạn với nhóm 12 và trở thành Tông Đồ Dân Ngoại. Phaolô vui nhận thử thách, không ngừng thuyết giảng, và trung thành đến giọt máu cuối cùng. Phaolô đã được lột xác và biến hình.

Lịch sử Giáo hội ghi nhận nhiều cuộc biến hình khác. Từ say rượu đến say Chúa; từ gái giang hồ thành thánh nhân; từ trai tứ chiếng nên đấng lập dòng; từ kẻ khô khan đến người sốt mến; từ người tham lạm, hà khắc trở thành kẻ rộng lượng và khoan nhân… Đó là những cuộc canh tân và biến hình đã, đang và còn tiếp tục xảy ra trong Giáo hội. Đồng thời chứng minh rằng ơn Chúa dư đủ cho mọi người và Chúa đang thắng ma quỉ, xác thịt và thế gian nơi cung lòng mỗi cá nhân.

Phúc Âm hôm nay hé lộ một chút vinh quang và sự cả sáng của Cứu Chúa khi Ngài đàm đạo với hai nhân vật lịch sử nổi tiếng và kính yêu là Elia và Môisen. Tại thế, vì sứ mệnh cứu độ, Chúa Giêsu che giấu tất cả uy quyền và dũng lực của Ngôi Lời, để sống đời hèn mọn, bất lực và tầm thường của một thế nhân. Ngài cần ăn uống, nghỉ ngơi. Ngài phải đau buồn, bị chê bai và chỉ trích. Ngài lo lắng, và bồn chồn về cuộc thảm tử sắp đến. Nhưng điều khác biệt là Ngài vui đón ý Chúa Cha. Bởi vậy, một lần nữa, Chúa Cha đã khen thưởng “Đây là Con Ta Dấu Yêu, hãy nghe lời Ngài”. Trong phút giây ngút ngàn thân thương ấy, Ngài bước ra khỏi cuộc đời lam lũ và ô trọc để vui hưởng phút vinh quang ngây ngất và tuyệt vời của Ngôi Hai Thiên Chúa.

Không phải chỉ có Abraham, Môisen, Êlia, Tông đồ mới có ơn gọi và được biến hình. Trái lại, ơn gọi phổ quát “Hãy nên hoàn thiện như Cha các con ở trên trời” đã được trao tặng và mời gọi mỗi cá nhân. Thực thi ơn gọi ấy một cách hoàn hảo và trọn vẹn thì chúng ta ắt sẽ được biến hình.

Giám mục John Quinn trong lễ Thêm sức cho 50 em tại Sacramento năm 1983 đã mô tả ơn gọi và sứ mạng của người Việt Nam tại Mỹ như sau: “Cha rất hài lòng khi thấy các con họp nhau tôn thờ và ca tụng Chúa bằng tiếng mẹ đẻ. Các con hãy duy trì nền văn hóa và truyền thống cổ truyền, đừng để nó mai một đi. Cha vui mừng vì hình thức đạo đức bên ngoài biểu lộ đức tin anh hùng và sâu xa chúng con thừa hưởng do công quả của các Đấng tử đạo Việt Nam. Cha cảm động vì sự hiện diện của chúng con ở đây nên ánh sáng và muối đất cho những người khác”.

Tin đạo, thực hành đạo là ơn gọi của chúng ta. Sống đạo và mang đạo vào đời là phương thế trong lành, thánh thiện và vĩ đại chúng ta phải thực hiện để “danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện”. Đừng để phú quý tạo tâm kiêu và bất cần Chúa. Đừng để ghen tương đốt cháy và tiêu hủy thiện chí. Đừng để tị hiềm gây bất mãn, đố kỵ và tranh chấp. Đừng để ích kỷ hủy hoại tình đồng hương và khóa cửa lòng. Hãy nhận diện ra ai là đồng chí để cùng nắm tay, dìu nhau bước tới và biến hình và ai là kẻ thù đang khai trừ và bắt bớ Đức Kitô trong Giáo hội để cẩn trọng, đề phòng và cảm hóa. Và nhất là hãy can đảm cùng Chúa Kitô “vạn lý trường chinh” trong âm thầm, chịu đựng. tự hủy, hy sinh, khiêm tốn, tin tưởng và phó thác. Chúng ta không bao giờ lầm đường khi bước trên những dấu chân của Đức Kitô. Đó là con đường biến hình duy nhất của ông bà, anh chị và của tôi. (Lm Nguyễn Bình An, Nguyệt san “Dân Chúa Mỹ Châu”)

*2. Hai ngọn núi

Hãy so sánh cảnh hôm nay với cảnh trên núi Cây Dầu:

– cùng xảy ra trên một ngọn núi: núi biến hình (Tabor?) và núi Cây Dầu.

– ở 2 nơi Chúa Giêsu đều biến hình: ở núi biến hình, Chúa Giêsu từ hình dáng loài người biến thành hình dáng Thiên Chúa; ở núi Cây dầu, từ hình dáng Thiên Chúa biến ra hình dáng con người yếu đuối.

Cả 2 sự biến hình đều diễn ra trước 3 nhân chứng: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Và 2 điểm phụ: 2 lần ấy, họ đều ngủ, còn Chúa Giêsu đều thức và cầu nguyện.

Nhưng 2 cuộc biến hình này bổ túc ý nghĩa cho nhau: Trên núi biến hình, các môn đệ thấy được thiên tính của Chúa Giêsu vinh quang hơn bao giờ hết, khiến họ ngất ngây sung sướng, muốn ở mãi trong tâm trạng ngất ngây đó; Trên núi Cây dầu, họ thấy Thầy trong nhân tính yếu đuối hơn bao giờ hết. Con người thật của Chúa Giêsu vừa có thiên tính vừa có nhân tính. 2 biến cố bổ túc nhau giúp ta hiểu được con người thật của Ngài.

* Suy gẫm 2 biến cố này, ta cũng thấy được con người thật của ta: trong ta có một phần là Adam con của xác thịt, một phần là Con của Chúa.

– Cũng như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình, có nhiều lúc chúng ta cảm thấy ngất ngây sung sướng; thấy mình sốt sắng quá, gần Chúa qua, yêu thương anh chị em quá, sẵn sàng làm những điều tốt cho anh chị em, sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình…

– Nhưng cũng như Chúa Giêsu trên núi Cây dầu, lại có những lúc chúng ta suy sụp trầm trọng; phần Adam nổi lên lấn áp phần Con của Chúa. Khi đó ta thấy đời thật buồn nản, thấy không ai thương mình, không ai hiểu mình, Chúa hình như cũng xa mình… Từ đó ta nguội lạnh với Chúa, ích kỷ với anh chị em, khe khắt với những kẻ làm khổ mình.

+ Nhưng có một điều rất quan trọng ta hãy nhớ: Chúa Giêsu luôn cầu nguyện khi biến hình vinh quang trên núi biến hình cũng như khi biến hình thảm não trên núi Cây dầu. Cầu nguyện giúp thống nhất con người chúng ta đúng theo kế hoạnh Thiên Chúa. Đặc biệt nhớ cầu nguyện trong lúc suy sụp.

+ Và nếu ta biết cầu nguyện để thống nhất hóa con người mình như thế thì ta sẽ cũng như Chúa Giêsu được Chúa Cha âu yếm nói “Đây là con yêu dấu của Ta” (trên núi biến hình), và được thiên thần Chúa an ủi (trên núi Cây Dầu).

“Lạy Chúa

Xin cho con được nếm những giây phút ngất ngây như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình.

Trong những giây phút đó, xin cho con biết làm như Chúa Giêsu xưa: con sẽ hướng về Chúa để cầu nguyện và con sẽ được nghe lời Chúa nói: Con là con yêu dấu của Cha.

Và lạy Chúa

Khi con gặp những lúc suy sụp, xin cũng cho con biết làm như Chúa Giêsu xưa: Con cũng hướng về Chúa để cầu nguyện. Và khi đó con cũng được bàn tay Chúa an ủi, nâng đỡ và xoa dịu con.” (Viết theo Mark Link, Sunday homilies)

*3. Nét mặt con người

Nét mặt con người rất quan trọng. Nhớ ai là nhớ mặt người đó. Khi ta không nhớ mặt người nào thì kể như người đó đã trở thành một chiếc bóng.

Những sắc thái của nét mặt diễn tả được rất nhiều điều đến độ đáng ngạc nhiên, bởi đó nét mặt là đối tượng nghiên cứu rất thú vị. Nét mặt luôn biểu lộ cho biết ta là ai và cuộc sống của ta như thế nào. Điều này giải thích lý do người ta hay dùng tiếng “mặt” để nói về người khác. Chẳng hạn: “Từ lâu rồi tôi không thấy mặt nó”. Nhìn nét mặt một người, ta có thể đoán được cảm giác bên trong của người ấy: họ đang vui hay buồn, hay thờ ơ…

Chúng ta cũng thường nói “mất mặt”. Trong trường hợp này, ‘mặt” chính là danh dự của con người. Khi ta nói người nào đó có “hai mặt” thì có nghĩa đó là một con người dối trá…

Mỗi người chúng ta có nhiều nét mặt, được biểu lộ trong nhiều tình huống khác nhau: khi thì hạnh phúc, khi thì buồn rầu, khi thì bạo dạn, khi thì nhút nhát, khi thì bình thản, khi thì sợ sệt, khi thì đau đớn, khi thì vui mừng, khi thì thân thiện, khi thì giận dữ… Điều này chẳng có gì đáng xấu hổ cả, vì đó là một phần của thân phận làm người của chúng ta. Điều duy nhất đáng xấu hổ là nét mặt giả tạo, vì tất cả những nét mặt được kể trước đó đều nói lên sự thật, còn nét mặt giả tạo nói lên sự dối trá.

Tại sao người ta ngại cho kẻ khác thấy mét mặt thật của mình? Tại sao người ta hay mang mặt nạ? Phải chăng vì người ta sợ người khác biết sự thật yếu kém của mình? Có lẽ chính vì thế mà nhiều khi người ta cố làm một nét mặt tươi cười đang khi trong lòng thì muốn khóc.

Bài Tin Mừng hôm nay nói khi Chúa Giêsu ở trên núi thì mặt Ngài trở nên sáng chói như mặt trời. Thật lầm khi nghĩ rằng đó chính là nét mặt thật của Chúa. Thực ra, điều mà các môn đệ đã thấy là thật, nó tỏ lộ vinh quang bên trong của Ngài, sự vinh quang mà thường khi Ngài che dấu. Nhưng nói rằng nét mặt vinh quang trên núi hôm ấy là nét mặt thật thì khiến người ta tưởng rằng những nét mặt khác là không thật, là giả.

Nét mặt mà Chúa Giêsu tỏ lộ trên núi là một nét mặt đặc biệt nhưng không phải là nét mặt duy nhất của Ngài. Ngài có tất cả những nét mặt như chúng ta ta có, chỉ trừ những nét mặt giả tạo. Chúng ta đã thấy có khi Ngài mệt, có khi Ngài giận, có khi Ngài buồn, có khi Ngài vui, có khi Ngài trìu mến, có khi Ngài cảm thông… Tất cả những nét mặt ấy đều thật, vì đàng sau những nét mặt ấy là bản chất thật của Ngài: vừa là người hoàn toàn giống chúng ta (chỉ trừ tội lỗi), vừa là Thiên Chúa vinh quang, như tiếng từ trời phán “Đây là Con yêu quý của Ta”.

Mặc dù người ta nói nét mặt là cửa sổ của tâm hồn, nhưng mỗi nét mặt che dấu nhiều hơn là biểu lộ. Điều cốt lõi của con người vẫn còn vô hình không thấy được. Mỗi người là một huyền nhiệm.

Cũng như Abraham, chúng ta phải sống bằng đức tin. Đức tin dạy rằng đàng sau những nét mặt bình thường của một người là thân phận của một người con của Chúa, một người anh chị em của Chúa Giêsu, hướng tới một vinh quang đời đời. (FM)

*4. Một thoáng vinh quang

Trên núi Tabor, ánh vinh quang của Thiên Chúa đã tỏa chiếu từ thân xác Chúa Giêsu, và Ngài được biến hình. Các môn đệ đã ngây ngất trước vẻ đẹp và sự sáng ngời ấy. Đó không phải chỉ là vẻ bề ngoài, mà là vinh quang thật từ bên trong thoáng tỏ lộ ra. Nói tắt một lời: Đó là chính Thiên Chúa ở trong Chúa Giêsu.

Chúng ta cũng có vinh quang thần linh ở trong chúng ta, bởi vì chúng ta đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta cũng có những thoáng biến hình. Van Gogh nói: “Một người tiều phu hay một người thợ mỏ nghèo nhất cũng có thể có những thoáng cảm hứng khiến anh ta cảm thấy gần như đang ở thiên đàng”.

Một người nghèo sống trong khu nhà dành cho những kẻ vô gia cư đã kể câu chuyện sau đây. Một hôm ông đi dạo trên phố và tình cờ vào một ngôi nhà thờ lúc nào không hay. Ông không nhớ là lúc đó ông có cầu nguyện không, nhưng ông nhớ là cảm thấy tâm hồn mình chìm ngập trong ánh sáng. Mọi buồn chán đều tan biến hết, chỉ có bình an. Ông cảm thấy mình rất gần Chúa và được Chúa yêu thương. Cảm nghiệm này rất sâu đậm mặc dù chỉ thoáng qua trong phút chốc. Ông nói rằng ông sẵn sàng đánh đổi cả đời để có được một thoáng cảm nghiệm ấy. Khi ông rời nhà thờ, cảm nghiệm ấy tan loãng dần. Về sau, ông trở lại nhà thờ nhiều lần để mong có lại cảm nghiệm tuyệt vời ấy, nhưng không được.

Điều sai lầm của người vô gia cư trên là muốn bám cứng vào một cảm nghiệm thoáng qua. Nói cách khác, ông muốn đi lùi chứ không đi tới. Nói rõ hơn nữa: lẽ ra ông phải biết dùng cái cảm nghiệm thoáng qua ấy để soi sáng cuộc đời tăm tối của mình, và nhờ đó mà can đảm tiến bước trong hy vọng.

Phêrô cũng sai lầm như thế. Ông muốn ở lại mãi trên núi. Ông muốn bám cứng vào cảm nghiệm vinh quang hạnh phúc. Ông không muốn xuống núi tiếp tục cuộc sống thường ngày. Nhưng Chúa Giêsu đã giục ông xuống núi để đối diện với tương lai. Ngài không muốn cảm nghiệm trên núi ấy trở thành chỗ cho Phêrô ẩn trốn khỏi cuộc chiến đấu đang đợi chờ phía trước. Một thoáng ánh sáng Ngài ban cho ông là để giúp ông trực diện với giờ tăm tối sắp đến.

Nghe lời Chúa, Phêrô đã xuống núi. Nhưng lạ thay, cảm nghiệm thoáng qua hôm ấy vẫn còn sáng mãi trong lòng ông. Nhiều năm sau ông còn viết: “Chúng ta đã được chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi… Khi ấy có tiếng phán từ trời rằng: Đây là Con yêu quý của Ta, Ta hài lòng về Ngài” (1 Pr 1,17-18).

Chúng ta cũng những thoáng cảm nghiệm được ánh sáng và niềm vui. Những thoáng cảm nghiệm ấy cho ta thấy được đất hứa mà chúng ta phải tiến đến trong đức tin. Nhưng nên biết rằng Chúa ban những thoáng biến hình ấy là để thêm sức cho chúng ta sống những nhiệm vụ hằng ngày.

Tín ngưỡng và sự cầu nguyện không phải là những chỗ ẩn trốn, mà là những trợ lực giúp chúng ta đương đầu với gian lao thử thách. (FM)

*5. Người vẫn đồng hành

Truyện ngụ ngôn kể về một nhà thiên văn có thói quen mỗi buổi tối lại nhìn lên các ngôi sao, nghiên cứu các vì tinh tú đang xoay vần, chuyển đổi trong vũ trụ bao la.

Một lần kia, đang đi dạo mát quanh vùng, mải mê suy nghĩ những chuyện trên trời, ông ta vô ý ngã xuống giếng cạn. Tiếng kêu cứu thất thanh, khiến một người đi ngang qua đó nghe được. Ông vội vàng chạy đến miệng giếng, liền đoán được việc gì đã xay ra, bèn nói với nhà thiên văn: “Này ông, ông cứ muốn biết những việc xảy ra trên trời, còn những việc sờ sờ dưới đất sao ông không thấy?”

***

Đêm hôm ấy, Chúa Giêsu cùng với ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện.

Trong lúc Người thân mật cầu nguyện với Chúa Cha thì các ông lại mê mệt trong giấc ngủ say. Nhưng khi tỉnh dậy, thấy Chúa Giêsu vinh quang chói loà, cả hai ông Môsê và Êlia đàm đạo với Người cũng rạng ngời vinh hiển, thì Phêrô mau mắn thưa: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, hay quá!” (Lc 9,33). Các ông thích ở chốn vinh quang sáng láng, nhưng lại không tỉnh thức cầu nguyện. Các ông muốn cắm lều trên núi cao, nhưng lại chìm sâu trong cơn ngủ mê. Sau này trong vườn Cây Dầu, cũng chính ba môn đệ này vẫn còn mê ngủ, cho đến khi kẻ thù đến bắt mất Thầy. Đó là thân phận yếu hèn của mỗi người chúng ta…

Chính vì biết các môn đệ yếu chuối mà Chúa Giêsu đã cho các ông được chiêm ngắm vinh quang của Người, dù chỉ trong chốc lát, để củng cố niềm tin của các ông trong cuộc khổ nạn mà Người sắp thực hiện tại Giêrusalem. Đồng thời để các ông có bằng chứng loan báo về việc Người phục sinh sau này.

Việc biến hình sáng láng hôm nay cũng là để chứng thực cho lời tuyên xưng của Phêrô ở Xêdarê cách đây tám ngày: “Thầy là đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).

Nếu cuộc biến hình vinh quang của Chúa Giêsu là sự đáp trả của Chúa Cha qua việc Người chấp nhận cuộc khổ nạn, thì sự vâng theo ý Chúa hôm nay, xem ra vất vả nặng nề, cũng sẽ trở nên nguồn vui bất diệt cho chúng ta ngày mai.

Nếu đang khi cầu nguyện, dung mạo Người bỗng biển đổi, thì việc gặp gỡ, kết hiệp với Chúa trong suy niệm và cầu nguyện sẽ biến đổi tâm hồn, cuộc sống và cả con người chúng ta mỗi ngày để nên giống Chúa hơn.

Nếu sau cuộc biến hình, Chúa Giêsu trở lại với khuôn mặt bình thường, Thầy trò lại tiếp tục cuộc sống thường nhật, thì sau những niềm vui khôn tả Chúa ban trong cầu nguyện, chay tịnh và bác ái, Người vẫn tiếp tục đồng hành với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc sống.

***

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biến hình sáng láng trên núi Tabo và đã hấp hối bi thảm trên núi Cây Dầu. Nhưng trong hai lần ấy, Chúa đều cầu nguyện mật thiết với Chúa Cha. Xin cho chúng con biết cầu nguyện, lúc hạnh phúc cũng như khi đau khổ, khi an vui cũng như lúc gặp thử thách, để chúng con luôn kết hiệp với Chúa và để Chúa nâng đỡ chở che. Amen. (Thiên Phúc)

*6. Chuyện minh họa

a/ Biến đổi

Một người bán gỗ cho xưởng mộc. Anh thường thủ lợi bằng cách đo gỗ thiếu. Ngày kia, có tin đồn đến xưởng là anh ta nhập đạo. Nghe thấy thế, mọi người bán tín bán nghi rồi bàn thảo mỗi người mỗi ý. Có một người lặng lẽ ra kho gỗ, một lúc sau trở vào dõng dạc tuyên bố:

– Đúng, anh ta nhập đạo thật.

– Sao anh biết?

– Tôi vừa xem lại số gỗ anh ta chở tới hôm qua. Tôi thấy là đúng với qui cách ta đặt, không thiếu nữa.

Người nào tiếp nhận đức Kitô cũng phải thay đổi cuộc đời và sống ngay chính.

b/ Đổi tiền

Đến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Đó là ý nghiã Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, nhờ mầu nhiệm Hiển dung, Chúa mời gọi chúng ta vâng nghe lời Đức Kitô và đổi mới cuộc đời. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

1. Chúa Giêsu phải trải qua đau khổ thập giá / rồi mới bước vào vinh quang phục sinh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa hiểu rằng / đó cũng là con đường mà mỗi Kitô hữu phải đi qua.

2. Như thánh Phêrô / ai cũng đều mong muốn được hạnh phúc trọn vẹn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người hiểu rằng / họ chỉ được hạnh phúc thật sự / khi tận tụy phục vụ tha nhân.

3. Trong đời sống thường ngày / con người gặp biết bao nhiêu là thử thách gian truân / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / trong những giờ phút đen tối nhất của cuộc đời / được ánh vinh quang Chúa tỏ hiện nơi Đức Kitô soi sáng đỡ nâng.

4. Đây là Con yêu dấu của Ta / Ta hết lòng quý mến / Các ngươi hãy vâng nghe lời Người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết chăm chỉ lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành.

Chủ tế: Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cởi bỏ con người cũ và loại trừ những việc làm xấu xa tội lỗi, để mặc lấy con người mới theo hình ảnh Đức Kitô là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Chúa Cha rất yêu thương Ngài và vừa lòng về Ngài. Chúng ta được hạnh phúc thông chia quyền làm con của Chúa Giêsu. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài dâng lên Chúa Cha những tâm tình hiếu thảo của chúng ta.

– Lúc chúc bình an: Chúng ta hãy chúc bình an cho nhau trong tâm tình mến yêu nhau thực sự; và cũng hãy nghĩ đến những người xích mích với chúng ta mà hiện không có mặt trong Thánh lễ này, với quyết tâm cũng muốn hòa giải với họ nữa.

VII. Giải tán

Sau khi các môn đệ được chứng kiến vinh quang Chúa Giêsu trên núi, Chúa Giêsu đã bảo các ông xuống núi tiếp tục cuộc sống hằng ngày. Chúng ta cũng vừa chứng kiến vinh quang Chúa trong Thánh Lễ. Giờ đây chúng ta hãy trở lại cuộc sống, tiếp tục những nhiệm vụ thường ngày với một sức mạnh mới.

11.Đức Giêsu biến hình–Lm Giuse Đinh Lập Liễm

A. DẪN NHẬP

Mùa Chay là thời gian tập chiến đấu và chiến thắng ma quỉ cũng như các khuynh hướng xấu để đổi mới con người cũ của mình, làm cho linh hồn trở lại thời thanh xuân của ân sủng. Vì thế, mỗi năm, vào Chúa nhật thứ hai mùa Chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đoạn Tin mừng về việc Đức Giêsu biến hình để khích lệ chúng ta.

Đức Giêsu đã dẫn ba môn đệ thân tín của mình là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi Tabor và đã biến hình trước mặt các ông. Nói khác đi, Đức Giêsu đã cho rạng sáng lên trong giây lát cái vinh hiển của “hình dạng” Thiên Chúa, đã bị che giấu đi trong cái  “hình dạng” con người của Ngài. Vì thế, Tin mừng cho biết: Ba môn đệ thấy vinh quang của Ngài.

Đây là dịp Đức Giêsu cho ba môn đệ trông thấy trước vinh quang sáng chói của Ngài, nhìn ra con người thật của Ngài; đồng thời chuẩn bị tinh thần cho các ông , giúp các ông bình tĩnh trước cuộc khổ nạn của Ngài. Qua biến cố này, Đức Giêsu dạy cho các ông một bài học xem ra khó thực hiện đối với các ông nhưng là một điều kiện thiết yếu: phải chết đi rồi mới được sống lại, phải qua thập giá thì mới tiến tới vinh quang: Per crucem ad lucem !

Qua việc biến hình của Đức Giêsu, Giáo hội muốn cho chúng ta trong Mùa Chay thánh này phải bắt chước Đức Giêsu mà thay hình đổi dạng, phải lột bỏ con người cũ mà mặc lấy con người mới tốt lành thánh thiện, phải chết đi cho tội lỗi mà sống cho Chúa để qua cuộc lột xác này mà trở thành một tạo vật mới xinh đẹp với ân sủng của Chúa và dưới tác động của Chúa Thánh Thần.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: St 15,5-12.17-18.

Nhân loại cũ do Adong kể như đã hư mất vì tội lỗi. Thiên Chúa quyết định thành lập một nhân loại mới bắt đầu từø Abraham. Vì thế, Thiên Chúa ký kết giao ước với ông.

Giao ước được trình bầy dưới dạng một bản giao kèo theo tập tục các chiến binh thời đó: được đóng ấn bằng việc xẻ thịt  một bò cái tơ, một dê cái và một cừu đực. Giao ước giữa Thiên Chúa và Abraham sửa soạn cho một giao ước sẽ ký kết giữa Thiên Chúa và Israel tại núi Sinai (Xh 19). Thiên Chúa nhận của lễ Abraham dưới hình dạng ngọn lửa thiêu. Theo giao ước này, nếu Abraham nhận Thiên Chúa là Chúa của mình và tin vào Ngài, thì Thiên Chúa sẽ ban cho ông hai điều: một dòng dõi đông đúc và một vùng đất rộng rãi phì nhiêu.

+ Bài đọc 2: Pl 3,17-4,1.

Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Philipphê hãy noi gương bắt chước ngài. Sở dĩ ngài dám nói như thế là vì ngài muốn nhắc lại cuộc trở lại của mình với Đức Kitô và từ đây ngài hết lòng tin tưởng theo gương ông Abraham ngày xưa đã tin tưởng vào Thiên Chúa.

Ngài muốn hiệp thông cùng cuộc tử nạn và Phục sinh với Đức Kitô. Ngài khuyên nhủ các tín hữu đừng bắt chước những người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô, họ là những kẻ hưởng lạc chỉ nhắm những sự thấp hèn đời này, mà hãy kiên trì theo đuổi việc chạy đua đến vương quốc trên trời, nơi họ sẽ được hoàn toàn hóa thân trong Đức Kitô, vì “quê hương chúng ta ở trên trời”(Pl 3,20).

+ Bài Tin mừng: Lc 9, 28b-36.

Trong trình thuật của thánh Luca về cuộc biến hình cách mầu nhiệm, chúng ta chú ý đến chi tiết Đức Giêsu đàm đạo với ông Maisen và ông Êâlia về cuộc “xuất hành” của Ngài tại Giêrusalem, ý nói đến cuộc tử nạn của Ngài sẽ được thực hiện tại đó.

Cuộc xuất hành về Đất Hứa của dân Do thái ngày xưa là hình ảnh cuộc xuất hành của Ngài ngày nay. Ngày xưa trong cuộc xuất hành, Maisen đã dẫn dân ra khỏi đất nô lệ, thì giờ đây, Đức Kitô là Maisen mới sẽ dẫn đưa mọi người thoát khỏi cảnh thống trị của sự dữ.

Chi tiết thứ hai là đám mây trắng tinh sáng ngời là điềm tiên báo sự phục sinh, lên trời của Chúa và của chúng ta, nếu chúng ta nghe Lời Chúa và theo gương Chúa cho đến cùng.

Việc biến hình trước mặt ba môn đệ thân tính hé mở cho ba ông thấy trước một chút vinh quang thật của Ngài, nhờ đó các ông sẽ đỡ hoang mang khi sau này thấy Ngài chịu nạn chịu chết.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

I. ĐỨC GIÊSU BIẾN HÌNH.

Khung cảnh cuộc biến hình.

Câu chuyện Đức Giêsu biến hình đã được Tin Mừng nhất lãøm tường thuật theo một tài liệu duy nhất. Biến cố biến hình này xẩy ra khoảng 8 ngày sau khi Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài, và cũng xẩy ra đồng thời khi ông Phêrô truyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (Lc 9,20). Và Đức Giêsu, khi đón nhận lời tuyên xưng ấy, đã dùng cuộc biến hình này để chỉ cho các tông đồ thấy  trước chính vinh quang đó, hầu soi sáng cho các ông thấy rõ ý nghĩa cuộc thử thách mà Ngài đã loan báo, tức là cuộc thương khó và cuộc tử nạn sắp xẩy đến.

Đức Giêsu chỉ đem theo ba Tông đồ là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi như xưa ông Maisen khi lên núi Sinai đã đem theo một số người đồng hành (Xh 24,9). Ba ông này được chọn riêng trong 3 trường hợp:

         – Chúa cho con ông Giairô sống lại (Mt,9,18).

         – Chúa biến hình (Mt 17,1)

         – Tại vườn Cây dầu (Mt 26,3).

Đang khi các ông ngủ, Đức Giêsu biến hình trước mặt các ông. Thánh Matthêu và Marcô thì dùng chữ “biến hình”, còn thánh Luca thì nói là “dung mạo Ngài biến đổi khácthường”. Tuy dùng từ khác nhau nhưng đều nói lên việc Đức Giêsu biến đổi con người nên sáng láng tốt đẹp vô cùng, làm cho các ông ngây ngất đến nỗi không biết mình đang nói gì. Các ông còn được thấy sự hiện diện của ông Maisen và ông Eâlia, và cũng được nghe tiếng từ trời xuống: ”Đây là Con Ta yêu dấu, Người được Ta tuyển chọn. Hãy vâng nghe lời Ngài”.

Các ông đã nghe nhưng không hiểu gì ngay lúc đó. Sau này các ông sẽ hiểu, khi Đức Giêsu sẽ là “Người tôi tớ”, người “được tuyển chọn” trong biến cố Vượt qua, trong cuộc xuất hành của Ngài về với Chúa Cha.

Mục đích cuộc biến hình.

Đức Giêsu chỉ đưa ba ông Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi để chứng kiến việc Ngài biến hình vào khoảng 8 ngày sau khi Ngài báo tin cho môn đệ biết: Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ… bị giết đi và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ngài cũng bảo: Ai muốn đi theo sau Ngài thì hãy từ bỏ chính mình và vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ngài. Những lời ấy không làm cho môn đệ an tâm, nên Ngài đã hứa sẽ cho một số môn đệ có mặt đó được thấy vinh quang của Ngài.

Do đó, việc Đức Giêsu biến hình có 2 mục đích:

– Thứ nhất, Đức Giêsu tỏ ra cho các môn đệ thân tín và mọi người biết rõ ràng Ngài là Thiên Chúa làm người. Bởi vì người Do thái nói chung và nhất là các môn đệ, đã sống gần Ngài 3 năm rồi, đã nghe biết bao nhiêu lời Ngài giảng dạy, và đã chứng kiến nhiều phép lạ Ngài làm, nhưng họ chỉ thấy Ngài là một người như mọi người khác, họ không thấy chân tướng đích thực của Ngài.. Hôm nay qua sự biến hình, Ngài cho họ thấy rõ Ngài là vinh quang của Thiên Chúa, là Thiên Chúa vinh quang.

– Thứ hai, Ngài muốn củng cố đức tin cho các môn đệ. Bởi vì Ngài thấy các ông quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Ngài, nên Ngài đã hé mở sự vinh quang của Nước Thiên Chúa cho các ông thấy để tăng thêm cho các ông niềm tin và hy vọng vào ngày mai. Như vậy, việc Chúa biến hình cũng dạy bảo cho các môn đệ biết: phải trải qua đau khổ rồi mới vào vinh quang bởi vì không ai có thể “Ngồi mát ăn bát vàng”.

II. CHÚNG TA CŨNG PHẢI BIẾN HÌNH.

Chúng ta đã được chịu phép rửa tội, đã được tha tội tổ tông và tội riêng, linh hồn ta đã được trong sạch sáng láng như các thiên thần, xứng đáng là nơi Chúa ngự.  Nhưng qua thời gian, qua những thămg trầm của cuộc sống và bị ma quỉ cám dỗ, chúng ta đã sa ngã và làm cho linh hồn chúng ta ra nhơ bẩn, linh hồn cần phải được tẩy sạch để trở nên tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu.  Vậy Mùa Chay là thời gian thuận lợi để linh hồn được biến hình đổi dạng để trở nên con người mới hoàn thiện hơn.

Nhu cầu cầu được biến đổi.

Thánh Phaolô đã có kinh nghiệm bản thân của Ngài về sự biến đổi đó nên Ngài đã nói: ”Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xa xưa, con người cũ đã ra hư hốt theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo  hình ảnh Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật”(Ep 4,22-24).

Thánh Phaolô đã để lại cho chúng ta những kinh nghiệm quí giá về đời sống tâm linh của Ngài mà không ai trong chúng ta có thể chối cãi được. Trong thư gửi cho tín hữu Rôma, Ngài đã cho biết: trong con người của Ngài có hai lực lượng xung khắc nhau kịch liệt, làm cho Ngài phải bận tâm và đau khổ, và ngài không thi hành được cái ngài muốn:

“Điều tôi làm ra, tôi không biết; vì điều tôi muốn tôi không thi hành, nhưng tôi lại làm chính những điều tôi ghét”(Rm 7,15).

“Sự lành tôi muốn, tôi lại không làm; còn sự dữ không muốn, tôi lại thi hành”(Rm 7,19)..

Nhưng cũng may, trong con người chúng ta, tuy có hai lực lượng xung khắc nhau, nhưng luật của Thiên Chúa vẫn còn đủ sức mạnh để lôi kéo ta làm việc lành, chứ không phải buông theo luật của xác thịt:

“Tôi hớn hở đồng ý với luật của Thiên Chúa theo con người bên trong, nhưng tôi thấy một luật khác nơi chi thể mình tôi, cự lại luật của lương tri tôi, và giam tù tôi trong luật của sự tội nơi chi thể mình tôi”(Rm 7,22-23)

Trong bài đọc 2 hôm nay, thánh Phaolô bảo tín hữu Philipphê hãy noi gương đổi mới của ngài. Ngài đã đổi đời từ kẻ hung ác bắt bớ hành hung các tín hữu của Đức Giêsu trở thành tông đồ hăng hái nhiệt tình rao giảng Đức Giêsu. Nhưng còn nhiều kẻ chưa đổi đời như ngài, họ vẫn còn thờ cái bụng, thờ cái ô nhục của thế gian. Thánh Phaolô đã thương khóc họ, vì họ sẽ phải hư vong. Ngài cầu nguyện cho họ  nhận ra quê hương thật ở trên trời để họ mong đợi Đức Giêsu Kitô đến biến đổi họ nên giống Người, sống khăng khít với Người. Đó là niềm vui và vinh dự thực sự của họ và của thánh Phaolô.

Truyện: Văn hào André Froissard.

Văn hào André Froissard thuộc Hàn lâm viện Pháp đã được ơn “trở lại” lạ thường. Ôâng đã thuật lại trong cuốn sách thời danh “Có Thiên Chúa và tôi đã gặp Ngài”. Thân phụ ông, Tổng thư ký đảng Cộng sản Pháp, đã từng tuyên bố: ”Nếu có Thiên Chúa, thì tôi khuyên “ông ấy” lo rút lui vì không ai thích ông”. Nhưng chính con ông lại được gặp gỡ Chúa và khẳng định: ”Khi người ta may mắn được gặp Thiên Chúa thì mọi sự khác chỉ là trò hề. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng không làm cho tôi thất vọng kể từ một buổi sáng năm ấy, 1935” (Phỏng vấn của Paris Match 8.4.1988)

Biến đổi và thập giá.

Có một mối tương quan giữa thập giá và vinh quang. Sự Chúa biến hình trên núi Tabor hôm nay đem đến cho chúng ta niềm hy vọng, cho chúng ta thấy trước sự vinh quang với Chúa. Nhưng muốn biến đổi không phải là chuyện đơn giản vì nó không phải là cái gì có sẵn, hay dễ dàng, mà đòi hỏi thời gian, vì đây là một tiến trình vô cùng khó khăn. Nó đòi hỏi chúng ta phải đối diện với thực tại hằng ngày của cuộc sống, nhiều khi phải lội ngược dòng đời, lột xác từng tí một, nhiều lúc phải chịu thử thách, đắng cay, mất mát. Hôm nay 5 đầy tớ ưu tuyển của Chúa, tiêu biểu cho cả Cựu ước lẫn Tân ước cùng chứng kiến sự kiện lạ lùng này. Họ cũng được can dự vào sự “biến đổi”.

Trong mùa chay này, Giáo hội cho chúng ta đọc đoạn Tin mừng này để khích lệ chúng ta, nghĩa là bảo cho chúng ta biết: khổ giá mà không có vinh quang phục sinh thì khổ giá vô nghĩa. Vinh quang Phục sinh mà không có khổ giá thì vinh quang không bao giờ có được. Vì thế, mỗi lần loan báo về cuộc khổ nạn, Đức Giêsu cũng nói đến Phục sinh vinh quang. Cũng vậy, sau khi nói về cuộc khổ nạn sắp xẩy đến, Đức Giêsu đã biến hình để các môn đệ thấy vinh quang của Ngài, để động viên khích lệ các ông và dạy cho các ông cũng như mọi người biết rằng: đau khổ chỉ là bước đường phải đi qua để đưa chúng ta tới quê trời, tới hạnh phúc đích thực mà mọi người mong đợi.

Truyện: Con sâu thành con bướm.

Có một con sâu nhỏ bò mãi, cho đến thời điểm cuối của cuộc đời thì tới thiên đàng. Nó gõ cửa, một giọng nói phát ra từ bên trong:

– Không có sâu bọ nào được phép vào đây. Ta thấy ngươi quá vội vã đấy.

– Lạy Chúa, xin dạy cho con biết phải làm gì bây giờ ?

– Chịu đựng hơn một chút nữa, chiến đấu một chút nữa, và hãy biến thành bướm đi.

Thế là con sâu quay lại trần gian bắt đầu lại cuộc hành trình bò lên thiên đàng. Nó bò nhanh hơn, cố gắng nhiều hơn. Mồ hôi vã ra như tắm. Mồ hôi càng đổ ra, sức lực nó càng tiêu hao, nó càng cảm thấy nhẹ nhàng để bò nhanh hơn. Gần tới cửa thiên đàng rồi nhưng nhìn lại nó vẫn là con sâu xấu xí, khốn khổ. Nhưng nó vội xua nỗi buồn bằng sự cố gắng chính mình, nó rướn người lên và cảm thấy tàn hơi, kiệt sức. Chính lúc nó cúi đầu tuyệt vọng lại là lúc nó chợt cảm thấy thân hình nó nhẹ nhàng lạ thường. Nó đã hóa thành chú bướm xinh xắn bay vào khung cửa thiên đàng đang rộng mở. Nó đã biến hình trọn vẹn.

Con sâu biểu tượng mỗi con người chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin đời mình. Chúng ta khao khát bò lên cao trên đường thánh đức với bao nỗi nhọc nhằn, vất vả. Vì phải chiến đấu chống lại những chước cám dỗ nội tâm để đáp trả tiếng nói của chân lý, hay phải  đối diện với những cám dỗ thế gian đang phơi bầy trước mắt, khiến chúng ta thường có tư tưởng buông xuôi.

 Tội lỗi, yếu đuối và sự nhát đảm  như chiếc vỏ bọc gồ ghề vây hãm chúng ta. Đó là lớp vỏ chúng ta cần thoát ra để trở thành con người hoàn hảo, tỏa sáng như Đức Kitô trên núi thánh nhờ vào thái độ quy phục thánh ý Cha trên trời, “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Vì chính lòng nhẫn nại tín trung vào ơn Chúa sẽ giúp chúng ta thoát khỏi mọi nghi ngại, mọi suy tính đầy vụ lợi. Và lòng khiêm nhường thẳm sâu sẽ phá tung lớp vỏ kén tự mãn để trao tặng chúng ta đôi cánh đức tin hy vọng cao bay xuyên qua những đám mây mờ của tháng ngày thử thách gian ngay (Theo Internet).

Ơn gọi biến đổi con người.

Việc Đức Giêsu biến hình là mẫu gương cho mọi người noi theo để cố gắng biến đổi con người cũ thành con người mới, từ loài sâu bọ trở nên con bướm xinh đẹp. Mọi người đều có ơn gọi biến đổi không trừ một ai.

Ơn gọi của Abraham là bỏ xứ Ur thuộc Mesopotamia tiến vào Canaan. Người không đức tin sẽ cho Abraham là kẻ lắm tham vọng và tin hão huyền: bỏ cái đang có, đi tìm cái viển vông. Abraham bỏ ruộng vườn, nhà cửa theo ơn gọi, tìm sự vất vả, sống thiếu thốn và khó khăn. Ôâng lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Trước mặt ông là giải sa mạc mênh mông, nắng cháy da diết, cỏ cây úa vàng, giọt nước quí hơn kim cương. Vì tín trung với ơn gọi, Abraham đã thành công, trở thành anh hùng lập quốc, được chúc phúc và biến hình.

Ơn gọi của Phaolô là quên đi dĩ vãng. Diệt cái kiêu căng và cuồng tín biệt phái. Từ thái cực là một kẻ hung hăng bắt đạo, Phaolô đã mềm nhũn và ngoan hiền dưới ánh sáng kỳ diệu với lời trách mắng nhẹ: ”Saulê, sao ngươi bắt bớ Ta”? Phaolô làm bạn với nhóm 12 và trở thành Tông đồ Dân ngoại. Phaolô vui nhận thử thách, không ngừng thuyết giảng, và trung thành đến giọt máu cuối cùng. Phaolô đã được lột xác và biến hình.

Lịch sử Giáo hội ghi nhận nhiều cuộc biến hình khác. Từ say rượu đến say Chúa, từ gái giang hồ thành thánh nhân, từ trai tứ chiếng nên Đấng lập Dòng, từ kẻ khô khan đến người sốt mến, từ người tham lam, hà khắc trở thành người rộng lượng và khoan nhân… Đó là những cuộc canh tân và biến hình đã, đang và còn tiếp tục xẩy ra trong Giáo hội. Đồng thời chứng minh rằng ơn Chúa dư đủ cho mọi người và Chúa đang thắng ma quỉ, xác thịt và thế gian nơi cung lòng mỗi cá nhân (Carôlô).

Trong việc làm biến đổi con người mình, người ta phải nỗ lực chứ không phải khoán trắng cho Chúa. Chúa không muốn làm biến đổi thay cho chúng ta mà Ngài chỉ trợ lực để chúng ta làm lấy công việc này: ”Hãy tự giúp mình rồi trời sẽ giúp cho” (Ngạn ngữ Pháp).

Truyện: Hãy tự giúp mình trước.

Người ta kể rằng: một bác tiều phu kia đi lấy được một xe bò củi chất đầy. Nhưng khi đi tới một khúc đường sình lầy thì đôi bò dừng lại. Xe bò sụn lún xuống bùn. Bác ta ngồi khóc than. Khóc một hồi, bác ta nhớ ra có một vị thần và bắt đầu van xin. Vị thần hiện ra phán bảo: ”Thay vì ngồi khóc thì ngươi hãy ghé vai vào xe thử đẩy đi và ta sẽ giúp”. Bác tiều phu làm theo lời vị thần, cố gắng mọi cách, cuối cùng chiếc xe bò đã vượt qua khúc đường sình lầy.

Đó là ngụ ngôn dạy chúng ta phải cộng tác với một sức mạnh hơn để làm việc, để giải quyết mọi việc. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta còn biết nhờ vả vào những người khỏe mạnh hơn, thì tại sao chúng ta lại không cậy nhờ Chúa, là Đấng toàn năng và hay cứu giúp. Ngài sẽ giúp chúng ta vượt thắng đau khổ nếu chúng ta tin tưởng, cậy trông và kêu xin Ngài.

Cầu nguyện và biến đổi.

Trước những biến cố trọng đại, Đức Giêsu thường lên núi hoặc đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện, trò chuyện với Chúa Cha. Hôm nay cũng vậy. Đem theo ba môn đệ là những người đã theo Đức Giêsu từ những giây phút đầu tiên trong sứ vụ rao giảng. Các ông là những trụ cột của Giáo hội và vì thế, biến cố biến hình là biến cố rất quan trọng cho đức tin của các ông mà Đức Giêsu cách nào đó muốn tỏ hiện để củng cố niềm tin vốn còn yếu nơi con người các ông.

Ngược lại nếu không biết cầu nguyện, chỉ cậy dựa vào sức của mình, chỉ dùng những phương thế tự nhiên tuy là tối hảo thì “mèo vẫn hoàn mèo”, không thể tiến triển được trên đường biến đổi vì Chúa đã nói: ”Sine me nihil potestis facere”: không có Ta các con không thể làm gì được.

Truyện: bốc cát cọ mình.

Người ta thuật lại rằng cả một khu đất kia chỉ có một gia quyến người da đen ở. Gia quyến đó gồm có một bà vợ, một người chồng và một đứa con trai 9 tuổi, Cậu bé đi học, nhưng giữa bọn trẻ da trắng, riêng mình đen thủi đen thui, nên lắm phen bị chê cười, chế nhạo. Cậu luôn bị chọc ghẹo nên khó chịu, giống như một tấm lòng non nớt bị một vết thương sâu. Sau cùng, cậu tự hỏi mình có thể thay đổi nước da chăng, rồi nhất định làm theo ý nghĩ đó.

Bữa nọ, thầy giáo thấy cậu vắng mặt, bèn hỏi đám học sinh về cậu. Một trò thưa rằng thấy cậu đi đàng sau trường, giữa khu rừng nhỏ có rạch chảy qua. Thầy giáo ra công tìm kiếm và thấy cậu ở sát bờ rạch, đang dùng cát ướt kỳ cọ hai cánh tay đen. Thỉnh thoảng cậu dừng tay, rửa cát dính vào da, rồi nhìn xem màu da đen mất chưa. Chao ôi ! Mầu đen quá sậm cậu mất công toi.

Vài phút sau thầy giáo gọi cậu:

– Này em làm gì vậy ?

Cậu giật mình thưa:

– Con cố sức kỳ cọ hết màu da đen để nên người da trắng, song không sao được. (Ms  Lê văn Thái, Những tia sáng, tập 2, tr 94-95)

Khi gợi lên cho ta thấy Đức Giêsu với “gương mặt biến đổi” nhờ sự cầu nguyện, Luca có ý khích lệ chúng ta. Trong cuộc sống đầy thử thách và thất bại, đầy đau khổ và tội lỗi, chỉ có cầu nguyện, vào những lúc nào đó, mới có thể biến đổi chúng ta. Bởi vì chúng ta cũng được “biến đổi”, phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương (2Cr 3,18). Khuôn mặt Mùa Chay phải là khuôn mặt biến đổi.

Tóm lại, sự thay đổi là trọng tâm của Mùa Chay, và mục đích của Giáo hội là tìm cách cho con cái mình lãnh nhận dồi dào ân sủng, để biến đổi họ trong vui mừng của Mầu nhiệm Phục sinh. Hôm nay Chúa dạy chúng ta bài học cầu nguyện, cầu nguyện thật sự, đúng cách sẽ thay đổi được tâm hồn con người, sẽ làm cho người khác nhận diện được sự đổi thay lạ lùng – dĩ nhiên là qua những việc làm lành thánh -, đó là cầu nguyện, đàm đạo với Chúa về con đường đi đến đồi Calvê, con đường khổ giá của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn từng ngày, từng lúc.

 Ước gì trong Mùa Chay thánh này, mỗi người tín hữu sẽ nhận ra được giá trị thật sự của sự cầu nguyện, biết trở về với Giáo hội để lãnh nhận ân sủng, những ơn cần thiết, được ban nhưng không, để cùng được biến đổi, cùng được dự phần vào ngày vinh thắng của Chúa. Nếu như không có thứ Sáu Chịu nạn, sẽ không bao giờ có Chúa Nhật Phục sinh. Đây là định luật bắt buộc cho bất cứ ai muốn tiến vào Vương quốc vĩnh cửu của Thiên Chúa.

Chúa sẽ biến đổi thân xác chúng ta.

Trong kinh Tin Kính, chúng ta vẫn tuyên xưng: ”Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy”. Chúa sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của chúng ta trong ngày sau hết. Với niềm tin tưởng ấy, thánh Phaolô, trong bài đọc 2, đã khuyên mọi người bắt chước Ngài, vì Ngài tin tưởng và hoàn toàn sống theo mầu nhiệm thập giá. Đang khi ấy có lắm kẻ sống như thù địch với thập giá của Đức Kitô. Họ lấy bụng làm Chúa và chỉ nghĩ đến những sự dưới đất. Họ đặt vinh quang nơi những điều đáng phải xấu hổ, ngay cả nơi phép cắt bì của người Do thái. Họ là những người chỉ cậy vào sức mình và chỉ lấy những mối lợi trước mắt làm hạnh phúc. Họ sẽ đi tới diệt vong.

Trái lại, quê hương của ta là  trời cao, tự đó sẽ đến vị Cứu Chúa là Đức Giêsu Kitô. Ngài sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh quang của Ngài. Chính vì vậy mà chúng ta phải đi vào con đường thập giá, là con đường đã dẫn Chúa chúng ta đạt tới vinh quang.

12.Chúa biến hình trên núi–Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Anh chị em thân mến

Hằng năm cứ vào Chúa nhật thứ hai Mùa Chay Giáo Hội dọc lại cho chúng ta nghe câu chuyện Chúa biến hình trên núi. Đây là câu chuyện đặc biệt chỉ xẩy ra có một lần duy nhất trong cuộc đời của Chúa. Câu chuyện được cả ba Tin Mừng nhất lãm: Matthêo, Maccô và Luca thuật lại.

Nếu đọc cả ba bản văn, chúng ta thấy có một vài chi tiết hơi khác nhau nhưng nội dung thì cả ba hầu như hoàn toàn như nhau. Vậy chúng ta thử hỏi: Chúa muốn dạy các môn đệ và chúng ta điều gì qua biến cố biến hình hôm nay?

A. Với các môn đệ thì bài học tương đối đã khá rõ.

Tin Mừng cho biết Chúa thực hiện cuộc biến hình này ngay sau lời báo trước về cuộc khổ nạn của Chúa 8 ngày trước. Lời tuyên bố ấy như thế này: “Con người sẽ phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ mục và thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy” Đó là lời tuyên bố gây choáng váng cho các môn đệ.

Để các môn đệ Chúa khỏi thất vọng, Ngài đã cho các ông ấy thấy một phần vinh quang của Ngài, vinh quang mà Ngài sẽ hưởng sau phục sinh. Như vậy, qua biến cố biến hình Chúa muốn dạy các ông rằng khổ nạn không phải là tận cùng, nhưng chính là bước đường dẫn tới vinh quang. Và đồng thời như lời của Jean-Luc Vesco chú giải, Chúa cũng muốn cho họ hiểu rằng: “Định mệnh của trò cũng như của Thầy sẽ trải qua 2 giai đoạn; một giai đoạn khổ đau, một giai đoạn vinh quang. Các môn đệ khó mà hiểu được giai đoạn một. Nhưng Đức Giêsu vẫn kiên quyết. Ai muốn theo Người đều phải nối kết vận mệnh của mình vào cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Người. Hai khía cạnh của mầu nhiệm cứu độ vẫn là bất khả phân ly ” (“Giêrusalem và ngôn sứ của nó “, Cerf, trg 38).

Sau khi Chúa phục sinh các tông đồ đã hiểu thật rõ những gì Chúa muốn nói ở đây.

2. Còn đối với chúng ta, Chúa Giêsu muốn dậy điều gì ?

Dĩ nhiên là Chúa không cần phải củng cố niềm tin của chúng ta như đối với các môn đệ thuở xưa, nhưng bài học cũng vẫn còn đó: Chúa muốn cho chúng ta xác tin hơn vào một tương lai vinh hiển của chúng ta.

Tương lai ấy như thế nào thì đây chúng ta nghe lời của Thánh Phaolô: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta..” (Pl 3,20)

Có lần trong cuộc đời công khai Chúa đã nói: “Các người công chính sẽ sáng chói như mặt trời trong Nước Cha mình.” (Mt 13,43) Qua việc biến hình Chúa đã muốn cho chúng ta nhìn thấy phần nào vinh quang ấy, nếu chúng ta là những người công chính. Thánh Phao-lô còn quả quyết “Chúa Giê-su có quyền năng khắc phục muôn loài, và Ngài sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.” (Pl 3,21). Và nơi khác “gieo xuống thì hèn hạ mà chỗi dậy thì vinh quang” (1 Cr 15,43).

Muốn trở thành người công chính để được hưởng vinh quang như Chúa cho thấy, chúng ta phải làm gì? Câu trả lời đã có sẵn: “Phải nghe Lời Ngài.” Nghe Lời của Chúa Giêsu. Đó là con đường giúp chúng ta trở thành người công chính trước mặt Chúa. Lời Chúa có sức biến đổi cuộc đời chúng ta.

Thánh Gioan Thánh giá quả quyết “Tất cả những gì Thiên Chúa muốn nói với loài người thì Ngài đã nói qua Chúa Giê-su vào thời gian viên mãn (x. Dt 1,1) Thế nên ngày nay ai muốn hỏi, muốn xin một thị kiến hay một mạc khải, thì không chỉ là điên khùng, mà còn nhục mạ Thiên Chúa, vì không tập chú vào Chúa Giê-su. Thiên Chúa có thể trả lời hạng người đó như thế này: Ta đã nói với ngươi tất cả nơi “Lời Ta” là Con Ta rồi. Giờ dây, ngoài Chúa Giê-su Ta không còn gì để mạc khải hay nói cho ngươi nữa. (Gio-an Thánh giá, Monttee du Carmel).

“Hãy vâng nghe Lời Người”. Lời có sức biến đổi lạ lùng.

Xin được mượn một câu chuyện để minh họa. Câu chuyện xẩy ra vào năm 300 trước Chúa Giáng sinh. Vào một sáng kia lúc nhà hiền triết Bolena đang chơi giải trí với các sinh viên trước hàn lâm viện thành Athène, thủ đô Hylạp, thì có một người đàn ông đến. Ông tự giới thiệu mình là một thày tướng thời danh. Các sinh viên nghe thế nên mới đề nghị ông xem cho thày mình là hiền triết Bolena một quẻ.

Ông thày tướng nhìn nhà hiền triết Bolena một lát, rồi nói: “Giáo sư của các anh chỉ là một con người “Mũi dòm miệng”, tức là con người ưa nhậu nhẹt, say xỉn. Nghe thế các sinh viên giận sôi ruột lên, định xông vào cho ông thày tướng dám nói ẩu một trận. Thế nhưng nhà hiền triết Bolena đã kịp can ngăn. Rồi sau đó ông chậm rãi giải thích cho các học trò của mình như thế này: “Này các trò, ông thày tướng này rất giỏi, ông đã coi tướng thày rất trúng; khi còn trẻ, chính thày là một thanh niên “mũi dòm miệng”. Một lần kia, sau khi đã nhậu nhoẹt say sỉn, thày đã đến Hàn Lâm Viện này, để nhạo báng các sinh viên bằng những cử chỉ và lời nói rất ư là thiếu lễ độ. Bấy giờ giáo sư của thầy là nhà hiền triết Socrate bình tĩnh, bỏ ngay vấn đề đang nói, mà bàn ngay tới vấn đề đức tính và tiết độ, làm  cho con người có giá trị, đáng được trọng kính. Nhưng lời giảng dạy trên đây, đã giáo dục thày, đã làm cho thày bỏ được tính mê nết xấu, và luyện tập đức tính nên ngày nay, thày mới trở nên con người ích lợi cho xã hội và đất nước như thế này.

Chúng ta có thể coi đây là một cuộc biến hình, một cuộc lột xác được không? Tôi tưởng là được lắm chứ!

Cũng vậy muốn được biến hóa nên giống Chúa Giêsu, chúng ta phải thực hành Lời của Chúa. Việc nghe và thực hành Lời Chúa sẽ làm cho chúng ta được biến đổi.

Năm 1215 thánh Daminh giảng tuần Đại phúc ở nhà thờ Saroza nước Tây Ban nha, lúc đó có một người giáo dân khô khan tội lỗi tên là Don Perez Petro, nhất định không chịu cải quá tự tân. Thánh Daminh lần chuỗi cậy nhờ Đức Mẹ cho anh ta biến hình thành một tên quỉ xấu xa dữ dằn khiến mọi người trong nhà thờ, sợ hãi chạy tán loạn.  Về tới gia đình anh nhìn vào gương…thấy hình ảnh mình ghê tởm, xấu xa quá nên phát sợ. Ngay sau đó anh ta đã tìm đến với thánh Đaminh và xin cứu giúp. Ngài đã giải tội cho anh và sau khi lãnh phép giải tội, lạ thay con người anh biến hình đẹp như một thiên thần tốt đẹp sáng láng.

Lạy Thiên Chúa, đây lời cầu nguyện của con:

Xin tận diệt, tận diệt trong tim con mọi biển lận tầm thường.

Xin cho con sức mạnh thản nhiên để gánh chịu mọi buồn vui.

Xin cho con sức mạnh hiên ngang để đem tình yêu gánh vác việc đời.

Xin cho con sức mạnh ngoan cường để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó, hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.

Xin cho con sức mạnh dẻo dai để nâng tâm hồn vươn lên khỏi những ti tiện hằng ngày.

Và cho con sức mạnh tràn trề để nâng mình theo ý Ngài luôn.

R.Tagore

13.Chúa biến hình trên núi Ta-bo–Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Thánh sử Luca vừa thuật lại cho chúng ta câu chuyện Chúa Giêsu biến hình trên núi.

Cha đố chúng con biết Chúa làm như thế để làm gì? Hay nói một cách cụ thể hơn khi Chúa làm như thế Chúa muốn gì? Nếu nhìn vào những việc xẩy ra trước và sau cuộc biến hình của Chúa, chúng ta sẽ thấy ngay câu trả lời. Việc này không có gì khó lắm.

1. Trước hết là để tránh cho các môn đệ của Chúa một sự sụp đổ thất vọng trước mầu nhiệm Thập giá.

Chúng con hãy nhớ lại hoàn cảnh xảy ra trước đó một chút: Chúa Giêsu vừa được Phêrô đại diện cho nhóm môn đệ tuyên xưng là ĐĐấng Messia con Thiên Chúa hằng sống và ngay sau đó Chúa đã báo cho họ biết về con đường khổ nạn và chết chóc mà Chúa sẽ phải đi qua để hoàn thành sứ mạng của Người. Đây quả thực là một lời loan báo kinh hoàng về một Đấng Cứu thế mà chẳng có ai dám nghĩ như thế.  Chính vì thế mà Phêrô đã tức tốc phản ứng ngay. “Ông liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người”(Mt 13,22)  Khi làm như thế chắc Phêrô tưởng là mình làm đẹp lòng Chúa, ai dè ông lại nhận được một lời quở trách cực mạnh từ Đức Giêsu: “Satan, lui ra đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài Người”(Mt 16,23). Sau đó, Đức Giêsu còn đòi hỏi thêm: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”(Mc 8,34). Chúa muốn con đường mà Chúa đi cũng là con đường của các môn đệ Người phải đi. Phêrô đã thật sự choáng váng và cả các môn đệ khác cũng thế.

Thế nhưng thử hỏi khi Chúa đòi hỏi như thế thì điều đó có quá đáng không? Chắc là khi đòi hỏi như thế Chúa có lý do của Chúa. Tuy nhiên, các môn đệ có dám chấp nhận hay không là tùy ở mỗi người. Cha xin mượn một câu chuyện được lấy từ Internet để gợi ý và giúp chúng con hiểu được vấn đề này. Câu chuyện như thế này:

 Đã lâu lắm rồi, có một vị hiền triết sống trên đỉnh ngọn núi cao. Dân làng dưới chân núi mỗi khi gặp khó khăn thường tìm đến vị hiền triết này để xin lời khuyên.

Ngày nọ, một chàng trai được xem là khá thành đạt, đang băn khoăn cho chặng đường sắp tới của mình. Chàng quyết định lên núi gặp vị hiền triết.

– Điều gì có thể giúp con thành một người thực sự vĩ đại?  Chàng trai hỏi.

Vị hiền triết nhìn thẳng vào mắt anh và hỏi:

– Con có chắc là con muốn biết điều đó không?

– Vâng! Con thực sự rất muốn biết. – Chàng trai quả quyết trả lời

– Được! – vị hiền triết đáp. – Ngươi hãy tự tìm cho mình câu trả lời qua câu chuyện ta kể sau đây: “Thuở xưa có một chàng thanh niên ở đất nước Hy Lạp mắc bệnh hiểm nghèo. Biết mình không còn sống được bao lâu nữa, anh xung phong gia nhập quân đội lúc đó đang bước vào trận chiến khốc liệt với kẻ thù. Với hy vọng được hy sinh anh dũng trên chiến trường, anh đã chiến đấu hết mình, không ngại phơi mình trước làn tên mũi đạn của kẻ thù và không mảy may lo cho mạng sống của mình. Cuối cùng, khi kẻ thù bị đánh bại, anh vẫn còn sống! Vô cùng cảm phục trước lòng dũng cảm, can trường của người lính nọ vì đã góp phần không nhỏ tạo nên chiến thắng ấy, vị tướng quyết định thăng chức và trao tặng cho anh huân chương danh dự cao quý nhất cho lòng dũng cảm.

Song, lạ thay đến ngày được trao huân chương, trông anh rất u buồn. Ngạc nhiên, vị tướng hỏi lý do thì được biết anh đang phải gánh chịu một căn bệnh nguy hiểm. Làm sao ông lại có thể để cho người lính dũng cảm của mình phải chết! Vị tướng đã cho tìm vị lương y giỏi nhất nước về trị bệnh cho anh. Căn bệnh chết người cuối cùng đã được chữa khỏi.

Nhưng từ đó trở đi người ta thấy người lính can-trường-một-thời đã không còn xuất hiện nơi tuyến đầu vất vả hiểm nguy nữa! Anh luôn né tránh mọi khó khăn và cố gắng bằng mọi cách để bảo vệ mạng sống của mình thay vì đương đầu với thử thách.

Về sau có dịp gặp lại, vị tướng đã nói với người lính nọ một câu: “Giờ đây anh mới thực là người đã chết hoàn toàn.” (First news – Theo Internet)

Chúng ta hãy nhớ lại có lần Chúa đã dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không thối đi, nó sẽ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi nó sẽ sinh nhiều bông hạt”(Ga 12,24). Chúa đã chấp nhận con đường tự hủy để cứu chuộc loài người. Và những ai  muốn làm môn đệ của Chúa cũng phải làm như vậy. 

2. Lý do thứ hai qua cuộc biến hình trên núi Chúa muốn dạy các môn đệ cũng như mọi người rằng: Chẳng có vinh quang nào mà không phải trả giá. Vinh quang càng cao, cái giá phải trả càng lớn. Vinh quang trần thế và vinh quang Thiên quốc cũng như nhau.

Mẹ Têrêsa Calcutta nói: “Thánh thiện không tùy thuộc những việc phi thường nhưng chính yếu là đón nhận với nụ cười những gì Chúa Giêsu gửi tới. Trọng tâm của đời thánh thiện là chấp nhận và sống theo ý Thiên Chúa”.

Có một nhà vua kia, một hôm cho triệu tập các cận thần lại. Vua đưa cho quan Tể Tướng một viên ngọc trai lóng lánh và hỏi:

– Ông hãy nói viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?

– Muôn tâu, nó đáng giá còn hơn số lượng vàng khối mà 100 con lừa có thể chở.

– Ông hãy đẫp vỡ nó ra cho ta!

– Muôn tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể đang tâm phung phí phá đi một báu vật như thế ạ !

Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.

Kế đó vua đưa viên ngọc cho quan Thị Vệ, và cũng hỏi:

– Theo ông, nó đáng giá bao nhiêu ?

– Bằng nửa vương quốc.

– Hãy đập vỡ nó vỡ ra cho ta!

– Đập vỡ viên ngọc này ư? Muôn tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được việc đó.

Nhà vua cũng thưởng cho ông này một chiếc áo danh dự, lại còn tăng lương cho ông.

Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul một tên cận vệ tầm thường.

– Ngươi có biết viên ngọc này đẹp đến mức nào không?

– Muôn tâu, đẹp không thể nói được.

– Hãy đập nát nó ra cho ta.

Lập tức Abdul lấy hai viên đá đập vỡ viên ngọc ra và nghiền nó thành bụi. Quần thần thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Abdul.

Họ hỏi:

– Tại sao nhà ngươi dám làm thế chứ ?

Abdul bình tỉnh đáp:

– Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào. Tôi tôn kính Hoàng Thượng chứ không tôn kính viên ngọc.

Nhà vua khen ngợi thái độ của Abdul và thưởng chàng trọng hậu hơn cả hai vị quan kia.

Cha nhắc lại lời của Mẹ Têrêsa Calcutta vừa nói ở trên: “Thánh thiện không tùy thuộc những việc phi thường nhưng chính yếu là đón nhận với nụ cười những gì Chúa Giêsu gửi tới. Trọng tâm của đời thánh thiện là chấp nhận và sống theo ý Thiên Chúa”. Chấp nhận và sống theo ý Thiên Chúa và chúng ta trở thành con yêu dấu của Chúa ở đời này và cả đời sau nữa. Amen.

14.Giải Phẫu Thẩm Mỹ–phaolomoi.net

Kính thưa quí vị và các bạn thân mến,

Thống kê năm 2009 cho thấy chỉ trong vòng một năm, mặc dù đang trong cơn khủng hoảng kinh tế, ngành kỹ nghệ bán mỹ phẩm và các sản phẩm làm đẹp chỉ riêng tại Hoa Kỳ thôi đã thu được một lợi nhuận hơn 11 tỷ Mỹ Kim. Và ngành giải phẩu thẩm mỹ và sửa sắc đẹp ngoại hình đã thâu vào khoảng 14 tỷ Mỹ Kim. Vị chi là 25 tỷ Mỹ Kim tiền lời đã thu được cho công việc làm đẹp ngoại hình như make-up, xoá vết nhăn, trị mụn, tàn nhang, mài da, lột da mặt,căng da mặt, căng mí mắt, cắt mí mắt, cấy tóc nhuộm tóc, sửa mũi, nâng cằm, giải phẩu ngực, hút mỡ bụng, mỡ cằm mỡ đùi, chuyển mỡ từ nơi dư đến nơi thiếu, vv.. và vv…

Thế mới biết con người ngày nay chú trọng đến vẻ đẹp ngoại hình nhiều đến mức độ nào!!  Nhiều người sẵn sàng bỏ ra hàng ngàn hoặc chục ngàn đôla để cải thiện hay phục hồi dáng vẻ bên ngoài của mình. Suy cho cùng, ai chẳng muốn được người khác khen mình đẹp?  Cô gái nào chẳng muốn mình có khuôn mặt đẹp và dáng vẻ “mi nhon”? Chàng trai nào chẳng muốn mình được khen là “hào hoa, vạm vỡ” nếu không được như tài tử Arnold thời xưa thì cũng phải cỡ Brat Pitt thời nay…

Nói chung, năm mới ai cũng muốn diện mạo của mình càng ngày càng đẹp đẽ rạng rỡ hơn năm cũ. Đó là khát vọng cố hữu của con người luôn muốn hướng tới cái đẹp. Ai cũng muốn được “biến hình” từ xấu ra đẹp, từ đẹp ra đẹp hơn. Nếu không thì người dân Hoa Kỳ đã không bỏ ra hàng mấy chục tỷ Đôla chỉ muốn đạt được nguyện vọng này.

Trong bài phúc âm của Chúa Nhật thứ Hai Mùa Chay chúng ta được nghe câu chuyện Chúa Giêsu Biến Hình trên núi khi Ngài lên đó cầu nguyện cùng với các tông đồ. Và đang khi cầu nguyện thì diện mạo của Người toả sáng, “y phục của Người trở nên trắng tinh và chói loà” (Lc 9:29).

Ba tông đồ thân tín của Chúa Giêsu là ông Phêrô, Gio-an và Gia-cô-bê, cũng chứng kiến hai nhân vật nổi tiếng trong Cựu Ước hiện ra để đàm đạo với Đức Giêsu. Ông Mô-sê đại diện cho lề luật cựu ước mà Chúa đã mạc khải cho Dân Do Thái qua ông trên núi Si-nai. Ông Ê-li-a đại diện cho cả một truyền thống rao giảng của các tiên tri trong thời cựu ước, muốn nói Lời Chúa cho dân nhưng nhiều lần đều bị dân khước từ, chống đối hoặc thậm chí giết hại.

Giờ đây cả hai ông đều xuất hiện bên Chúa Giêsu, như một lời khẳng định rằng chính Chúa Giêsu, nơi Ngài và trong Ngài, nhân loại sẽ được thấy sự hoàn thiện tuyệt đối của cả Lề Luật Chúa lẫn Lời Rao Giảng và hiện thân của các tiên tri xưa. Hoàn thiện về lề luật: Vì đã có lần Chúa nói với các môn đệ Ngài giữa đám đông: “Con Người đến không phải là để huỷ bỏ nhưng là để hoàn thiện Lề Luật Chúa.”

Hoàn thiện về hình ảnh các tiên tri: Vì ở một nơi khác Chúa đã kể cho dân chúng nghe dụ ngôn Những Tên Tá Điền Ác Nhân, là những người làm thuê cho chủ, cuối cùng vì tham lam và ganh ghét, đã manh tâm giết hết tất cả những người đại diện mà ông chủ sai đến để thu gặt hoa lợi, đến độ cuối cùng họ đã hè nhau giết chết chính người Con Một mà ông chủ tin tưởng sai đến.  Và Người Con Một của ông chủ ấy chính là Chúa Giêsu, con một Chúa Cha đã được cha sai đến từ Thiên Đàng Vĩnh Cửu để giải thoát nhân loại khỏi bóng tối của tội lỗi và sự chết đời đời. Và Chúa đã tỏ lộ ra sự hoàn thiện ấy cho các tông đồ chiêm ngắm bằng chính ánh sáng tự hữu của Ngài.  Điều mà Giáo Hội đã chẳng tuyên xưng hàng tuần trong thánh lễ Chúa Nhật và các lễ trọng đó sao?  “Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kitô, là Con Một Thiên Chúa,… Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật.” Chúa Giêsu và Cha Ngài là một, bởi thế ánh sáng từ nơi Ngài toả ra là ánh sáng tự hữu.

Ánh sáng chói loà đến độ các tông đồ thoạt tiên phải khiếp sợ. Nhưng đi sau sự khiếp sợ ban đầu ấy là một niềm hạnh phúc trào dâng, ùa vào cả tâm hồn lẫn thể xác các ông, vì Chúa đã mạc khải ánh sáng Thiên Đàng cho các ông thấy trước. Các ông ngất ngây đến độ Phêrô phải cất tiếng thay cho hai người anh em của mình: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a” (Lc 9:33).

Nếu các ông chỉ khiếp sợ không thôi thì có lẽ các ông đã bỏ Chúa ở đó mà ù té chạy một mạch xuống núi. Nhưng sau nỗi khiếp sợ là một niềm hạnh phúc không thể nào diễn tả được, cho nên các ông mới xin dựng lều ở lại luôn trên núi. Nhưng sao lại chỉ dựng ba lều cho Chúa, ông Mô-sê, và ông Ê-li-a thôi? Còn các ông không cần lều sao? Rõ ràng ánh sáng Thiên Đàng toả ra từ Chúa Giêsu đã bao phủ các ông, và trong thoáng chốc các ông không còn để ý đến nhu cầu thân xác cho riêng mình nữa. Có được ánh sáng của Chúa là có tất cả, ngổi trên cỏ cũng được, dựa vào tảng đá cũng xong, ngủ ngoài trời sương gió cũng chả sao, sấm chớp mưa dông cũng không màng, vì các ông đã được ở bên Chúa, mà lại là Chúa Biến Hình/Hiển Dung. Có Chúa là có tất cả…

Sự biến hình sáng láng của Chúa quả là tuyệt vời. Các ông không mảy may biết rằng giữa ánh hào quang tuyệt vời đó, chỉ vài khoảng khắc trước đó, khi ông Mô-sê và ông Ê-li-a còn ở bên Chúa đó, ba người đã đàm đạo điều gì? Phêrô và đồng bạn đã chẳng nghe được gì vì cả ba đã lăn ra ngủ mê mệt. và các ông cũng chằng để ý hoặc hỏi Chúa là Chúa đã đàm đạo điều gì với hai vị kia?

Bài Phúc Âm nói rất rõ: Hai ông Mô-sê và Ê-li-a lúc đó đang đàm đạo với Chúa Giêsu về Cuộc Xuất Hành của Người tại Giêrusalem. Có nghĩa là Chúa Giêsu sẽ phải vượt qua Biển Đỏ và Sa Mạc của Ngài trước khi hoàn thành sứ mạng cứu độ của Ngài nơi miền Đất Hứa Mới.

Chúa Giêsu sẽ phải đi Giêrusalem để vượt qua Sa Mạc của sự phản bội, chối từ, sỉ nhục, và Biển Đỏ của roi đòn, đánh đập, chịu đau khổ, chịu đóng đinh, và chịu chết, trước khi Ngài hoàn thành sứ mạng cứu độ của Ngài trong Sự Sống Lại Vinh Quang và Phục Sinh Vinh Hiển để chiến thắng tội lỗi và sự chết đang kìm hãm toàn thể nhân loại. Các tông đồ lúc ấy không hiểu tí gì về sứ mạng cao cả đó của Chúa Giêsu mãi cho đến khi Ngài mặc lấy ánh sáng vinh quang của Phục Sinh.

Thưa quí vị và các bạn thân mến, thiết tưởng đó là bài học biến hình cho mỗi người chúng ta hôm nay. Trong cuộc hành trình của Ngài nơi dương thế, Chúa Giêsu đã dần dần làm cho các tông đồ trung tín với Ngài được “biến hình” bằng chính ánh sáng của Ngài, đến độ hầu hết các ông đều trở nên những tông đồ nhiệt thành đi gieo rắc ánh sánh nội tâm, ánh sáng của nhân đức, ánh sáng đức tin, ánh sáng của sự thánh thiện, ánh sáng của lòng mến, ngõ hầu chính mình được “biến hình” và làm cho bao nhiêu tâm hồn khác cũng được “biến hình” trong tâm hồn, nhờ vào sự hy sinh, can đảm, dấn thân trong tinh thần mùa chay, để được đồng hành với Chúa và với nhau.

Cầu chúc cho toàn thể quí vị, thay vì bỏ quá nhiều thời giờ tiền bạc, công sức vào việc chăm nom vẻ đẹp bên ngoài của mình để được “biến hình” nơi thân xác dễ phai tàn dễ héo úa của mình, thì cũng chú tâm đầu tư vào việc giải phẫu thẩm mỹ tâm hồn của mình qua việc cầu nguyện, ăn chay và bác ái trong mùa Chay.  Dẫu cho khuôn mặt chúng ta có thêm vết nhăn, tóc chúng ta có thêm sợi bạc, hoặc thân mình chúng ta có thêm vết chai, vết sần, vết sẹo, thì ánh sáng Thiên Đàng của Chúa vẫn được phản chiếu mỗi ngày một tinh tuyền một chói loà hơn trong tâm hồn mỗi người chúng ta, một món quà vô giá mà Chúa đã dựng nên và muốn qui tụ về trong ánh sánh Hạnh Phúc Vĩnh Cửu của Ngài.  Amen.

15.Hãy vui lên–Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.

Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu biến hình trước mắt ba tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê. Cũng chính ba tông đồ này là những người sẽ chứng kiến Đức Giêsu biến hình ở vườn dầu: “Ngài kinh hoảng âu sầu”. Ở vườn dầu, Đức Giêsu sấp mình xuống đất cầu xin cùng Thiên Chúa Cha để nếu có thể cho Ngài khỏi phải uống chén đắng; còn ở đây, Đức Giêsu hiển dung vinh hiển và Thiên Chúa xác chuẩn Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng tuyển chọn Ngài. Ba tông đồ đã được chứng kiến Ngài hiển dung, để có thể chứng kiến Ngài buồn sầu xao xuyến: “linh hồn thầy buồn sầu đến chết được”. Đức Giêsu hiển dung, dấu chỉ cho thấy thân xác con người sẽ được biến đổi trở nên vinh hiển sáng láng, cho dù hiện tại người ta thấy thân xác mong manh mỏng dòn.

Thân xác con người sẽ được biến đổi. Đức Giêsu chết trần trụi trên thập giá và toàn thân Ngài bị biến dạng bởi những vết thương do người ta hành hạ, nhưng khi Ngài phục sinh thì thân xác Ngài trở nên tuyệt vời. Thân xác con người trước phục sinh và sau phục sinh tuy là một nhưng rất khác nhau. Đức Giêsu khi còn tại thế vẫn là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, Đức Giêsu Phục Sinh và Đức Giêsu trước đó vẫn là một tuy dù người ta thấy Ngài rất khác qua biến cố Phục Sinh. Theo niềm tin Kitô hữu, thân xác con người ở dương gian và lúc sống lại vào ngày cánh chung tuy là một nhưng vẫn khác. Theo thánh Phaolô, sống lại là thân xác thần thiêng, khác với thân xác dương thế biến đổi theo thời gian và cái chết (1Co.15, 44)

Con người thật lạ kỳ. Thân xác con người giới hạn và có những nhu cầu rất tự nhiên. Có người sống đời tại thế này chỉ biết lo thỏa mãn những nhu cầu của thân xác, mà quên đi một chiều kích siêu việt của con người. Khi chỉ thỏa mãn những nhu cầu vật chất, con người trở nên ích kỷ nhỏ nhen, không đạt được hạnh phúc thật ở trần gian này. Nếu người giầu chỉ biết lo tìm tiền bạc mà không chú trọng đến những nhu cầu tinh thần của mình và của những người thân của mình, thì họ không thể hạnh phúc thật. Con người có liên đới với người thân, với gia đình cha mẹ anh chị em họ hàng, và đặc biệt với con cái. Nếu không lo cho con cái triển nở, nếu không biết giáo dục con cái, con người sẽ không thể hạnh phúc được cho dù họ có tiền bạc dư giả, cho dù họ có địa vị chức quyền.

Phaolô đã có một thời bắt bớ những người tin vào Đức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ ông đã miệt mài rao giảng Đức Giêsu Phục Sinh. Chính niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đã làm Phaolô bình an hạnh phúc hơn. Phaolô đã tìm ra con đường hạnh phúc thật. Bây giờ, niềm vui niềm tự hào của ông là Thiên Chúa và những người thuộc về Ngài. Tuy rằng con người có thể thay đổi lòng dạ nhưng vì tin vào Thiên Chúa nên Phaolô vẫn an lòng. Trừ phi Thiên Chúa thất bại, còn không Phaolô luôn chiến thắng, vì Phaolô chọn những gì Thiên Chúa chọn. Cho dù ngay cả những lúc Phaolô cảm thấy rơi lệ khi thấy những con cái ngài đã thay lòng đổi dạ, đã chọn thực tại trần gian trên hết: “Chúa của họ là cái bụng”, thì Phaolô vẫn hy vọng họ sẽ trở lại với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Đấng trung tín. Thiên Chúa vẫn kiên trì đến với con người, và sẽ làm con người trở lại với Ngài.

Qua những chọn lựa của mình trước những thực tại trần gian mà con người hình thành chính mình. Phaolô đã là một con người khác qua biến cố té ngựa trên đường đi Damas. Phaolô đã hình thành chính mình trong suốt đời ngài. Mỗi người trong chọn lựa sống của mình, làm mình trở thành người tuyệt vời hay chỉ giống con vật, trở nên con cái Thiên Chúa hay trở nên con cái ma quỷ. Qua hành vi yêu thương mà con người ra khác và trở thành tuyệt vời hơn. Con người không chỉ chờ đến ngày Phục Sinh mới được biến đổi, nhưng mỗi người cũng đã đang biến đổi ngang qua chọn lựa sống từng ngày.

Con người vui mừng, vì Thiên Chúa đã yêu thương và cứu độ con người qua Đức Giêsu. Thiên Chúa đã và đang làm tất cả qua Đức Giêsu Kitô. Ngày xưa Thiên Chúa ký kết giao ước với Abraham, ngày nay giao ước mới đã được ký kết với con người bằng máu Đức Giêsu Kitô. Máu Đức Giêsu là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người. Làm sao không vui khi biết Thiên Chúa yêu thương mình như yêu chính Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô (Ga.17, 23)?!

Thiên Chúa đã ký kết giao ước với Abraham. Thiên Chúa ký kết giao ước với con người vì con người chứ không phải vì Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần giao ước vì Ngài luôn chân thật và thành tín. Thiên Chúa luôn trung thành, không bao giờ Ngài phản bội. Chỉ có con người mới bất trung và hay thay đổi, vì vậy mới cần giao ước. Thiên Chúa đã thề hứa với con người, để con người được biết tình yêu của Ngài đối với con người, để con người có thể sống an bình hạnh phúc vì mình được Chúa Tể hoàn vũ thương yêu.

Thiên Chúa đã đặt nơi Abraham ước vọng có con cháu nối dòng, và chính Thiên Chúa cũng là Đấng hứa ban cho ông con cháu đông như sao trên trời như cát bãi biển. Thiên Chúa cũng là Đấng giao ước với ông, để ông thuộc về Thiên Chúa, để Thiên Chúa lo cho ông. Thiên Chúa vẫn luôn ở với con người, giúp con người đi tìm chính Ngài, làm con người thuộc về Ngài trong suốt quá trình sống. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài đang làm con người sống trong tình yêu và thuộc về tình yêu. Chính khi con người sống trong tình yêu và làm tất cả vì tình yêu, thì con người được hạnh phúc, vì lúc đó con người nên giống Thiên Chúa.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Một năm vừa qua, bạn có hài lòng với chính mình không? Bạn thấy mình khá hơn hay dở hơn? Bạn có biết tại sao không? Xin bạn chia sẻ, nếu được.

2. Bạn có kinh nghiệm về một niềm vui thiêng liêng không? Xin chia sẻ nếu được.

3. Hiện tại bạn có ao ước điều gì cách đặc biệt không? Điều bạn ao ước phản ánh chính con người bạn với những thao thức và giá trị sống, bạn có biết hơn gì về bạn qua ao ước này không? Bạn có sẵn sàng chia sẻ với các bạn khác về điều bạn ao ước không? Nếu được, xin mời bạn.

16.Sống trong niềm tin–Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.

Không ai sống mà không tin. Tin vào Thiên Chúa giúp người ta sống bình an, vui và hạnh phúc hơn.

Abraham tin vào Thiên Chúa

Thiên Chúa mời gọi Abram bỏ quê cha đất tổ để đi tới nơi Thiên Chúa sẽ chỉ cho, rồi Thiên Chúa sẽ làm cho ông có con cháu nối giòng, có đất để sống. 75 tuổi được gọi và ra đi (St.12, 4) nhưng đến 99 tuổi, Abraham vẫn chưa có con với Sara (St.17, 1.17). Khi Sara chết, ông vẫn không có đất để chôn vợ (St.23, 1-20). Lời hứa có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển, cũng như lời hứa có đất làm cơ nghiệp vẫn chưa được thực hiện hoàn toàn khi Abraham chết. Dưới cái nhìn của người đời, Abraham là người dại vì đã tin vào Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã thực hiện lời Ngài “quá trễ” đến độ người ta nghĩ rằng Ngài đã quên; tuy vậy Abraham vẫn một lòng tin vào Thiên Chúa, và vì thế ông là người mẫu cho các tín hữu. Thiên Chúa đã hứa, và Abraham đã tin. Tuy dù Abraham sống như những người khác, nhưng ông đã vâng phục Thiên Chúa trong mọi chuyện, kể cả việc sẵn sàng hiến tế Isaac. Chính vì tin vào Thiên Chúa mà ông trở nên công chính (St.15, 6).

Tin là thái độ của con người đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn ở gần bên mỗi người, mời gọi mỗi người bỏ mình để theo Ngài, và Ngài sẵn sàng can thiệp vào cuộc sống mỗi người khi cần. Xin cho chúng ta tin vào Thiên Chúa như Abraham.

Đức Giêsu lắng nghe Thiên Chúa trong cầu nguyện

Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đem Phêrô, Gioan và Giacôbê theo Ngài lên núi để cầu nguyện, và trong khi cầu nguyện Ngài đã biến hình. Có lẽ nhờ cầu nguyện, mà mỗi người được biến đổi, được trở nên giống Thiên Chúa hơn.

Phêrô rất phấn khởi khi được chứng kiến những điều đang xảy ra. Ông muốn ở lại luôn trên núi, ông sẵn sàng làm lều cho các Ngài. Phêrô nói mà không biết mình nói gì!

Khi Phêrô đang nói thì có đám mây che các Ngài, và có tiếng từ trời: “đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Thiên Chúa muốn con người vâng nghe Đức Giêsu. Thiên Chúa không muốn Con Ngài và những người theo Con Ngài ở hoài trên núi; Ngài muốn họ xuống núi để sống cuộc sống bình thường của họ giữa con người thời đại mình. Giây phút biến hình không biết kéo dài khoảng bao nhiêu phút, nhưng thất bại và thập giá còn hoài trong suốt cuộc sống của Đức Giêsu và các tông đồ, kể cả khi Đức Giêsu đã phục sinh từ cõi chết.

Cầu nguyện để thấy ánh sáng, để có sức sống, và được nghỉ ngơi trong cuộc sống tất bật mỗi ngày.

Tin vào Thiên Chúa được tỏ lộ qua cách sống

Thánh Phaolô sống rất tuyệt, nên Ngài đã dám nói với tín hữu ở thành Philipphê: “anh em hãy bắt chước tôi”. Ngài là người đã được ơn trở lại trên đường đi bắt các Kitô hữu tại Đamas, và kể từ đó Ngài đã hoàn toàn thuộc về Chúa. Ngài đã bôn ba đi rao truyền Lời Chúa, và thiết lập các cộng đoàn. Những bức thư Ngài viết cho các cộng đoàn trở thành “Lời Chúa” cho con người của mọi thời đại. Thuộc về Thiên Chúa trong chính cuộc sống và hành động của thánh Phaolô, là mẫu gương sống cho con người hôm nay.

Thánh Phaolô yêu thương những con cái mà Ngài đã sinh ra trong Chúa. Khi xa Ngài, đã có một số người sống như không có Thiên Chúa. Họ đã lấy những của vật chất làm Chúa của họ, họ tự hào nơi những điều đáng lẽ phải hổ thẹn. Thánh Phaolô kêu gọi họ hãy sống trong niềm tin vào Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu sẽ biến đổi thân xác chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài. Không kiên vững trong niềm tin vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, không thể đứng vững trong cuộc sống hiện tại.

“Hỡi những người anh em chí thân chí thiết của tôi, anh em là triều thiên và niềm vui của tôi, anh em hãy đứng vững trong niềm tin vào Chúa”. Ước gì mỗi người có thể nói với những người mình phục vụ như thánh Phaolô đã nói với những con cái của Ngài.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Theo bạn, điều khó nhất đối với Abraham trong việc vâng phục Thiên Chúa là gì?

2. Theo bạn, đâu là thập giá lớn nhất đối với thánh Phaolô? Tại sao bạn nghĩ vậy?

3. Tin vào Thiên Chúa đòi hỏi điều gì?

17.Mùa chay biến đổi đời sống–Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

TIN MỪNG: Lc 9,28b-36

(28b) Hôm ấy Đức Giêsu lên núi cầu nguyện, đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê. (29) Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. (30) Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia. (31) Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc Xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. (32) Còn ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu và hai nhân vật đứng bên Người. (33) Đang lúc hai vị này rời xa Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Người rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy, một cái cho ông Êlia, và một cái cho ông Môsê”. Ông không biết mình đang nói gì. (34) Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. (35) Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người !” (36) Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Còn các môn đệ thì nín thinh. Và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.

Ý CHÍNH: HIỂN DUNG TRƯỚC MẶT MÔN ĐỆ

Cuộc hiển dung của Đức Giêsu xảy ra vào khỏang tám ngày sau khi Người tiên báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh mà Người sắp trải qua. Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan được theo Đức Giêsu lên núi (x. Lc 9,28). Đang lúc cầu nguyện, dung mạo Người đổi khác: y phục nên trắng tinh chói lòa (c.29), có Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Người về “cuộc Xuất hành” mà Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem (c.31). Phêrô đã xin Thầy cho dựng lều (c.33). Rồi có đám mây bao phủ các ông, và từ trong đám mây có tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Đây là Con Ta, Người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe Lời Người” (c.34-35). Sau cuộc biến hình, các môn đệ đã “nín thinh, không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã chứng kiến” (c.36).

CHÚ THÍCH:

– C 28b-29: + Đức Giêsu lên núi: Đây có thể là núi Hermon, cao 2.795 mét ở gần thành Xêdarê Philíp. Nhưng ngày nay đa số các nhà chú giải cho núi đó là Thabo, cao 562 mét, cách thành Xêdarê Philíp một đoạn đường, đi bộ mất từ 6 đến 8 ngày. + Cầu nguyện: Tin mừng Luca đã ghi lại nhiều lần Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha (x. Lc 10,21 ; 22,41-42 ; 33,34.46). + Đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê: Đây là ba môn đệ thân tín nhất, sau này ba ông cũng sẽ được chứng kiến giờ đau khổ tột cùng của Thầy trong vườn Cây dầu trước khi bị bắt (x. Mt 26,37). Vì thế hôm nay Đức Giêsu cho các ông thấy trước vinh quang của Người, hầu có thể vượt qua thử thách ấy.

– C 30-31: + Ông Môsê và ông Êlia: Môsê là một vị mục tử tài ba, sống vào thế kỷ XII trước Công nguyên. Ông có công cứu con cháu Giacóp thóat ách nô lệ cho dân Ai cập, biến dòng tộc Giacóp trở thành một dân tộc có luật pháp, tôn giáo và quân đội… Cuối cùng Môsê đã thành công trong việc đưa dân tộc Ítraen về tới hứa địa là xứ Canaan. Môsê là tiền ảnh của Đức Giêsu sau này.- Êlia: là một ngôn sứ sống vào thế kỷ IX trước Công nguyên vào thời các Vua. Ông có công chấn hưng tôn giáo, giải thóat dân Ítraen khỏi sự tôn thờ thần tượng của dân ngoại. Ông là tiền ảnh của Gioan Tiền sứ, có sứ vụ đi trước dọn đường cho Đấng Thiên Sai sau này (x Ga 1,21; Mc 9,11).- Hai vị hiện ra rạng ngời vinh hiển: Vì được tham phần vào công trình cứu độ, nên Môsê và Êlia cũng được tham phần vào vinh quang của Đức Giêsu.- Nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem: Cuộc “Xuất hành” của Đức Giêsu gồm mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, sắp được Người hoàn tất tại Giêrusalem.

– C 32-33: + Ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt: Sự kiện các môn đệ ngủ mê cho thấy cuộc biến hình xảy ra vào ban đêm. Sự kiện này tương tự như sau này, ba ông cũng ngủ mê khi Đức Giêsu cầu nguyện trước khi bị bắt trong vườn cây Dầu (x Mt 26,40.43.45). + Chúng con xin dựng ba cái lều: một cái cho Thầy, một cái cho ông Môsê và một cái cho ông Êlia: Câu này cho thấy khi ấy người Do thái đang mừng lễ Lều trại tại Giêrusalem (x. Lv 23,33-34 ; Ds 29,12-38).

– C 34-36: + Có một đám mây bao phủ các ông: Nhắc lại đám mây bao phủ dân Ítraen trong thời kỳ Xuất hành (x. Xh 40,35). Khi truyền tin, sứ thần cũng đề cập tới quyền năng Thiên Chúa sẽ bang trợ cho Maria như sau: “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lc 1,35). + “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn”: Chúa Cha từ trong đám mây xác nhận Đức Giêsu là Con, và là “Người Tôi trung được Thiên Chúa tuyển chọn” (x. Is 49,7). Trong cuộc khổ nạn, các thủ lãnh Do thái cũng nói rằng: “Nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, Người được tuyển chọn” (Lc 23,35). + “Hãy vâng nghe lời Người!”: Đức Giêsu là Ngôi Lời nhập thể (x. Ga 1,14). Người luôn nói Lời của Thiên Chúa cho loài người (x. Ga 3,34) và Lời Người cần phải được đón nhận. + Tiếng phán vừa dứt thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu: Cuộc hiển dung chấm dứt sau lời tuyên phán của Chúa Cha. Các môn đệ im lặng, chờ ngày các mặc khải kia được ứng nghiệm.

4. CÂU HỎI: 1) Đức Giêsu đã biến hình trên núi cao là núi nào ? 2) Tại sao Đức Giêsu cho ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan được chứng kiến việc biến hình vinh quang của Người ? 3) Hai nhân vật nào của Cựu ước đã hiện ra khi Đức Giêsu hiển dung và ba vị đã nói chuyện nội dung về vấn đề gì ? 4) Cuộc biến hình xảy ra vào ban ngày hay ban đêm ? Bằng chứng ? 5) Đám mây bao phủ ba môn đệ nói lên điều gì ? 6) Chúa Cha đã giới thiệu Đức Giêsu là ai ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

LỜI CHÚA: “Đang lúc cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác” (Lc 9,29)

CÂU CHUYỆN:

1) ĐƯỢC ƠN BIẾN ĐỔI LÀ BẰNG CHỨNG CỦA MỘT ĐỨC TIN THỰC SỰ:

Tân là một thanh niên chuyên bán thịt bò tại một cửa hàng thịt trong chợ AĐ. Anh nổi tiếng là người bán hàng gian dối khi thỉnh thoảng lại bán thịt heo giả làm thịt bò và còn thường hay cân thiếu cho khách hàng. Một ngày nọ, có người thấy anh theo học khóa giáo lý dự tòng để chuẩn bị kết hôn với một cô gái công giáo và sáu tháng sau anh đã được lãnh ba bí tích khai tâm gia nhập đạo. Nghe tin anh theo đạo, nhiều người quen biết tỏ vẻ không tin vì cho rằng anh chỉ giả bộ theo đạo để lấy vợ như câu người đời thường mỉa mai: “Cúi đầu lạy Chúa Ba Ngôi. Cho tôi được vợ tôi thôi nhà thờ !”. Nhưng sau nhiều ngày thấy anh cùng vợ thường xuyên dự lễ Chúa Nhật và tỏ ra vui vẻ thân thiện với mọi người, nhất là sau khi kiểm tra thấy việc buôn bán của anh không còn cảnh cân thiếu hay lừa đảo như trước thì họ mới tin anh thực tâm tin theo Chúa.

Lời Chúa Giêsu: “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em, nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà bẻ? Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt. Cây nào không sinh quả tốt, thì bị chặt đi và quăng vào lửa. Vậy, cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai” (Mt 7,15-20).

2) ĐƯỢC ƠN CHỮA LÀNH NHỜ CÂY THÁNH GIÁ:

Năm 1982, các nữ tu Dòng Con Đức Bà Phù Hộ, quen gọi là Dòng nữ Salêsiên ở Cáp bên nước Haiti, muốn thuê nhà điêu khắc PÊRIKHÊT làm một cây thánh giá lớn để đặt trong nhà nguyện mới của nhà dòng. Nhưng lúc đó, ông Pêrikhết lại mới bị phát hiện mắc bệnh ung thư. Viên bác sĩ riêng của nhà điêu khắc, cũng có mặt khi các nữ tu đến nhờ cậy, đã nói với các nữ tu như sau: “Thật tốt biết bao nếu các chị đến đây sớm hơn. Rất tiếc là bây giờ căn bệnh ung thư của ông Pêrikhêt đã quá nặng rồi”. Sau đó, viên bác sĩ quay sang nói với nhà điêu khắc: “Là một tín hữu, ông hãy cứ cậy trông vào Chúa, cho dù thực tế có xảy ra điều gì bất lợi đi nữa”.

Nhưng từ khi biết mình bị ung thư, nhà điêu khắc Pêrikhêt trở nên chán nản, chẳng còn thiết thực hiện thêm bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào nữa nên từ chối. Ít ngày sau, một nữ tu lại đến gặp Pêrikhêt và năn nỉ ông: “Này ông Pêrikhêt. Các nữ tu ở nhà thờ mới tại Cáp ước mong ông làm cho nhà dòng một cây thánh giá dài hai mét thật đẹp như ông đã làm. Họ rất ngưỡng mộ tài năng tuyệt vời của ông! Trước khi có câu trả lời dứt khoát cho họ, tôi muốn hỏi ý kiến ông thêm một lần nữa”. Bấy giờ nhà điêu khắc im lặng suy nghĩ trong giây lát rồi bình thản nói: “Tôi quyết định nhận lời làm cho nhà dòng. Cây thánh giá này sẽ là tác phẩm cuối cùng của đời tôi trước khi nhắm mắt. Cầu Chúa dủ lòng thương xót linh hồn tôi”.

Thế là từ hôm ấy nhà điêu khắc bắt tay vào công việc với tất cả nhiệt tâm của một người mong hoàn thành tác phẩm để sớm gặp được gặp Chúa. Công việc dĩ nhiên nặng nề khó khăn hơn do bệnh ung thư gây ra. Nhưng có điều lạ là mỗi nhát búa đập trên thanh sắt nóng đỏ, thay vì làm cho nhà điêu khắc bị mệt mỏi, lại làm cho ông thêm phấn chấn và sức khỏe tốt hơn. Ông tiếp tục làm việc ngày đêm cho chóng hoàn thành. Sau khi hoàn thành công việc thì nhà điêu khắc cũng hoàn toàn được bình phục. Ông đã được ơn Chúa biến đổi là được chữa lành khỏi căn bệnh ung thư quái ác đã bị mắc phải trước đó. Ngày nay, cây thánh giá do Pêrikhêt thực hiện vẫn còn treo trên gian thánh nhà thờ thành phố Cáp và tiếp tục thu hút nhiều tín hữu đến kính viếng. Mọi người đến đây đều cảm thấy như được gia tăng sức khỏe khi cầu nguyện trước cây thánh giá kỳ diệu này.

Thánh Phaolô cũng khẳng định về ơn chữa lành kỳ diệu này như sau: “Đức Giêsu có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21).

3) MỘT CUỘC HOÁN CẢI LẠ LÙNG

Trong một nhà giam các tù nhân trọng án, có một tù nhân khét tiếng hung ác tên là SITA ĐÊLI (Starr Daily). Anh ta vào tù ra khám nhiều lần vì tội say sỉn đánh lộn làm mất an ninh trật tự xã hội. Trong lần tuyên án thứ năm, quan tòa đã tuyên bố: “Chúng tôi biết rằng có bắt anh ở tù thêm cũng chẳng có kết quả. Phải nói thật là: chúng tôi hoàn toàn thất vọng về anh! Nhưng chúng tôi không thể không tuyên án cho anh. Lần này anh bị phạt tù giam 10 năm”.

Sau khi vào nhà tù, Đêli vẫn tỏ thái độ ngoan cố và còn coi thường kỷ luật nhà tù hơn trước. Anh thường hay đánh đập các bạn tù và phản đối lại cai tù, đến nỗi anh bị biệt giam trong một căn hầm tối dơ bẩn đầy gián hôi và lũ chuột cống… Một hôm, khi đang nằm ngủ trên nền gạch lạnh giá, đột nhiên Đêli nghe có tiếng nói như sau: “Hỡi Đêli, tại sao mi lại bị nhốt riêng trong căn hầm khủng khiếp này? Tại sao mọi người đều thù ghét mi? Tại sao mi không dùng sức khỏe để phục vụ mà cứ tiếp tục làm điều ác chống lại kẻ khác như thế? ”… Tư tưởng này đã đánh động tâm hồn khiến Đêli nhiều phen suy nghĩ. Rồi một đêm kia Đêli đã gặp được Đức Giêsu trong giấc mơ, Đấng mà anh đã xua đuổi ra khỏi cuộc đời anh từ khi mười hai tuổi. Cũng từ đây, hình ảnh của Đức Giêsu thường xuyên xuất hiện trong tâm trí anh. Anh mơ thấy Người đến bên âu yếm nhìn và nói với anh những lời mà anh đã từng thuộc lòng khi còn bé: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng”, “Hãy yêu thương kẻ khác như yêu chính mình ngươi”… Anh cảm thấy tâm hồn được bình an mà từ trước đến nay chưa khi nào được hưởng. Rồi khuôn mặt của những kẻ đã từng bị anh hãm hại lần lượt xuất hiện trong tâm trí khiến anh rất hối hận. Lần đầu tiên, anh đã mở miệng cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 18,13).

Cảm nghiệm ấy đã biến Đêli từ một người hung ác gian tham và thù hận, trở thành một người đầy độ lượng nhân ái! Sự biến đổi nội tâm khiến Đêli không còn la hét đập phá như trước, Các nhân viên cai ngục đã nhận ra có sự thay đổi rõ rệt xảy ra nơi anh, họ cho phép anh được trở lại trại giam thường phạm. Tại đây anh bắt đầu đối xử tốt với các bạn tù: Anh luôn bênh vực những người mới đến, nên dần dần anh được mọi người trong trại quý mến. Rồi anh được giảm án tù từ mười xuống còn 5 năm. Mãn hạn tù, anh gia nhập vào “Nhóm cải thiện chế độ lao tù”. Cùng với cha tuyên úy và các bạn, Đêli đi thăm và động viên các tù nhân còn bị giam và khuyên họ hãy học tập cải tạo tốt. Nhờ đó nhiều bạn tù đã sớm được về đoàn tụ với gia đình. Linh mục Pitơ Mácsôn (Peter Marshall) đã bình luận về sự hóan cải của Đêli như sau: “Đây là một bằng chứng sống động cho thấy: Sita Đêli không chỉ là một người cũ được tân trang lại, nhưng chính là một tạo vật hoàn toàn mới của Thiên Chúa!”.

THẢO LUẬN: Cầu nguyện, ăn chay và chia sẻ cơm bánh cho người nghèo là 3 việc làm tốt trong mùa Chay này để được ơn biến đổi nên tốt. Vậy trong những ngày Mùa Chay này mỗi người chúng ta sẽ làm ba việc đó thế nào?

SUY NIỆM:

1) Hai cuộc biến hình trong thời gian giảng đạo của Đức Giêsu:

Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đã hiển dung trước mắt ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan trên núi cao (x. Lc 9,28b-29). Về sau cũng ba ông này sẽ được chứng kiến Đức Giêsu thay đổi hình dạng tại Vườn Dầu vào đêm trước cuộc khổ nạn (x. Mc 14,33). Ở trên núi cao hôm nay, Đức Giêsu hiển dung nên vinh hiển và được Chúa Cha xác nhận là Con yêu được tuyển chọn. Ba môn đệ đã được chứng kiến Đức Giêsu hiển dung, sau này sẽ còn được chứng kiến giờ phút Người buồn sầu xao xuyến tại vườn Cây Dầu như Người đã tâm sự với các ông: “Linh hồn Thầy buồn sầu đến chết được” (Mc 14,34).

2) Ý nghĩa của hai cuộc biến hình của Đức Giêsu:

– Đức Giêsu hiển dung trên núi cho thấy thân xác loài người chúng ta sau này cũng sẽ được biến đổi trở nên vinh quang sáng láng, cho dù hiện tại thân xác ấy xem ra mỏng dòn yếu đuối. Rồi khi chịu chết đau thương trên cây thập giá, toàn thân Đức Giêsu đã bị biến dạng đầy những vết thương bầm dập do bị quân lính đánh đập hành hạ trong cuộc thương khó, nhưng khi phục sinh thì thân xác của Người lại trở nên tốt đẹp đến nỗi các người thân cận vẫn không nhận ra Người vào sáng ngày Phục Sinh (x. Ga 20,14-16) hoặc khi hiện ra đàm đạo với hai môn đệ ở làng Emmau (x. Lc 24,14-16).

– Đức Giêsu sau Phục Sinh và Đức Giêsu trước cuộc tử nạn vẫn là một, nhưng mang hai khuôn mặt khác nhau. Điều này cho thấy: Thân xác con người ở nơi trần gian và sau khi được sống lại trong ngày Tận Thế tuy là một, nhưng vẫn có sự khác biệt với nhau, như thánh Phaolô đã diễn tả trong thư I Côrinthô: “Đây tôi nói cho anh em biết mầu nhiệm này: không phải tất cả chúng ta sẽ chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi trong một giây lát, trong một nháy mắt, khi tiếng kèn cuối cùng vang lên. Vì tiếng kèn sẽ vang lên, và những kẻ chết sẽ trỗi dậy mà không còn hư nát; còn chúng ta, chúng ta sẽ được biến đổi. Quả vậy, cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt; và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử (1 Cr 15,51-53).

3) Bài học từ cuộc biến hình của Đức Giêsu:

– Qua cuộc biến hình trên núi cao, Đức Giêsu muốn tỏ cho ba môn đệ thân tín thấy khía cạnh sáng láng vinh hiển của Người để chuẩn bị cho các ông khi phải đón nhận khía cạnh đen tối của Người khi khởi đầu cuộc khổ nạn tại vườn Cây Dầu. Đây cũng là bài học cho chúng ta trong cuộc sống tương quan với tha nhân:

+ Một tội nhân dù có phạm tội xấu xa đến đâu cũng vẫn có những điểm sáng trong tâm hồn là những tính tốt. Khi đối diện với một tội nhân, cần tránh chỉ nhìn những tội lỗi xấu xa của họ để kết án, mà cần nhìn cả những ưu điểm tốt đẹp của họ để cảm thông và giúp họ hoán cải. Cụ thể: Thánh nữ Maria Mácđala hoặc thánh giám mục Augúttinô đã chẳng trải qua cuộc biến đổi nên thánh từ một quá khứ tội lỗi bất xứng đó sao ?

+ Các cuộc biến đổi kỳ diệu từ xấu nên tốt đều do ơn Chúa Thánh Thần tác động nhờ lời cầu nguyện và sự vâng nghe Lời Chúa của những người trong cuộc:

* Nhờ ơn Chúa ban qua lời cầu nguyện: Cũng như Đức Giêsu đã thay hình đổi dạng khi đang cầu nguyện, thì các thánh nhân cũng được biến đổi nên con người mới, khi các ngài ý thức về thân phận tội lỗi của mình và cầu xin Chúa trợ giúp. Người tín hữu chúng ta cũng chỉ được biến đổi nên tốt lành thánh thiện khi cậy nhờ vào ơn Chúa như Đức Giêsu đã nói với các môn đệ sau Tiệc Ly: “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được !” (Ga 15,5).

* Nhờ sự vâng nghe và thực hành Lời Chúa: Trong cuộc hiển dung, Chúa Cha từ trong đám mây đã xác nhận Đức Giêsu là Con yêu dấu được tuyển chọn, và dạy các môn đệ: “Hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35). Chính Lời Chúa như thanh gươm sắc đã tỉa sạch các thói hư nơi con người cũ của các môn đệ và biến các ông trở nên tạo vật mới của Thiên Chúa (x. Ga 15,2).

4) Chúng tôi phải làm gì?:

Trong mùa Chay, chúng ta cần gặp được Chúa để được biến hình.

Sám hối đích thực là điều kiện dẫn tới nếp sống chiếu sáng trước mặt người đời. Chúng ta cần tham dự các tuần tĩnh tâm Mùa Chay để tỏ lòng ăn năn sám hối tội lỗi.

Chiếu sáng qua việc âm thầm cầu nguyện, qua lối sống hãm mình chay tịnh và qua hành động quảng đại chia sẻ cơm bánh với tha nhân.

Cụ thể trong Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót này, mỗi người chúng ta cần thể hiện tình thương thế nào đối với những người đang bị đau khổ bệnh tật và các tội nhân đang lạc xa Chúa?

NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊSU. Xin biến đổi con nhờ sự suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện hằng ngày:

Xin biến đổi cái nhìn của con nên nhân từ hơn sau mỗi lần con chiêm ngắm Chúa;

Xin thanh tẩy môi miệng con sau mỗi lần con lên rước Chúa vào lòng;

Xin biến đổi đôi tai con sau mỗi lần con lắng nghe lời Chúa phán;

Xin làm cho khuôn mặt của con rạng ngời ánh sáng tin yêu mỗi lần con gặp được Chúa.

Ước gì mọi người chung quanh nhìn thấy niềm vui của Chúa qua nụ cười rạng rỡ của con; Thấy sự ân cần dịu dàng của Chúa qua lời ăn tiếng nói và cách ứng xử của con.

– LẠY CHÚA. Xin giúp con biết bỏ đi “cái Tôi” ích kỷ tự mãn và các thói hư gọi là mối tội đầu. Xin cho con sẵn sàng vác thập giá mình hằng ngày là các việc bổn phận, các đau khổ bệnh tật hay các điều cực lòng do người chung quanh gây ra… mà theo chân Chúa giữa đời thường. Nhờ đó hy vọng con sẽ được ơn biến đổi ngày một nên giống Chúa giàu lòng từ bi thương xót hơn, nhất là trong những ngày Mùa Chay Thánh này.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

18.Dung mạo Người bỗng đổi khác–Lm. Trầm Phúc

Biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi gây ngạc nhiên cho các môn đệ và cho cả chúng ta. Chúa biến hình như thế để làm gì? Không thể có câu trả lời duy nhất nào mà phải tùy theo góc nhìn của mỗi người. Chúng ta hãy trở về với Cựu Ước để tìm hiểu những gì Chúa muốn nói với chúng ta qua biến cố lạ lùng nầy, qua người Con yêu quí của Chúa Cha.

Chúng ta đã từng nghe nói đến ông Abraham, tổ phụ của người Do Thái và là tổ phụ của chúng ta theo đức tin. Ông là một người chăn chiên ở thành Ua, xứ Canđê.

Một hôm Chúa gọi ông và bảo: “Hãy bỏ xứ sở bà con và nhà cha mẹ ngươi và đi đến một miền đất mà Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi trở thành một dân tộc lớn… Ta sẽ chúc phúc cho ngươi”.

Nghe theo tiếng gọi đó, ông ra đi, lúc ấy, theo Kinh Thánh, ông đã được 75 tuổi. Ở tuổi đó mà mà ra đi mà không biết mình đi đâu là một sự điên rồ, nhưng ông tin vào Đấng đã kêu gọi ông. Và một hôm, Chúa lại gọi ông và bảo ông ra ngoài trời và chỉ cho ông bầu trời đầy sao và bảo ông đếm các vì sao. Abraham không thể đếm được và Chúa nói với ông: “Con cháu ngươi sẽ đông như sao trên trời…” Chúa lại bảo ông dâng cho Chúa một của lễ là một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một con chim gáy và một con bồ câu non. Chúa cho lửa xuống đốt của lễ, tức là Chúa ưng nhận của lễ của ông và ngày ấy, Chúa lập giao ước với ông.

Sau đó, Chúa ban cho ông một đứa con trai là Isaac và hứa sẽ ban cho ông và dòng dõi ông miền đất Canaan.

Theo dòng thời gian, Chúa thiết lập giao ước với con người, dạy con người sống theo những điều kiện của Chúa, chuẩn bị cho tương lai. Giao Ước quan trọng nhất là Giao ước ở núi Sinai, qua trung gian của ông Môsê. Ông cũng dâng cho Chúa của lễ, lấy máu chiên bò rưới lên của lễ và Chúa đã chấp nhận của lễ. Toàn dân đồng thanh đáp lại lời Chúa: “Chúng tôi sẽ vâng theo và thi hành tất cả những gì Thiên Chúa đã truyền”. Qua giao ước nầy, Chúa giáo dục dân Do Thái thành dân riêng của Chúa, thành dân thánh, dạy dân sống theo luật Chúa dọn đường cho một Giáo Ước vĩnh cửu là Giao Ước nơi Con Một Chúa.

Trong Giao ước, giữa một người có quyền thế và một người dân nhỏ bé, người có quyền ra điều kiện, nếu thi hành đúng sẽ được những quyền lợi nhất định, như được che chở, trợ giúp.

Thiên Chúa giao ước với dân Do Thái, không phải vì dân nầy tốt, có công hay xứng đáng mà chỉ vì tình thương. Chúa đã ra điều kiện là mười điều răn và nếu dân tuân giữ thì Chúa sẽ phù trợ, che chở. Họ sẽ là dân của Ngài và Ngài sẽ là Chúa của họ.

Qua thời gian, dân Do Thái đã nhiều lần bất trung và lỗi phạm, nhưng Chúa vẫn tha thứ, và khi cần, Chúa dùng biện pháp mạnh để thanh tẩy vết nhơ của dân Chúa như cuộc lưu đày ở Babilon. Nhờ các tiên tri, Chúa vẫn kêu gọi họ trở về với Ngài. Nhờ đó Chúa chuẩn bị một dân tộc có thể đón nhận một Giao Ước mới nơi Chúa Con.

Chúa Giêsu đến trong trần gian. Sứ mệnh của Ngài là tiếp nối công trình cứu độ của Chúa Cha. Ngài rao giảng Tin Mừng và trở thành vị lãnh đạo của dân mới là Giáo Hội. Ngài đứng ra, thay mặt chúng ta, thiết lập Giao Ước mới với Chúa Cha không phải trong máu chiên bò nữa mà trong chính máu của mình.

Trước khi trở thành của lễ Giao Ước, Ngài tỏ mình cho các môn đệ để các ông thấy Ngài là ai, là Con Thiên Chúa. Chỉ có Ngài mới xứng đáng thiết lập Giao Ước với Chúa Cha.

Tám ngày sau khi loan báo cho các môn đệ về cái chết của Ngài, Ngài dẫn ba môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Thánh Luca không nói rõ Ngài cầu nguyện lúc nào, nhưng theo thói quen của Ngài, Ngài cầu nguyện suốt đêm vì thế trong lúc Ngài cầu nguyện, các ông ngủ mê mệt. Lúc tỉnh dậy, các ông mới nhìn thấy vinh quang của Thầy mình. Áo Ngài sáng chói rực rỡ. Đúng như Ngài đã nói: “Bao lâu còn ở thế gian. Ta là ánh sáng thế gian… Ai theo Ta sẽ không đi trong tăm tối nhưng sẽ được ánh sáng ban sự sống”. Sống giữa các môn đệ, ánh sáng của Ngài được che giấu trong thân phận con người, nhưng Ngài vẫn là ánh sáng. Lời Ngài dạy, những phép lạ của Ngài chứng tỏ Ngài là ánh sáng. Ánh sáng nầy sẽ tỏ hiện trong sự phục sinh vinh hiển của Ngài. Ông Môsê và Êlia xuất hiện với Ngài, rạng ngời vinh hiển. Hai vị nầy không thuộc về trần gian mà là những chứng nhân của thời Cựu Ước. Môsê đại diện cho Giao Ước cũ và Lề Luật, Êlia đại diện cho các tiên tri, những người thúc đẩy dân Do Thái giữ Giao Ước. Các ông đàm đạo với Chúa Giêsu về cuộc xuất hành của Ngài sẽ hoàn thành ở Giêrusalem, tức là về cái chết của Ngài. Ngài sẽ xuất hành tức là đi vào cái chết để kiện toàn Giao Ước mới.

Chúa Cha từ trời đã xác nhận một lần nữa: “Nầy là Con Ta, người được tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Ngài”. Đó là điều kiện của Giao Ước mới. Xưa kia, trên núi Sinai, Thiên Chúa đã đòi buộc dân Do Thái phải giữ mười giới răn, hôm nay, Chúa Cha chỉ đòi buộc chúng ta vâng nghe lời Chúa Con. Chúa Giêsu chính là Lề Luật mới của chúng ta.

Đứng trước  những hiện tượng xảy ra trước mắt, Phêrô vui mừng và xin Chúa cho ông dựng ba lều để ở lại với Chúa trên đỉnh núi. Chớ gì chúng ta cũng mong ước như Phêrô, để ở mãi trong ánh sáng của Chúa, để chúng ta cũng trở thành ánh sáng trần gian như Chúa Giêsu đã nói. Nhưng mấy người trong chúng ta đã trở thành ánh sáng cho trần gian? Mấy người đã giữ đúng Giao Ước mới là vâng nghe lời Chúa như Chúa Cha đã nói?

Thánh Phaolô lo lắng cho các giáo dân xưa kia đã thốt lên những lời thật thống thiết: “Tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô. Chung cục của họ là phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng… tức là nhục dục.

Mùa Chay là thời gian ân huệ, là lúc chúng ta nhìn lại cuộc sống chúng ta. Lắng nghe lời Chúa để kiểm lại mọi hành vi tư tưởng chúng ta để chúng ta đi theo con đường duy nhất của chúng ta, là con đường mang tên Giêsu: “Thầy là đường , là sự thật và là sự sống”. Theo Ngài chúng ta không lạc hướng, sống với Ngài chúng ta sẽ được no đầy vì Ngài là nguồn sống duy nhất, là người Con Một đầy ân sủng và chân lý. Như thế, chúng ta không những trở thành Dân thánh của Chúa mà thôi mà là con của Chúa, chúng ta được gọi Chúa là Abba  trong Thánh Thần Tình Yêu. Và trong cuộc lữ hành trần thế của chúng ta, chúng ta luôn được nuôi dưỡng bằng Bánh bởi trời, Bánh hằng sống chính là Thịt Máu của Đấng là Con Một Chúa Cha. Quê hương chúng ta ở trên trời. Ăn lấy Chúa, chúng ta sẽ được biến đổi trong Ngài, chúng ta sẽ là ánh sáng như Ngài và Ngài sẽ dùng quyền năng của Ngài biến đổi thân xác chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài. Có niềm hy vọng nào tỏa sáng hơn không?

19.Chúa Nhật 2 Mùa Chay–Lm. Trầm Phúc

Chúng ta bước vào tuần thứ hai Mùa Chay thánh, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng dung mạo Chúa Giêsu khi Ngài cầu nguyện trên đỉnh núi.

Thánh Luca hơn các thánh sử khác, luôn chú tâm đến một đặc điểm của Chúa Giêsu là cầu nguyện. Ngài cầu nguyện khi chịu phép rửa của Gioan tại sông Giođan, trước khi chọn các tông đồ, và hôm nay, chúng ta thấy Ngài cầu nguyện trên núi. Đây là lúc khởi đầu của giai đoạn quan trọng nhất của đời Ngài là cuộc tử nạn sắp tới. Ngài biết những gì Ngài phải làm và những gì đang chờ đợi Ngài, và Ngài sẵn sàng dấn thân vào con đường đau khổ mà Cha trên trời đã định cho Ngài.

Ngài cầu nguyện vì Ngài không làm việc một mình, Ngài luôn kết hiệp với Cha Ngài. Đây chính là một bài học quí báu đối với chúng ta. Chúng ta thường làm việc một mình, không cần đến Chúa. Khi gặp gian nan thử thách, lúc ấy chúng ta mới nhìn về Chúa, mới cảm thấy cần Chúa.

Ngài đang cầu nguyện, “dung mạo Ngài bỗng đổi khác, y phục Ngài trở nên trắng tinh chói lòa”. Không phải vô tình mà thánh Luca chú ý đến chi tiết này. Vinh quang của Chúa Giêsu được tỏ hiện khi Ngài hoàn toàn chìm sâu trong Chúa Cha, lúc ấy Ngài thực sự là Con của Chúa Cha, là “Người Con Một đầy ân sủng và chân lý”, và chính lúc ấy Ngài được Chúa Cha công nhận là “người Ta tuyển chọn”.

“Y phục Ngài trở nên trắng tinh chói lòa” Không những dung mạo Ngài biến đổi mà cả y phục của Ngài cũng chói ngời rực rỡ.

Điều này chứng tỏ Ngài không thuộc về thế gian nữa. Ngài mang lấy xác phàm, nhưng Ngài là Thiên Chúa. Vì thế, dù Ngài có bước vào cuộc Xuất Hành của Ngài, nghĩa là bước vào đau khổ và tử nạn, Ngài vẫn là Thiên Chúa.

Vinh quang phục sinh đã tỏ hiện nơi thân xác của Ngài.

Hai nhân vật tiêu biểu của Cựu Ước xuất hiện, “rạng ngời vinh hiển”, và đàm đạo với Ngài về cuộc Xuất Hành Ngài sắp thực hiện tại Giêrusalem. Chỉ có Luca mới nói đến nội dung của cuộc đàm đạo này. Môsê, đại diện cho Lề Luật, Êlia đại diện cho các tiên tri. Sự xuất hiện của hai vị này minh chứng rằng sứ mệnh của Ngài là kiện toàn Giao Ước và những lời tiên tri. Chúa Giêsu sẽ thiết lập Giao Ước mới và vĩnh cửu mà Giao Ước thời Môsê chỉ là hình bóng. Ngài đến “không phải để hủy bỏ mà kiện toàn”. Ngài kiện toàn Luật cũ nơi thân xác của Ngài bằng sự vâng phục tuyệt đối thánh ý Chúa Cha. Ngài thay thế những cách thờ phượng của Giao Ước cũ bằng cách hiến dâng chính bản thân Ngài. Ngài là của lễ thay thế cho của lễ chiên bò. Ngài dạy chúng ta phải thờ phượng Chúa Cha thế nào, là thờ phượng “trong tinh thần và sự thật”“Hãy hiến dâng thân mình anh em làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”. Ngài lập Giáo Ước mới trong máu Ngài. Dòng máu thần linh này sẽ tẩy xóa tội lỗi nhân loại và biến chúng ta thành con cái của Chúa Cha. Ngài trở thành vị tư tế duy nhất và hiến lễ của Ngài cũng là hiến lễ duy nhất. Hãy biến đổi mọi lao nhọc cực khổ của chúng ta thành của lễ, cùng với Ngài.

Vì thế, chúng ta hãy làm như thánh Phaolô dạy: “Anh em hãy cởi bỏ con người cũ là con người hư nát… Anh em hãy để cho Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa…”

Nhờ đó, thân xác hay chết của chúng ta sẽ mặc lấy vinh quang của Người Con Một…

Phêrô và các bạn ngủ mê mệt. Tại sao lại ngủ đang lúc ở với Thầy? Rồi đây các ông sẽ ngủ nữa trong vườn cây dầu khi Thầy của các ông “buồn có thể chết được” và mướt mồ hôi máu.

Chúng ta cũng như các ông, cứ ngủ vùi trong sự hờ hững của chúng ta. Chúng ta không cảm thấy cần phải cố gắng. Chúng ta ngại khó, ngại những gì đòi hỏi chúng ta cố gắng. Chúng ta chọn sự dễ dàng, nhàn hạ, mặc cho ai chết sống…

Khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu. Phêrô xin dựng ba lều. Để làm gì? Để sống với Thầy trên đỉnh núi, vì “chúng con ở đây thật là hay!” Chúng ta cũng thế thôi. Khi gặp gian khó, chúng ta chạy trốn hay ngủ vùi; khi gặp điều vừa ý, chúng ta hăng hái ủng hộ.

Chúa Giêsu không như thế. Cuộc sống trần gian của Ngài mãi mãi là một hiến dâng. Ngài chấp nhận một cách bình thản những gì là lao khổ, cực nhọc và cả cái chết thê thảm trên thập giá, miễn là đẹp lòng Chúa Cha.

Mặc dù chúng ta ham vui… nhưng không phải lúc nào cũng chỉ tìm thỏa mãn những đòi hỏi của bản thân mà quên đi những gì cao đẹp. Nhiều người đã sống như thế và cuộc đời của họ trở thành một cực hình cho những người chung quanh. Thánh Phaolô căn dặn chúng ta: “Đừng theo thói thế gian… Đừng sống đối nghịch với thập giá Chúa Kitô… Đừng thờ cái bụng… Quê hương chúng ta ở trên trời… Bộ mặt thế gian này qua đi…” “Chúng ta đang chờ đợi trời mới đất mới” (Thánh Phêrô).

Nơi Chúa Giêsu hiển dung, chúng ta nhìn thấy vinh quang của chính chúng ta. Chúng ta sẽ được vinh quang như Ngài vì chúng ta đã được dìm mình với Ngài trong phép rửa tội để được sống lại vinh quang với Ngài. Vì “Ngài có quyền năng biến đổi thân xác hư hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài”.

Trên đỉnh núi, chính Chúa Cha, một lần nữa đã xác nhận: “Này là người Ta tuyển chọn, Hãy nghe lời Người”.

Chính Chúa Cha đã cho chúng ta biết, Người đã sai Con Một của Người đến cứu chúng ta, đưa chúng ta vào sự sống thần linh của Người. Chúng ta không thể nào trở lại với cuộc sống tội lỗi, với ách nô lệ gian ác. Chúng ta hãy vui mừng tạ ơn vì tình thương của Người đã thể hiện qua Chúa Giêsu. Bình minh của sự sống lại đã rạng ngời, chúng ta không thể nghi ngờ về hạnh phúc tương lai của chúng ta, khi “thân xác hư hèn của chúng ta mặc lấy sự bất tử”.

Vì thế, chúng ta hãy vui mừng luôn mãi… và tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”.

Sống hôm nay của chúng ta là nghe lời Đấng mà Chúa Cha đã sai đến cho chúng ta. Ngài là Lời ban sự sống, là Đấng dẫn đưa chúng ta đến sự sống…

Chúa Giêsu hiển dung hôm qua cũng là Chúa Giêsu hôm nay. Ngài hiện diện với chúng ta và cho chúng ta nơi bàn tiệc yêu thương này. Hãy ăn lấy Ngài hôm nay để được hiển dung với Ngài trong Nước Tình Yêu của Ngài, dù phải Xuất hành qua nhiều gian khổ.

20.Vinh quang Chúa–Lm Trầm Phúc

Có bao giờ chúng ta thấy được vinh quang của Chúa như các thánh tông đồ chưa ? Chắc là không bao giờ. Nhưng chúng ta có tin rằng Chúa chúng ta là Đấng Quyền Năng tuyệt đối không ? Ngài không tỏ hiện vinh quang của Ngài cho chúng ta bằng những dấu hiệu bên ngoài, nhưng Ngài vẫn tỏ hiện vinh quang của Ngài trong sự khiêm hạ âm thầm, nhưng rất mãnh liệt: trong một tấm bánh nhỏ, trong một của ăn đơn thường. Chúng ta có nhìn thấy vinh quang và quyền năng của Ngài trong sự khiêm hạ nhỏ bé đó không ?

Thánh Thể chính là một cuộc hiển dung quyền năng của Chúa trong sự nhỏ hèn. Ai có thể làm được như Ngài ? Chỉ có Ngài, với quyền năng vô song của Ngài mới làm được một việc lạ lùng như thế. Chúng ta có nhìn thấy không ? Cần một niềm tin vững mạnh mới nhận ra quyền năng lạ lùng đó.

Nhìn thấy được vinh quang của Thầy chí thánh của mình, các môn đệ phải lên một đỉnh núi cao và ở một mình với Ngài. Các ông phải bỏ hết mọi sự, bỏ hết mọi lo lắng vật chất, để chỉ chú trọng đến một mình Ngài thôi, đắm chìm trong cầu nguyện.

Hôm nay, chúng ta họp nhau trong nhà thờ nầy, cách ly khỏi gia đình, khỏi mọi lắng lo vật chất, để chỉ tìm gặp Chúa mà thôi, may ra chúng ta sẽ thấy được vinh quang của Ngài.

Hôm nay, chúng ta sẽ nghe Ngài ngỏ lời với chúng ta, chúng ta mới thấy được Ngài ân cần yêu thương chúng ta như thế nào. Chỉ cần chú ý đến Ngài thôi, quy hướng về Ngài và mang đến cho Ngài tất cả gánh nặng của cuộc sống chúng ta.

Nơi đây, chúng ta mới thấy Ngài là trung tâm của mọi sự, là nguồn vui và hạnh phúc của chúng ta. Ngoài Ngài ra, mọi sự chỉ là tro bụi. Tại sao Môsê và Êlia có mặt ở đó với Ngài ? Môsê là đại diện của Lề Luật, Êlia là đại diện cho các tiên tri. Hai nhân vật nầy đại diện cho Cựu Ước. Điều nầy chứng tỏ rằng, Chúa Giêsu là trung tâm của mọi sự, của lịch sử. Nơi Ngài, mọi giao ước xưa, mọi lời tiên tri được thực hiện, ơn cứu chuộc được bày tỏ. Hai vị nầy nói gì với Ngài ? “ Các ngài đàm đạo với Chúa Giêsu về cuộc xuát hành của Ngài mà Ngài sắp thực hiện”. Cuộc xuất hành nào ? Là cuộc tử nạn mà Ngài đã báo trước hơn một lần với các môn đệ: “Con Người sẽ bị các kinh sư và thượng tế loại bỏ, Ngài sẽ bị giết và sẽ sống lại sau ba ngày”. Các ông ngủ mê mệt, khi thức dậy nhìn thấy vinh quang của Ngài. Phêrô, trong một lúc quá vui mừng hứng khởi đã nói: “Thưa Thầy, ở đây thật tuyệt ! Xin Thầy cho chúng con làm ba lều cho Thầy, cho ông Môisê, cho ông Êlia…” nghĩa là chúng con sẽ ở lại đây mãi.

Chúng ta cũng đang ở với Chúa, đang nghe lời Chúa, chúng ta có vui mừng như Phêrô không ? Hay chúng ta mong sao cho nhanh để ra về ? Đức tin của chúng ta ở đâu khi chúng ta đến dự thánh lễ ? Nếu chúng ta tin thật rằng, Chúa đang ở giữa chúng ta, đang lắng nghe chúng ta, đang nhìn chúng ta với tất cả tình yêu của Ngài, chúng ta có cảm thấy vui mừng không ? Chúng ta có mong ra về càng sớm càng tốt không, hay chúng ta sẽ nói như thánh Phêro: Ở đây thật tuyệt, con muốn ở lại với Chúa lâu dài…? Ở lại để tâm sự với Chúa, để cảm thấy tình yêu của Chúa êm đềm, thanh thản. Nhưng rất nhiều người không muốn ở lại với Chúa, nại lý do nhiều công việc phải lo. Những giây phút ở lại với Chúa quí báu biết bao ! Ngày Chúa nhật là ngày của Chúa, chúng ta dừng chân bên Chúa một lúc, chúng ta sẽ mất mát những gì ? Chúa mong mỏi biết bao được chuyện trò thân mật với chúng ta ! Nhưng chúng ta không muốn ở lại, vì chúng ta có yêu mến Chúa đâu ! Những người yêu nhau thích ở lại lâu giờ với nhau, nhiều lúc cũng không cần nói gì, miễn là ở bên nhau thôi. Ở lại với Chúa, chính là cử chỉ yêu thương êm đềm, sao chúng ta tiếc với Chúa từng giây phút đang lúc Chúa không tiếc gì với chúng ta ?

Và môt đám mây bao phủ các ngài, và từ đám mây đó, Chúa Cha phán: “ Nầy là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn. Hãy nghe lời Người”. Lần nầy là lần thứ hai Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con rất yêu dấu của Ngài. Điều nầy là bằng chứng cho thấy Chúa Cha đã yêu trần gian đến nỗi ban Người Con Một cho thế gian, và Người Con Một ấy đang ở giữa chúng ta, đầ ân sủng và chân lý. Vì thế chúng ta hãy nghe lời Ngài. Ngài là lời nói yêu thương của Chúa Cha, là sự sống. Chúng ta đã thấy vinh quang của Người Con Một trên đỉnh núi, nhưng chỉ là giai đoạn. Vinh quang đó sẽ chiếu sáng muôn đời khi Chúa từ cõi chết sống lại, và chúng ta sẽ sống lại với Ngài trong vinh quang, vì Ngài đã biến thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài. Với điều kiện là lắng nghe lời Ngài và sống với Ngài ngay hôm nay.

21.Chúa Giêsu biểu lộ thần tính trên núi Tabore–P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, Mùa Chay là Mùa Hồng Phúc, Mùa sám hối Mùa chay đi qua được một tuần. Ngày xưa khi đến Mùa Chay, người ta có cảm giác như Mùa Cầu Hồn, bởi vì phụng vụ toàn là một màu tím. Hình ảnh “buồn bã” hiện ra trong Mùa Chay, áo lễ linh mục màu tím đã đành, nhưng phụng vụ gian cung Thánh, người ta cũng thấy toàn sắc thái màu tím. Vì Mùa Chay người ta không chưng hoa, vì là Mùa sám hối. Nhưng, thật ra ngày nay, người ta thấy khi Mùa Chay đến không có buồn như trước, chỉ có màu phụng vụ vẫn là “màu tím”, màu tím nhắc nhớ suy tư nhiều hơn. Suy tư về cái gì? Thưa, suy tư về hành trình Cứu Chuộc của Đức Giêsu- Kitô, Ngôi Vị Thiên Chúa làm Người.

Mùa sám hối ngày nay đúng nghĩa như Lời giáo huấn của Chúa Giêsu là: “ Khi các ngươi ăn chay thì đừng làm như bọn giả hình… mà hãy xức dầu thơm, để đừng ai biết các ngươi ăn chay…”

Như vậy, ăn chay là ”sám hối”, biết mình là kẻ tội lỗi. Nhìn nhận mình tội lỗi , đó là “ăn chay”. Ăn chay dẫn chúng ta trở về với khiêm nhường, tránh bớt kiêu căng, xa tránh được tội lỗi. Có nhiều thứ tội, nhưng xuất phát từ kiêu ngạo, tự kiêu. Nếu biết mình là kẻ tội lỗi, thật lòng trở về với Chúa, đó là “ăn chay”. Ăn chay tốt nhất, đó là ”chay lòng”, biết từ bỏ nết xấu, nâng cao tâm hồn, biết hãm mình, đó là ”ăn chay”.

Ăn chay là “ kiêng bớt” ăn uống vô độ, để dành của cải vật chất giúp đỡ cho tha nhân, những người thiếu cơm ăn, áo mặc. Đó là bác ái, vì Mùa Chay là Mùa Thiên Chúa thi ân giáng phúc. Là kẻ tội lỗi, chúng ta cũng biết thi ân giáng phúc cho tha nhân, để đền bớt tội cho chúng ta. Như vậy, Mùa Chay gọi là Mùa Đại Phúc là như vậy.

Tuần thứ I Mùa Chay, Hội Thánh cho chúng ta thấy “Dung Mạo” là phàm nhân của Chúa Giêsu, chịu quỷ cám dỗ, chính là thân phận của chúng ta, mà Chúa Giêsu mặc lấy, nhưng Người đã chiến thắng cám dỗ, chiến thắng satan. Vì thế, tuần II MC, qua trang Tin Mừng theo thánh Luca ( Lc 9, 28b -36) cho chúng ta thấy, Chúa Giêsu biểu lộ quyền năng tức uy quyền Thần Tính của Người trên Núi Thánh Tabore.

Khi Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, Người dẫn theo ba môn đệ của Người. Như vậy, núi thì khác với sa mạc nơi có quỷ. Lên núi cầu nguyện là lên nơi có Thiên Chúa, như vậy, khi Chúa Giêsu cầu nguyện, Người biểu lộ Thần Tính, đến độ, Người thông hiệp Thần Tính Thiên Chúa nơi Người, thì Dung Mạo Người hoàn toàn đổi khác , điều nầy cho thấy, Chúa Giêsu xuất phát từ trời cao. Vì , trước đó chưa có vị ngôn sứ nào có một biểu hiện thiêng liêng, siêu phàm như thế. Từ nhân chứng Cựu Ứơc là hai vị ngôn sứ lớn là Môi-sen và Ê-lia hiện ra và “đàm đạo” với Chúa Giêsu.

Như thế, điều nầy cho thấy, lịch sử Cựu Ứơc minh chứng Chúa Giêsu là một Vị Kitô cho nhân loại, vì nhân loại. qua việc hiện ra của hai vị ngôn sứ lớn thời Cựu Ứơc nói lên sứ vụ Thiên Sai của Chúa Giêsu. Vì vậy, điều nầy minh chứng Chúa Giêsu có hai bản tính, một là nhân tính , hai là Thiên Tính.

Việc Chúa Giêsu biểu lộ thần Tính của Người là việc bày tỏ vinh quang Phục Sinh sau khi Người chịu Khổ Nạn. Mầu Nhiệm Tử Nạn của Người là một “huyền cơ”, vì thế trong hành trình tiến đến Mầu Nhiệm Tử Nạn để thực thi ơn Cứu Độ nhân loại của Chúa Giêsu là một hành trình huyền nhiệm siêu nhiên, nên chi, satan luôn thách thức và khiêu khích Người.

Một sự cám dỗ của satan mà trong hành trình cứu độ, Chúa Giêsu phải gánh lấy, đó là sự chịu satan “cám dỗ” trong hoang địa. Như chúng ta biết, sự cám dỗ của satan là một sự “xảo trá” hoàn toàn, mưu chước của satan và ba lần nó nói với Chúa Giêsu là một sự “xảo trá” lố bịch, bởi vì, nó hoàn toàn không có gì cả, những thứ satan có đều là giả dối, còn những sự chân thật là của Thiên Chúa. Nói tắt cho dễ hiểu, satan là giả dối, còn Thiên Chúa mới là chân thật. Nói cách khác, Thiên Chúa là “hàng thật”, còn satan là “hàng giả”.

Trở lại Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có ba vấn đề chính:

Một là: Quang cảnh xảy ra Mầu Nhiệm Biến Hình của Chúa Giêsu, nói về cuộc “Xuất Hành” của Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem. ( từ câu 28 -31)

Hai là: Các môn đệ bỡ ngỡ kinh ngạc, không hiểu gì cả trong khi chứng kiến “sự kiện“ trọng đại của Thầy mình. ( từ câu 32 -33)

Ba là: Chúa Cha phán dạy qua đám mây: “Đây là Con Ta, Người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe Lời Người” ( 34 -36)

Theo đó, chúng ta biết những hiện tượng vật chất như Núi, Mây, Lều phản ảnh những hiện tương siêu nhiên như: Tiếng phán từ trong đám mây, Dung Mạo Chúa Giêsu biến đổi, sáng láng, Y phục của Người cũng tinh khiết, trắng tinh đến độ không có thợ nhuộm nào của trần thế có thể tẩy nổi. Nói lên huyền cơ trong thời “Cựu Ứơc”, như cảnh được tiếp xúc, diện kiến Thiên Chúa, nơi thánh thiêng huyền nhiệm xảy ra, nơi cực thánh. Điều nầy rõ ràng tiên báo một sự kiện siêu nhiên huyền bí, từ xưa đến nay chưa hề có.

Điều nầy cũng nói lên ý nghĩa, nếu Chúa Giêsu không phải là Đấng Cực Thánh, ngàn trùng Chí Thánh, thì sao có thể xảy ra một hiện tượng như thế đối với Người.

Ý nghĩa thứ hai, nói lên sự tiên trưng về cuộc “xuất hành” tức cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người. Núi Tabore thì vinh quang rực rỡ, nhưng Núi Cây Dầu thì âu sầu đau khổ, đau khổ cho thân phận con người, đau khổ vì nhân loại xúc phạm đến Thiên Chúa, đến độ một Ngôi Vị Thiên Chúa phải mang thân phận nhân sinh. Chúng ta cảm nghiệm sâu sắc, Chúa Giêsu thật đau đớn, vâng, Người thật sự đau đớn bởi cả hai Bản Tính, Thiên Tính và Nhân Tính của Người, bởi vì, cuộc Tử nạn là ”hoàn toàn“ thật, Người là Người thật và Thiên Chúa thật, khác với satan là giả tạo. Satan là thật, nhưng những gì nó làm là giả trá,và những cái mà nó có đều là xảo trá.

Vì vậy, ba lần nó cám dỗ Chúa Giêsu đều là “xảo trá”, vì nó không có gì hết, từ lương thực của nó cũng là ”đá”, vương quyền của nó cũng là ”hư vô”, vì bộ mặt thế gian rồi sẽ qua đi. Bên trong nấm mồ thế gian là sự thối rữa, mục nát, rỗng tuếch, mối mọt và côn trùng.

Lần thứ ba, nó trích dẫn Lời Chúa, nhưng, đầy sự kiêu ngạo, điều mà nó không có, thì nó thách thức Chúa Giêsu, hầu cái chính Người có sẽ lộ ra, thì mắc bẫy nó. Nhưng, Thiên Chúa không mắc bẫy satan.

Lời Chúa hôm nay xảy ra trong bối cảnh sau khi, Chúa Giêsu tiên báo cuộc thương khó của Người lần thứ nhất, vì thế, cuộc “Biến Hình” của Người mang một ý nghĩa “củng cố” niềm tin vào Người cho các môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu, cuộc Biến Hình của Chúa trên Núi Thánh, bày tỏ cho chúng con một vinh quang Phục sinh của Người, sau khi một biến cố Tử Nạn đau thương hoàn tất. Xin củng cố niềm tin cho chúng con trong Mùa Chay nầy, hầu xứng đáng vững tin vào Chúa là Đấng đã chịu Tử Nạn cho chúng con và vì chúng con, hầu Lòng Thương Xót của Thiên Chúa được rạng ngời trên vũ trụ đang mang một một xám ảm đạm./. Amen

22.Gói hành trang duy nhất–Lm. Giuse Trương Đình Hiền

Như một lời mời gọi truyền thống, sứ điệp Phụng vụ Chúa Nhật II Mùa Chay hôm nay đốc thúc chúng ta và các anh chị em Dự tòng lên đường tiến vào Mầu nhiệm Vượt Qua bằng những nỗ lực cụ thể hơn trong hy sinh và từ bỏ, trong sám hối và đổi đời. Đó chính là “tiếng gọi của Lời Chúa hãy “lên cao” như Đức Kitô đưa các Tông đồ lên đĩnh núi Ta-bo để Ngài biến hình rạng rỡ (TM), hãy “đi xa” như tổ phụ Áp-ra-ham bỏ quê cha đất tổ để theo tiếng gọi vô hình mà đón nhận lời giao ước của Gia-Vê (Bđ 1).

Cuộc hành trình Mùa Chay hôm nay của dân Chúa hay cuộc hành trình đức tin của mỗi người chúng ta, phải chăng cũng chính là cuộc nỗ lực phấn đấu để mỗi ngày “lên cao và đi xa” trước Lời Chúa vẫy gọi, trước những đòi hỏi của Tin Mừng, trước những thách đố của Thập giá.

Cuộc hành trình nào, vật lý hay tâm linh, đều đòi hỏi phải lột xác, phải trả giá. Tuy nhiên, người Kitô hữu nắm chắc đích điểm của của mình chính là quê trời, là điểm hẹn gặp gỡ với Đức Kitô, như cách cảm nhận của Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Philip (Bđ 2): “Quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó, chúng ta mong đợi Đấng Cứu Chuộc là Đức Giêsu-Kitô, Chúa chúng ta”.

Chúng ta thử dừng lại để đào sâu thêm những nội dung nầy.

Trước hết, khi nêu bật hai nhân vật cùng gắn liền với hình ảnh của chuyển động, ra đi, bức phá:

– Abraham lên đường đi khỏi thành Ur để đón nhận giao ước của Giavê (BĐ 1) ;

– Đức Kitô lên núi Tabor rồi biến đổi hình dạng nên rực rỡ sáng ngời (Trình thuật biến hình của Tin Mừng Luca),

sứ điệp Lời Chúa hôm nay chắc chắn muốn đưa chúng ta vào chính trọng tâm ý nghĩa đầy năng động của hành trình Mùa Chay.

Hình ảnh Chúa đưa cụ Tổ Áp-ra-ham “nhìn lên bầu trời đầy sao” để rồi nói với ông rằng: “Ta sẽ dẫn dắt ngươi ra khỏi thành Ur của dân Calđê, để ban cho ngươi xứ sở nầy làm gia nghiệp…”, là một dấu chỉ sống động cho mọi ơn gọi trong dân Chúa: ơn gọi ra đi của niềm tin và vì niềm tin, như chính lời sách Sáng Thế xác định: “Abraham tin vào Thiên Chúa, và vì đó ông được công chính”.

Dấu chỉ nầy, lời réo gọi nầy, có lẽ đang vang vọng cách sâu xa và mãnh liệt nơi tâm hồn của những anh chị em Dự tòng, những kẻ đã được Thiên Chúa kêu gọi vào niềm tin vào Ngài và sắp sửa chính thức nói lên cách trang trọng và dứt khoát “TIN và TỪ BỎ” trong cử hành Bí tích Nhập Đạo đêm Vọng Phục Sinh.

Vâng. Đối với những người đã từng gắn bó với một “thành UR” nào đó của tín ngưỡng cũ, của niềm tin ngoại đạo trước đây, của thói tục xa lạ với Tin Mừng, thì việc “bước vào một đức tin mới”, tin thờ một Thiên Chúa, một Đức Kitô hoàn toàn mới mẻ, và gia nhập vào một cộng đoàn Giáo Hội Công Giáo bao gồm những anh chị em xa lạ…không là một cuộc “đi xa, bức phá” của một Abraham lên đường theo tiếng gọi đó sao ?

Và chắc chắn, họ cũng sẽ trải qua những kinh nghiệm trăn trở, ưu tư của các Thánh Tông Đồ trong những ngày gặp gỡ Đức Kitô: Rồi niềm tin nầy sẽ dẫn mình đi đâu, tới đâu ? Sẽ mang lại điều gì giá trị hơn, hay ho hơn chăng ? (Mc 10,28-30). Chẳng lẽ rồi tất cả sẽ dẫn tới một đích điểm “tối om”, buồn rực… như chính Thầy Giêsu đã từng tiên báo không phải một mà nhiều lần: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống dậy.” (Mc 8,31; 9,31;10,33).

Không. Để củng cố niềm tin và trả lời dứt khoát cho những môn đệ ngày xưa, hay để nói cho muôn thế hệ Kitô hữu muôn nơi muôn thuở, và cho riêng các anh chị em dự tòng hôm nay biết rằng: ở cuối đường thập giá là Phục sinh, tiêu đích của “con đường Kitô”, của sự chọn lựa niềm tin vào Đức Kitô, chính là chiến thắng vinh quang, là rạng ngời vinh hiển của phận người, là cuộc “Biến hình, lột xác” của cái tôi xác thịt nặng nề tội lỗi để trở nên “một con người mới” trong vương quốc rạng ngời thánh thiện của Thiên Chúa !

Thật vậy, biến cố “Biến Hình” không là một sự kiện “ngẫu hứng” trên con đường đi về Giêrusalem của Chúa Giêsu, mà là một mạc khải quan trọng soi chiếu vào con đường dài lịch sử cứu độ; nhất là làm rực sáng lên như một hậu cảnh nền, một “focus” của huyền nhiệm thập giá. Bởi vì, xuyên qua “sự kiện Biến Hình”, chúng ta có thể thấy một sự đối xứng:

– Bên kia “Đồi Sọ” của thương đau khổ nạn, đã vươn lên “Núi Ta-bo” của rạng ngời Phục sinh.

– Đằng sau một Giêsu Nadarét tội nhân xác thân trần truồng, rách nát, chết tủi nhục thương đau trên thập giá, là một Đức Kitô vinh hiển rạng ngời.

Và cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu “biến hình” với hai người: hai nhân vật tượng trưng cho hai truyền thống vĩ đại và nền tảng của Cựu ước: Môsê (Lề Luật), Êlia (Ngôn Sứ), lại xoay quanh câu chuyện “cái chết (hay cuộc ra đi) của Người tại Giêrusalem”. Chi tiết nầy càng củng cố thêm:

– Trong cuộc “xuất hành” thời Môsê, bên nầy Biển Đỏ với sa mạc chết chóc và nô lệ đoạ đầy, đã thấp thoáng bến bờ “Đất Hứa”;

– Trong cuộc lưu đày thời các Ngôn sứ, đã sáng lên niềm hy vọng “trở về và tái thiết Sa-lem”.

Từ hai nhân vật và những dữ kiện tiên trưng của mạc khải Cựu Ước đó đã dẫn tới đích điểm của cuộc hành trình Vượt Qua của Đức Kitô mà cuộc “Biến Hình” của Ngài là một dấu chỉ rõ nét: trong bóng đen của cái chết và thương đau cuối đường thập giá, đã bừng lên ánh sáng rạng ngời của Phục Sinh.

Như vậy, dưới ánh sáng của các “diễn trình” Lời Chúa vừa được công bố đó, chúng ta một lần nữa lắng nghe lời mời gọi tha thiết của Mùa Chay đó là: định hướng lại nhịp sống đức tin có thể đang trên đà sai lệch, và làm mới lại những thực hành sống đạo có nguy cơ đang ngủ vùi trong trạng thái cũ mòn xơ cứng. Đó là cuộc gọi mời không ngừng biết vươn cao và đi xa.

– Vươn cao để lột xác, “biến hình” khỏi “cuộc sống tà tà ở dưới thấp” với những nếp nghĩ và cách hành xử tầm thường, cục bộ, ích kỷ, bon chen, ganh tị, tham lam…hầu trở nên một con người mới: khó nghèo, khiêm hạ, phục vụ, yêu thương…

– và đi xa khỏi “cái tôi ao tù vẩn đục” với trái tim và con mắt chật hẹp, méo mó, xoi mói, giận hờn, thù oán, kiêu căng…để nhìn thế giới và anh em đồng loại bằng đôi mắt mới của tình huynh đệ, hiệp nhất, của mối tương quan thân ái dịu dàng…

Nếu đặt cuộc sống và sự chọn lựa đức tin trong viễn tượng cuộc “ra đi giã từ quê hương cũ của Abraham” và sự “lên núi cao để biến hình của Đức Kitô” như sứ điệp Lời Chúa hôm nay minh hoạ, thì mỗi người Kitô hữu, đặc biệt, mỗi anh chị em dự tòng, không chỉ trong Mùa Chay nầy, mà xuyên suốt cuộc đời, đều có những cuộc “ra đi” và “lên cao”, những cuộc hành trình của riêng mình.

Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy dẫy những “vấp phạm”, những lực kéo và cám dỗ con người quay lưng lại với những giá trị đạo đức thanh cao để ươn hèn trụ lại trong vũng lầy của dục vọng, một thế giới hùa nhau chống lại Hội Thánh Chúa Kitô, và loại bỏ những giá trị của Tin Mừng bằng nhiều phương thế hiện đại để tự tung tự tác…; một thế giới mà Thánh Phaolô đã từng trải nghiệm nơi cộng đoàn Philipphê: “có những người sống thù nghịch với thập giá Đức Kitô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng…” (Bđ 2).

Và vì thế, lời khuyên nhủ của Thánh Phaolô luôn mãi vẫn hợp thời: “Hãy vững vàng trong Chúa” và luôn đặt niềm trông cậy vững vàng vào cuộc gặp gỡ cuối cùng nơi quê hương Nước Trời “ở đó có Đức Giêsu Kitô, Đấng sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống thân xác hiển vinh của Người”. (Bđ 2).

Tóm lại, trong khi cộng đoàn đang nỗ lực tiến bước trên con đường Mùa Chay với khổ chế và sẻ chia, của nguyện cầu và chiến đấu…, các anh chị em dự tòng đang khẩn trương dọn mình để hội nhập vào “Dòng nước tái sinh” và tràn ngập “ngọn lửa Thánh Thần”…, thì cuộc “lên đường của Abraham”, nhất là sự “Biến hình của Đức Kitô”, chính là một lời nhắn gởi, động viên tất cả cùng vươn cao đi tới “chân trời Cứu độ”, tới “Bàn tiệc Nước Trời” trong tin yêu và hy vọng, trong nỗ lực chiến đấu và chiến thắng.

Cuộc “xuất hành tâm linh” nầy luôn đòi hỏi nhiều “từ bỏ, hy sinh, bứt phá…”; tuy nhiên, hãy vững tin rằng: cho dù có những lúc phải đối diện với gian nan thử thách, với cay đắng hy sinh hay đêm tối thập giá… thì Chúa vẫn hiện diện ngay bên khi ta ngước mắt kêu cầu, để “phục sinh” tất cả trong rạng ngời ân sủng hôm nay và trong hạnh phúc viên mãn của Nước Trời mai hậu.

Đơn giản hơn, cứ tạm cho cuộc hành trình Mùa Chay như một “cuộc leo núi dã ngoại” đi, thì ta vẫn cứ phải lắng nghe “cái đập vai của Chúa”, như cảm nhận của thi sĩ Trăng Thập Tự trong bài thơ “LEO NÚI”. Xin trích mấy câu:

Ngài vỗ vai tôi ướm hỏi

Theo Ngài lên tận đỉnh kia chăng?

Ngài rõ lòng tôi, còn phải nói !

Vội vàng tôi xếp gọn hành trang…

Và gói hành trang mà ta phải mang theo và giữ mãi chính là Lời của Chúa Cha trong sự là “Biến Hình”: “hãy vâng nghe Lời Người”.

23.Chúa Nhật 2 Mùa Chay–Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Trong cả ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay là Chúa Nhật của biến cố Biến Hình. Biến cố Biến Hình vừa soi sáng mầu nhiệm Nhập Thể, đồng thời cũng vận mệnh nhân loại. Chúng ta sẽ khám phá mầu nhiệm này trong các bản văn của Chúa Nhật II Mùa Chay năm C này.

St 15: 5-12, 17-18

Lộ trình tâm linh của nhân loại được vén mở lên cho đến kinh nghiệm tôn giáo của ông Áp-ra-ham, vị tổ phụ đặt trọn niềm tin của mình vào những lời hứa của Chúa.

Pl 3: 17-4: 1

Theo thánh Phao-lô, cuộc Biến Hình của Đức Giê-su loan báo cuộc “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”, đó là giai đoạn cuối cùng lộ trình của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải trung tín.

Lc 9: 28-36

Tin Mừng tường thuật biến cố Biến Hình theo thánh Lu-ca.

BÀI ĐỌC I (St 15: 5-12, 17-18)

Chuyện tích này được trích từ “chuyện dài nhiều tập” của tổ phụ Áp-ra-ham từ chương 12: 1 đến chương 25: 18 sách Sáng Thế. Chuyện tích này tường thuật cuộc Thần Hiển. Nỗi sợ hãi của tổ phụ Áp-ra-ham trước việc Thiên Chúa tỏ mình ra có thể sánh ví với nỗi khiếp sợ của thánh Phê-rô và các bạn đồng môn vào lúc Chúa Giê-su bày tỏ vinh quang của Ngài trong biến cố Biến Hình.

Đức Chúa tái khẳng định những lời hứa mà Ngài đã hứa cho tổ phụ Áp-ra-ham. Ngài đã hứa ban đất cho người du mục lang thang này (St 12: 2-3 và 12: 7) và cũng đã hứa ban một dòng dõi đông đúc như sao trên bầu trời cát dưới bãi biển cho một cụ già hiện nay không con này (St 13: 14-16). Nhưng những lời hứa này chậm được thực hiện, vì thế, vị tổ phụ bắt đầu sốt ruột. Trước hết, Đức Chúa trấn an ông, đoạn đưa ra một lời cam kết long trọng được đóng ấn bởi một hy lễ.

1. Tổ phụ Áp-ra-ham, con người của niềm tin

Đức Chúa tái khẳng định với tổ phụ Áp-ra-ham rằng ông sẽ có một đứa con nối dõi tông đường sinh ra từ huyết thống của ông (St 15: 4), đoạn Ngài bảo ông ngước mắt lên trời thử đếm các vị sao và nói với ông: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!”.

Đức Chúa mở ra cho vị tổ phụ một viễn cảnh không thể tin được, ấy vậy, “ông tin Đức Chúa”. Đây là lần đầu tiên trong Cựu Ước động từ “tin” xuất hiện. Theo ngôn ngữ Híp-ri, từ ngữ này có cùng ngữ căn với từ “A-men”, từ gợi lên sự vững bền, chắc chắn. Như vậy cuộc mạo hiểm của tổ phụ Áp-ra-ham không chỉ đánh dấu việc chào đời của một dân tộc, nhưng còn khai mào lịch sử của niềm tin, bước khởi đầu của lịch sử cứu độ. Tổ phụ Áp-ra-ham là người tín hữu đầu tiên; ông tin vào lời Thiên Chúa, bất chấp mọi sự việc có thể khiến ông nghi ngờ. Ông là cha của những người tin. “Đức Chúa kể ông là người công chính”, nghĩa là, ông sống một lòng một dạ với những gì Thiên Chúa chờ đợi từ ông. Chúng ta biết thánh Phao-lô sẽ khai triển thần học của mình từ câu này, qua đó thánh nhân sẽ minh họa đề tài đức tin của mình: chính nhờ đức tin, chứ không Lề Luật và công nghiệp của mình, mà chúng ta được ơn công chính hóa.

2. Tổ phụ Áp-ra-ham, con người của Giao Ước:

Lời hứa thứ hai nhắm đến việc sở hữu đất. Đức Chúa lập lại lời hứa này cho ông Áp-ra-ham: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu”. Đây là biểu thức tiêu biểu cho phần dẫn nhập của một hiệp ước, như người ta đọc thấy trong nhiều bản văn miền Cận Đông, vào giữa thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Vị bá vương đề xuất giao ước của mình, mở đầu với việc nhắc lại những ân lộc mà ông đã ban cho chư hầu của mình. Sách Xuất Hành dẫn nhập Thập Giới hay điều khoản Giao Ước Xi-nai theo cùng một cách như vậy: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20: 1).

3. Hy tế Giao Ước:

Tổ phụ Áp-ra-ham xin Thiên Chúa một dấu chỉ. Dấu chỉ này sẽ là một hy tế có tính chất đặc biệt, một hy tế giao ước. Trong loại giao ước này, những con vật bị sát tế, được xẻ đôi và hai bên ký kết đi qua giữa các tế vật xẻ đôi, nữa này đối diện với nữa kia, theo cách nào đó gợi lên số phận sẽ là như vậy, nếu hai bên không chu toàn những lời cam kết của mình. Từ đó, nguyên ngữ Híp-ri “cắt một giao ước” đồng nghĩa với ký kết một giao ước. Loại hy tế này còn được gợi lên vào thời ngôn sứ Giê-rê-mi-a khi Đức Chúa công bố Ngài sẽ trừng phạt những ai đã không tuân giữ huấn lệnh bảy năm một lần phóng thích những người nô lệ: “Những kẻ đó, Ta sẽ biến thành một con bò tơ cho người ta xẻ làm đôi và băng qua giữa hai phần” (Gr 34: 18).

4. Giấc ngủ mê:

“Lúc mặt trời gần lặn, thì một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Áp-ra-ham”. Từ ngữ Híp-ri được dùng ở đây không chỉ giấc ngủ tự nhiên. Từ ngữ này chỉ xuất hiện trong Cựu Ước để diễn tả giấc ngủ siêu nhiên. Cũng một từ ngữ được dùng để chỉ giấc ngủ của nguyên tổ A-đam vào lúc Đức Chúa lấy cái xương sườn của ông để dựng nên người đàn bà. Chuyện tích về giấc ngủ của nguyên tổ A-đam và giấc ngủ của tổ phụ Áp-ra-ham đều có chung một tác giả Gia-vít. Giấc ngũ huyền nhiệm nầy muốn nói rằng con người không xứng đáng được nhìn thấy công việc của Thiên Chúa. Trong tất cả văn chương tôn giáo, giấc ngủ hay cái chết muốn nói lên cuộc vượt qua từ cuộc sống này đến cuộc sống khác cao vời hơn. Tổ phụ Áp-ra-ham sắp trở thành người cùng phe với Thiên Chúa, người được ân nghĩa với Thiên Chúa. Đức Chúa cam kết với ông, và lời cam kết này được chuẩn nhận bởi một hy tế.

Vì chính Thiên Chúa có sáng kiến ký kết Giao Ước với ông Áp-ra-ham, nên chỉ mình Thiên Chúa, dưới hình ngọn lửa, đi băng qua giữa những tế vật: “Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, thì bổng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật bị xẻ đôi”. Việc Thiên Chúa ký kết Giao Ước với ông Áp-ra-ham căn cứ trên đức tin của tổ phụ và có tính cách đơn phương về phía chỉ một Thiên Chúa. Giao Ước Xi-nai sẽ là Giao Ước được ký kết bởi đôi bên và căn cứ trên Lề Luật.

BÀI ĐỌC II (Pl 3: 17-4: 1)

Trước khi đề cập đến câu chuyện Biến Hình theo Tin Mừng Lu-ca, chúng ta đọc đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê, trong đó thánh nhân nói về cuộc thay hình đổi dạng của chính chúng ta. Khi nói về cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta, thánh nhân không trực tiếp dựa trên sự kiện Biến Hình của Chúa Ki-tô, nhưng trên cái lô-gíc của biến cố Phục Sinh. Quả thật, thánh Phao-lô trước tiên là nhà thần học về biến cố Phục sinh: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”.

Xin được nhắc lại rằng thánh Phao-lô thành lập Giáo Đoàn Phi-líp-phê, thuộc miền Ma-xê-đô-ni-a, vào những năm 49-50. Bức thư mà thánh nhân gởi cho cộng đoàn này xem ra được viết vào năm 56 hay 57, lúc đó, thánh nhân đang bị cầm tù, chắc chắn ở Ê-phê-xô.

1. Bắt chước thánh Phao-lô như thánh nhân bắt chước Đức Ki-tô:

Thánh Phao-lô đã sinh ra các tín hữu Phi-líp-phê trong đức tin; lòng nhiệt thành tông đồ của thánh nhân được sánh ví với nỗi bận lòng của một người cha mong muốn con cái noi gương mình mà sống phù hợp với giáo huấn của Đức Ki-tô: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em”. Thánh nhân liên kết những cộng tác viên của mình vào chung cùng mẫu gương mà thánh nhân đưa ra. Đây không là lần duy nhất thánh nhân diễn tả ước nguyện của mình (x. 1Cr 4: 16; 11: 1; 1Tx 1: 6; 2Tx 3: 7-9). Trong thư gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân xác định: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô” (1Cr 11: 1).

2. Hai con đường:

Thánh Phao-lô phác họa hai bức tranh tương phản: bức tranh thứ nhất nêu lên tất cả những người “chỉ nghĩ đến những sự thế gian” và bức tranh thứ hai nói về những công dân Nước Trời.

Ở đây, chúng ta nhận ra đề tài kinh điển về hai con đường như trong Thánh Vịnh 1, sách Đệ Nhị Luật (11: 26-28; 30: 15-20), sách Châm Ngôn (8: 32-36), cũng như sự đối lập giữa hai con đường thường được sử dụng trong các giáo huấn của các kinh sư. Chúa Giê-su lấy lại kiểu nói này trong dụ ngôn của Ngài về hai con đường: con đường thênh thang dẫn đến họa diệt vong, còn đường chật hẹp thì dẫn đến sự sống. Theo giáo huấn của thánh Phao-lô, con đường dẫn đến họa diệt vong là con đường mà những kẻ phóng đãng, những kẻ trụy lạc đi theo: “Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn”. Tuy nhiên, qua những từ ngữ này, chúng ta không thể loại trừ rằng thánh Phao-lô nhắm đến những Ki-tô hữu gốc Do thái vẫn duy trì quá mức những kiêng cử đồ ăn thức uống theo luật Mô-sê; còn trầm trọng hơn nữa, họ vẫn cứ đòi buộc những người Ki-tô hữu gốc lương dân phải chịu phép cắt bì. Quả thật, kiểu nói: “cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn” gợi lên điều này, bởi vì thánh nhân vừa mới bàn đến những kẻ cắt bì giả mạo và những người cắt bì đích thật, tức là những người thờ phượng Thiên Chúa nhờ Thần Khí của Người, những người hiên ngang hãnh diện vì Đức Giê-su Ki-tô, chứ không cậy vào tính xác thịt (Pl 3: 2-3).

3. Trời và Đất:

Dù thế nào, thánh Phao-lô đối lập những công dân Nước Trời với những người mà Chúa của họ là cái bụng. Dường như thánh nhân đã chọn kiểu nói này khi quy chiếu đến thể chế chính trị đặc thù của thành phố Phi-líp-phê. Thành phố này là thuộc địa của Rô-ma, dân cư có “quyền công dân”; vì thế họ là công dân Rô-ma. Thánh nhân nói cho họ biết rằng quê hương đích thật của người Ki-tô hữu là Nước Trời.

Chính ở nơi tước vị công dân Nước Trời này mà chúng ta mong đợi cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta”. Thánh Phao-lô dùng cùng những ngôn từ như khi thánh nhân nói về Đức Ki-tô trong bài thánh thi ở đầu thư gởi tín hữu Phi-líp-phê này. Như vậy, sau khi tự hạ mình và chịu chết, Đức Ki-tô được tôn vinh để đảm bảo cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta.

TIN MỪNG (Lc 9: 28-36)

Câu chuyện Biến Hình được cả ba sách Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại. Mỗi năm trong ba năm phụng vụ trình bày một trong ba bài trình thuật này vào Chúa Nhật II Mùa Chay. Vào Phụng Vụ Năm C này, chúng ta đọc bài trình thuật theo thánh Lu-ca.

Xét về cơ bản, cả ba bài trình thuật khá giống nhau. Tuy nhiên, chính những sắc thái của mỗi bài trình thuật làm cho chúng khác nhau. Thánh Lu-ca đem đến những xác định riêng của mình.

Trước tiên, thánh Lu-ca gợi lên khoa thần học về vinh quang được liên kết với viễn cảnh của cuộc Tử Nạn và Phục Sinh; nhờ sắc thái này, bài trình thuật của thánh ký mang một âm hưởng của Tin Mừng Gioan. Người ta đã nghĩ rằng nguồn thông tin của thánh ký đã có thể là thánh Gioan, một trong ba nhân chứng trực tiếp của biến cố Biến Hình này.

Thứ nữa, như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca định vị biến cố Biến Hình chỉ vài ngày sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô và lời loan báo đầu tiên của Chúa Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Tuy nhiên, thánh Lu-ca đặt lời tuyên xưng của thánh Phê-rô ngay liền biến cố “hóa bánh ra nhiều” như thánh Gioan, chứ không sau này như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu.

Ngoài ra, thánh Lu-ca cũng khác biệt với hai Tin Mừng nhất lãm kia về một điểm có ý nghĩa khác, ngay trước bài trình thuật của mình về cuộc Biến Hình. Khi Chúa Giê-su loan báo cho các môn đệ của Ngài cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp tới của Ngài, Ngài liên kết lời loan báo của Ngài với hai thị kiến để làm yên lòng các môn đệ: thị kiến “Con Người từ cõi chết sống lại” và thị kiến “Con Người ngự đến trong vinh quang”. Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu viết: “Con Người ngự đến trong vinh quang của Cha Người” (Mc 8: 38; Mt 16: 27); còn thánh Lu-ca đính chính: “Người ngự đến trong vinh quang của mình và vinh quang của Chúa Cha” (Lc 9: 26). Theo thánh Lu-ca, vinh quang của chính Chúa Giê-su sẽ là một nét đặc trưng trong bức tranh về biến cố Biến Hình.

Biến cố này phải được khảo sát dưới hai khía cạnh: biến cố Biến Hình được sống bởi Chúa Giê-su và biến cố Biến Hình được sống bởi các nhân chứng.

1. Biến cố Biến Hình đối với Chúa Giê-su:

A- Chúa Giê-su cầu nguyện:

“Đức Giê-su lên núi cầu nguyện”. Địa danh của Núi không được nêu tên, có lẽ một ngọn đồi miền Ga-li-lê mà Đức Giê-su có thói quen rút lui một mình. Nhưng trong Kinh Thánh, núi được liên kết với mặc khải của Thiên Chúa. Vả lại, núi này sắp mặc lấy một dáng dấp núi Xi-nai trong vài giây phút. Hơn nữa, khi kể ra việc Chúa Giê-su lên núi cầu nguyện, thánh Lu-ca có chủ ý nhấn mạnh thái độ này của Đức Giê-su. Quả thật, chỉ một mình thánh ký kể ra việc Chúa Giê-su cầu nguyện vào giây phút này, cũng như chỉ một mình thánh ký đã chỉ ra việc Chúa Giê-su cầu nguyện khi Ngài chịu phép rửa của Gioan Tầy Giả. Trong cả hai trường hợp, “Trời” đã đáp trả bằng mặc khải hầu như giống nhau.

Trong khi Chúa Giê-su cầu nguyện, “dung mạo của Ngài bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa”. Thánh Lu-ca mô tả những thay đổi như vậy để tránh kiểu nói: “biến đổi hình dạng” được thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu sử dụng, bởi vì đối với thánh Lu-ca, kiểu nói: “biến đổi hình dạng” âm vang ngôn từ ngoại giáo. Như vậy, thánh ký định vị biến cố Biến Hình ở lòng cuộc sống nội tại của Chúa Giê-su, như một thực tại thần bí xuất phát từ chính Chúa Giê-su; Ngài không đón nhận biến cố này từ bên ngoài; vào lúc đó, nhân cách thực sự của Ngài được bày tỏ ra một cách tỏ tường.

B- Sự hiện diện của hai nhân chứng có thế giá: ông Mô-sê và ông Ê-li-a:

“Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a”. Rõ ràng, thánh ký ám chỉ luật Mô-sê, theo đó tính xác thực của một sự kiện chỉ được chấp nhận nếu ít nhất có hai nhân chứng (Đnl 19: 15). Cả hai nhân vật này: ông Mô-sê và ông Ê-li-a, đều đã gặp gỡ Thiên Chúa trên núi thánh; và cả hai, theo truyền thống, đều được đưa lên trời bên cạnh Thiên Chúa một cách mầu nhiệm: ông Ê-li-a được đưa lên trời trên một chiếc xe lửa, trước mắt của người môn đệ mình là ông Ê-li-sê (2V 11-12); còn ông Mô-sê, không ai đã thấy ngôi mộ của ông (Đnl 34: 5-6). Chắc chắn ông Mô-sê tiêu biểu Lề Luật, còn ông Ê-li-a đại diện trào lưu ngôn sứ, nhưng trên hết, không ai xứng đáng hơn hai nhân vật này làm chứng về Đấng Mê-si-a.

“Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển”. Đây là lời ghi chú riêng của thánh Lu-ca, ông Mô-sê và ông Ê-li-a được dự phần vào ánh vinh quang của Thiên Chúa. “Họ nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem”. Chỉ một mình thánh Lu-ca xác định điều này. Từ “xuất hành” gợi lên rằng Chúa Giê-su là Mô-sê mới, Đấng sắp giải phóng con người khỏi cảnh đời nô lệ và hướng dẫn dân Ít-ra-en Mới về vương quốc Thiên Chúa, qua cuộc Vượt Qua của Ngài từ Tử Nạn đến Phục Sinh.

Như vậy, biến cố Biến Hình nhằm củng cố niềm tin của chúng ta: hậu cảnh của cuộc quy tụ ở trên núi Biến Hình này là đồi Gôn-gô-tha và vinh quang sau này của Ngài. Vào lúc Chúa Giê-su khởi sự phần khó khăn nhất của sứ mạng Ngài, Ngài nhận được niềm an ủi đặc biệt. Chúa Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp đi qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã sở hữu trước khi nhập thể, và vào lúc này Ngài lấy lại một thoáng ánh vinh quang này. Biến cố Biến Hình là sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng bậc nhất mà Chúa Giê-su đã đón nhận trong suốt sứ vụ của Ngài, ít ra trong chừng mực mà chúng ta có thể biết.

2. Biến cố Biến Hình đối với ba môn đệ:

A- Họ sẽ là những nhân chứng:

Đức Giê-su “đem theo các ông Phê-rô, Gioan và Gia-cô-bê”. Đây cũng là ba vị Tông Đồ mà Chúa Giê-su cũng đã chọn làm nhân chứng về cuộc phục sinh bé gái của viên trưởng hội đường, ngỏ hầu họ hiểu một cách chính xác mối liên hệ giữa Biến Hình và Phục Sinh. Cũng chính ba người môn đệ này mà Chúa Giê-su sẽ đem theo riêng với Ngài vào vườn Ô-liu ở đó họ sẽ là nhân chứng về cơn hấp hối của Ngài.

B- Giấc ngủ của ba môn đệ:

Trong khi Chúa Giê-su cầu nguyện, các môn đệ “ngủ mê mệt”. Sự kiện chính xác sẽ được tái diễn ở vườn Ô-liu ở đó cũng chính ba môn đệ này ngủ mê mệt. Chắc chắn là giấc ngủ tự nhiên, trừ phi là một trong trong những giấc ngủ đánh dấu khoảng cách giữa con người và mầu nhiệm Thiên Chúa, như giấc ngủ của tổ phụ Áp-ra-ham trong Bài Đọc I, hay giấc ngủ của ông A-đam trong sách Sáng Thế.

“Khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Chúa Giê-su và hai nhân vật đứng bên Người”. Việc kể ra vinh quang của Chúa Giê-su ở trung tâm bài trình thuật của Lu-ca khiến người ta nghĩ đến Tựa Ngôn của Gioan: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14). Sau này, thánh Phê-rô và các bạn đồng môn của ông sẽ phải đảm nhận một công việc khó khăn là rao giảng một Đức Ki-tô bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp, vào giây phút này lại chiêm ngưỡng cũng một Đức Giê-su vinh quang giữa hai nhân vật nổi danh của lịch sử Ít-ra-en. Núi Biến Hình là phản đề của đồi Gôn-gô-tha.

C- Cuộc Thần Hiển:

Thánh Phê-rô, bốc đồng và nhiệt thành, muốn thời gian dừng lại, cố định thị kiến này mãi mãi. Thánh nhân đề nghị dựng ba cái lều, một cho Đức Giê-su, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a; thánh nhân không nghĩ đến mình, cũng như các bạn đồng môn của mình. Nhưng “ông không biết mình đang nói gì” vì biến cố vượt quá khả năng hiểu biết của thánh nhân.

“Ông còn đang nói, thì bổng có một đám mây bao phủ các ông”, như quyền năng của Chúa Thánh Thần đã bao phủ Đức Ma-ri-a, và như Đám Mây trong Cựu Ước biết bao lần vừa bày tỏ vừa che phủ sự hiện diện của Thiên Chúa, đó cũng là đám mây trên đó Con Người sẽ ngự xuống vào ngày cánh chung…

“Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ”. Đám mây này bao phủ các ông, như vậy hiệp nhất các ông với Đức Giê-su và liên kết các ông với mầu nhiệm của Ngài, vào trong bí mật của một mặc khải mà các ông sẽ không dám thuật lại cho bất kỳ ai về những điều mình đã chứng kiến.

Một tiếng nói vang lên ngỏ lời với các ông công bố Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, Đấng mà Chúa Cha đã chọn, như vào lúc Chúa Giê-su chịu phép rửa, nhưng thêm vào một mệnh lệnh khẩn thiết: “Hãy vâng nghe lời Người”. Mệnh lệnh này chắc chắn ám chỉ đến kinh “Shema Israen”, kinh bắt đầu với “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en”. Thánh Phê-rô và các bạn đồng môn đại diện dân Ít-ra-en mới.

“Hãy vâng nghe lời Người!”: mọi điều Thiên Chúa muốn nói cho nhân loại Ngài đã nói qua Đức Ki-tô, thời gian viên mãn đã đến (x. Dt 1: 1). Thánh Gioan Thánh Giá giải thích: “Hãy chăm chú nhìn vào một mình Ngài, vì ở nơi Ngài Ta đã nói và mặc khải cho con mọi điều, và ở nơi Ngài con sẽ gặp thấy thậm chí nhiều hơn điều con xin và ước muốn… Hãy lắng nghe Ngài, vì Ta không có thêm niềm tin để mặc khải, cũng không có thêm những điều gì để tuyên bố” (Ascent o f Mount Carmel, book 2, chap. 22, 5).

3. Bài học của biến cố Biến Hình:

Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su củng cố đức tin của các môn đệ Ngài bằng cách mặc khải thân thể vinh quang của Ngài sau khi Ngài sống lại. Ngài muốn họ nhận ra rằng cuộc Tử Nạn của Ngài sẽ không là dấu chấm hết, nhưng đúng hơn con đường Ngài phải đi qua để đạt đến vinh quang của Ngài. “Đối với một người đi liền một mạch trên đường, người ấy phải có một sự hiểu biết nào đó về cùng đích – giống như một cung thủ sẽ không bắn liền ngay mũi tên trừ khi trước hết người ấy thấy mục tiêu… Điều này đặc biệt cần thiết nếu con đường thì cam go hay gập ghềnh, cuộc ra đi nặng nhọc, thì cùng đích lại thú vị” (St Thomas Aquinas, Summa theologiae, III, q. 45, a. 1).

Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su vén mở một trong những phẩm chất của thân thể được tôn vinh, thân thể của các thánh sẽ rạng ngời vinh hiển như lời của Chúa Giê-su được ghi lại trong Tin Mừng Mát-thêu: “Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ” (Mt 13: 43). Về phẩm chất thân xác được tôn vinh này, thánh Phao-lô khi thì gọi vinh quang: “Gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang” (1Cr 15: 43), khi khác thì gọi vinh hiển: “Người có quyền năng… mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 21). Về vinh quang này, dân Ít-ra-en đã chiêm ngắm một hình bóng nào đó trong sa mạc, khi gương mặt của ông Mô-sê, sau cuộc gặp gỡ và trò chuyện với Thiên Chúa trên núi Xi-nai, đã chói sáng rạng rỡ đến mức họ không thể nhìn vào gương mặt của ông (Xh 34: 29; 2Cr 3: 7). Tất cả mọi thân thể của các thánh sẽ không bị hư nát, nhưng dự phần vào hạnh phúc trọn vẹn bên cạnh Thiên Chúa.

24.Chúa Nhật 2 Mùa Chay–Lm. Ga. Phan Tiến Dũng

“Hãy tìm kiếm thánh nhan Chúa, hãy vâng theo và thực thi thánh ý Ngài” Đây chính là ý nghĩa của các bài đọc lời Chúa hôm nay. Thế nhưng, câu hỏi mà nhiều người sẽ đặt ra là: “Lạy Chúa, con phải đi đâu để tìm kiếm Chúa và đâu là thánh ý của Chúa cho con?”.

Trong bài đọc một (St 15, 5-12. 17-18) chúng ta đang được mời gọi để làm theo như Apraham năm xưa. Chúng ta không cần phải đi đâu để tìm Chúa cả, cứ ngước mắt lên để xem trời đất muôn vật cùng các tinh tú, trăng, sao và chiêm ngưỡng mọi tạo vật xung quanh chúng ta…Sau đó, chúng ta được mời gọi để tin có Thiên Chúa là Đấng yêu thương đã tạo thành và an bài mọi sự. Apraham đã tin vào Chúa, Đấng đã dẫn ông ra khỏi thành Ur, quê hương xứ sở của mình, nhờ vào lòng tin mà ông được nên công chính và cũng nhờ đó mà Chúa đã lập giao ước với ông. Mỗi người chúng ta, qua bí tích thánh tẩy, nhờ vào niềm tin của Hội Thánh và của những người thân yêu, Thiên Chúa cũng đã thiết lập với chúng ta một giao ước, Ngài đã ký kết với chúng ta để cho chúng ta được trở nên người con yêu dấu của Thiên Chúa. Thế nhưng, đáng buồn thay, trong cuộc sống đầy thăng trầm này, rất nhiều người đã quên mất, hay đánh mất đi tước vị là người con yêu quý đích thực của Chúa. Tại sao lại như vậy? Thưa vì, chúng ta luôn chiều theo và làm theo ý riêng ích kỷ hẹp hòi và tội lỗi của mình, chứ không tuân theo và thực thi thánh ý của Chúa. Vậy thì, thánh ý của Chúa  cho chúng ta là gì?

Trong bài đọc hai (Pl 3, 17 – 4, 1) Thánh Phaolô cho chúng ta biết: Thánh ý của Chúa không phải là chuyện mình muốn làm điều gì tốt hay có lợi cho mình, nói khác hơn, không phải là chuyện chỉ “lo cho cái bụng của mình”. Khi chúng ta ích kỷ để lo cho lợi ích của bản thân, thì chúng ta đã đi ngược lại với thánh ý của Chúa. Hơn bất cứ ai, vì với kinh nghiệm của bản thân, Thánh Phaolo đã chia sẻ cho chúng ta biết: Thánh ý Chúa không gì khác hơn đó chính là “Thập Giá của Đức Giêsu Kitô”. Mặc dầu là Con Thiên Chúa nhưng Ngài đã chọn con đường thập giá, ngay cả trong những lúc đau khổ, tủi nhục nhất, Ngài đã chấp nhận để làm theo thánh ý của Thiên Chúa Cha vì yêu thương. Thế nên, Ngài đã thưa lên cùng Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể thì xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý con, một vâng theo ý Cha mà thôi”. Thưa ACE, khi biết thánh ý Chúa là Thánh Giá của Chúa Giêsu, chắc không mấy ai trong chúng ta cảm thấy vui và muốn làm theo. Thật vậy, trong cuộc sống, để thực thi theo thánh ý Chúa, hay để làm theo những gì mà Chúa Giêsu đã nêu gương, thì không dễ dàng một chút nào với tài sức của con người chúng ta cả, bởi vì, khi thi hành ý Chúa, chúng ta sẽ gặp biết bao khó khăn, thử thách, ngay cả những gian nan, đau khổ. Thế nên, để có thể làm theo những gì mà Chúa dạy, đòi buộc chúng ta phải thật vững tin vào Chúa để có sự lựa chọn thật kiên định, chỉ chọn Chúa, chỉ chọn làm theo ý Chúa mà thôi, chứ không chọn và làm theo ý riêng của mình.

Chính vì lẽ đó, mà Tin mừng hôm nay (Lc 9, 28b-36) để củng cố niềm tin của các môn đệ vào Chúa, để cho các ông có đủ sức mà chấp nhận cũng như tin vào Chúa và thực thi thánh ý của Ngài. Chúa Giêsu đã tỏ vinh quang của Ngài, mời gọi các ông chiêm ngắm. Chỉ với một chút vinh quang của Chúa được hé lộ, trao ban trong cuộc biến hình này thì Phêrô, Giacôbê và Gioan đã bị choáng ngợp và thốt lên: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Nơi có sự hiện diện của Chúa, nơi ánh huy hoàng và vinh quang của Chúa được chiếu tỏa, đây thực sự là sự khích lệ, là nguồn an ủi, là sức mạnh cho các môn đệ.

Còn với mỗi người chúng ta, nơi có Chúa, nơi có sự hiện diện của Chúa là ở nơi nào mà Chúa đang muốn đem chúng ta đến để cho chúng ta được chiêm ngưỡng thánh nhan vinh hiển của Ngài? Chúa Giêsu đã dạy: “Nơi nào có hai hoặc ba người tụ họp vì danh Thầy, thì Thầy hiện diện ở giữa họ”. Thưa ACE, ngay trong lúc này, khi chúng ta đang phải đối diện với biết bao đau thương vì phải sống chung với dịch bệnh, bao đau khổ và ngay cả cái chết cũng đang gần kề với chúng ta, vậy thì, ánh sáng của Lời Chúa hôm nay có giúp ích được gì cho chúng ta, có làm cho chúng ta vững tin hơn vào Chúa? Thật ra, nơi mà Chúa đang muốn cho mỗi người chúng ta đó chính là các giờ kinh nguyện sớm tối trong gia đình, lúc tham dự Thánh Lễ hay trong những công việc đạo đức bác ái…những lúc như vậy, vinh quang của ơn thánh Chúa sẽ chiếu tỏa trên chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh của ân phúc để đủ sức mà tin vào Chúa, dấn thân theo Chúa và làm theo thánh ý Ngài.

Lạy Chúa, chúng con tin vào Chúa là Người Cha luôn yêu thương, chúng con muốn được ở với Chúa, chúng con muốn có Chúa hiện diện, ban ơn chúc phúc cho chúng con. Xin gia tăng niềm tin và lòng mến Chúa cho chúng con để nhờ thực thi thánh ý Chúa chúng con trở nên những người con sống đẹp lòng Chúa luôn. Amen.

25.Chúa Nhật 2 Mùa Chay–Lm. GB. Phạm Hồng Thái

Chúa nhật II Mùa Chay dù là năm A, năm B hay năm C, chúng ta đều được nghe bài Tin Mừng về Chúa Giêsu biến hình mà Phụng vụ mới dùng từ Chúa Hiển Dung.

Xin ghi nhận một vài nét đặc biệt về Chúa biến hình như sau:

– Trước hết là có sự hiện diện của cả Ba ngôi Thiên Chúa giống như cuộc thần hiện khi Chúa Giêsu chịu phép Rửa: Chúa Cha qua tiếng phán từ trong đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”, theo thánh Tôma Aquinô Chúa Thánh Thần hiện diện qua hình đám mây sáng chói, còn trong phép Rửa thì Chúa Thánh Thần dưới hình Chim Bồ Câu, Chúa Ngôi Hai qua Con Người Chúa Giêsu nhập thể.

– Điều đặc biệt nữa là có ông Mosê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu. Ông Mosê là đại diện cho Lề luật, còn ông Elia là đại diện cho truyền thống các tiên tri. Ông Mosê trước khi qua đời đã cho dân Do thái biết sau này Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một vị tiên tri lớn và ông dạy dân hãy nghe lời vị tiên tri đó, nay ông xuất hiện bên Chúa Giêsu để chứng thực rằng Chúa Giêsu chính là vị tiên tri ông loan báo xưa, nay đã đến. Còn ông Elia dân Do thái tin tưởng sẽ xuất hiện trước khi Đấng Cứu thế đến. Giờ ông có mặt để làm chứng rằng Chúa Giêsu chính là Đấng Messia mọi người mong đợi đã đến!

Núi Tabor là nơi Chúa Biến hình. Ngọn núi này cao khoảng 600m. Nay khách hành hương có thể lên tham quan núi này bằng xe đặc dụng nơi có Nhà thờ Chúa biến hình do các cha dòng Fanxicô xây cất ở đây từ năm 1925. Cuộc đời Chúa Giêsu được ghi dấu ấn bởi 2 ngọn núi: Núi Tabor và núi Canvê. Nếu tại núi Tabor, khuôn mặt Chúa sáng láng tốt đẹp thì nơi núi Canvê mặt Chúa đầy vẻ ảm đạm: đầu đội mũ gai, máu chảy đầm đìa. Nhưng hình ảnh hai ngọn núi bổ sung cho nhau: Chúa chịu tử nạn đau thương và Chúa phục sinh quang vinh vì thế Chúa Giêsu biến hình nói lên việc Chúa sẽ đạt tới vinh quang nhưng phải qua khổ nạn trước. Nên hai ông Mosê và Elia hiện ra đàm đạo với Chúa về cuộc xuất hành Chúa sắp trải qua tức là về  biến cố Tử nạn và Phục sinh.

– Thứ hai là lời Chúa Cha tuyên phán về Chúa Giêsu từ trong đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu. Các ngươi hãy nghe Lời Người”. Qua lời này, trước hết Chúa Cha giới thiệu cho chúng ta: Chúa Giêsu  là Con chí ái của Chúa Cha, luôn làm đẹp lòng Chúa Cha vì Chúa Giêsu luôn thi hành theo ý Chúa Cha. Rồi tiếp đến là lời Chúa Cha nhắn gởi cho con người qua mọi thế hệ: “Các ngươi hãy nghe Lời Người”. Vậy chúng ta đón nhận lời dạy của Chúa Cha là lắng nghe Lời Chúa Giêsu và đem ra thực hành vì lời Chúa là thần trí và là sự sống. Lời của Chúa Giêsu cũng chính là lời Chúa Cha. Chúa Giêsu đã quả quyết như vậy:  “Lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Đấng đã sai Thầy (Ga 14,24)”. Trong Tiệc cưới Cana, Đức Mẹ cũng khuyên những người giúp việc bằng lời nói tương tự: “Hễ Người bảo gì thì các anh hãy làm theo (Ga 2, 5)”. Nay trong gẫm năm sự sáng, chúng ta đọc: “Thứ tư: Chúa Giêsu biến hình trên núi. Ta hãy xin cho được lắng nghe và thực hành lời Chúa”.

Vậy Chúa Giêsu biến hình có liên hệ gì với chúng ta ngày nay? Chúa biến hình báo trước mầu nhiệm Phục sinh. Thánh Phaolô nói: “Người sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng nên giống như thân xác vinh hiển của Người (Pl 3, 21)”. Ngày sau hết thân xác ta cũng được Chúa cho sống lại và được kết hợp với linh hồn để được hưởng  sự sống đời đời vì thế mà nay Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy đi qua con đường thập giá để tiến đến vinh quang. Trong Mùa Chay, chúng ta hãy thực hiện việc hoán cải được ví như sự biến hình để từ con người tội lỗi, chúng ta trở thành con người thánh thiện giống hình ảnh Thiên Chúa và cũng xứng đáng được Chúa Cha gọi là Con yêu dấu trong Chúa Giêsu.

Câu chuyện: Năm 1982, các nữ tu Dòng Con Đức Bà Phù Hộ ở Cáp bên Haiti, muốn thuê nhà điêu khắc Pêrikhêt làm một cây Thánh Giá lớn để đặt trong nhà thờ mới. Nhưng lúc đó, ông Pêrikhêt đã bị ung thư nặng. Bác sĩ trực nói với chị nữ tu tới gặp:

“Lẽ ra chị phải đến đây sớm hơn. Rất tiếc là bây giờ căn bệnh ung thư của ông Pêrikhêt đã quá nặng rồi.”

Vài ngày sau, một nữ tu lại đến gặp ông và năn nỉ. Bác sĩ nói với nhà điêu khắc:

“Ông Pêrikhêt à, các nữ tu ở nhà thờ mới tại Cáp mong muốn ông làm cho các chị ấy một cây thánh giá thật đẹp, dài 2m”.

Nhà điêu khắc trầm ngâm suy nghĩ và cầu nguyện, rồi ông bình thản nói với chị nữ tu:

“Tôi xin nhận lời. Cây thánh giá này sẽ là tác phẩm cuối cùng, tôi sẽ làm cây thánh giá nầy để chuẩn bị chết, và xin Chúa thương xót tôi”.

Thế là nhà điêu khắc bắt tay vào công việc với tất cả tâm hồn của một người mong gặp được Chúa Giêsu. Đây thật là một công việc nặng nhọc vì bệnh tình của ông. Nhưng ông cảm thấy một điều thật lạ lùng là mỗi nhát búa đập trên thanh sắt nóng đỏ, thay vì làm cho ông mệt mỏi, thì ông lại cảm thấy như được tăng sinh lực. Ông tiếp tục làm việc ngày qua ngày, và khi ông hoàn thành thì đó là  cây thánh giá rất đẹp và ông cảm thấy như khoẻ hẳn. Chúa Giêsu đã giải thoát ông khỏi căn bệnh quái ác.

Ngày nay, cây Thánh Giá này vẫn còn được treo ở nhà thờ thành phố Cáp Haiti và thu hút nhiều tín hữu tới kính viếng.

Chúng ta xác tín rằng một khi ta biết thông phần vào sự Thương khó của Chúa Giêsu thì chúng ta sẽ được thông phần vào vinh quang Phục sinh của Chúa. Amen.

26.Đâu là những dấu chỉ của sự biến đổi?–Jaime L. Waters–Nhóm Sao Biển chuyển ngữ

Tôi tớ Chúa – Nữ tu Mary Elizabeth Lange đã giúp thay đổi cuộc sống của nhiều người, đặc biệt là các trẻ em và phụ nữ da đen ở Baltimore, tiểu bang Maryland, Hoa Kỳ. Sơ đã sáng lập Dòng Oblate Sisters of Providence (Nữ tu Hiến sĩ Chúa Quan phòng), và cùng với các chị em trong dòng tổ chức nhiều trường học, trung tâm đào tạo và nhà ở nhằm cung cấp cho các bà góa và trẻ em mồ côi năng lực và kỹ năng cần thiết để cải thiện cuộc sống. Trọng tâm sứ vụ Mẹ Lange nhắm đến chính là sự cần thiết của cầu nguyện vốn là nguồn cảm hứng và tác động lên công việc của hội dòng. Nhận thức được tầm quan trọng của cầu nguyện, Mẹ đã mở cửa nhà nguyện hội dòng để chào đón mọi người, với chủ đích dành riêng cho các tín hữu da màu đến thờ phượng và cầu nguyện. Tin mừng Chúa nhật II mùa Chay cũng nhắc nhở chúng ta về sức mạnh của sự biến đổi và lời cầu nguyện.

Hôm nay, chúng ta nghe trình thuật về cuộc hiển dung của Đức Giêsu theo Tin mừng Luca. Thánh sử đã đưa việc cầu nguyện vào trong biến cố này, một chi tiết không có trong các trình thuật của Mátthêu và Máccô. Tin mừng Luca ghi lại, Đức Giêsu đưa Phêrô, Gioan và Giacôbê lên núi cầu nguyện, và đang lúc cầu nguyện, diện mạo và y phục Người thay đổi. (Mátthêu và Máccô miêu tả hành trình đi lên núi nhưng không nhấn mạnh hành động cầu nguyện như là mục đích của cuộc hành trình). Sau đó, Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu, bàn luận về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.

Biến cố biến hình có nhiều ý nghĩa. Với Đức Giêsu, cuộc biến hình làm thay đổi về mặt thể lý và thiêng liêng. Dung mạo Người đổi khác, và y phục Người trắng tinh chói lòa. Khi gặp Môsê và Êlia, Đức Giêsu xuất hiện trong vinh quang, đàm đạo với hai vị ngôn sứ, và các môn đệ đã chứng kiến vinh quang ấy. Theo truyền thống Kinh thánh, vinh quang thần linh gắn liền với sự sáng láng chói loà được xem như là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Trong khi Chúa nhật tuần trước nhấn mạnh đến nhân tính của Đức Giêsu khi thuật lại việc Người chịu cám dỗ, thì hôm nay qua biến cố hiển dung, thiên tính của Đức Giêsu đã được làm nổi bật.

Nhìn từ nhãn quan của các môn đệ, biến cố này có nhiều ý nghĩa biểu tượng. Việc hiển dung diễn ra trên một ngọn núi, một địa điểm gặp gỡ Thiên Chúa trong truyền thống. Cả Môsê và Êlia, hiện diện trong cuộc biến hình, cũng đã từng gặp gỡ Thiên Chúa trên một ngọn núi, và được liên kết với lời tiên báo tương lai cũng như với thời đại của Đấng Thiên Sai. Môsê và Êlia cũng gắn liền với lề luật và các ngôn sứ, vốn sẽ được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu. Hình ảnh đám mây che phủ ngọn núi sau khi Đức Giêsu biến hình là một dấu chỉ khác nữa về sự hiện diện thần linh, nhất là liên quan tới cuộc gặp gỡ Thiên Chúa của Môsê trên núi Sinai.

Biến cố hiển dung cũng vang vọng nơi những phần khác của Tin mừng Luca. Ví dụ như trong biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa, một giọng nói tuyên bố Ngài là Con yêu dấu, giống với ngôn ngữ trong Tin mừng hôm nay khi nói Đức Giêsu là Con được tuyển chọn. Cũng nên lưu ý đến tư thế của các môn đệ trong khi cầu nguyện. Khi cầu nguyện, Phêrô, Gioan, và Giacôbê đã “ngủ mê mệt”, nhưng khi thấy vinh quang của Đức Giêsu, họ tỉnh hẳn. Việc các ông ngủ quên vào thời khắc quan trọng khi cầu nguyện xảy ra một lần nữa vào cuối Tin mừng Luca khi Đức Giêsu cầu nguyện trên núi Ôliu. Thánh Luca không chỉ trích việc các môn đệ ngủ quên lúc đó; thánh sử chỉ muốn nói rằng ngủ quên là một dấu chỉ thể hiện nỗi đau buồn quá mức của các môn đệ trước cái chết sắp đến của Đức Giêsu. Trong suốt biến cố hiển dung, mặc dù các môn đệ đã ngủ thiếp đi, nhưng các ông đã bừng tỉnh để chứng kiến vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện.

Sau cuộc hiển dung, Môsê và Êlia rời đi, chỉ còn Đức Giêsu cùng ba môn đệ đi xuống núi, cả bốn người đều đã được biến đổi. Việc họ thinh lặng nhắm đến một sự kiện biến đổi cá nhân không được nói ra vào thời điểm đó. Thánh Luca đã đưa việc cầu nguyện vào ngay thời điểm quan trọng trong sứ vụ của Đức Giêsu nhằm làm nổi bật sức mạnh của cầu nguyện trong việc gặp gỡ Thiên Chúa và đón nhận mặc khải. Nhờ cầu nguyện, Đức Giêsu tỏ lộ cho các môn đệ thấy vinh quang của Người, và sự xuất hiện của Môsê và Êlia càng cho thấy vai trò của Người trong lịch sử cứu độ. Khi tiếp tục hành trình mùa Chay, chúng ta được mời gọi tìm ra những cách thức để cầu nguyện riêng cũng như cầu nguyện chung ngõ hầu được biến đổi và gia tăng sự kết hiệp với Thiên Chúa và tha nhân.

27.Theo Chúa đến núi Tabor–MINH HỌA LỜI CHÚA–Nguyễn Hiếu

1. Biến hình đổi dạng

Trong cuốn phim “Mặt nạ,” có chuyện cậu Rocky Dentris. Cậu mắc chứng bệnh khác thường. Do đó gương mặt cậu trông thật kinh dị lạ thường, không giống ai. Dù vậy, Rocky vẫn bằng lòng chấp nhận, không bao giờ tủi thân than oán.

Ngày nọ, Rocky đi công viên chơi với bạn. Họ vào nhà kính (nhà có bọc kính xung quanh). Họ nhìn vào kính và cười đùa chế giễu nhau về thân hình và gương mặt của nhau. Bỗng Rocky giật mình trông thấy trong kính gương mặt kỳ dị của cậu đã biến đổi thành một gương mặt đẹp đẽ lạ thường. Đây là lần đầu tiên các bạn của cậu mới thấy con người thực sự xinh đẹp bên trong của cậu được bộc lộ ra bên ngoài.

Câu chuyện đó cũng đã xảy ra cho Chúa Giê-su trong Tin Mừng hôm nay. Lần đầu tiên các tông đồ trông thấy Chúa hoàn toàn mới mẻ, sáng láng đẹp đẽ lạ thường, khiến thánh Phê-rô phấn khởi thốt lên: “Thưa Thầy, chúng con ở đây hay quá!…”

Tại sao cuộc biến hình sáng láng vinh hiển của Chúa Giê-su lại được chọn làm bài Tin Mừng trong Mùa Chay, là mùa buồn sầu ảm đạm, mùa của sám hối, chay tịnh, mà không được xếp vào bài Tin Mừng của mùa Phục Sinh, mùa mừng Chúa sống lại vinh hiển sáng láng?

Có hai lý do:

Trước hết, Chúa giúp cho các tông đồ nhận biết giá trị của mầu nhiệm từ thập giá của Người, vì các ông không hiểu, cũng chẳng chấp nhận. Chúa có chết đau khổ mới sống lại vinh quang. Có thập giá mới có ơn cứu rỗi.

Kế đến, Giáo hội chọn đọc bài Tin mừng về cuộc biến hình của Chúa Giêsu trong mùa chay, để cho chúng ta thấy rõ mối dây liên kết chặt chẽ giữa cuộc biến hình với cơn hấp hối của Chúa. Người chịu hấp hối, tâm hồn buồn rầu đến chết được” (Mt.26,38) trong vườn Cây Dầu để được biến hình sáng láng vinh hiển trên núi Ta-bor. Có hấp hối đau khổ mới có ngày biến hình đổi dạng vinh quang. Đó là bài học Chúa muốn dạy các Kitô hữu của Chúa thực hành hằng ngày, đặc biệt trong mùa Chay. Có “bỏ mình vác thánh giá hằng ngày” mới xứng đáng làm môn đệ, làm con yêu dấu và đồng thừa tự với Chúa Giêsu (Theo “Sunday Homilies”).

2. Thập giá Chúa Kitô

Ở Hoa Kỳ, một trong những phi trường quốc tế lớn nhất và đầy đủ tiện nghi nhất là phi trường Pensylvania. Gần phi trường này có một ngôi thánh đường đồ sộ cao vút, nhất là có cái tháp chuông chọc trời, khiến cho mọi người sợ nguy hiểm cho máy bay mỗi khi bay lên đáp xuống. Để giúp mọi người thoát khỏi nỗi lo sợ đó, giáo dân trong xứ đã gắn trên ngọn tháp chuông một ngọn đèn ne-on thật to theo hình thánh giá. Từ đó, mỗi lần bay lên đáp xuống phi đạo, các phi công đều nhắm vào Thánh giá đó như một tiêu chuẩn bảo đảm an toàn chắc chắn…

***

Thập giá Chúa Kitô đã trở thành dấu chỉ của an toàn, của giải thoát, của hy vọng, và của sự sống cho con người. Ai muốn khỏi chết, phải nhìn lên thập giá. Ai muốn được sống, phải nhờ thập giá. Ai muốn được cứu rỗi, phải vác thập giá hằng ngày. Đó là những cuộc biến hình cao quý và cần thiết của mỗi người. (Theo “Như lòng Chúa khoan dung”).

3. Cởi bỏ con người cũ

Thời lập quốc, Hoa Kỳ có ra một đạo luật: ai bị bắt quả tang trộm cắp, phải bị hình phạt khắc hai chữ S.T lên trán, để răn dạy mọi công dân. Ngày nọ có hai anh em bị bắt quả tang ăn trộm cừu. Cả hai bị xử phạt khắc hai chữ S.T. lên trán, có nghĩ đây là kẻ ăn trộm.

Một trong hai người anh em đó không chịu nỗi sỉ nhục nên trốn sang vùng đất khác. Nhưng anh không thể xóa đi hai chữ khắc trên trán. Ai nhìn thấy anh cũng tra hỏi ý nghĩa của hai chữ đó. Nhục nhã quá, anh không sống nổi nữa. Anh đã kết liễu cuộc đời mình!…

Ngược lại, người em của anh tự nhủ:

– Dù đi đâu, tôi cũng mang danh là kẻ trộm xấu xa. Tôi vẫn ở lại đây, cương quyết tái tạo lại niềm tin cho mọi người…

Với quyết tâm đó, ngày ngày anh cố gắng sống công bình chính trực, cặm cụi làm ăn sinh sống, không nhờ vả ai cũng chẳng làm thiệt hại ai, mà còn sẵn sàng giúp đỡ mọi người, nhất là những người bệnh hoạn cùng khổ chung quanh.

Chẳng bao lâu, anh được mọi người trong xứ mến phục. Nhiều người thấy anh sống công bình bác ái hơn mọi người như thế mà sao trên trán có khắc hai chữ S.T. Họ thắc mắc hỏi một cụ già về ý nghĩa hai chữ đó. Cụ trầm ngâm một lúc rồi đáp:

– Tôi cũng không rõ ý nghĩa của hai chữ đó. Nhưng nhìn vào cuộc sống của anh, tôi nghĩ hai chữ đó có nghĩa là “Thánh thiện”.

***

Thế là người em trong câu truyện trên đây đã biết lột xác, thay hình đổi dạng, cởi bỏ con người cũ tội lỗi, mặc lấy con người mới hoàn hảo. Phải chăng đó là tấm gương sáng chói cho chúng ta? Phải chăng đây cũng là một cuộc biến hình sáng láng mà Chúa kêu gọi chúng ta thực hiện hằng ngày, nhất là trong mùa Chay thánh?…

4. Khu ổ chuột ở Ấn Độ

Một đêm nọ, ký giả Trey Ketler đi bách bộ xuyên qua một khu ổ chuột tại thành phố Calcutta, Ấn Độ. Thình lình ông nghe một âm thanh kỳ lạ. Ông quay lại và thấy một cậu bé ăn xin tàn tật đang lết về phía ông. Người ký giả lấy tiền lẻ trong túi và trao cho cậu bé. Không đầy một phút sau, ông lại nghe một cuộc chửi rủa inh ỏi. Ông quay lại, thấy cậu bé ăn xin tàn tật bị đám ăn xin tàn tật khác trấn lột!…

Ngày nọ, một người nữ khác cũng đến khu ổ chuột đó. Bà thấy cảnh quá nghèo khổ của khu này, bà dốc hết những gì bà có biến đổi khu này. Đầu tiên, bà chỉ cất được một phòng học cho trẻ. Tấm bảng là nền nhà, bàn ghếcũng là nền nhà. Ít năm sau tức là năm 1997, khi bà qua đời, khu ổ chuột đã có 100 trường học trang bị đầy đủ: 750 phòng phát thuốc miễn phí, 150 nhà dành cho những kẻ bị bỏ rơi, và trên 40 ngàn thiện nguyện từ khắp nơi đến trợ giúp. Người nữ đó chính là Mẹ Têrêsa Calcutta.

***

Phải chăng đó là một cuộc biến hình Chúa dùng con cái Người thực hiện.

Mùa Chay Chúa muốn chúng ta thực hiện nhiều cuộc biến hình như thế. (Theo “Ánh Sáng thế gian”)

5. Nhận lỗi

Liszt là một nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng khắp nước Hungary vào cuối thế kỷ 19. Nhưng càng nổi danh ông càng bị người ta mạo danh.

Một hôm tại một thành phố bên Đức, một thiếu nữ quảng cáo buổi độc tấu dương cầm và cô ta là học trò của nhạc sĩ Liszt. Nhưng một ngày trước khi biểu diễn, cô hoảng hốt hay tin nhạc sĩ đại tài đó đến thành phố. Như thế sự mạo danh của cô sẽ bị khám phá và tương lai cô sẽ tiêu tan. Nhưng thay vì bỏ cuộc, cô đã can đảm đến gặp nhạc sĩ và thú nhận việc mạo danh của cô. Nhạc sĩ ôn tồn lắng nghe cô và dịu dàng nói:

– Cháu đã phạm một lỗi lầm. Nhưng trong đời không ai tránh được lầm lỗi. Cháu đã biết lỗi và hối hận. Điều đó tốt lắm rồi. Bây giờ cháu hãy biểu diễn thử cho bác nghe.

Cô liền ngồi lên dương cầm, biểu diễn cho ông ta nghe. Nghe xong, ông ta sửa lại những sai sót rồi nói:

– Dù bác dạy cho cháu rất ít, nhưng cháu cũng là học trò của bác. Ngày mai cháu cứ đi trình diễn và loan báo: Bác sẽ trình tấu bản cuối cùng.

***

Cách cư xử của nhạc sĩ Liszt trên đây nhắc chúng ta cách đối xử của Chúa đối với chúng ta. Những vấp váp lỗi lầm của chúng ta luôn được Chúa tha thứ sửa đổi lại cho tốt đẹp. Tất cả những thất bại khổ đau và ngay cả những vấp ngã của chúng ta cũng được Người biến đổi thành những cơ may để mời gọi chúng ta tiến bước theo Người, cùng vác thánh giá theo Người để được cùng Người sống lại vinh quang.

Mùa Chay chính là thời gian đặc biệt để chúng ta thực hiện điều đó.

(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập II).

6. Một cuộc hoán cải lạ lùng

Trong một nhà giam các tù nhân trọng án, có một tù nhân khét tiếng hung ác tên là SITA ĐÊLI (Starr Daily). Anh ta vào tù ra khám nhiều lần vì tội say sỉn đánh lộn làm mất an ninh trật tự xã hội. Trong lần tuyên án thứ năm, quan tòa đã tuyên bố: “Chúng tôi biết rằng có bắt anh ở tù thêm cũng chẳng có kết quả. Phải nói thật là: chúng tôi hoàn toàn thất vọng về anh! Nhưng chúng tôi không thể không tuyên án cho anh. Lần này anh bị phạt tù giam 10 năm”.

Sau khi vào nhà tù, Đêli vẫn tỏ thái độ ngoan cố và còn coi thường kỷ luật nhà tù hơn trước. Anh thường hay đánh đập các bạn tù và phản đối lại cai tù, đến nỗi anh bị biệt giam trong một căn hầm tối dơ bẩn đầy gián hôi và lũ chuột cống… Một hôm, khi đang nằm ngủ trên nền gạch lạnh giá, đột nhiên Đêli nghe có tiếng nói như sau: “Hỡi Đêli, tại sao mi lại bị nhốt riêng trong căn hầm khủng khiếp này? Tại sao mọi người đều thù ghét mi? Tại sao mi không dùng sức khỏe để phục vụ mà cứ tiếp tục làm điều ác chống lại kẻ khác như thế? ”… Tư tưởng này đã đánh động tâm hồn khiến Đêli nhiều phen suy nghĩ. Rồi một đêm kia Đêli đã gặp được Đức Giêsu trong giấc mơ, Đấng mà anh đã xua đuổi ra khỏi cuộc đời anh từ khi mười hai tuổi. Cũng từ đây, hình ảnh của Đức Giêsu thường xuyên xuất hiện trong tâm trí anh. Anh mơ thấy Người đến bên âu yếm nhìn và nói với anh những lời mà anh đã từng thuộc lòng khi còn bé: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng”, “Hãy yêu thương kẻ khác như yêu chính mình ngươi”… Anh cảm thấy tâm hồn được bình an mà từ trước đến nay chưa khi nào được hưởng. Rồi khuôn mặt của những kẻ đã từng bị anh hãm hại lần lượt xuất hiện trong tâm trí khiến anh rất hối hận. Lần đầu tiên, anh đã mở miệng cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 18,13).

Cảm nghiệm ấy đã biến Đêli từ một người hung ác gian tham và thù hận, trở thành một người đầy độ lượng nhân ái! Sự biến đổi nội tâm khiến Đêli không còn la hét đập phá như trước, Các nhân viên cai ngục đã nhận ra có sự thay đổi rõ rệt xảy ra nơi anh, họ cho phép anh được trở lại trại giam thường phạm. Tại đây anh bắt đầu đối xử tốt với các bạn tù: Anh luôn bênh vực những người mới đến, nên dần dần anh được mọi người trong trại quý mến. Rồi anh được giảm án tù từ mười xuống còn 5 năm. Mãn hạn tù, anh gia nhập vào “Nhóm cải thiện chế độ lao tù”. Cùng với cha tuyên úy và các bạn, Đêli đi thăm và động viên các tù nhân còn bị giam và khuyên họ hãy học tập cải tạo tốt. Nhờ đó nhiều bạn tù đã sớm được về đoàn tụ với gia đình. Linh mục Pitơ Mácsôn (Peter Marshall) đã bình luận về sự hóan cải của Đêli như sau: “Đây là một bằng chứng sống động cho thấy: Sita Đêli không chỉ là một người cũ được tân trang lại, nhưng chính là một tạo vật hoàn toàn mới của Thiên Chúa!”

Biến hình lời nói

Biến hình việc làm, lối suy nghĩ

Biến hình tình thương # ghen ghét

Biến hình tránh tội lỗi

Biến hình là năng chịu bí tích nhất là phép giải tội.

Biến hình là không lân la đến dịp tội (LeoV)

28.Sống xứng tầm người con Thiên Chúa –Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Nhìn vào dáng vẻ bên ngoài của Chúa Giê-su, người đời nhận thấy Ngài chỉ là anh thợ mộc giản dị làng Na-da-rét hoặc là một ông thầy giảng dạy lôi cuốn, hấp dẫn mà thôi.

Thế rồi, qua việc Chúa Giê-su tỏ lộ thần tính, tỏ lộ chân dung đích thực của Ngài trên núi cao, ba môn đệ Phê-rô, Gioan và Gia-cô-bê mới phát hiện ra căn tính của Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, là Đấng cao cả tuyệt vời, ẩn mình dưới hình hài con người bình dị.

Đối với những ki-tô hữu, chúng ta cũng thấy điều tương tự:

Nhìn vào dáng vẻ bên ngoài, chúng ta cũng chỉ là những con người hèn mọn, vô danh tiểu tốt.

Tuy nhiên, bản chất của chúng ta rất cao đẹp, rất tuyệt vời.

Dù chúng ta mang kiếp bụi trần, thân phận mỏng giòn yếu đuối, vậy mà nhờ lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, Thiên Chúa nâng chúng ta lên, cho chúng ta được trở thành con Thiên Chúa, trở thành người con chí ái của Chúa tể trời đất. Cao trọng biết bao!

Dù chúng ta mang đầy tội lỗi, mang xác thịt hư hèn, vậy mà nhờ lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, Chúa Giê-su cất nhắc chúng ta lên, nâng hạt bụi thấp hèn này lên… để tháp nhập vào Thân mình Ngài, cho chúng ta trở thành một chi thể trong Thân thể Ngài! Cao cả biết chừng nào!

Và nhờ trở thành một chi thể trong Thân thể Chúa Giê-su, sự sống của Thiên Chúa ba Ngôi, sự sống rất cao vời và viên mãn, không bao giờ lụi tàn, được thông ban cho chúng ta, như nhựa sống từ thân nho chuyển sang cành nho, để chúng ta được sống đời đời với Chúa! Tuyệt vời khôn tả!

Và qua Bí tích Thánh thể, Chúa Giê-su ban thịt máu Ngài cho chúng ta lãnh nhận, để nhờ đó, chúng ta được nên một với Chúa Giê-su, đồng huyết nhục với Ngài và nhờ đó, được sống vĩnh cửu với Ngài. Đây là một hồng ân vô cùng cao quý.

Vậy thì chúng ta hãy vui mừng hoan lạc, hết lòng cảm tạ Chúa và phải sống làm sao cho xứng với ân huệ Chúa ban cho mình.

Ý thức mình là con Thiên Chúa để vươn lên

Một người thợ săn bắt gặp một ổ trứng phượng hoàng trong khu rừng nguyên sinh. Anh đem ổ trứng ấy về nhà, trộn chung vào ổ trứng của gà mẹ đang ấp. Mấy tuần sau, một chú phượng hoàng con xinh đẹp chào đời và được gà mẹ dẫn đi ăn chung với đàn gà con bé nhỏ.

Phượng hoàng con lớn lên bên cạnh những con gà khác, luôn nghĩ rằng mình cũng thuộc nòi giống gà như những con gà cùng lứa, cùng cào bới đống rác, đống phân… để kiếm ăn như những con gà kia.

Thế rồi, vào ngày định mệnh ấy, một con phượng hoàng oai phong từ trên cao thình lình đáp xuống khiến cả đàn gà hoảng hốt chạy tán loạn. Phượng hoàng tiến đến gần chú phượng hoàng con, chỉ cho nó biết nó không phải là chú gà tầm thường, nhưng thuộc giống nòi phượng hoàng oai phong lẫm liệt.

Thế là từ hôm đó, phượng hoàng con ngẩng cao đầu, vươn cao cổ, bắt đầu xoè cánh tập bay và chẳng bao lâu, nó xoải rộng đôi cánh, phóng mình vút lên, bay lượn giữa khung trời cao xanh lộng gió, trông thật oai hùng.

Ban đầu, khi không ý thức mình là phượng hoàng mà tưởng mình chỉ là gà, nên phượng hoàng sinh hoạt như những con gà khác, suốt ngày quanh quẩn trong sân gà vịt, moi móc rác rến kiếm ăn; nhưng một khi nó phát hiện ra mình không phải là thứ gà tầm thường mà là thuộc nòi giống phượng hoàng oai vệ, thì nó từ bỏ góc sân gà vịt, từ bỏ việc cào phân bới rác để xoải cánh bay lượn trên khung trời cao rộng,

Tương tự như thế, chúng ta cũng cần phải phát hiện ra phẩm giá cao đẹp của mình là người con Thiên Chúa, là chi thể của Chúa Giê-su… Nhờ đó, chúng ta không để mình bị vùi dập bởi những thói hư tật xấu, không đắm mình trong lối sống ươn hèn, nhưng chuyên chăm tập rèn những đức tính tốt, trau dồi cho mình những phẩm chất cao đẹp, để sống xứng tầm người con Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giê-su,

Từ địa vị thấp hèn, Chúa nâng chúng con lên bậc con Thiên Chúa, trở nên chi thể của Chúa và được thừa hưởng sự sống viên mãn của Ngài. Xin giúp chúng con dứt khoát từ bỏ nếp sống cũ đầy tội lỗi và bất xứng, để bắt đầu cuộc đời mới, cuộc đời cao đẹp của người con Thiên Chúa.

29.Nhìn vào mặt tốt–Lm. Ignatiô Trần Ngà

Khi Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ biết Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu thương khó và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn. Không lẽ cuộc đời của Thầy Giêsu lại kết thúc cách bi đát như thế? Đã bao lần họ mơ tưởng một ngày nào đó được ngồi bên tả bên hữu vua Giêsu trong vương quốc vinh hiển của Ngài, lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói? Nếu Chúa Giêsu mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ ra như thế nào đây?

Không thể chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phê-rô kéo riêng Chúa Giêsu ra và lên tiếng trách móc, tìm cách ngăn cản Ngài đừng chấp nhận con đường đau thương ấy (Mc 8, 32).

Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, tám ngày sau, Chúa Giêsu đưa ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình lên núi cao để cầu nguyện. “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem.”

Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn “ông Phê-rô thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”

Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông… Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”

Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giêsu trong giờ phút vinh quang của Ngài ở đây, ít nữa là có môn đệ Gioan đã vững bước theo Chúa Giêsu đến cùng trên đường khổ nạn.

* * *

Cuộc đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.

Cuộc đời Chúa Giêsu cũng có mặt sáng mặt tối. Mặt tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm, mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi Tabor. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen tối, mặt u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giêsu bộc lộ nhân tính hèn yếu của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng… mà không thấy được mặt sáng của Ngài trên núi Tabor thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các ngài đào tẩu hết, lấy ai làm chứng nhân cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?

Vì thế, Chúa Giêsu cho các ông thấy mặt sáng của đời Ngài trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Ngài, tỏ cho họ thấy Ngài là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha, Người được Thiên Chúa Cha tuyển chọn” (câu 35) để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm vườn Dầu sắp đến.

* * *

Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền của nó, người ta sẽ đánh giá thấp về nó, sẽ thất vọng vì nó.

Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ nhìn mặt trái sần sùi và trơ trọi của tấm huy chương mà không nhìn mặt đẹp của nó, thì chẳng ai thèm nhận huy chương.

Hoa hồng rất đẹp rất kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến vẻ đẹp của bông hoa thì thật là đáng tiếc! Nhờ giá trị của những bông hoa hồng đẹp rực rỡ kiêu sa và hương thơm dịu dàng của nó, người ta quên đi những gai nhọn đáng phàn nàn của nó.

Đối với người anh em chung quanh cũng thế. Mỗi người đều có mặt sáng và mặt tối, mặt tốt và mặt xấu, không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mặt đen tối của một con người, mà quên đi mặt sáng của họ, nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm của họ, thì chúng ta sẽ rất thất vọng về người đó. Chúng ta đánh giá người đó chẳng ra gì.

Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín thấy mặt sáng láng vinh hiển của Ngài trên núi cao để chuẩn bị tinh thần cho các ông đón nhận mặt đen tối của đời Ngài trong đêm vườn Dầu và đêm khổ nạn, cũng là bài học cho chúng ta trong tương quan với người khác.

Một người dù có bị xem là xấu xa đến đâu chăng nữa cũng có những điểm sáng, những nết tốt tiềm ẩn bên trong. Ước gì chúng ta biết nhìn vào điểm sáng, điểm tốt, nhìn vào ưu điểm của họ để dễ dàng thông cảm với những mặt trái, mặt xấu của họ. Nhờ đó, chúng ta cảm thấy những người quanh ta dễ thương hơn, tương quan của ta với người khác được cải thiện tốt đẹp hơn và đời sống giữa chúng ta với nhau sẽ hạnh phúc hơn.

30.Biến hình trong đời thường–Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

Tin mừng Lc 9: 28-36: Trên núi Tabor, Chúa Giêsu từ hình dáng loài người biến thành hình dáng Thiên Chúa; ở Vườn Dầu, từ hình dáng Thiên Chúa biến ra hình dáng con người yếu đuối.

1. Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan trên núi Tabor

Vừa nghe bài Phúc Âm hôm nay, chắc có người thắc mắc là tại sao Chúa Giêsu lại chọn Phêrô, Giacôbê và Gioan. Tại sao Đức Giêsu lại quyết định chọn ba ông từ Nhóm Mười Hai và cho ba ông chiêm ngưỡng vinh quang của Người trên núi Tabor?

Phải chăng các ông là những người tốt lành thánh thiện hơn trong số Mười Hai anh em? Đọc lại Tin Mừng, chúng ta thấy chính ba ông lại đầy những khiếm khuyết lỗi lầm. Chúa Giêsu biết rõ điều này hơn ai khác. Chúa biết biết rõ tâm tính của các ông. Người biết các ông vốn là những ngư phủ chất phác, nhiệt tình nhưng lại bộp chộp. Các ông hăng say đi theo Người, hết lòng cộng tác vào sứ mệnh của Người, nhưng cũng từng có những phản ứng nóng nảy, bộc phát. Trong các câu chuyện kể của Tin Mừng, chúng ta thấy Simon Phêrô có lần đã can ngăn Chúa Giêsu lên Giêrusalem, và Phêrô lúc đó đã bị Chúa quở trách nặng lời: “Satan, lui lại đàng sau Thầy, con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà của loài người”. Còn hai ông Gioan và Giacôbê thì cũng bộp chộp không kém, vì tính tình nóng nảy, hai ông đã được Chúa Giêsu đặt cho biệt hiệu là con của thiên lôi. Hai ông đã bị Chúa khiển trách vì đã muốn cho lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Samari không chịu tiếp đón Người. Và nhất là đang khi Chúa Giêsu chuẩn bị cho các ông chấp nhận tiến về Giêrusalem thì hai ông lại là người muốn tranh giành chỗ cao chỗ nhất trong anh em. Vì biết rõ sự yếu đuối của các ông, nên sau khi tiên báo lần thứ nhất về cuộc Thương Khó của mình, Chúa Giêsu đã đem riêng các ông theo Người lên núi cầu nguyện và cho các ông chứng kiến vinh quang của Người. Các ông cần phải được lĩnh hội những bài học tâm linh. Niềm tin của các ông phải được kiện cường hầu đủ sức để đương đầu với những khó khăn sắp xảy tới: con đường đau khổ, con đường Thập Giá.

2. Bây giờ chúng ta cùng nhau trở lại Núi Tabor trong bài Tin Mừng.

Trên Núi Tabor, bầu trời trong sáng và Đức Giêsu đang cầu nguyện. Trong khi Người cầu nguyện, khuôn mặt toả sáng, áo Người trắng như tuyết. Bên cạnh Người, có Môsê – người ban bố luật vĩ đại và Êlia – vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các ngôn sứ. Rồi một đám mây bao phủ họ, nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa.

Họ được nghe thấy tiếng nói của Chúa Cha phát ra từ đám mây: “đây là Con yêu dấu của Ta, Người Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Phêrô thốt lên: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hạnh phúc! Nếu Thầy muốn, con sẽ dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Êlia, và một cho Môsê”. Phêrô muốn được ở lại trên núi. Ông muốn xây dựng một thiên đàng an toàn tại đó, xa khỏi những rắc rối và nguy hiểm. Nhưng mục đích của cuộc biến hình không phải để khuyến khích họ trốn thoát thực tại, mà để khích lệ các ông, giúp các ông có khả năng đương đầu với những thử thách sau này.

Họ cần rất nhiều sự nâng đỡ! Bởi vì sẽ đến một ngày và ở trên một ngọn đồi khác, lúc đó bầu trời sẽ trở nên tối tăm, khuôn mặt Đức Giêsu, sẽ đầm đìa mồ hôi và máu. Áo của Người sẽ không còn chói sáng nữa. Sẽ không còn tiếng nói phát xuất từ trời cao, nhưng là những giọng nói chế giễu và nhạo báng, chính vì vậy làm chúng ta liên tưởng đến Vườn Dầu. Tabor và Vườn Dầu, cả hai đều xảy ra trên núi.

– Trên núi Tabor, Chúa Giêsu từ hình dáng loài người biến thành hình dáng Thiên Chúa; ở Vườn Dầu, từ hình dáng Thiên Chúa biến ra hình dáng con người yếu đuối.

– Trên núi Tabor, các môn đệ thấy được thiên tính vinh quang của Chúa Giêsu, khiến họ ngất ngây sung sướng, muốn ở mãi trong tâm trạng ngất ngây đó; trên Vườn Dầu, họ thấy Chúa Giêsu trong nhân tính yếu đuối của một con người.

Hai biến cố giúp chúng ta hiểu được con người của Chúa Giêsu và cũng giúp chúng ta nhận ra thân phận con người trên trần thế. Quả thực hai sự kiện có liên hệ chặt chẽ với nhau. Và cả hai lần, họ đều ngủ, còn Chúa Giêsu lại thức để cầu nguyện. Điều duy nhất còn lại, đó là một lần nữa, Đức Giêsu vẫn cầu nguyện. Điều giúp Người trải qua, cả trong những giây phút sáng sủa lẫn tối tăm ảm đạm, đó chính là mối tương quan của Người với Thiên Chúa Cha.

3. Tabor và Vườn Dầu đối với chúng ta

Hy vọng rằng tất cả chúng ta đều có thể có được những kinh nghiệm về Tabor, ngọn núi của niềm vui mừng và hớn hở, nhưng chắc hẳn chúng ta cũng cần phải làm quen với Vườn Dầu. Trên Núi Tabor, chúng ta được thoáng thấy vẻ đẹp của Thiên Đàng: do được khích lệ, được phấn chấn, có thể chúng ta đã nghĩ rằng “thật tốt đẹp khi được ở đây”, nhưng chúng ta lại cũng cần phải được chìm đắm trong u tối của Vườn Dầu “tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14,34).

Tabor và Vườn Dầu mạc khải nét tương phản sinh động giữa nhân tính và thiên tính của Ngài. Hai biến cố này không thể tách lìa nhau như hai mặt của một đồng tiền, và như thế cho chúng ta thấy Ngài vừa là người thật vừa là Thiên Chúa thật. Hãy chấp nhận thập giá cuộc đời để nhờ đó chúng ta sẽ được chia sẻ phần vinh quang phục sinh với Ngài.

4. Biến Hình trong Đời Thường

Nhà tâm lý học Abraham Maslow kể lại câu chuyện một người mẹ trẻ như sau: “vào một buổi sáng nọ, cô sửa soạn bữa sáng cho gia đình. Nhà bếp chan hòa ánh sáng, những đứa con của cô đang cười đùa vui vẻ, và chồng cô đang đùa giỡn với đứa con út. Trong khi cô đang trét bơ trên bánh và rót nước cam, ngay lúc đó, cô cảm thấy tràn trề niềm vui sướng và yêu thương trong gia đình. Rưng rưng nước mắt, cô đã cảm động đến nỗi không thể nói lên lời.”

Maslow gọi lúc đó là giây phút tột đỉnh. Nó là những giây phút ngắn ngủi quí báu chúng ta nhìn thấy những biến cố thông thường cách siêu thường. Nó là giây phút giống như là Thiên Chúa chiếu ánh sáng của Ngài vào những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình đang ở trong một thế giới khác.

Ý tưởng về giây phút tột đỉnh giúp chúng ta hiểu được phần nào những gì mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã cảm nghiệm trong bài Tin Mừng hôm nay. Các ngài đã cảm nghiệm được những giây phút tột đỉnh.

Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã thấy được Chúa Giêsu trong một hình thức hoàn toàn khác biệt. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã thấy Thiên Chúa chiếu rọi qua con người bề ngoài của Chúa Giêsu. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã nhìn thấy một thế giới vượt trên thế giới này. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã thấy từ ngoại diện của Chúa Giêsu đến những gì bên trong nội diện: Con Thiên Chúa vinh hiển và tuyệt mỹ.

Đó chính là mục đích của việc Chúa Giêsu hiển dung trên núi Tabor. Tuy nhiên trong cuộc đời Chúa Giêsu cũng có mặt sáng mặt tối. Mặt tối là đêm Vườn Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen tối, mặt u ám của đêm Vườn Dầu, lúc Chúa Giêsu bộc lộ nhân tính hèn yếu của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mặt sáng của Người trên núi cao thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các ngài đã bỏ đi hết, thì lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?

Vì thế, Chúa Giêsu cho các môn đệ thấy mặt sáng của Người trước, qua việc tỏ cho các ngài thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Người, tỏ cho các ngài thấy Người là “Con Yêu Dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm Vườn Dầu sắp đến.

Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm Vườn Dầu và đêm khổ nạn. M.Twain người Mỹ đã từng nói “ai cũng có một vầng trăng và một đám mây đen.” Quả thật, trong cuộc sống, có những giây phút chúng ta cảm thấy thật hân hoan phấn khởi, nhưng cũng không thiếu những lúc chúng ta phải lầm lũi trong cô đơn trong sầu muộn. “Vầng trăng” và “đám mây” luôn đan xen trong cuộc đời chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ vinh quang trên núi Tabor để củng cố đức tin cho các môn đệ khi các ông gặp gian truân thử thách. Xin Chúa cũng nâng đỡ đức tin non yếu của chúng con để chúng con tin tưởng rằng: nếu cùng với Chúa vượt đêm đen của Vườn Dầu hôm nay thì chắc chắn cũng được chung phần vinh quang phục sinh với Chúa. Amen.

31.Đau khổ và vinh quang–Lm Hồng Phúc

Phúc Âm thánh Luca thường được gọi là Phúc Âm cầu nguyện. Tin Mừng nói đến 15 lần việc Chúa đi cầu nguyện thì 11 lần do thánh Luca.

Hôm nay, Chúa đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện và việc Chúa biến hình xảy ra trong giờ cầu nguyện đó. Nhiều khi người ta cũng chứng kiến cảnh một số các thánh mặt rạng rỡ trong khi đăm chiêu đàm đạo với Chúa.

Chúa Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor, cao khoảng 600 thước và cho các ông được chứng kiến vinh quang của Ngài, như một ngày kia các ông sẽ là nhân chứng cuộc hấp hối của Ngài trong vườn Cây Dầu. Trong đời của Chúa, đau khổ và vinh quang gắn liền với nhau thì trong cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng vậy. Sự đọc kinh cầu nguyện sẽ giúp ta vượt thắng đau khổ lo âu, biến hóa đau khổ thành vinh quang.

Đang khi Chúa cầu nguyện thì “diện mạo Ngài đổi khác thường”, như có ánh sang từ châu than loan tỏa ra, “áo Ngài trắng tinh sáng láng”, và hai bên có Moisê và Êlia xuất hiện. Hai nhà tiên tri đại diện Cựu ước cũng đã từng được chứng kiến vinh quang của Thiên Chúa trên núi Horeb (I Vua 19, 13-21), và Sinai (X.H 20, 2-17).

Ba Đấng đàm đạo về việc gì?

Luca là người duy nhất cho biết: “Về sự chết của Chúa sẽ thực hiện tại Giêrusalem”.

Chúa Giêsu là Con Chiên sẽ gánh hết tội nhân loại. Ngài là vật tế sinh. Ngài biết rằng Ngài đến cũng vì mục đích ấy. Vinh quang núi Taborê không làm quên lãng khổ nạn đồi Calvê. Khuôn mặt sang chói hôm nay, một ngày kia sẽ “không còn hình tượng” (Isaia). Áo chói lọi hôm nay, một ngày kia sẽ bị lột trần phân chia.

Là một người như chúng ta, Chúa cũng có tình cảm, cũng cần được chia sẻ trong những phút ưu phiền cô đơn, Moisê và Êlia đã từng bị bắt bớ có thể mang lại phân nào chút thông cảm và an ủi, trước giờ quyết định quan trọng.

Nhưng, nhất là lời kinh của Chúa đến thẳng Đức Chúa Cha “Đấng hằng tôn vinh Chúa Con” (Gio 8, 54). Bấy giờ từ trong đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Ba lần, có tiếng bởi trời vọng xuống để long trọng tôn vinh Đức Chúa Con; đó là sau khi Ngài chịu phép Rửa, khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, hôm nay trên núi biến hình và ngày mai khi sắp bước vào tuần tử nạn. Cuộc biến hình là một suy tôn bằng hành động rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa.

Câu kết luận Chúa dành cho chúng ta hôm nay: HÃY NGHE LỜI NGƯỜI. Moisê và Êlia đã biến mất, đạo cũ đã lùi vào dĩ vãng. Mọi chủ thuyết triết học, mọi ý thức hệ vắng bóng một thời rồi cũng sẽ bị lãng quên. “Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu”.

Văn hào André Froissard thuộc Hàn lâm viện Pháp đã được ơn “trở lại” lạ thường. Ông đã thuật lại trong cuốn sách thời danh “Có Thiên Chúa và tôi đã gặp Ngài”. Thân phụ ông, TTK đảng cộng sản Pháp, đã từng tuyên bố: “Nếu có Thiên Chúa thì tôi khuyên ‘ông ấy’ lo rút lui vì không ai thích ông”. Nhưng chính con ông lại được gặp gỡ Chúa và khẳng định: “Khi người ta được may mắn gặp Thiên Chúa thì mọi sự khác chỉ là trò hề. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng không làm cho tôi thất vọng kể từ một buổi sáng năm ấy, 1935” (Phỏng vấn của Paris Match 8-4-1988).

Lạy Chúa Giêsu là Đức Chúa và là Cứu Chúa của con, trong tay Ngài con được an toàn. Nếu Ngài gìn giữ con, nào con sợ chi.

Nếu Ngài ruồng bỏ con, con không còn gì để hy vọng nữa. Con xin Chúa ban điều tốt nhất cho con.

Và con xin phó thác hoàn toàn cho Chúa” (HY Newman).

32.Lắng nghe lời–Lm. Anmai, CSsR.

Thiên Chúa là một vị Thiên Chúa đầy quyền năng. Thiên Chúa vẫn bày tỏ quyền năng của mình bằng cách này hay cách khác, qua người này hay người kia để cho dân của Ngài biết rằng Ngài có quyền năng cũng như Ngài yêu thương dân của Ngài. Những ai được Thiên Chúa tỏ mình là những người được thương một cách đặc biệt, được chọn một cách hết sức là ưu ái.

Hôm nay, trang Tin mừng chúng ta vừa nghe, Thánh Luca thuật lại chuyện “Chúa Giêsu biến hình” để cho các môn đệ thấy vinh quang của Ngài. Rõ ràng, các môn đệ hôm nay được Chúa dẫn lên núi là những môn đệ được Chúa yêu hơn. Sự lựa chọn các môn đệ đi theo cũng mang tính chất biểu tượng: “Phêrô, Gioan và Giacôbê” những môn đệ được kêu gọi đầu tiên, những người tại nhà Zairô, đã là chứng nhân của sự toàn thắng trên cái chết (8,31-56).

Trang Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta dung mạo khác, dung mạo tuyệt vời chưa từng có của Chúa Giêsu do Thánh Luca thuật lại. Nếu để ý, trừ hai ba chi tiết, Thánh Luca ba lặp lại y nguyên những chi tiết giống như Máccô và Matthêu để gợi lại một kinh nghiệm không diễn tả được.

Nơi biến cố diễn ra hoàn toàn có tính cách biểu tượng đó là một “ngọn núi”. Theo truyền thống Thánh Kinh, núi chính là nơi con người gặp Thiên Chúa và cũng là nơi Thiên Chúa tỏ bày mạc khải của Người cho dân của Người.

Khung cảnh của biến cố này cũng mang tính chất biểu tượng: Đó là cảnh Chúa Giêsu cầu nguyện. Chỉ mình Luca đề cập đến chi tiết này. Theo Thánh Luca, lời cầu nguyện luôn đi theo những giây phút trọng đại trong sứ vụ Chúa Giêsu.

Lúc Người “cầu nguyện” trong ngày chịu phép rửa, trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người và có tiếng từ trời phán ra (3, 21-22). Sau khi lánh vào “núi rừng để cầu nguyện”, Người đã chọn 12 môn đệ (6, 12- 16). Khi Người “cầu nguyện một mình” Người đã đưa ra câu hỏi dẫn tới lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (9, 18-20). Và chẳng bao lâu nữa, ta sẽ thấy Người cầu nguyện trong vườn Giếtsêmani để tìm sức mạnh đảm đương cuộc chiến cuối cùng; biến hơi thở cuối cùng thành lời cầu nguyện (23.34 và 46); Phục sinh rồi giã từ môn đệ khi đọc lời nguyện chúc phúc cho họ (24,50-5 1).

Tại nơi đây, trên núi cao, chính “đang khi cầu nguyện” mà Chúa Giêsu chiếu lên luồng ánh sáng thần linh. Khác với Máccô và Mátthêu, Luca không nói về sự biến hình biến dạng; Thánh sử chỉ nói “dung mạo Người trớ nên khác thường” và “Y phục Người trắng rực rỡ”. Sau đó Thánh Luca viết rằng: “Phêrô và các bạn tỉnh giấc và được thấy vinh quang Chúa Giêsu”.

“Mặc lấy vinh quang” có nghĩa là tham dự vào ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa hằng sống, được nâng lên địa vị siêu tôn; y phục trắng ánh chớp, có nghĩa Chúa Giêsu đã tiến vào khung cảnh thiên đường. Như thế, Chúa Giêsu như được tạm thời mặc trước nguồn vinh quang Phục sinh mà Người sẽ được thừa hưởng khi sống lại. Tuy nhiên Luca nghĩ rằng có lẽ nguồn vinh quang này đã tiềm ẩn trong Chúa Giêsu từ trước Phục sinh và do kết quả của việc cầu nguyện, Chúa Giêsu không thể ngăn chặn luồng vinh quang ấy chiếu toả từ thân thể Người “Tin Mừng theo thánh Luca”

Một chi tiết khác rất giàu biểu tượng đó là: Sự hiện diện của hai khuôn mặt lớn trong Cựu ước: Môsê và Êlia, là hai nhân vật tóm tắt tất cả Lề Luật (Môsê) và các tiên tri (Êlia), hai nhân vật chính của Cựu ước đã loan báo rằng: “Đức Kitô phải chịu đau khổ rồi mới bước vào vinh quang” (Lc 24,26-27).

Sự hiện diện của các ngài là bằng chứng hết sức sống động nói rằng lời tiên báo của Chúa Giêsu về tương lai của Người hoàn toàn phù hợp với Kinh Thánh.

Một chi tiết riêng của Thánh Luca đó là “cuộc lên đường của Người” mà hai nhân vật Cựu ước bàn tới. Môsê là một nhân chứng sống trong cuộc Xuất hành, của núi Si- nai, của cuộc vượt qua Biển Đỏ sao vì ông là người thay mặt cho Chúa để điều khiển dân và cũng là đại diện cho dân để gặp gỡ Thiên Chúa. Còn Êlia, Êlia chẳng là vị tiên tri lớn đã phải chịu đau khổ vì Thiên Chúa và vì dân tộc trước khi được cất lên trong vinh quang thần thánh.

Chúa Giêsu cũng được mời gọi chịu đau khổ trước khi được “cất lên” như một Êlia mới vậy. Trong vinh quang thiên quốc Người cũng là Môsê mới trong cuộc Xuất hành mới, trong lễ Vượt Qua mới của một Giao ước mới, sẽ vượt qua biển sự chết để giải phóng dân Người và dẫn đưa họ đến Đất Hứa thật sự là Vương quốc của Cha Người.

Phêrô đã nhớ đến lễ Lều như một biểu tượng báo trước sự chấm dứt của lịch sử, đã đề nghị nắm chặt khoảnh khắc hiện tại bằng cách dựng “ba lều”. Nhưng Luca đã ghi nhận rằng mong ước cuộc thần hiển này kéo dài “ông không biết phải nói gì” vì ông vẫn chưa nhìn thấy viễn cảnh hổ nạn như một đoạn đường bắt buộc phải đi qua.

Lúc ấy Phêrô, Gioan và Giacôbê bị bao phủ trong “một đám mây” – Trong Thánh Kinh đó là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa – giống như Đức Maria trong ngày truyền tin, đám mây ấy “phủ bóng che rợp” các ngài. Các ngài “sợ hãi”.

Chính lúc ấy “một tiếng nói” vang lên trong đám mây cũng là tiếng nói khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan. Nhưng hôm nay, tiếng ấy không còn nói với Chúa Giêsu nữa (“Con là Con Ta, hôm nay Cha đã sinh ra Con”) nhưng nói với các môn đệ của Người: “Đây là Con Ta mà Ta đã tuyển chọn”. Người Tôi Tớ đau khổ (Is 42,1-8). Chúa Giêsu, Người đang đồng hành với họ, thường che giấu vinh quang của mình, nay đã thoáng tỏ ra cho họ. là Người con, nơi Người, Cựu ước được hoàn thành; Người là Đấng nói năng với một uy quyền lớn hơn Môsê và Êlia nên ta phải “lắng nghe” Người là Đấng ta phải đi theo trên con đường dẫn về Giêrusalem: về vinh quang, qua thập giá.

Những trải nghiệm hôm nay của các môn đệ cách riêng của Phêrô là trải nghiệm hết sức tuyệt vời vì đã được tận mắt chứng kiến vinh quang của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi Thầy của mình. Trong hạnh phúc tuyệt vời ấy Phêrô đã có ý muốn dựng 3 cái lều, muốn được ở lại trong vinh quang của Chúa Giêsu lắm nhưng khi trở về với đời thường thì khác. Trong hành trình theo Chúa, trong hành trình loan báo Tin mừng, đã hơn một lần Phêrô đã cản Chúa không cho Chúa lên Giêrusalem chịu nạn và cũng đã chối Chúa. Cuộc đời của Phêrô vẫn đâu đó vấp phải những điều chẳng hay chẳng lành.

Những điều mà Phêrô vấp phải cũng là những điều mà chúng ta cũng phải kinh qua. Nhìn lại cuộc đời của chúng ta, đã hơn một lần chúng ta cũng được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa trong đời mình nhưng sau đó chứng nào vẫn tật nấy, chuyện gì cứ y như cũ vậy và thậm chí còn tệ hơn trước nữa là đàng khác.

Từng say sưa với những thành công vang dội của Thầy, giờ đây họ chán nản khi gặp chống đối dữ dội. Đã hơn một lần các môn đệ thán phục và đón nhận Đấng Mêsia bây giờ vỡ mộng khi thấy Người bị phản đối. Cứ phân vân chọn lựa giữa “những sự dưới đất” và “những sự trên trời”. Cuộc đời mình có thể tin tưởng vào ai, tin tưởng cái gì? Đây là lúc thuận tiện để tỉnh cơn mê, vươn vai đứng dậy để chiêm ngưỡng “dung nhan của Chúa” và sẵn sàng lắng nghe Lời Người. Ánh sáng chói chan, làn sóng hạnh phúc khôn tả, thị kiến thoáng qua về “thế giới khác” với cõi phàm trần nơi các môn đệ cư ngụ. Bỗng dưng quá hạnh phúc khi thấy Thầy mình biến đổi và rồi cơn cám dỗ muốn bám vào cái kinh nghiệm tuyệt vời trong phút chốc lại đến. Từ nay các môn đệ đã biết rằng Chúa Giêsu là Đấng được Cha sai đến. Các môn đệ đã nhìn thấy vinh quang của Người khiến dung mạo Người ra khác. Tuy đã thấy dung nhan đời đời thực sự của Người, nhưng từ nay họ vẫn chỉ được nhìn khuôn mặt xác phàm của Người, khuôn mặt chẳng bao lâu nữa sẽ rướm máu cùng với đầu đội triều thiên là vòng gai.

Sau ngày Chúa Giêsu chịu khổ nạn và nhất là chịu chết ấy thì các môn đệ đã ra chán nản, thất vọng nhưng nhớ lại quyền năng và đặc biệt là Lời của Chúa Giêsu thì các môn đệ hăng hái lên đường rao giảng Tin mừng. Lời của Chúa mà hôm nay Chúa Cha nhắc cho các môn đệ cũng như nhắc cho mỗi người chúng ta thật tuyệt vời.

Hãy nghe Lời Người! Nghe Người và theo Người trở về với con con đường đầy chông gai của cuộc đời. Chỉ có Lời của Chúa Giêsu, giáo huấn của Ngài mới có thể khoả lấp mọi khát vọng của con người, mới lấp đầy mọi khoảng trống trong lòng của nhân loại. Nếu chúng ta để cho Lời của Chúa chi phối trong cuộc đời của chúng ta thì bảo đảm cuộc đời của chúng ta bình an và hạnh phúc và bình an đó, hạnh phúc đó là bình an và hạnh phúc thật chứ không như bình an và hạnh phúc của trần gians.

Nguyện xin Chúa ban thêm sức cũng như lòng tin nơi mỗi người chúng ta để cuộc đời của chúng ta dẫu thế nào đi chăng nữa cũng biết vâng nghe theo lời Chúa nói với chúng ta để chúng ta cũng như các môn đệ xưa hăng hái đi theo Chúa cho đến cuối cuộc đời dẫu cuộc đời của chúng ta còn nhiều chông gai, còn nhiều cạm bẫy.

33.Hãy biến hình để được sống trong vinh quang–Jos. Vinc. Ngọc Biển

Tin mừng Lc 9: 28-36: Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để mỗi người chúng ta sống tinh thần chiến đấu với ma quỷ cũng như những khuynh hướng xấu của tội. Đồng thời cũng là mùa của những đổi mới.

Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để mỗi người chúng ta sống tinh thần chiến đấu với ma quỷ cũng như những khuynh hướng xấu của tội. Đồng thời cũng là mùa của những đổi mới. Đổi mới từ con người nhu nhược, yếu hèn, trở nên một con người can trường, khẳng khái, cương quyết trước cám dỗ; từ con người bất xứng sang thánh thiện; từ con người già nua, tội lỗi, trở nên con người thanh xuân trong ân sủng.

Lời mời gọi đổi mới được chính Đức Giêsu mạc khải qua biến cố Biến Hình mà chúng ta cử hành hôm nay.

1. Ý nghĩa cuộc biến hình của Đức Giêsu

Thánh sử Luca trình thuật việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor. Sự kiện này diễn ra sau khi Ngài tiên báo về cuộc khổ nạn lần thứ nhất (x. Lc 9, 22) cũng như nói về điều kiện cần có của người môn đệ khi đi theo Ngài (Lc 9, 23-26), đồng thời nó cũng diễn ra trong bối cảnh Phêrô vừa tuyên xưng đức tin (x. Lc 9,18-21).

Qua việc biến hình, Đức Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các Tông đồ trước khi chứng kiến cuộc khổ nạn của Ngài, để các ông can đảm, trung thành làm chứng và chấp nhận chịu đau khổ khi cơm thử thách ập đến.

Mặt khác, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các ông biết rõ căn tính của Ngài là Thiên Chúa, Đấng từ trời xuống để đem con người về với Thiên Chúa trong vinh quang.

Khi mạc khải như thế, Đức Giêsu muốn lật tẩy những xu hướng và đam mê của các Tông đồ về Ngài theo kiểu trần tục, đó là việc thiết lập triều đại chốn trần thế…, để rồi chính bản thân các ông sẽ được bù đắp bằng những ân lộc trần gian chốn quan trường!

Qua đó, Ngài mời gọi các ông đi trên chính con đường mà Ngài đã đi, con đường đó là con đường tự hủy và khổ giá. Nếu sẵn sàng từ bỏ ý riêng, vác thập giá để đi theo Chúa, thì cuối con đường đó mới nở hoa vinh quang, vì: hạnh phúc, vinh quang không bao giờ dành cho những người trốn tránh đau khổ. Nếu có thì cũng chỉ là thứ vinh quang phù phiếm, hão huyền do con người tưởng tượng ra và gán ghép rồi đặt tên cho nó là hạnh phúc, chứ thực ra không có thật! Vinh quang có thật chính là vinh quang của những người can dự vào mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của chính Đức Giêsu; để đi từ đau khổ đến vinh quang.

Vì thế, muốn chiếm được vinh quang Nước Trời, người môn đệ phải chiến đấu không ngừng nghỉ, phải chấp nhận chết cho tội, ý riêng và ngay cả sự sống thể xác… Hành trình này quả là cam go, không dễ, sẽ có người chán nản mà bỏ cuộc, nên đây là lý do Đức Giêsu biến hình trước mặt các Tông đồ để củng cố niềm tin cho các ông.

2. Chúng ta cũng được mời gọi biến hình

Chúng ta không được diễm phúc chiêm ngưỡng cuộc biến hình của Đức Giêsu như Phêrô, Giacôbê và Gioan khi xưa! Nhưng chúng ta lại được mời gọi đi ngay vào cuộc biến hình của chính mình để được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.

Cuộc biến hình đầu tiên, đó chính là ngày chúng ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, khi ấy, con người tự nhiên của chúng ta có thể ví như được đặt vào một khuôn đúc mới để xuất hiện một hình ảnh mới, hình ảnh Đức Kitô, Đấng đã phục sinh.

Nhờ cuộc biến hình này, mà mỗi người chúng ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thành con Thiên Chúa và là đền thờ Chúa Thánh Thần.

Tuy nhiên, trải qua thời gian với những thăng trầm, yếu đuối của bản thân, nên sự tinh tuyền ấy bị ô uế, tâm hồn trong trắng bị vấy đục, khiến chúng ta trở nên con người cũ do tội lỗi vây phủ.

Điều này cho thấy, nơi con người chúng ta, luôn mang hình ảnh, dáng dấp, thái độ của Tông đồ Phêrô, hay như các Tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay. Khi cơn sốt sắng đến, chúng ta sẵn sàng từ bỏ mọi sự để được ở với Chúa, nhưng khi bả vinh hoa phú quý chào mời, chúng ta cũng tranh dành quyền lực và ganh đua nhất nhì với nhau trong sự ích kỷ, đê tiện của bản năng. Kinh nghiệm này đã được Thánh Phaolô thốt lên: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,19).

Thế nên, Mùa chay chính là thời điểm thuận tiện để chúng ta làm mới lại con người của mình, để xứng đáng với hồng ân cao quý mà chúng ta đã lãnh nhận thủa ban đầu nơi Bí tích Thánh Tẩy. Điều này đã được thánh Phaolô khuyên dạy: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24).

Như vậy có thể nói: nếu muốn được hạnh phúc, vinh quang, chúng ta sẽ phải biến đổi như thánh Phaolô mời gọi. Đây là điều kiện để được chung phần với Đức Giêsu trong vinh quang.

3. Không biến hình thì chẳng được chung phần với Chúa!

Khi cử hành lễ Chúa Biến Hình, chúng ta cần xác tín rằng: Thiên Đàng hay hạnh phúc không thể có được nếu chúng ta cứ sống một cuộc sống bê tha, ăn chơi, đàn điếm! Hạnh phúc Nước Trời chỉ có được sau những đêm ngày chiến đấu với bản năng, ý riêng, để chỉ sống cho Thiên Chúa và những giá trị Nước Trời, khi đã sẵn sàng khước từ sự níu kéo đầy hấp dẫn của thế gian.

Vì thế, có lẽ chúng ta phải lội ngược dòng để chấp nhận lột xác, có khi phải chấp nhận mất mát, cay đắng và đôi khi phải đánh đổi ngay cả mạng sống.

Các thánh là những người đã chấp nhận sống ngược đời vì chân lý và Tin Mừng để được đổi mới. Chẳng hạn như:

Môsê đã biến hình khi ông từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa. Êlia cũng vậy. Đức Giêsu thì đến chỉ để làm theo ý Chúa Cha. Phêrô và các Tông đồ, trong đó phải kể đến Phaolô, tất cả đều đã biến đổi từ con người nhát đảm, ham danh, hám lợi trở thành một con người can đảm, trung thành sống chết với đức tin, để chỉ còn giữ lại một mối lợi tuyết đối, đó là được biết Đức Giêsu và được ở trong Ngài.

Rồi nơi lịch sử Giáo Hội, đã có biết bao gương sáng về những cuộc đổi đời ngoạn mục đến kỳ diệu! Thật vậy, có những vị từ một người nghiện rượu, xì ke, ma túy đến nghiện Giêsu; từ những kẻ khát tình, trác táng chốn ăn chơi, trở thành người say mê Giêsu đến độ vì Ngài mà bỏ hết mọi sự; lại có người từ gái làng chơi trở thành vị thánh; có người dùng cả một hệ tư tưởng để chống đối đạo, đi theo bè rối, khi được biến đổi, họ đã trở thành người bảo vệ các chân lý đức tin đến chết trong anh dũng, kiên trung; có người từ trai tứ chiếng, đầu đường xó chợ lại trở thành đấng lập dòng…

Đây chính là mẫu gương điển hình về những cuộc biến hình trong Giáo Hội thời xưa và thời nay cũng như mãi về sau.

Mong sao, nơi sự kiện Chúa biến hình và những mạc khải của Ngài cũng như qua gương sáng nơi các thánh, chúng ta cũng hãy làm một cuộc biến hình mới của mỗi người để được trở nên giống Chúa và được chung hưởng hạnh phúc với Ngài bên các thánh trong Nước Hằng Sống. Amen.

34.Qua Thập Giá đến vinh quang–Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc

Tin mừng Lc 9: 28-36: Chính trong giây phút cầu nguyện, chìm sâu trong cuộc gặp gỡ ân tình với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã đón nhận kế hoạch cứu độ của Cha như lẽ sống của đời mình, đây cũng là lúc Ngài biến hình vinh quang, được tỏ lộ khi Ngài chấp nhận cái chết…

Năm 1982, các nữ tu Dòng Con Đức Bà Phù Hộ, quen gọi là Dòng Nữ Salêsiên ở Cáp bên Haiti, muốn thuê nhà điêu khắc Pêrikhết làm một cây thánh giá lớn để đặt trong nhà thờ mới của các chị. Nhưng lúc đó, ông Pêrikhết đã bị ung thư nặng.

Các chị nhờ một nữ tu cùng dòng đến gặp nhà điêu khắc để nói về ý định này. Hôm đó viên bác sĩ của ông cũng có mặt, ông nói với chị nữ tu:

– Lẽ ra chị phải đến đây sớm hơn. Rất tiếc là bây giờ căn bệnh ung thư của ông Pêrikhết đã quá nặng rồi. Im lặng một lát, bác sĩ quay sang nói với nhà điêu khắc:

– Ông là người có đức tin, vậy ông cứ tiếp tục hy vọng dù có điều gì xảy ra đi nữa.

Từ ngày đó, nhà điêu khắc Pêrikhết chẳng muốn cầm búa để rèn tác phẩm nghệ thuật nào nữa.

Vài ngày sau, một nữ tu lại đến gặp ông và năn nỉ:

– Ông Giovani Pêrikhết à, các nữ tu ở nhà thờ mới tại Cáp mong muốn ông làm cho các chị ấy một cây thánh giá thật đẹp, dài hai mét. Họ biết tài năng của ông mà. Trước khi trả lời dứt khoát cho họ, tôi muốn hỏi ý kiến ông một lần nữa.

Nhà điêu khắc trầm ngâm suy nghĩ và cầu nguyện, rồi ông bình thản nói với chị nữ tu:

– Tôi xin nhận lời. Cây thánh giá nầy sẽ là tác phẩm cuối cùng, tôi sẽ làm cây thánh giá nầy để chuẩn bị chết, và xin Chúa thương xót tôi.

Thế là nhà điêu khắc bắt tay vào công việc với tất cả tâm hồn của một người mong gặp được Chúa Giêsu. Đây thật là một công việc nặng nhọc vì bệnh tình của ông. Nhưng ông cảm thấy một điều thật lạ lùng, mỗi nhát búa đập trên thanh sắt nóng đỏ, thay vì làm cho ông mệt mỏi thêm, thì lại làm cho ông cảm thấy như được bồi dưỡng sinh lực trở lại. Ông tiếp tục làm việc ngày qua ngày, và khi ông hoàn thành cây thánh giá thật đẹp, ông cảm thấy như khỏe hẳn. Chúa Giêsu đã giải thoát ông khỏi căn bệnh quái ác.

Ngày nay, cây thánh giá do ông thực hiện vẫn còn được treo ở nhà thờ thành phố Cáp và tiếp tục thu hút nhiều tín hữu: người lành mạnh cũng như người đau yếu đến kính viếng.

Anh chị em thân mến,

Nhà điêu khắc Giovani Pêrikhết tưởng rằng cây Thánh giá ở nhà thờ thành phố Cáp ấy sẽ là tác phẩm cuối cùng. Ông dùng cây thánh giá ấy để chuẩn bị chết. Nhưng với niềm tin và lòng hăng say rèn cây thánh giá, Pêrikhết đã được Chúa thương cách đặt biệt và chữa cho khỏi bệnh ung thư. Đó là hình ảnh ơn cứu độ mà Thánh giá Chúa Kitô đã, đang và sẽ còn đem đến cho nhân loại. Chính vì để củng cố niềm tin và hy vọng của chúng ta vào ơn cứu độ và sự sống vinh quang ngang qua mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô, mà hằng năm, vào Chúa Nhật 2 Mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội cho nghe bài đọc Tin Mừng tường thuật cuộc Biến Hình vinh quang của Chúa Giêsu, nhờ đó người kitô hữu ý thức rằng Sự Chết và Phục Sinh, Thập Giá và Vinh Quang là hai mặt của cùng một thực tại cứu độ không thể tách rời nhau. Vinh quang mà không có khổ nạn chỉ là vinh quang của thế tục, sẽ nhạt nhòa theo năm tháng; ngược lại, khổ nạn mà không có vinh quang thì vô nghĩa và là một thất bại hoàn toàn. Do đó, sống tinh thần Mùa Chay có nghĩa là gắn bó chặt chẽ với cái chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô: chết đi cho con người cũ, con người tội lỗi, đối nghịch với Thập giá để cùng sống lại với Đức Kitô, Đấng có thể “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Bđ 2).

Đây chính là một quá trình lột xác đầy gian khổ nhưng cũng tràn ngập vinh quang mà sự kiện Chúa Biến Hình được gợi lại trong Chúa Nhật hôm nay, đã trở nên như một lời loan báo và một lời động viên khích lệ. Loan báo điểm tới là Phục Sinh đang ở phía trước, đồng thời động viên khích lệ người kitô hữu hãy can đảm tiếp tục cuộc hành trình.

Để có thể trung thành bước theo con đường Chúa Giêsu đã sống và đã vạch ra, người kitô hữu không thể coi nhẹ hay dửng dưng với tâm tình cầu nguyện. Chính trong giây phút cầu nguyện, chìm sâu trong cuộc gặp gỡ ân tình với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã đón nhận kế hoạch cứu độ của Cha như lẽ sống của đời mình, đây cũng là lúc Ngài biến hình vinh quang, được tỏ lộ khi Ngài chấp nhận cái chết như một phương thế tuyệt hảo để tỏ lòng vâng phục Cha và yêu thương nhân loại đến nỗi hiến dâng chính mạng sống mình. Vì thế, trong cuộc sống còn lắm vất vả bon chen và không hề thiếu vắng những cạm bẫy thử thách hôm nay, chỉ có sự chuyên cần cầu nguyện, thường xuyên đón nhận ánh sáng soi dẫn, và sức mạnh đỡ nâng của Chúa, người kitô hữu mới thoát khỏi sự hoang mang sợ hãi hay trạng thái mê ngủ, trốn tránh thực tại trần thế với những bổn phận và trách nhiệm phải thi hành. Đành rằng quê hương vĩnh cửu ở trên trời nhưng đường lên trời lại khởi đi từ mặt đất, từ chính cuộc sống phải xây dựng và làm cho phát triển mỗi ngày.

Anh chị em thân mến,

Một khi đã chiêm ngưỡng Đức Giêsu Kitô trên núi Biến Hình như Phêrô, Giacôbê và Gioan rồi, thì việc còn phải làm là đi theo Ngài trên con đường khiêm tốn phục vụ anh em và không vắng mặt trên các nẻo đường tiến lên đỉnh Golgôta, những nẻo đường đau thương và tử nạn thập giá với Ngài, với niềm xác tín rằng Đức Kitô Phục Sinh sẽ chia sẻ vinh quang cho các tín hữu trung thành.

Ước gì Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa chúng ta lãnh nhận trong thánh lễ hôm nay sẽ bổ sức, giúp chúng ta mạnh mẽ bước vào lòng đời để sống cho Chúa và cho enh em. Một cuộc sống lắm hy sinh gian khổ, nhưng cũng không kém vinh quang, vinh quang thấp thoáng hôm nay và sẽ bộc lộ trọn vẹn mai sau.

35. Kinh ngạc–Lm. Vũ Đình Tường

Kinh ngạc bao gồm hai ý nghĩa, khi thì rất đỗi ngạc nhiên, khi thì thất đảm kinh hồn. Đời người là một chuỗi những kinh ngạc liên tục xảy ra. Những kinh ngạc này như giây tơ vô hình nối chặt đời người giữa quá khứ với tương lai. Dựa vào những kinh ngạc xảy ra trong đời con người tìm hiểu nhận biết về chính mình.

Có những ngạc nhiên chúng ta vui vẻ chấp nhận. Lại có những ngạc nhiên chúng ta bàng hoàng và có những ngạc nhiên chúng ta sửng sốt đến sững sờ, không biết phải phản ứng như thế nào cho thích hợp. Cả hai kinh nghiệm ngạc nhiên, thất đảm đều cần thiết vì chúng giúp cân bằng cuộc sống. Nếu toàn thất đảm kinh hồn đời ảm đạm, thê lương. Khi đời lắm hào quang rực rỡ, ánh quang đốt cháy lòng khiêm nhường, chối bỏ ngay cả Đấng dựng nên ta.

Lanh lẹ hay chậm chạp, khôn hay khờ là kết quả của tự học những kinh ngạc trong đời. Không sách vở nào hướng dẫn, chỉ bảo, thay thế được kinh nghiệm kinh ngạc cá nhân. Chính cá nhân đó phải trải qua kinh nghiệm bản thân để khám phá ra con người thật của mình, hiểu biết thêm về mình nhiều hơn. Đời quả là thú vị nếu chịu học hỏi vì ngạc nhiên này dẫn đến ngạc nhiên khác, liên tục nối tiếp nhau khám phá mới lạ trong đời. Nguồn sống đó không bao giờ cạn, chỉ có thời gian tìm hiểu bị giới hạn, sức khoẻ và ý chí khám phá mỏi mòn.

Huyền Bí

Thắc mắc huyền bí cuộc đời, câu trả lời thường đến sau biến cố. Sự việc xảy ra xong, nhìn lại, kiểm điểm mới nhận biết câu trả lời có từ trước nhưng giờ này mới nhận ra. Con người luôn khao khát muốn biết thêm về những huyền diệu, mầu nhiệm đời người. Vì lẽ đó nhiều người, trong đó có cả Kitô hữu, bị các nhà thần bí dụ dỗ, lung lạc niềm tin. Thay vì tìm hiểu mầu nhiệm cuộc đời họ đi khám phá những huyền bí trong đời. Đã gọi là huyền bí thì không thể khám phá. Khám phá được thì không phải là huyền bí. Tìm câu trả lời cho tương lai dựa vào bói toán, chỉ tay, tướng số, tử vi một cách nào đó biểu lộ lòng tin hời hợt. Thiên Chúa sáng tạo huyền bí cuộc đời tin vào lời Ngài chính xác và chính đáng hơn là tin vào lời kẻ thông dịch huyền bí. Tin hời hợt khổ hơn là không tin.

Mầu Nhiệm Đời Người

Mỗi Kitô hữu là một mầu nhiệm trong tay Thiên Chúa sáng tạo. Vì thế không có hai người giống hệt nhau. Trông từa tựa thì có, giống hệt thì không vì Chúa không bao giờ lập lại cùng công việc Ngài đã sáng tạo. Mỗi giây, phút đều khác nhau, mỗi người là tạo vật đặc biệt duy nhất trong Chúa. Không giờ nào giống giờ nào, không ai giống ai nên các nhà huyền bí dựa vào đâu để đoán. Dựa vào giờ sanh, năm tháng, đồng hồ bệnh viện thường chênh lệch nhau vài phút. Sai một li đi một dặm. Dựa vào chỉ tay, khuôn mặt, tướng đi là tiên đoán ngoài da, không đi sâu vào tim, óc, lòng người. Vấn đề tâm linh phức tạp vạn lần hơn tim óc. Hoa tay, chỉ chân, mụn ruồi đâu giải thích nổi mầu nhiệm tình yêu sáng tạo.

Nói đến võ đoán là chấp nhận đúng/ sai. Nếu tin câu trả lời luôn đúng thì vần đề không phải là đoán mà là xác quyết. Để xác định cần có dữ kiện. Sự việc xảy ra rồi mới có dữ kiện. Đoán vận mệnh tương lai dựa vào dữ kiện là việc làm thừa, mông lung. Không ai cầm giữ được dữ kiện tâm linh chính xác vì không thể cân đo, thử nghiệm, lập đi lập lại được. Thiếu các điều kiện cân đo, thử nghiệm, câu trả lời thuộc phạm vi võ đoán. Đã là võ đoán thì ai cũng có thể đoán được cần chi đến các nhà huyền bí coi tướng số, chỉ tay, tử vi trọn đời.

Đời người là một mầu nhiệm. Vì là mầu nhiệm nên có tính thần thiêng, linh thánh. Thiên Chúa yêu thương con người nên tạo dựng con người. Thiên Chúa còn yêu thương mặc khải mầu nhiệm tình yêu qua các biến cố trong đời để giúp con người học biết đáp trả tình yêu Chúa và yêu thương đồng loại. Mặc khải không xảy ra cùng lúc nhưng từ từ bộc lộ để con người học biết, trưởng thành và khám phá thêm về chính mình, hương vị tình yêu và ý nghĩa cuộc sống. Toàn thể mầu nhiệm con người tóm gọn trong mối tình Chúa yêu ta. Tình yêu chân chính đòi dấn thân và hy sinh. Đó là con đường vinh quang của thập giá.

Chìa Khoá Yêu Thương

Tình yêu mặc khải qua biến cố, lo âu, đau khổ, bệnh tật, già nua Kitô hữu gọi đó là thập giá. Tình yêu còn mặc khải qua niềm vui, hạnh phúc, hoan lạc Kitô hữu coi đó là vinh quang thập giá. Đời người pha trộn giữa thập giá và vinh quang. Chìa khoá duy nhất khai phá mầu nhiệm này là thực hành cầu nguyện, chay tịnh và bác ái.

Thánh Luca 9 thuật lại dung mạo Chúa thay đổi trong lúc Ngài cầu nguyện và đàm đạo với tổ phụ Môisê và Êlia về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Jerusalem. Cuộc xuất hành chính là con đường khổ nạn Chúa sắp lãnh nhận.

Biến cố gồm niềm vui, nỗi buồn, đau khổ, bệnh tật. Chúa dạy các Tông đồ biến cố trên đời thường chóng, qua, tạm bợ như lều tạm các ông muốn xây trên núi thánh. Biến cố có thể gây cao hứng, chói loà mắt, làn mây mù che mờ mắt, mơ màng của giấc ngủ và xuống núi. Dựa vào Lời Chúa biến cố đều là chìa khoá tháo gỡ mầu nhiệm tình yêu. Đức Tin mạnh giúp nhận ra tình yêu Chúa qua biến cố. Tin nửa vời thường thông dịch là Chúa phạt.

Mầu nhiệm tình yêu hoàn toàn tháo gỡ khi con người trở về cùng Đấng đặt mầu nhiệm vào đời họ. Khám phá cuối cùng và cũng là khám phá thú vị nhất đến sau sự chết. Vì thế không ai có thể kể lại cho người khác biết về những gì họ đã biết. Nhân chứng duy nhất là Đức Kitô sống lại từ cõi chết kể lại có kẻ tin, người không. Trong số những kẻ tin lại có kẻ tin nửa vời, bán tín, bán nghi. Đời quả lắm ngạc nhiên.

36.Nếm trước–Lm. Vũ Đình Tường

Người nấu ăn thường hay thử trước món ăn đang nấu. Thử trước với mục đích tốt. Nhờ nếm thử trước mà biết được cần nêm nếm, thêm, bớt gia vị cho món ăn hoàn chỉnh, ngon miệng, hài lòng với thành quả. Vì nếm thử nên không bao giờ ăn nhiều. Nếu thử đến no bụng, thử biến thành ăn trước.

Hầu như mọi công việc, cẩn trọng đều tốt hơn là cẩu thả. Cẩn trọng cần thiết ngay cả trong lời nói vì thế sách Huấn Ca 26,16-21 ca tụng người cẩn ngôn là ân huệ Chúa ban.

Hình thức thử

Có nhiều hình thức thử khác nhau. Thầy giáo khuyên học sinh học ôn, tập luyện bài học trước khi các em dự thi. Thợ mộc đo đi, thử lại nhiều lần tránh trường hợp cắt sai, cưa dài, làm hư mộng, lệch khớp. Châm ngôn ‘thực hành dẫn đến hoàn thiện’ được các nhà thể thao triệt để áp dụng.

Sai đi

Đức Kitô sai môn đệ đi rao giảng Tin Mừng từng hai người một. Ngài dặn dò kĩ càng trước khi sai các ông đi. Sai đi trong Kinh Thánh chính là cho nếm thử tương lai. Tương lai mà ba môn đệ nếm thử đó là vinh quang nước trời. Các ông học được nhiều bài học quí về niềm tin và con người Đức Kitô.

Mặc khải

Bài học đầu tiên Chúa mặc khải cho các tông đồ biết vinh quang Chúa. Một vinh quang vượt quá mắt trần, trí tưởng và cảm xúc con người có thể cảm nhận được. Vinh quang ngời sáng bao trùm tâm trí Phêrô đến độ nói mà không nhận biết mình nói gì. Đây là một mặc khải đặc biệt.

Mỗi người Kitô hữu đều nhận được những mặc khải cá nhân mà đôi khi chúng ta không nhận ra đó là mặc khải, hoặc gọi bằng một từ khác đi. Thực ra, lần nào đó khi cầu nguyện mà cảm thấy tâm hồn sảng khoái, giờ cầu nguyện thoáng qua như phút giây. Đó chính là lúc con người cảm nhận ân sủng Chúa mặc khải riêng cho cá nhân đó. Cảm giác các tông đồ nhận được trên núi thánh là thấy Chúa gần kề, ngời sáng, hùng vĩ, oai phong nhưng lại rất gần, rất thực. Chúng ta nhận ra Chúa trong cuộc sống, qua câu nói, sự biết ơn hay niềm vui khi tha thứ và khi thực thi đức ái. Đây là những mặc khải cá nhân Chúa ban riêng cho từng cá nhân. Hãy trân trọng đón nhận những mặc khải cá nhân đó. Chúa ban ơn mặc khải riêng ta dường như ít trân trọng đón nhận. Trái lại ước mong đón nhận mặc khải Chúa ban cho người khác. Cũng là ơn mặc khải, sao lại khi trọng, khi coi thường. Bên trọng, bên khinh không phải là tâm tình chân chính, yêu Chúa chân tình.

Tông đồ phản ứng

Phản ứng nhất thời của các tông đồ phát xuất vì thiếu đắn đo suy nghĩ. Nói rõ ra phản ứng một cách vội vã, thiếu tinh thần cầu nguyện, thiếu cân nhắc ơn Thánh Thần hoạt động trong phán đoán. Mọi quyết định thiếu hướng dẫn của Thánh Thần đều là những quyết định thiếu khôn ngoan vì Thánh Thần là Đấng ban ơn khôn ngoan. Thiếu ý kiến, hướng dẫn của Thánh Thần thì không thể gọi là khôn ngoan được. Các ông phản ứng trong lúc tâm hồn mê man vì cảnh đẹp, rực rỡ, hào quang Thiên Chúa sáng rực bầu trời. Chính trong lúc tinh thần cao ngất các ông đưa ra quyết định, chọn lựa xin phép Chúa làm ba lều để cư ngụ trên núi thánh. Đức Kitô không đáp lại lời yêu cầu ngủ mê đó, dù phát xuất do thành tâm.

Ngủ mê

Tinh thần căng thẳng mấy ai ngủ ngon giấc. Trong tâm có thao thức, chao đảo, lo lắng, bồn chồn, mất ngủ là việc bình thường. Một người ngủ một cách êm thắm, bình an, người đó phải có một tâm hồn bình an, một thần khí sảng khoái. Đó chính là tâm tình của các tông đồ ngủ trên núi thánh. Các ông tìm được bình an nội tâm, các ông ngủ ngon vì có Chúa ở bên cạnh. Khác với giấc ngủ trên vườn Cây Dầu. Giấc ngủ đó có hơi men vì các ông dùng bữa Tiệc Li, có men rượu trước khi Thầy trò leo núi cộng với mệt mỏi.

Giấc ngủ yên lành là hạnh phúc Chúa ban. Chúng ta dâng lời cảm tạ do tinh thần thanh thản, thân xác thoải mái an bình.

Xuống núi

Tình trạng xuống núi biểu tỏ tâm tình của người sống trong cuộc sống hiện tại. Trong cầu nguyện đôi khi con người đụng chạm đến thần linh cũng cảm thấy tinh thần cao vời vợi, thần trí hoan lạc, mừng vui và muốn tiến bước mãi, không mệt mỏi, không chán nản. Rồi đùng một cái quay trở lại với thực tại, với hiện thực, với cuộc sống thường nhật.

Trên đường xuống núi Chúa cũng dậy các tông đồ bài học xuống núi. Cuộc sống thực tế không phải lúc nào cũng nhìn thấy trời quang, mây trắng bay, cảnh hùng vĩ của thiên nhiên. Cái đẹp ngây ngất của đất trời.

Cuộc sống thực tế có nhiều khó khăn đời người ai cũng ít nhiều trải qua. Cần trải qua gian nan, đau khổ trước khi thực sự sống cảnh vinh quang nước trời. Vinh quang được ban cho nhưng phải phấn đấu và trân trọng giữ gìn. Không thể coi thường, coi nhẹ.

Chúa nhắc nhở các môn đệ xuống núi đừng nói gì về điều tai nghe, mắt thấy vì vẻ huy hoàng, rực rỡ Chúa lớn hơn trí hiểu con người. Trần thế không gì sánh bằng. Để cảm nhận cần có đức tin. Không đức tin lời nói của các tông đồ trở nên truyện thần tiên, giả tưởng cho người nghe. Vì thế Chúa khuyên các ông nên giữ làm kỉ niệm riêng trong đời.

37.Chúa biến hình để biến đổi ta–Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Nếu như Chúa nhật I Mùa Chay Giáo Hội cho chúng ta nghe lại đoạn Tin Mừng Chúa Giêsu chịu Ma Quỷ cám dỗ thì Chúa nhật II mùa Chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đoạn Tin mừng về việc Đức Giêsu biến hình cho cả 3 năm phụng vụ, để khích lệ chúng ta bắt chước Chúa Giêsu chống trả Tên Cám Dỗ, cởi bỏ con người cũ, thay hình đổi dạng, mặc lấy con người mới, chết đi cho tội lỗi, sống cho Chúa, để qua cuộc biến đổi này mà trở thành một tạo vật mới với ân sủng của Chúa và dưới tác động của Chúa Thánh Thần.

Abraham được Chúa biến đổi

Nhân loại cũ do Adong kể như đã hư mất vì tội lỗi. Nhưng để biến đổi thành nhân loại mới, Thiên Chúa đã ký kết với Abraham một giao ước dưới dạng một bản giao kèo theo tập tục các chiến binh thời đó: được đóng ấn bằng việc xẻ thịt một bò cái tơ, một dê cái và một cừu đực. Thiên Chúa nhận của lễ Abraham dưới hình dạng ngọn lửa thiêu. Theo giao ước này, nếu Abraham nhận Thiên Chúa là Chúa của mình và tin vào Ngài, thì Thiên Chúa sẽ ban cho ông hai điều: một dòng dõi đông đúc và một vùng đất rộng rãi phì nhiêu. Abraham tin và tuân giữ nên ông được như Chúa hứa ban.

Biến đổi như Phaolô

Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã tường thuật về sự biến đổi đời ngài khi gặp Đức Kitô Phục Sinh, đồng thời mời gọi họ noi gương ngài biến đổi. Từ một kẻ hung ác bắt bớ Hội Thánh, Phaolô được Chúa biến đổi thành tông đồ hăng say rao giảng Tin Mừng. Ngài viết: “Anh em hãy bắt chước tôi, và hãy để mắt nhìn coi những người ăn ở theo như mẫu mực anh em thấy nơi chúng tôi” (Pl 3,17). Ngài than phiền khi thấy còn nhiều kẻ chưa biến đổi như ngài, họ vẫn còn thờ cái bụng, thờ cái ô nhục của thế gian. Thánh Phaolô đã khóc thương khóc cho số phận của họ, vì nếu họ không biến đổi thì số phận họ sẽ hư vong là chắc. Thánh Phaolô khẳng định: “Quê hương chúng ta là quê trời, nơi đó chúng ta mong đợi Đấng Cứu Chuộc là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Pl 3, 20). Ngài cầu nguyện cho họ nhận ra quê hương thật ở trên trời để họ mong đợi Đức Giêsu Kitô đến biến đổi họ nên giống Người, sống khăng khít với Người. Đó là niềm vui và vinh dự thực sự của họ và của thánh Phaolô.

Chúa biến hình để ta được biến đổi

Thánh sử Luca nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa ba ông lên núi cầu nguyện, và đang khi cầu nguyện bỗng có hai vị đàm đạo với Người, là Môsê và Êlia. Việc Chúa Giêsu biến hình là mẫu gương cho mọi người noi theo để cố gắng biến đổi con người cũ thành con người mới. Chúa biến hình, loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua và mời gọi chúng ta mở rộng cặp mắt, con tim để nhìn thấy mầu nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Bốn thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần.

Chúa biến hình vinh quang sáng láng, để chúng ta được biến đổi từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.

Trong lịch sử dân Chúa, chúng ta phải nhìn nhận ơn Chúa biến đổi phận người. Cụ thể như Abraham người thành Ur thuộc Mesopotamia đã từ bỏ ruộng vườn, nhà cửa đang ổn định để đi tìm sự vất vả, sống thiếu thốn và khó khăn tiến về xứ Canaan. Trước mặt ông là dải sa mạc mênh mông, nắng cháy da diết, cỏ cây úa vàng, giọt nước quí hơn kim cương. Ông lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Chúa đã biến đổi ông thành anh hùng lập quốc, được chúc phúc.

Phaolô, từ kẻ kiêu căng cuồng tín biệt phái, hung hăng bắt đạo, được biến đổi thành người Tông đồ Dân ngoại dễ mến dễ thương.

Lịch sử Giáo hội còn ghi nhận nhiều cuộc biến đổi khác. Có những vị từ gái giang hồ biến đổi thành thánh nhân, từ kẻ khô khan đến người sốt mến, từ người tham lam, hà khắc trở thành người rộng lượng và khoan nhân… Đó là những cuộc canh tân và biến hình đã, đang và còn tiếp tục xảy ra trong Giáo hội.

Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của thập giá Chúa và ban ơn cho chúng con biết sống mầu nhiệm thập giá Chúa trong cuộc đời, để được sống lại vinh quang với Ngài. Amen.

38.Chúa đẹp vô cùng–Lm. Micae Võ Thành Nhân

Hôm nay, Chúa biến hình trên núi Tabo trước mặt ba tông đồ là thánh Phêrô, thánh Giacôbê và thánh Gioan. Chúa sáng láng. Chúa đẹp vô cùng. Bỗng có hai vị đàm đạo với Chúa. Đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, nói vế sự chết của Chúa sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Cuối cuộc biến hình của Chúa là lời Chúa Cha tuyên phán: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người” (Lc 9, 35).

Trong lúc dường như Chúa vinh quanh, tráng lệ, danh dự, uy quyền như thế, thì Chúa Cha lại tuyên dương Chúa là Người Con chí ái của Chúa Cha. Điều này giống như Chúa Cha khoe với loài người chúng ta qua ba vị thánh tông đồ hôm đó là Chúa Cha có Chúa là một Người Con quá tốt đẹp, không gì có thể sánh ví và thay thế được. Đây là lần thứ hai Chúa Cha tuyên dương Chúa. Lần thứ nhất Chúa Cha tuyên dương Chúa khi Chúa chịu phép rửa tại sông Giođan (xLc 3, 21 – 22). Hai lần Chúa Cha tuyên dương Chúa trong bối cảnh cuộc sống của Chúa dường như bình thường, không có là xáo trộn, như là Chúa đi chịu phép rửa, Chúa đứng về phía chúng ta, Chúa đi lên núi, Chúa biến hình xinh đẹp vô cùng, để làm động lực cho chúng ta đi vào con đường thập giá của Chúa. Nhưng lần quan trọng nhất trong cuộc đời của Chúa, có lần này thì hai lần trước kia mới tràn đầy ý nghĩa. Đó là Chúa lúc chịu chết trên cây thập giá. Đàng khác, sâu sa của việc Chúa Cha tuyên dương Chúa lần thứ hai là Chúa vâng lời Chúa Cha, chấp nhận chịu chết trên thập giá để cứu chúng ta. Chúa đồng ý thôi chứ Chúa chưa có chịu chết trên cây thập giá thật sự mà Chúa Cha đã tuyên dương Chúa, và rồi đến khi Chúa chịu chết thật sự trên cây thập giá mà chúng ta thấy Chúa Cha không có tuyên dương Chúa. Dường như lúc Chúa chịu chết, Chúa Cha im lặng, Chúa Cha không nói gì, giống như Chúa Cha bỏ rơi Chúa, Chúa cảm thấy cô đơn, trống vắng, khiến cho Chúa phải nói: “Lạy Thiên Chúa, Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” (Mc 15, 34). Chúa nói với Chúa Cha như thế, lòng chúng ta cảm thấy nghẹn ngào, chua xót, lúc Chúa vinh quang thì Chúa Cha tuyên dương Chúa, còn lúc Chúa quá đau khổ, chịu chết vì vâng lời Chúa Cha và vì thương chúng ta, Chúa Cha bỏ rơi Chúa, chẳng quan tâm gì Chúa? Chúng ta không hiểu nỗi.

Không phải vậy đâu, lúc Chúa chịu chết, Chúa Cha đau khổ vô cùng. Chúa Cha đau đến nỗi mà Chúa Cha không nói nên một lời nào cả. Chúng ta có thể nghĩ rằng khi Chúa chịu chết một cách đau thương thảm khốc như vậy, Chúa Cha hối hận vì để cho Chúa vâng lời mà bây giờ phải chịu cảnh tang thương này. Nhưng Chúa Cha không bỏ rơi Chúa đâu, Chúa Cha vẫn ở bên cạnh Chúa, đỡ nâng Chúa, an ủi Chúa. Như vậy, bài học chúng ta có được khi Chúa biến hình trên núi Tabo là:

– Chúa biến hình trên núi và cái chết trên thập giá đi đôi với nhau. Chúa đẹp vô cùng, Chúa lẫm liệt oai phong vô cùng, Chúa quyền năng vô cùng….thế mà Chúa bỏ tất cả những điều Chúa được hưởng để đến trần gian sống với chúng ta, chịu chết vì chúng ta. Đó là do Chúa thương chúng ta vô cùng.

 – Chúa phải đi qua con đường thập giá, con đường hy sinh, gian khổ, cơ cực, thiếu thốn trăm bề, vác thập gía lên đồi Calvê, chịu đóng đinh vào thập giá, chịu chết, chịu táng xác, rồi ngày thứ ba mới sống lại. Đó là Chúa nói với chúng ta, chúng ta thương Chúa thì phải trở nên giống Chúa. Chúng ta phải đi con đường thập giá đời mình, vác thập giá theo Chúa. Thập giá đó là bệnh hoạn tật nguyền, gian nan, trắc trở, đói khát, thất bại, nợ nần…và cuối cùng là đóng đinh tính xác thịt vào thập giá để mới có thể Chúa cho sống lại vinh quang giống như Chúc. Còn nếu chúng ta coi trọng cái bụng của mình, ưa chuộng những điều trên đời này, đặt vinh quang trên ô nhục, sống nghịch lại thập gía của Chúa, chúng ta sẽ hư vong (xPl 3, 18 – 19)

Chúa cho các tông đồ và chúng ta thấy trước vinh quang của Chúa để các ngài và chúng ta không thất vọng khi Chúa đi vào cuộc khổ nạn, và để chúng ta đi con đường thập giá mà đạt đến hạnh phúc nước Trời. Trong lúc chúng ta vác thập gía theo Chúa chúng ta tràn trề hy vọng được ơn phục sinh với Chúa: “Phần chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Đấng Cứu Chuộc là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác yếu hén của chúng ta nên giống thân thể sáng láng của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để bắt muôn vật suy phục Người” (Pl 3, 20 – 21). Chính Chúa sẽ là Đấng làm biến đổi con người chúng ta khi theo Chúa. Chúa biến đổi chúng ta như xưa thời Cựu Ước, Chúa chọn Abraham, và ông bỏ thành Ur xứ Calđê theo Chúa để rồi Chúa ban cho ông con cháu đông như sao trên trời, như cát ngoài biển, được đất chảy sữa, mật ong làm gia nghiệp (xSt 15, 5 – 12. 17 – 18).

Lạy Chúa, xin Chúa ban cho chúng con được nhìn thấy những ơn lành Chúa ban trong cuộc sống đời tạm này, xin cho chúng con biết kiên trì trông đợi Chúa, và phẩn khởi trong lúc đợi trông Chúa đến ban ơn cứu độ cho chúng con, xin cho chúng con biết biến đổi con người chúng con làm theo ý Chúa để Chúa thưởng ban thiên đàng cho chúng con.

 Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy, cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Amen.

39.Đức Giêsu đang cầu nguyện –Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần 2 Mùa Chay, Năm C này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã dạy chúng ta phải vâng nghe Con Yêu Dấu của Chúa, xin Chúa lấy lời hằng sống, mà nuôi dưỡng đức tin của chúng ta, nhờ vậy, cặp mắt tâm hồn chúng ta sẽ trong sáng, để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng ta.

Vâng nghe Con Yêu Dấu, để thuộc về đoàn dân Chúa dẫn dắt, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Xuất Hành cho thấy: Đường dẫn tới Đất Hứa, qua Biển Đỏ. Chính Thiên Chúa dẫn đầu Dân. Kẻ thù bại trận có thể tìm lại được sức mạnh, để đuổi theo và bắt kịp, nhưng, đã có Thiên Chúa hiện diện: Người sẽ ra tay bảo vệ dân Người. Thuở Ítraen ra khỏi Aicập, thuở nhà Giacóp rời bỏ ngoại bang, thì Giuđa trở thành nơi Chúa ngự, Ítraen nên lãnh địa của Người. Bấy giờ ĐỨC CHÚA đi đằng trước họ, trong một cột mây để dẫn đường.

Vâng nghe Con Yêu Dấu, để vững tin trước những bách hại của Mầu Nhiệm Thập Giá, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Lêô Cả nói: Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có… Anh em đã tới cùng Vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giêsu. Anh em phải coi chừng, chớ từ chối không nghe Đấng phán dạy. Quả thật, những ai từ chối không nghe Đấng tuyên sấm ở dưới đất, đã không thoát khỏi hình phạt, huống hồ là chúng ta, làm sao chúng ta thoát được, nếu chúng ta quay lưng lại không chịu nghe Đấng tuyên sấm từ trời. Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người phán: Các ngươi chớ cứng lòng.

Vâng nghe Con Yêu Dấu, để được gìn giữ, chở che, và sau này, được hưởng phần gia nghiệp Chúa hứa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Sáng Thế cho thấy: Thiên Chúa lập giao ước với ông Ápram vì ông tin Chúa. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 26, vịnh gia cho thấy: Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành lũy bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa? Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa. Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói: Đức Kitô sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Từ đám mây sáng chói, tiếng Chúa Cha phán rằng: Đây là Con Yêu Dấu, làm vui thỏa lòng Ta, hãy vâng nghe lời Người. Trong bài Tin Mừng, thánh Luca tường thuật: Đang lúc Đức Giêsu cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác. Con Yêu Dấu của Cha, làm vui thỏa lòng Cha, bởi vì, Người luôn vâng theo ý Cha, và ta cũng sẽ làm vui thỏa lòng Cha, nếu ta vâng nghe lời Con của Người. Đức Giêsu đang cầu nguyện, thì dung mạo Người bỗng đổi khác; đang cầu nguyện, là đang tìm thánh ý Cha; mà tìm thánh ý Cha, thì sẽ biết được ý của Người, và vì thế, sẽ làm cho “dung mạo” đầy cái tôi, đầy ý riêng của ta bỗng đổi khác, để vâng theo ý Người. Chúa Cha muốn ta đi qua Mầu Nhiệm Thập Giá: theo Đức Kitô trong đau khổ, để được ở với Người trong vinh quang. Cầu nguyện sẽ giúp ta biết ý định của Chúa Cha, và khi đã biết ý Người, ta không còn phải sợ chịu khổ vì sống công chính, không còn nghi ngờ về phần thưởng mai sau. Đức Kitô đã đón nhận mọi tật nguyền thuộc bản tính yếu hèn của ta: Nếu ta kiên trì tuyên xưng và yêu mến Người, ta sẽ chiến thắng như Người đã chiến thắng. Vậy, muốn có sức thi hành các lệnh truyền, cũng như, chịu đựng được các nghịch cảnh, thì, ta phải vâng nghe lời Người. Chúa Cha đã dạy ta phải vâng nghe Con Yêu Dấu của Người, ước gì ta biết lấy lời hằng sống, mà nuôi dưỡng đức tin của ta, nhờ vậy, cặp mắt tâm hồn chúng ta sẽ trong sáng, để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng ta. Ước gì được như thế!

40.Chúa Nhật 2 Mùa Chay–Lm. Anthony Trung Thành

Tin Mừng hôm nay tường thuật cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabore. Lâu nay, các Tông Đồ chỉ xem thấy Ngài dưới hình dạng một con người bình thường.

Hôm nay, các ông thấy Ngài biến đổi thành một vị Thiên Chúa. Mùa chay là mùa tập luyện nhân đức để được biến đổi. Có hai cách biến đổi: Biến đổi theo hướng tích cực và biến hình theo hướng tiêu cực. Từ một con người xấu trở thành con người tốt hoặc từ một người tốt trở thành con người tốt hơn gọi là biến đổi theo hướng tích cực. Ngược lại, từ một con người tốt trở thành con người bình thường hoặc từ một con người tốt trở thành con người xấu gọi là biến đổi theo hướng tiêu cực.

1. Biến đổi theo hướng tích cực

Lần giở lại Kinh Thánh chúng ta bắt gặp nhiều trường hợp đã biến đổi theo hướng tích cực này. Chẳng hạn, dân thành Ninivê, từ vua chúa đến thường dân, khi nghe lời rao giảng của tiên tri Giona, đã ăn năn sám hối, biến đổi cuộc sống của mình. Lêvi, Giakêu, Madalêna là những người có quá khứ tội lỗi nhưng khi gặp Đức Kitô, các ngài đã trở thành những con người tốt. Rồi, sự biến đổi của Phaolô, Phêrô…Lịch sử Giáo hội cho chúng ta thấy bao nhiêu người từ tội nhân đã trở thành thánh nhân. Trong chuyến thăm Ciudad Juarez – Mễ Tây Cơ tuần này, Đức Phanxicô đến thăm ‘Centro de Readaptacion Social estatal no. 3’ nơi giam giữ khoảng 3000 phạm nhân đang chịu án. Một nữ tù nhân nói với Ngài: “Khi bị tuyên án, chúng con khóc. Chúng con cảm thấy cùng quẫn, chúng con tuyệt vọng. Và chúng con bắt đầu tự hỏi mình những câu mà chúng con không muốn biết câu trả lời: Khi nào sẽ được ra? Gia đình có còn thương mình không? Họ có quên mình không? Chúng con cảm thấy nguy hiểm, yếu đuối, và cô độc”. Đáp lại những lời day dứt đau đớn này, Đức Phanxicô nói: “Người đã phải chịu đau khổ lớn nhất, có thể nói là ‘đã trải qua địa ngục’ có thể trở thành một ngôn sứ trong xã hội” (x. phanxico.vn ngày 18/02/2016).

Với chúng ta, từ những con người mang thân phận tội lỗi Adong, nhờ Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được biến đổi trở thành con Thiên Chúa. Và không thiếu những lần chúng ta đã sa vào con đường tội lỗi, nhưng với lòng sám hối ăn năn, Bí Tích Hoà Giải đã biến đổi chúng ta trong sạch, trả lại tình trạng ban đầu. Xin Chúa luôn gìn giữ chúng ta, giúp chúng ta dầu trong hoàn cảnh nào cũng biết hy vọng tin tưởng vào Chúa để được biến đổi theo hướng tích cực này.

2. Biến đổi theo hướng tiêu cực

Đáng tiếc thay, có những người không biến đổi theo chiều hướng tích cực mà lại biến đổi theo chiều hướng tiêu cực. Nghĩa là từ một con người tốt đã trở thành con người bình thường, thậm chí từ một con người tốt trở thành một con người xấu. Một Giuđa Tông Đồ, đã biến thành kẻ phản bội, người bán Chúa. Có những kitô hữu lúc đầu tốt nhưng rồi trở thành những người đam mê cờ bạc, rượu chè, trai gái, gian dối, lừa đảo…Có những bậc cha mẹ sống vô trách nhiệm, không quan tâm giáo dục con cái; có những người con bất hiếu, không quan tâm đến cha mẹ khi các ngài yếu đau bệnh tật…Nếu ai đang sống trong tình trạng trên, hãy dùng Mùa Chay thánh này để biến đổi, trở thành những người tốt có ích cho bản thân, gia đình, Giáo hội và xã hội.

3. Để biến đổi theo chiều hướng tích cực, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:

Thứ nhất, phải trải qua Thập giá: Khi Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn, Thánh Phêrô đã can ngăn Chúa. Nhưng khi thấy Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê, Thánh Phêrô lại xin Chúa lưu lại ở đó. Phản ứng của Phêrô cũng là phản ứng của con người qua mọi thời đại: “Thích sướng ngại khổ”. Nhưng để tới vinh quang cần phải qua đau khổ. Chính Chúa Giêsu đã đi con đường đó, Ngài nói: “Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”(Lc 9,22). Các Tông đồ, đặc biệt là các thánh Tử đạo cũng đã đi con đường đau khổ mà Chúa đã đi. Đến lượt chúng ta, muốn tới vinh quang cũng không thể bỏ qua con đường đau khổ. Chúa Giêsu đã nói: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống”(Mt 16, 24). Nơi khác, Ngài nói: “Nước trời phải chiếm bằng sức mạnh”(x. Mt 11,12); “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”(x. 13,24).

Kinh nghiệm cuộc sống thường ngày cũng cho chúng ta thấy, cần phải qua đau khổ mới tới vinh quang. Học sinh muốn đỗ đạt trong các kỳ thi cần phải chịu khó trau dồi kinh sử. Nông phu muốn có mùa màng bội thu cần phải cày sâu cuốc bẫm. Người cha người mẹ muốn có tương lai tốt đẹp cho con cái cần phải nuôi nấng, săn sóc và dạy dỗ chúng nên người. Nếu chúng ta biết vận dụng đau khổ thì đau khổ là phương tiện để biến đổi chúng ta trở thành người tốt, trở nên hoàn thiện như Cha chúng ta là Đấng hoàn thiện.

Thứ hai, hãy bắt chước Thánh Phaolô: Thánh Phaolô đã kêu gọi chúng ta bắt chước Ngài: “Anh em hãy bắt chước tôi” (Pl 3,17). Ngài muốn chúng ta bắt chước Ngài về sự biến đổi: Từ một người bắt bớ Giáo hội, Ngài đã biến đổi thành một vị tông đồ loan báo Tin mừng cho dân ngoại. Bắt chước Ngài ở lòng tin vững mạnh, Ngài luôn xác tín rằng: “Tôi biết tôi tin vào ai”(x. 2Tm 1,12). Bắt chước Ngài ở niềm cậy trông vào Chúa là vị thẩm phán chí công: “Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện”(2Tm 4,8). Bắt chước Ngài ở lòng mến sắt son: “Không có gì tách biệt chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa”(x. Rm 8, 39). Thánh Phaolô đã sống nhưng không còn là Ngài sống nữa mà là Đức Kitô sống trong Ngài (x. Gl 2,20). Ngài đã đồng hoá mình với chính Đức Kitô.

Để biến đổi chính mình, chúng ta cần bắt chước Thánh Phaolô về Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến. Bởi vì, chính chúng ta cũng phải làm gương cho những người khác, nhất là những người thuộc trách nhiệm chúng ta coi sóc: Người mục tử nói với đoàn chiên “Hãy bắt chước tôi”; Người trên nói với người dưới “Hãy bắt chước tôi”; Thầy cô giáo lý viên nói với các học sinh của mình “Hãy bắt chước tôi”; Các bậc làm cha mẹ nói với con cái “Hãy bắt chước tôi”. Bắt chước những điều tốt đẹp để hoàn thiện mình mỗi ngày nên giống Chúa. Được như vậy, xã hội chúng ta sống sẽ bớt đi các tệ nạn, con người sống với nhau sẽ có tình nghĩa. Mọi người, mọi nhà sẽ được an vui.

Thứ ba, hãy cầu nguyện: Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy: “Đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện, thì khuôn mặt Ngài được biến đổi”(x. Lc 9,29). Trong ba năm sống công khai, Chúa Giêsu không những dạy cho chúng ta cầu nguyện mà Ngài còn làm gương cho chúng ta. Ngài cầu nguyện trước các biến cố quan trọng: Trước khi chọn các tông đồ; trước khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều; trước khi bước vào cuộc khổ nạn. Ngài dạy chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện. Bởi vì: “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Mt 7,7).

Thật vậy, lời cầu nguyện có sức biến đổi lạ thường. Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã nói: “Ai nói được mãnh lực của lời cầu nguyện? Sốt sắng như các Tông đồ và Đức Mẹ trong nhà tiệc ly, phó thác như Chúa Giêsu ở vườn cây Dầu, quyết định như Maisen giang tay trên núi, được tha thứ như người trộm lành”(ĐHV số 135). Đức Thánh Cha Phanxicô đã xác quyết rằng: “Lời cầu nguyện chân thành khiến phép lạ xảy ra và giúp con tim chúng ta không bị chai cứng. Lời cầu nguyện sẽ biến đổi Giáo hội. Không phải chúng tôi, các Giáo hoàng, Hồng y, Giám mục, linh mục làm cho Giáo hội tiến về phía trước mà là chính các thánh.” (Bài chia sẻ ngày 12.01.2016 tại nhà nguyện Thánh Marta).

Mùa chay là mùa tập luyện để được biến đổi. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết biến đổi mình bằng cách: “từ bỏ mình vác thập giá mỗi ngày”, bắt chước gương biến đổi của Thánh Phaolô Tông đồ và siêng năng nguyện cầu.

Lạy Chúa Giêsu, qua Bí tích Rửa tội Chúa đã biến chúng con thành Con Thiên Chúa, thành hình ảnh của Ngài. Nhưng qua thời gian, hình ảnh đó đã bị thay đổi. Trong mùa chay thánh này, xin cho mỗi chúng con biết cố gắng tập luyện nhân đức, biết siêng năng cầu nguyện, “bắt chước” thánh Phaolô để biến đổi mình trở về tình trạng ban đầu, đó chính là hình ảnh của chính Chúa. Amen.

41.Tin là tín thác vào Chúa–Lm. Joshepus Quang Nguyễn

Bài đọc 1 nghe kể lại câu chuyện việc Thiên Chúa lập giao ước với tổ phụ Abraham vì ông tin Chúa. Qủa thế, tổ phụ Abraham đã tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa, tin vào lời Ngài hứa và tương lai mà Thiên Chúa hoạch định ra cho ông, ngay khi mà ông chưa có được gì cả. Chính thái độ tín thác hoàn toàn này khiến Abraham thành mẫu gương và là cha của những người có lòng tin thuộc mọi thời đại. Tin như tổ phụ Abraham nghĩa là tín thác bước đi theo chương trình Thiên Chúa đề nghị với chúng ta. Một chương trình bí nhiệm khác với những gì chúng ta tưởng nghĩ và mong ước. Tin có nghĩa là sẵn sàng ra khỏi môi trường sống đảm bảo, ra khỏi những thói quen, kiểu cách sống qui ước của loài người để đưa ra tay ra nắm chặt lấy bàn tay của Chúa để cho Ngài hướng dẫn và bước đi theo Ngài, chỉ cậy dựa vào và tín thác vào Thiên Chúa và Lời Thiên Chúa.

Cho nên, bài Tin Mừng thuật lại việc Chúa Giêsu biến hình có ông Mô-sê và ông Ê-li-a. Tại sao không phải là tổ phụ Abraham hay Gia-cóp mà là ông Mô-sê và Ê-li-a, bởi vì hai ông là hai gương mặt diễn tả tất cả Thánh Kinh, diễn tả tất cả Lời Chúa mà tín hữu cần phải biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa chỉ dạy mỗi ngày. Qua biến cố biến hình, Thiên Chúa không chỉ mời gọi chúng ta biết lắng nghe và sống Lời Ngài là Tin Mừng của Chúa Giêsu, mà còn mời gọi chúng ta bước vào cuộc sống giao ước mà chúng ta ký kết với Ngài trong sự phó thác và tin tưởng khi nhận lãnh Bí tích Rửa Tội.

Vì vậy, đối với Kitô Giáo, tôi theo Đạo không chỉ là tin Chúa và Lời Chúa mà theo Đạo là tôi bước vào một giao ước với Thiên Chúa, có nghĩa là tôi bước vào đời sống đức tin với Chúa trong yêu thương, tín thác và sẵn sàng thi hành Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Như vậy, người có Đạo Công giáo là người có đức tin sống động giữa ta với Thiên Chúa, gọi là sống Đạo. Qủa thế, đức tin dẫn chúng ta vào giao ước với Thiên Chúa. Giống như cuộc sống hôn nhân đòi hỏi quan trọng của giao ước là trung tín. Ví dụ, một anh thanh niên có thể có 5-7 cô bồ nhưng khi thành hôn với một cô nào đó thì phải giữ lời cam kết giao ước là trung tín đến cùng: “Anh sẽ giữ lòng trung tín với em khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe…”. Đời sống với Thiên Chúa cũng vậy, chúng ta được mời gọi trung tín với Thiên Chúa và tín thác vào lòng thương xót Chúa trong lúc bình an cũng như trong đêm tối của cuộc sống đức tin.

Chúng ta đang trong Tháng Kính Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Mẹ Maria, Tin Mừng kể chúng ta thấy cuộc đời Ngài cũng lắm thách đố và đau khổ. Chẳng hạn, chàng trai cưới vợ nhưng chưa chung sống thì vợ mình đã có thai, Giuse phải đau khổ lắm! Thế nhưng, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho Ngài biết “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20); rồi Thiên Thần khuyên Giuse “rước Maria về nhà mình” (Mt 1,20). Nhận ra thánh ý Thiên Chúa “Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về” (Mt 1,24) trong khi bị người đời chê trách, vì có ai biết đó là ý Chúa đâu? Rồi, Đức Mẹ sinh Chúa khó khăn cực khổ tại Bêlem, thì Chúa lại bảo ông chỗi dậy đi ngay giữa đêm khuya, không hành trang, không tiền bạc sang Aicập sống kiếp lưu đày. Cuộc sống trước mắt của Thánh Giuse lúc ấy là lắm gian truân vất vả, nhưng thánh Giuse luôn tin và tín thác vào Chúa nên ngài đã vâng phục “Chỗi dậy, ông đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Aicập ngay giữa đêm khuya” (Mt 2,14). Rồi khi đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ quê người với một cơ ngơi bé nhỏ mà Giuse đã gầy dựng từ hai bàn tay trắng, Chúa lại bảo ông phải bỏ lại tất cả để ra đi, đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel” (Mt 2,21), thánh Giuse vâng lời thánh ý Chúa lên đường về lại quê hương. Rồi các môn đệ hôm nay trên núi Tabor, họ thấy vinh quang Chúa tỏ hiện như một ánh chớp. Sau đó vinh quang ấy tắt lịm rồi đến vườn cây Dầu nơi đó Thầy mình như một con người bình thường run rẩy sợ hãi đến nỗi toát mồ hôi máu. Rồi, Quan Philatô giới thiệu Chúa Giêsu cho toàn dân “Đây là người, các ngươi nhìn coi con người này có đáng là người không?” Bởi vì bị đánh bơi tờ cả đêm đau còn hình tượng người ta nữa. Tiếp sau đó là đồi Gôngôtha Thầy bị treo lơ lững trên không gian bị người ta sỉ vả, nguyền rủa.

Trong tăm tối của đức tin đó, Thánh Giuse, các môn đệ vẫn tín thác vào Chúa và theo Chúa đến cùng. Còn đời sống đức tin của chúng ta như thế nào? Chắc chắn đời sống đức tin của chúng ta cũng lắm lúc tăm tối: tăm tối đến từ chính bản thân, gia đình và xã hội. Lúc mới theo Đạo, chúng ta sốt sắng lắm nhưng 1,2,5-10 năm.. thì việc sống Đạo của chúng ta trở nên lạnh nhạt, Đức tin của chúng ta yếu dần, không còn hăng hái trong việc kinh lễ đều đặng nữa vì hoàn cảnh của cuộc sống: học hành, sự nghiệp, thành công, thất bại trong tình trường và thương trường, trong tu trì, sức khỏe, bệnh tật, nghèo quá, giàu quá… Thêm vào đó, văn hóa hưởng thụ, tệ nạn xã hội tràn lan, văn hóa vứt bỏ, văn hóa dững dưng vô cảm của xã hội làm chúng ta chẳng còn kính mến Chúa, tin Chúa và tín thác vào Chúa nữa! Và lại nữa, thời đại hôm nay giá trị Tin mừng: yêu thương, hiền lành, bao dung, thương xót, tha thứ… bị người ta đóng đinh vào thập giá, phủ nhận chúng. Lúc đó, liệu chúng ta có còn tin và tín thác vào Chúa? Chúng ta có còn gắn bó, tín thác với một Đấng trao ban cho tôi niềm hy vọng và sự tin tưởng? Chúng ta có ý thức được rằng chính Thiên Chúa đã tự tỏ lộ ra nơi Đức Kitô, đã cho thấy gương mặt thương xót của Người và thực sự Ngài đang sống, đồng hành với ta? Chúng ta có thầm tín rằng không phải ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người thương xót ta và luôn ban sự lành từ những sự tối tăm trong cuộc sống chúng ta như thánh Giuse và các tông đồ?

Thánh Phaolô trong bài đọc 2 nói rằng Thiên Chúa vẫn hằng nâng đỡ và “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21). Vì vậy, ước gì Mùa Chay Thánh này, xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết sống hết mình cho giao ước tình yêu với Chúa trong niềm tin yêu và tín thác vào Chúa, nhờ đó, chúng ta sẽ lớn mạnh trong đức tin, mạnh mẽ trong yêu thương và tín thác vững vàng đời mình cho Thiên Chúa như Thánh Giuse, các Tông đồ cho dẫu đời sống chúng ta có hạnh phúc, bình an hay khi gặp thử thách hay đau khổ vì “CHÚA là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? CHÚA là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa?” (Tv 27,1). Amen.

42.Biến đổi cuộc đời như Chúa–Huệ Minh

Tin mừng Lc 9: 28-36: Với trang Tin Mừng hôm nay, ta bắt gặp Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi, trong lúc Ngài biến hình thì các ông có lẽ đang ngủ và câu chuyện hình như xảy ra vào ban đêm. Đêm thường là biểu tượng của sự tối tăm khiến chúng ta không còn nhận ra cách trực tiếp những thực tại siêu nhiên.

Với trang Tin Mừng hôm nay, ta bắt gặp Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi, trong lúc Ngài biến hình thì các ông có lẽ đang ngủ và câu chuyện hình như xảy ra vào ban đêm. Đêm thường là biểu tượng của sự tối tăm khiến chúng ta không còn nhận ra cách trực tiếp những thực tại siêu nhiên.

Rồi các môn đệ bắt gặp Ngài nói chuyện với Môsê và Elia. Sự hiện diện của hai vị này cũng như câu chuyện trao đổi liên kết một cách mầu nhiệm trong thân phận con người và vinh quang của cuộc đời mai hậu. Điều này chứng tỏ rằng giữa những đau khổ ở đời này, con người sẽ được sống lại và được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.

Khi Phêrô đang nói thì có đám mây che các Ngài, và có tiếng từ trời: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Thiên Chúa muốn con người vâng nghe Đức Giêsu. Thiên Chúa không muốn Con Ngài và những người theo Con Ngài ở hoài trên núi; Ngài muốn họ xuống núi để sống cuộc sống bình thường của họ giữa con người thời đại mình. Giây phút biến hình không biết kéo dài khoảng bao nhiêu phút, nhưng thất bại và thập giá còn hoài trong suốt cuộc sống của Đức Giêsu và các tông đồ, kể cả khi Đức Giêsu đã phục sinh từ cõi chết.

Sau đó tầng trời mở ra và có tiếng nói: Này là con Ta. Cảnh tượng giống như lúc Ngài chịu phép rửa bên bờ sông Giođan. Vì thế, Chúa Giêsu chịu phép rửa cũng là Chúa Giêsu biến hình. Ngài là người đầy tớ thực hiện ý định của Chúa Cha, cho nên chúng ta phải tin tưởng, lắng nghe và thực thi những điều Ngài truyền dạy.

Biến cố Chúa Biến Hình loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng đôi mắt con tim để nhìn thấy mầu nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Như thế, nếu chúng ta muốn biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Người. Có sẵng sàng vác thập giá Chúa gửi trao mới được theo Chúa là Đường là Sự Thật là Sự Sống để được hưởng vinh quang Phục sinh với Ngài.

Chúa biến hình vinh quang sáng láng để nêu gương cho chúng ta, để chúng ta cũng biết biến đổi hình dạng như thế: biến đổi từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; biến đổi từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; biến đổi từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.

Với biến cố biến hình nay, người Kitô hữu chúng ta được mời gọi từng ngày sống của mình không ngừng lột xác, không ngừng đổi mới để được trở nên giống Đức Kitô hơn. Đây cũng là ý tưởng câu thánh Phaolô, ngài nói: Đức Kitô sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của chúng ta cho nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh quang của Ngài. Đồng thời ngài rất đau buồn khi nhận thấy có những kẻ sống thù nghịch với thập giá. Hãy góp phần vào sự biến hình của chính thân xác mình bằng cách khử trừ tội lỗi, uốn nắn sửa đổi lại những thói hư tật xấu, để trong ngày sau hết chúng ta sẽ được mặc lấy ánh vinh quang của Thiên Chúa.

Trong thư gởi giáo đoàn Philipphê 3,17-4,1 thánh nhân khuyến khích mọi người bắt chước ngài và theo gương các anh chị em có lòng tin vững mạnh, sống phù hợp với giáo huấn Tin Mừng của Chúa. Thánh Phaolô không tự cho mình là người hoàn thiện, vì Ngài cũng đang phải chiến đấu với thân xác yếu hèn của chính mình, với mọi đam mê và chước cám dỗ như tất cả mọi Kitô hữu khác. Cũng như mọi người, ngài đang chạy đua với hết sức lực mình để đạt đích.

Thánh Phaolô cũng không khuyên nhủ tín hữu tôn thờ thần tượng một ai đó trong cộng đoàn. Bởi vì những người này cũng đang chạy đua và cố gắng như mọi người khác, chiến đấu với những thiếu sót bất toàn và tội lỗi của họ, và bởi vì vị thầy duy nhất đáng tôn thờ là chính Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu Kitô là mẫu gương duy nhất cần phải theo và Tin Mừng của Ngài là kim chỉ nam duy nhất có thể đảm bảo cho con thuyền cuộc đời của người tín hữu đến bến bình an. Khi khuyến khích tín hữu cộng đoàn Philipphê bắt chước mình, thánh Phaolô mời cố gắng chạy, cố gắng chiến đấu như ngài, luôn hướng tấm lòng về tới đích cuộc đời là Thiên Chúa, là hạnh phúc mai sau. Đừng để các thú vui mau qua của đời này níu kéo mà khiến cho họ quên đi mục đích tối hậu của cuộc sống là ơn gọi Kitô.

Nói cách khác, thánh nhân nhắc nhở cho chúng ta biết rằng cuộc sống của chúng ta trên trần gian này là cuộc hành trình tiến về quê hương vĩnh cửu, là quê trời nơi Thiên Chúa đang chờ đón để ban cho chúng ta cuộc sống thần thiêng vĩnh cửu. Do đó phải luôn biết ý thức và tỉnh thức, đừng để cho các thú vật chất hay bất cứ thứ gì trên đời này trói buộc và cầm chân chúng ta. Ngoài ra, thánh nhân cũng khuyến khích tín hữu cũng noi gương ngài không chạy theo các điều luật, các cấm đoán tỉ mỉ và các hình thức lễ nghi bề ngoài, mà chỉ lấy Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh làm chỉ huy duy nhất và làm bánh lái sống lòng tin mà thôi.

Cuộc đời luôn có khó khăn, nhưng lại luôn mở ra những lối đi để chúng ta vượt qua. Khó khăn nào cũng sẽ qua đi. Sau bóng đêm là ánh bình minh. Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm đi vào thử thách với niềm tín thác vào Chúa. Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Thập giá là nhịp cầu đưa ta tới vinh quang Nước Trời. Chính Chúa Giêsu đã đi trước trên con đường thập giá. Chính Chúa đã đi qua thập giá để tiến vào vinh quang phục sinh. Chính Chúa vẫn đang chờ đợi để trao phần thưởng Nước Trời cho những ai trung tín theo Ngài.

Để có thể trung thành bước theo con đường Chúa Giêsu đã sống và vạch ra, người Kitô hữu không thể coi nhẹ hay dửng dưng với tâm tình cầu nguyện. Chính trong giây phút cầu nguyện, chìm sâu trong cuộc gặp gỡ ân tình với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã đón nhận kế hoạch cứu độ của Cha như lẽ sống của đời mình, đây cũng là lúc Ngài biến hình vinh quang; được tỏ lộ khi Ngài chấp nhận cái chết như một phương thế tuyệt hảo để tỏ lòng vâng phục Cha và yêu thương nhân loại đến nỗi hiến dâng chính mạng sống mình.

Vì thế, trong cuộc sống còn lắm vất vả bon chen và không hề thiếu vắng những cạm bẫy thử thách hôm nay, chỉ có sự chuyên cần cầu nguyện, thường xuyên đón nhận ánh sáng soi dẫn, và sức mạnh đỡ nâng của Chúa, người Kitô hữu mới thoát khỏi sự hoang mang sợ hãi hay trạng thái mê ngủ, trốn tránh thực tại trần thế với những bổn phận và trách nhiệm phải thi hành. Đành rằng quê hương vĩnh cửu ở trên trời nhưng đường lên trời lại khởi đi từ mặt đất, từ chính cuộc sống mà chúng ta phải xây dựng và làm cho phát triển mỗi ngày.

(Nguồn: giaophanlongxuyen.org)