SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ LÁ NĂM C
Bài Thương Khó: Lc 22,14-23,56 (bài dài)
“Sự Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca.
Đến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười hai tông đồ và bảo các ông: J. “Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa”. C. Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán: J. “Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!” C. Đoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: J. “Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. C. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán: J. “Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Đành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!” C. Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó. Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo: J. “Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn. Vì người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Israel!” C. Rồi Chúa nói: J. “Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin”. C. Ông thưa Người: S. “Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết”. C. Nhưng Người đáp: J. “Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã chối rằng không biết Thầy”. C. Và Người bảo các ông: J. “Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?” C. Các ông thưa: S. “Không thiếu gì cả”. C. Vậy Người nói: J. “Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: “Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác”. Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn tất”. C. Các ông thưa Người: S. “Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây”. C. Và Người bảo: J. “Đủ rồi”. C. Đoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. Đến nơi, Người bảo các ông: J. “Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ”. C. Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng: J. “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha”. C. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo: J. “Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ”. C. Người còn đang nói, thì này đây một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn: J. “Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?” C. Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: S. “Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?” C. Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo: J. “Thôi, đủ rồi”. C. Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại. Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng: J. “Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm”. C. Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa. Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. Một đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo: S. “Cả ông này cũng theo hắn”. C. Nhưng ông chối và nói: S. “Này chị, tôi đâu quen biết người ấy”. C. Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói: S. “Chính ông cũng là người trong bọn đó”. C. Nhưng Phêrô đáp: S. “Này anh, đâu có phải tôi”. C. Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng: S. “Đúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ Galilêa”. C. Phêrô đáp: S. “Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?” C. Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết. Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người rằng: S. “Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó”. C. Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người. Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà nói: S. “Nếu ông là Đấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay”. C. Người trả lời: J. “Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng”. C. Mọi người đều hỏi lại: S. “Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?” C. Người đáp: J. “Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa”. C. Bấy giờ họ nói: S. “Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói”. C. Đoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô. Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: S. “Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua”. C. Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng: S. “Ta không thấy người này có tội gì”. C. Nhưng họ cố nài rằng: S. “Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây”. C. Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau. Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ: S. “Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi”.
C. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên: S. “Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi”. C. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói: S. “Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!” C. Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng: S. “Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi”. C. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng.
Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu. Đám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng: J. “Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: “Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con”. Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: “Hãy đổ xuống đè chúng tôi”, và nói với các gò nổng rằng: “Hãy che lấp chúng tôi đi”. Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?” C. Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: J. “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. C. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng: S. “Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn”. C. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: S. “Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi”.
C. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: “Người này là vua dân Do-thái”. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: S. “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”. C. Đối lại, tên kia mắng nó rằng: S. “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?” C. Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: S. “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. C. Chúa Giêsu đáp: J. “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”. C. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. “Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha”. C. Nói đoạn, Người trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng: S. “Ông này quả thật là người công chính”. C. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về.
Đứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến. Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giuse, người tốt lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các công nghị viên khác, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Đoạn ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đã đục sẵn, nơi chưa táng xác ai. Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sabbat. Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sabbat, các bà nghỉ theo đúng luật.
Ảnh: tonggiaophanhanoi.org
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
LỄ LÁ – Năm C
Lời Chúa: Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Lc 22,14 – 23,56
MỤC LỤC
1. Ông này là ai vậy?–‘Manna’ 5
2. Chúc tụng Đức Vua–‘Manna’ 7
3. Xin đừng theo ý con–Mc 11, 1-10–Manna. 8
4. Học hỏi Phúc Âm CN Lễ Lá–Lc 22,39 – 23,49–Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ. 10
5. Nhiệt thành của thập giá–GM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm.. 11
6. Con đường Chúa đi–TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 12
7. Tình yêu đáp lại hận thù–TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 13
8. Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến–TGM Giuse Vũ Văn Thiên 14
9. Bài Giảng của ĐTGM. Phaolô Bùi Văn Đọc năm 2005 cho Giới Trẻ 15
10. Yêu như điên–ViKiNi–‘Xây Nhà Trên Đá’–Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 16
11. Thập Giá và Vinh Quang–Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 17
12. Thông cảm với Chúa–Lm Giuse Đinh Lập Liễm.. 21
13. Cái chết giúp sự thật hiển lộ–Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 25
14. Chúa Giêsu đối diện cái chết–Lm Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 26
15. Tại làm sao Chúa chết?–Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 27
16. Dõi theo Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu–Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 28
17. Tại làm sao Chúa chết? Chúa chết để làm gì?–Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 31
18. Niềm vui – Thập giá – và Ơn Cứu độ–Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 32
19. Suy niệm, chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 34
20. Hosanna, vạn tuế–Lm. Vũ Đình Tường. 47
21. Mầu nhiệm đời ta–Lm. Vũ Đình Tường. 49
22. Thiên Chúa mang diện mạo của một thủ lãnh hiền hòa–Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB. 50
23. Lừa con chưa ai cưỡi bao giờ–Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. 51
24. Suy niệm của Lm. Anfonso. 52
25. Con người tham sống sợ chết–Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 53
26. Con người tham sống sợ chết–Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 53
27. Bệnh “hùa theo đám đông”–Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 55
28. Giờ cứu độ–Lm Giuse Tạ Duy Tuyền. 56
29. Đức vua đa không–Trầm Thiên Thu. 57
30. Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa–Lm. Trầm Phúc 61
31. Từ những nghịch lý–AM Trần Bình An. 63
32. Con đường Thập Giá–Lm. Đaminh Trần Quang Hiền. 64
33. Rước Lá: Lc 19,28-40–‘Niềm Vui Chia Sẻ’ 65
34. Baraba và Đức Giêsu–‘Niềm Vui Chia Sẻ’ 67
35. Yêu cho đến cùng–Thiên Phúc–‘Như Thầy Đã Yêu’ 68
36. Vương quốc Tình yêu–Thiên Phúc–‘Như Thầy Đã Yêu’ 69
37. Người tôi tớ khổ đau của Giavê–‘Suy Niệm Lời Chúa’–Radio Veritas Asia. 70
38. Vui lòng vâng phục thánh ý Chúa–‘Suy Niệm Lời Chúa’–Radio Veritas Asia. 72
39. Vác thập giá với Chúa Giêsu–Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 73
40. Giờ chiến thắng vinh quang–Lm Ignatio Trần Ngà. 73
41. Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, hôm xưa và hôm nay–Lm. Ignatiô Trần Ngà. 74
42. Tôi không bán Chúa–PM. Cao Huy Hoàng. 75
43. Vác đỡ Thánh Giá Chúa–PM. Cao Huy Hoàng. 77
44. Sứ điệp tình yêu–Lm Giuse Nguyễn Hữu An. 79
45. Đấng vô tội phải chết–Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn. 81
46. Những đổi thay đến ngỡ ngàng–Jos. Vinc. Ngọc Biển S.S.P. 82
47. Đường Thương Xót của Thiên Chúa–Jos. Vinc. Ngọc Biển S.S.P. 84
48. Vâng theo ý Cha–Jos. Vinc. Ngọc Biển S.S.P. 86
49. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê. 87
50. Con Chiên vô tội–Lm Hồng Phúc. 88
51. Tin và không tin–Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 89
52. Cùng theo Chúa–Lm. Nguyễn Nguyên. 91
53. Ba nỗi đau khổ–Lm. Mark Link. 92
54. Qua đau khổ thánh giá, tới vinh quang phục sinh–Lm Trần Bình Trọng 93
55. Cuộc thương khó của Chúa–Lm Micae Võ Thành Nhân. 94
56. Tự hạ vâng lời–Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB. 95
57. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 96
58. Lòng thương xót của Chúa Giêsu Kitô–Lm. Joshepus Quang Nguyễn. 98
59. Hoan hô- Đả đảo–Lm. Joshepus Quang Nguyễn. 99
1.Ông này là ai vậy?–‘Manna’
Suy Niệm
Từ trước tới nay, chưa một lần nào
Đức Giêsu tìm cho mình chút vinh quang trần thế.
Còn bây giờ, khi cái chết đã gần kề,
Ngài chấp nhận sự tán tụng của đám đông,
và chính Ngài cũng muốn ngồi trên lưng một con lừa
để khiêm tốn tiến vào thành thánh.
Nhiều người trải áo hay chặt cành cây rải trên lối đi.
Tiếng hò reo vang dậy.
Người ta tung hô Ngài là Đấng Mêsia, là Con vua Đavít.
Quả thật Ngài là Vua Mêsia,
nhưng rồi đây người ta sẽ biết cách làm vua của Ngài:
qua đau khổ và cái chết ô nhục trên thập giá.
Lễ Lá là một lễ vui, nhưng lại đượm buồn.
Ta được nghe bài thương khó trong thánh lễ.
Tuần thánh đã bắt đầu. Đức Giêsu bước vào những ngày cuối đời.
Rước lá đi theo Ngài trong vài giờ là điều dễ.
Theo Ngài giữa lúc Ngài được tung hô, chẳng khó gì.
Nhưng tiếp tục theo Ngài và ở lại
khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều.
Chúng ta thường cảm thấy mệt khi nghe đọc bài Thương Khó.
Nếu chúng ta dành thì giờ để suy niệm về cuộc khổ nạn,
ta sẽ thấy lời nói và thái độ của Đức Giêsu
có sức nâng đỡ và biến đổi ta,
giúp ta đón nhận mọi gai góc của cuộc sống.
Cần cảm nghiệm những đau noun trên thân xác Chúa,
nhưng đừng quên những nỗi đau sâu kín của trái tim Ngài,
và nhất là đừng quên nhận ra một Tình Yêu,
Tình Yêu vô cùng lớn đối với Cha và nhân loại.
Chỉ Tình Yêu mới làm cho khổ đau sinh trái.
Con Thiên Chúa không xa lạ với khổ đau của phận người.
Ngài biết thế nào là bị vu khống, bất công, phản bội,
thế nào là bị nhục nhã, sợ hãi, cô đơn và giết chết.
Ngài không phân tích mầu nhiệm đau khổ,
nhưng Ngài đón lấy đau khổ với rất nhiều tình yêu, và lập tức nó có ý nghĩa.
Bạn có thể thấy mình giống Giuđa, Phêrô hay Philatô.
Chẳng ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa.
Hãy đi với Đức Giêsu qua từng chặng đường,
từ Vườn Dầu đến tận Núi Sọ.
Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang,
bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì bạn và cho bạn.
Sau khi đã thấm nhuần cuộc Khổ Nạn,
bạn sẽ thấy mình yêu thánh giá của Chúa hơn,
mến thánh giá của mình hơn,
và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy đọc chương 26 và 27 của Tin Mừng thánh Matthêu. Điều gì đánh động bạn hơn cả khi nhìn ngắm Đức Giêsu?
Theo ý bạn, Đức Giêsu có thể tránh né cái chết được không? Tại sao Ngài tự nguyện đón nhận cái chết thập giá?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh
làm cho con tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa.
2.Chúc tụng Đức Vua–‘Manna’
Suy Niệm
Con Thiên Chúa chẳng những đã chia sẻ phận người,
Ngài còn chia sẻ thân phận của những người yếu thế.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu,
chúng ta không thấy đó là chuyện xa xôi.
Trên thế giới mỗi ngày, có bao Giêsu vô tội bị kết án bất công,
bị làm nhục, bị khinh khi, bị hành hạ và đối xử tàn tệ cho đến chết.
Đức Giêsu đứng về phía những người cùng khổ.
Ngài vác thánh giá của họ, như họ và với họ.
Chính vì thế khi vác thánh giá theo chân Đức Giêsu,
chúng ta cũng muốn chia sẻ thánh giá của cả nhân loại.
Đức Giêsu còn bị đóng đinh cho đến tận thế,
ngày nào còn một người anh chị em của Ngài khốn khổ.
Đi đàng thánh giá với Chúa trong mùa Chay
giúp ta nhậy cảm hơn với thánh giá của tha nhân,
và nhận ra mình có trách nhiệm
trước mọi cuộc khổ nạn đang diễn ra trên toàn cầu.
Đức Giêsu đã xuống tận cùng vực thẳm của phận người.
Ngài muốn gieo hy vọng cho những ai thất vọng.
Ngài đem lại ý nghĩa cho những khổ đau vô lý.
Ngài đã đón nhận tất cả với tình yêu thứ tha,
nhờ đó thánh giá nở hoa, vực thẳm tràn trề sức sống.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Chúa,
ta thấy mình chẳng phải là kẻ đứng ngoài cuộc.
Tôi thấy mình có nét của Giuđa,
một người được chọn, được yêu, được theo Thầy rất gần.
Bao phép lạ đã chứng kiến, bao lời vàng ngọc đã được nghe.
Tất cả vỡ tan khi Giuđa bán Thầy bằng nụ hôn giả dối.
Tôi thấy mình có nét giống Phêrô.
Ông tự hào về tình yêu của mình đối với Thầy
để rồi dễ dàng chối Thầy trước một cô đầy tớ.
Tiếng gà nào khiến Phêrô chợt tỉnh.
Ánh mắt thứ tha nào của Thầy khiến Phêrô oà khóc.
Vẫn có những tiếng gà và ánh mắt Chúa trong đời tôi…
Tôi thấy mình có nét giống Philatô.
Ông bị trói chặt bởi nỗi sợ: sợ dân nổi loạn, sợ mất chức.
Ông bị mất tự do vì áp lực của đám đông thét gào.
Ông không đủ bản lãnh để tha một người vô tội.
Tôi cũng thấy mình có nét giống Hêrôđê,
tò mò, háo hức, trông chờ Đức Giêsu làm phép lạ.
Nhưng ông mau chóng thất vọng khi thấy Ngài lặng thinh.
Ông buồn vì không gặp một Giêsu như ông mong ước.
Nhưng cuộc khổ nạn cũng có những điểm sáng.
Simon vác đỡ thập giá Đức Giêsu,
các bà theo sau than khóc.
Khuôn mặt rực rỡ hơn cả lại là người trộm lành.
Một người bị đóng đinh tin vào một người bị đóng đinh khác.
Anh tin Đức Giêsu vô tội và anh xin Ngài nhớ đến anh.
Lòng tin khiến anh trở nên người được hưởng ơn cứu độ.
“Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng”:
Câu này cũng phản ánh niềm tin và hy vọng của Đức Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Pascal viết: “Đức Kitô còn hấp hối cho đến ngày tận thế.” Bạn nghĩ gì về câu nói này? Bạn có cảm thấy cơn hấp hối của phần lớn nhân loại hôm nay không?
Trong các nỗi đau của Đức Giêsu chịu khổ nạn, bạn thấy nỗi đau nào lớn nhất? Tại sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện
với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công,
xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,
xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,
xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với trời,
con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ,
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
3.Xin đừng theo ý con–Mc 11, 1-10–Manna
Suy Niệm
Chúa Nhật Lễ Lá là một lễ vui,
nhưng cũng là ngày tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa.
Chúng ta chứng kiến hai đám rước trái ngược nhau.
Trong ngày Lễ Lá, Đức Giêsu được đón rước vào thành,
giữa tiếng hò reo vang dậy.
Ngài như vị Vua Mêsia lẫm liệt trên lưng lừa,
đi trên con đường của những nhành cây xanh mới chặt.
Sau đó ít ngày là đám rước lên núi Sọ.
Không có tiếng tung hô, chỉ có lời kết án.
Không có những nhành cây, chỉ có cây thập giá.
Ngày xưa, có ai tham dự cả hai đám rước đó không?
Chúng ta thường mệt mỏi khi nghe bài Thương Khó,
và thấy mình dửng dưng, xa lạ, bàng quan.
Thật ra nỗi khổ đau và cái chết của Chúa
là vì tôi, vì yêu mến tôi (x. Gl 2,20).
Cần nghe đọc bài Thương Khó một cách chậm rãi,
và bước theo Chúa qua từng chặng đường.
Hãy ở lại với Chúa trong lúc khó khăn này.
Cần cảm nghiệm được nỗi cô đơn của Chúa.
Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Ngài.
Họ ngủ say để mặc Ngài một mình khắc khoải.
Giuđa chỉ điểm bắt Ngài bằng một nụ hôn.
Các môn đệ sợ hãi bỏ Ngài mà chạy trốn.
Phêrô thề là không hề quen biết Ngài.
Đức Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ.
Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài.
Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn.
Không rõ đám đông Ngài đã nuôi ăn, nay ở đâu?
Đức Giêsu đã đi đến tột cùng của nỗi cô đơn
khi Ngài cảm thấy chính Cha cũng vắng bóng:
“Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?”
Cần cảm nghiệm nỗi đau trên thân xác Chúa.
Khuôn mặt ngời sáng của Con Thiên Chúa làm người
nay bị khạc nhổ, bị tát, bị đánh túi bụi.
Đôi mắt với cái nhìn bao dung ấy nay bị bịt lại
để làm một trò chơi trẻ con.
Tấm thân đã gánh lấy nỗi đau của bao người
giờ đây được phơi ra cho những trận roi cầy nát.
Đôi bàn tay đã chữa bệnh và chúc lành,
nay co quắp và bầm tím vì những mũi đinh.
Đôi bàn chân từng rong ruổi khắp nẻo đường truyền giáo,
nay không đủ sức nâng cả thân mình đang trĩu nặng.
Cần cảm nghiệm nỗi ô nhục của Chúa.
Danh dự và phẩm giá vẫn là điều đáng trọng.
Đức Giêsu bị bắt làm hề, đóng vai Vua dân Do Thái,
được mặc cẩm bào, được đội triều thiên, được cầm vương trượng.
Có vị vua nào được bái lạy như vị vua này không?
Đức Giêsu bị lột áo trước khi bị đóng đinh.
Con Thiên Chúa đỏ mặt trước cái nhìn của thế giới!
Cuộc thương khó của Chúa vẫn kéo dài đến tận thế.
Thập giá của Chúa, của tôi, của anh em tôi, là một.
Chúa mời tôi vác thập giá của mình theo Chúa hàng ngày,
và giúp tha nhân vác thập giá của họ.
Ước gì thế giới có thật nhiều Simon Kyrênê.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Giêsu khổ đau như bao người trên mặt đất: bị xét xử bất công, bị áp bức và hãm hại. Hôm nay, bạn có thấy những người đang vác thập giá với Chúa trên khắp thế giới không? Họ là ai?
Bạn có nhận ra thập giá của một người trong gia đình, trong nhóm, trong môi trường sống của bạn không? Bạn đã làm gì để giúp họ trong mùa Chay này?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện
với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công,
xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,
xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,
xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với trời,
con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ,
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
4.Học hỏi Phúc Âm CN Lễ Lá–Lc 22,39 – 23,49–Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
1. Đọc Lc 22,39-46. Đối với Đức Giêsu cầu nguyện có khó không? Tại sao khó? Các môn đệ có cầu nguyện không? Hậu quả của việc không cầu nguyện là gì?
2. Đọc Lc 22,47-53. Cho thấy Đức Giêsu là Đấng đầy lòng thương xót khi Ngài bị bắt trong Vườn Dầu.
3. Đọc Lc 22,54-62. Tại sao khi Chúa Giêsu nhìn Phê-rô thì ông khóc thảm thiết? Theo bạn, ánh mắt ấy có gì đặc biệt?
4. Đọc Lc 23,1-7. Những lời tố cáo Đức Giêsu của các nhà lãnh đạo Do-thái giáo trước mặt Philatô có đúng không?
5. Đọc Lc 23,8-12. Bạn nghĩ gì về thái độ im lặng của Đức Giêsu trước Hêrôđê? Tại sao Ngài im lặng?
6. Đọc Lc 23,1-25. Philatô tuyên bố Đức Giêsu vô tội mấy lần? Tại sao Philatô lại không dám tha Đức Giêsu?
7. Đọc Lc 23,35-43. Cho biết ba cơn cám dỗ đến với Đức Giêsu trên thánh giá. Bởi đâu Đức Giêsu thắng được ba cơn cám dỗ này?
8. Đọc Lc 23,39-43. Bạn nghĩ gì về anh trộm lành?
9. Đọc Lc 23,44-48. Đâu là những điều xảy ra khi Đức Giêsu sắp lìa đời? Đâu là hoa trái do cái chết của Đức Giêsu mang lại?
CÂU HỎI SUY NIỆM: Bạn thấy mình giống nhân vật nào trong bài Thương Khó này? Đâu là những nét giống nhau giữa bạn với nhân vật đó?
PHẦN TRẢ LỜI
1. Như đoạn Tin Mừng trên đây (Lc 22,39-46) cho thấy, có khi cầu nguyện thật là khó với Đức Giêsu. Vì cầu nguyện giúp Ngài thấy ý của Cha và cũng thấy ý của mình. Chính vì thế giờ cầu nguyện cũng là giờ chiến đấu gay gắt (Lc 22,44). Có sự giằng co giữa ý Con với ý Cha (Lc 22,42). Như chúng ta, Đức Giêsu cũng sợ chết khi còn quá trẻ, sợ khổ đau và nhục nhã. Ngài đã thắng được cám dỗ này bằng cầu nguyện khẩn thiết và cuối cùng Ngài đã đón nhận ý Cha. Hai lần Ngài kêu mời các môn đệ cầu nguyện để khỏi sa cơn cám dỗ (Lc 22,40.46). Họ đã không cầu nguyện và đã sa ngã.
2. Khi bị bắt trong Vườn Dầu (Lc 22,47-53), Đức Giêsu tỏ ra khoan dung với nụ hôn phản bội của Giuđa, đã can ngăn các môn đệ không được dùng gươm gây bạo động, và đã chữa lành tai của người đầy tớ bị chém. Sau cùng Ngài đã chấp nhận để cho người ta bắt.
3. Phêrô đã chối Thầy ba lần: hai lần chối việc mình “ở với Thầy,” và chối việc mình thuộc về nhóm môn đệ của Thầy (các câu 56-60). Khi Thầy Giêsu quay lại nhìn ông thì ông khóc lóc thảm thiết (câu 62). Có thể có nhiều lý do khiến Phêrô khóc. Ông khóc vì ánh mắt của Thầy Giêsu làm ông “sực nhớ lời Chúa đã nói với ông,” lời tiên báo ông sẽ chối Thầy ba lần trước khi gà gáy (Lc 22,34). Ông khóc vì ông biết mình đã chối Thầy rồi, dù cách đây không lâu, ông đã tự tin và nói mình “sẵn sàng vào tù hay phải chết với Chúa” (Lc 22,33). Có thể Phêrô khóc vì đọc được nhiều ý nghĩa khác nơi ánh mắt của Thầy Giêsu: ánh mắt thức tỉnh ông khỏi cơn mê muội, ánh mắt buồn đau trách móc vì tội của ông, ánh mắt yêu thương tha thứ, ánh mắt cảm thông với yếu đuối của ông…
4. Lc 23,1-7. Các vị lãnh đạo Do-thái giáo trong Thượng Hội Đồng đã điệu Đức Giêsu đến với tổng trấn Philatô và tố cáo Ngài nhiều điều: sách động dân chúng, ngăn cản dân chúng nộp thuế, xưng mình là đấng Kitô, là vua (Lc 23,2), và xúi dân nổi loạn (Lc 23,5). Nói chung họ tố cáo Đức Giêsu với tòa án ngoài đời về những tội chính trị. Chắc chắn Đức Giêsu đã không ngăn cản dân nộp thuế hay kích động dân nổi loạn để tôn mình lên làm Vua người Do-thái. Ngài không hề là mối đe dọa cho đế chế Rôma. Tuy nhiên, Ngài có thể đã mặc nhiên nhận mình là Đấng Kitô trước Thượng Hội Đồng (Lc 22,66-71), và đã không trách các môn đệ khi họ tôn Ngài là Vua (Lc 19,37-40). Quả thật Ngài là Vua (x. Lc 1,32-33) và là Đấng Kitô, nhưng không theo lối hiểu chính trị (x. Lc 23,35-38). Chính vì thế khi Philatô hỏi: “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” Ngài không chối, cũng không nhận, mà chỉ trả lời: “Chính ngài nói đó.”
5. Đức Giêsu đã không trả lời vua Hêrôđê, cũng không làm phép lạ nào cho vua xem như vua hằng mong ước (Lc 23,8-9). Đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh. Bởi lẽ nếu Ngài chiều ý Hêrôđê, biểu diễn vài phép lạ nhằm thỏa mãn sự tò mò của ông, ông ta có thể tha Ngài. Nhưng bây giờ Ngài đã biết ý Cha, và muốn đi đến cùng con đường đau khổ Cha muốn Ngài đi.
6. Philatô “không tìm thấy lý do nào nơi người này” để kết tội hay kết án tử hình. Ông tuyên bố Đức Giêsu vô tội ba lần (Lc 23,4.14.22). Dầu vậy ông không dám tha Đức Giêsu, vì ông chịu áp lực rất lớn từ dân chúng (Lc 23,5.18.21.23). Vào thời điểm này, rất đông người Do-thái đổ về Giêrusalem để ăn lễ Vượt Qua, lễ mừng dân Chúa được giải phóng khỏi Ai-cập. Philatô sợ dân chúng làm loạn nên ông đành chiều theo ý họ.
7. Khi chịu treo trên thánh giá, Đức Giêsu gặp ba cơn cám dỗ: từ phía các thủ lãnh (Lc 23,35), từ lính tráng (Lc 23,36-37) và từ một trong hai tên gian phi (Lc 23,39). Cả ba cơn cám dỗ này đều có lời thách đố: “hãy cứu lấy mình đi” nghĩa là hãy xuống khỏi thập giá đi. Đức Giêsu đã ở lại trên thập giá vì Ngài biết mình đang làm theo ý Cha.
8. “Anh trộm lành” nhận tội của mình và chấp nhận hình phạt, đồng thời nhìn nhận Đức Giêsu vô tội (Lc 23,40-41). Anh dám tin người tử tội bị đóng đinh này sẽ là Vua của một Nước, và anh hy vọng được Ngài nhớ đến khi Ngài vào trong Nước của Ngài (Lc 23,42-43).
9. Đức Giêsu chết trên thánh giá lúc 3 giờ chiều, giữa bóng tối vây phủ. Ngài chết với lời phó thác cho Cha trên môi. Hoa trái đầu tiên là lời tuyên xưng đức tin của viên đại đội trưởng và sự ăn năn của dân chúng (Lc 23,47-48).
5.Nhiệt thành của thập giá–GM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Tuần Thánh bắt đầu với Chúa nhật Lễ Lá và Phụng vụ Lễ Lá lại tiến hành với hai nhịp tương phản. Bắt đầu là cử hành việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua, được dân chúng đón tiếp trọng thể, ngập tràn tiếng reo vui. Rồi ngay sau đó trong Thánh Lễ, thay cho bài Tin Mừng lại là bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa, cuộc thương khó đầy máu và nước mắt. Hội Thánh có ý gì khi liên kết hai sự kiện tương phản này? Tại sao không đợi đến Thứ Sáu Tuần Thánh để công bố bài thương khó mà phải đọc ngay từ Chúa nhật Lễ Lá? Đã hẳn có nhiều ý nghĩa phong phú hàm chứa ở đây cần được khai triển. Một trong những nội dung đáng quan tâm là Hội Thánh muốn làm nổi bật đường lối cứu thế của Chúa Giêsu và mời gọi con cái mình bước theo Thầy.
Khi kể lại việc Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ Giê-ru-sa-lem, thánh Gioan ghi nhận: “Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt thành lo việc Nhà Chúa mà tôi đây phải thiệt thân” (Ga 2,17). Một số Kitô hữu đã liên kết từ “nhiệt thành” ở đây – cũng như việc Chúa Giêsu được đón rước trọng thể vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua – với phong trào chính trị được gọi là “Nhiệt Thành-zelos” thời bấy giờ. Ngoài ra người ta còn kết nối sự kiện này với lời các thượng tế tố cáo Chúa Giêsu trước tòa Philatô: “Ai xưng mình là vua thì chống lại Cêsarê” (Ga 19,12). Tất cả để dẫn đến kết luận Chúa Giêsu là nhà cách mạng chính trị.
Phong trào chính trị có tên gọi “Nhiệt Thành” được khơi nguồn từ ông Mattathias, cha của anh em nhà Macabê. Vào thời đó, vua Antiôkô cưỡng bức người Do Thái phải chối đạo và tế thần trên bàn thờ, nhưng ông Mattathias tuyên bố: “Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên trái” (1 Mac 2,22). Và khi có một người Do Thái tiến ra tế thần trên bàn thờ theo chỉ dụ của nhà vua, thì sách Macabê kể lại: “Ông Mattathias bừng lửa nhiệt thành… ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ. Ông cũng giết luôn viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do Thái tế thần, rồi ông phá đổ bàn thờ”. Sau đó sách Macabê kết luận: “Ông bừng lửa nhiệt thành đối với Lề Luật giống như ông Pinêát trong vụ Dimri, con của Xalu” (2,23-26). Kể từ lúc đó, từ ngữ “nhiệt thành-zelos” trở thành khẩu hiệu diễn tả quyết tâm dùng sức mạnh và bạo lực để bảo vệ đức tin, bảo vệ Lề Luật.
Vào thời Chúa Giêsu, không ít người Do Thái đi theo phong trào này, chủ trương dùng bạo lực để xua đuổi đế quốc Rôma, giành lại chủ quyền và độc lập của dân tộc. Dựa vào một số chi tiết trong các sách Tin Mừng, người ta cũng nhìn Chúa Giêsu như một nhà cách mạng chủ trương dùng bạo lực để xây dựng một vương quốc chính trị. Đồng thời, dọc dài lịch sử Giáo Hội, hình ảnh Chúa Giêsu như một nhà cách mạng cũng được vận dụng để biện minh cho việc sử dụng bạo lực nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
Thế nhưng đây có thực sự là ý hướng của Chúa Giêsu? Khi suy niệm về việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cách trọng thể, Đức Bênêđictô XVI trả lời: “Không. Làm cách mạng bằng bạo lực, nhân danh Thiên Chúa để giết người, đó không phải là đường lối của Chúa. Lòng nhiệt thành của Người đối với vương quốc Thiên Chúa được thể hiện bằng cách thức hoàn toàn khác”.
Trong ngày Lễ Lá, hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên lưng lừa tiến vào Giêrusalem làm dội lại lời tiên tri Zacaria: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng; khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9). Vào thời tiên tri Zacaria cũng như vào thời Chúa Giêsu, con ngựa mới là biểu tượng của sức mạnh, còn lừa là phương tiện của người nghèo. Vì thế hình ảnh Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn toàn khác. Người là vua của hòa bình, vua của người nghèo, vị vua đơn sơ và khiêm tốn.
Cũng lúc ấy, chúng ta khám phá lý do tại sao Phụng vụ Lễ Lá được bắt đầu bằng việc tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong vinh quang, rồi được tiếp nối bằng việc công bố bài thương khó. Để thấy rõ hơn chân dung của vị vua hòa bình. Để thấy rõ hơn ý nghĩa của “sự nhiệt thành”, không phải thứ nhiệt thành của bạo lực nhằm xây dựng một vương quốc trần thế, nhưng là sự nhiệt thành của Thập Giá, nhiệt thành của tình yêu tự hiến trọn vẹn.
Sự nhiệt thành ấy cũng chất vấn cách nhìn và cách sống của người môn đệ Chúa Giêsu ở mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh. Có những lúc người môn đệ Chúa cũng bị cám dỗ sử dụng bạo lực để gọi là phục vụ Nước Chúa. Nếu chưa phải là những hành động bạo lực thì cũng là những lời nói và ứng xử bạo lực. Dù là hành động hay lời nói thì gốc rễ vẫn là sự căm thù chất chứa trong tâm hồn, đôi khi được ẩn giấu dưới lớp áo nhiệt thành, và sự căm thù ấy đã dẫn đến biết bao hậu quả tai hại cho chính Hội Thánh của Chúa. “Chúng ta đã biết quá rõ những hậu quả tàn ác của thứ bạo lực với động cơ tôn giáo. Bạo lực không xây dựng vương quốc Thiên Chúa, vương quốc của nhân tính. Ngược lại, bạo lực là khí cụ ưa thích của tên phản-Kitô, cho dù nó núp bóng tôn giáo. Nó không phục vụ nhân loại mà phục vụ sự phi nhân” (Benedict XVI, Jesus of Nazareth, tome II, 15).
“Chúa Giêsu đã thiết lập tiêu chuẩn đánh giá lòng nhiệt thành chân chính, đó là lòng nhiệt thành của tình yêu tự hiến, và sự nhiệt thành này phải trở nên mục tiêu của đời sống Kitô hữu”. Suy tư này của Đức Bênêđictô XVI đáng cho mỗi người Kitô hữu ghi nhớ để soi sáng lời nói và hành động của mình. Nhất là trong Tuần Thánh, khi đi đàng Thánh Giá, khi ôn lại những chặng đường trong cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta.
6.Con đường Chúa đi–TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Lễ Lá có một khởi đầu vui nhưng lại có một kết cục buồn. Khởi đầu Ðức Giêsu long trọng vào thành Giêruxalem. Kết cục, Ðức Giêsu chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá. Con đường vào thành của Người là con đường vinh quang vương giả. Nhưng con đường lên Núi Sọ lại là con đường của kẻ tội đồ.
Ðám rước tưng bừng ngày Lễ Lá mời gọi ta cùng tiến bước theo Chúa.
Tiến bước theo Chúa để hiểu rằng hành trình không kết thúc tại cổng thành Giêruxalem với đám đông ngưỡng mộ, với cành lá và quần áo trải thảm đường đi, nhưng kết thúc trên Núi Sọ với thập giá, với những lời nhục mạ, với hai tội nhân đồng hành. Ðức Giêsu không xưng vương trước đám đông cuồng nhiệt nghênh đón, nhưng lại xưng vương trước mặt Philatô, khi tay đã bị trói, khi thân thể đã tan nát không còn hình tượng con người, khi đã mất hết uy tín, đứng trước vành móng ngựa như một phạm nhân. Danh hiệu là Vua chỉ được chính thức ghi bằng chữ viết khi Người bị treo trên thập giá.
Hành trình của Chúa là một hành trình gian khổ. Ðích điểm chỉ đạt tới sau khi đã từ bỏ tất cả, không phải chỉ là nhà cửa, y phục mà cả những người thân, cả thành công, cả danh dự, cả mạng sống.
Tiến bước theo Chúa để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người. Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa vung tay vung chân hoan hô Chúa, hôm sau đã vội vung tay vung chân kết án Chúa. Cũng đám đông ấy hôm trước vừa reo hò chúc tụng Chúa, hôm sau cũng vẫn reo hò, nhưng để buộc tội Chúa. Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa chen lấn nhau để nghênh đón Chúa, hôm sau đã xúm đông xúm đỏ để hành hạ Chúa. Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa cởi áo, chặt cành lá lót đường Chúa đi, hôm sau đã lột áo Chúa, chặt cành gai cuốn lên đầu Chúa.
Tiến bước theo Chúa để dứt khóat lựa chọn cho mình một con đường. Ðường vào Giêruxalem chỉ có một và rộng thênh thang. Mọi người đều tụ tập và cùng chung lối bước. Nhưng đường lên Núi Sọ chật hẹp và chia ra muôn ngả. Mỗi người đi theo con đường của mình. Ðường vào Giêruxalem đông vui và phấn khởi vì mọi người ca hát tưng bừng. Nhưng đường lên Núi Sọ thật buồn thảm, chỉ có tiếng roi vọt, tiếng than khóc, tiếng chửi rủa. Ðường vào Giêruxalem mọi người đều theo Chúa, mọi người đều là môn đệ Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ chỉ còn ít người theo Chúa. Có những người đã phản bội. Có những người đã trốn chạy. Có những người đã chối bỏ Thày. Ðường vào Giêruxalem có con lừa chở Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ Chúa phải vác thánh giá.
Ði theo Chúa trên đường vào Giêruxalem thì dễ dàng và vui vẻ. Nhưng theo Chúa trên con đường Núi Sọ mới thật chông gai.
Nếu tôi có mặt ở đó, tôi sẽ dễ dàng hoà nhập vào đoàn người cầm cành lá đón rước Chúa. Nhưng khi Chúa đi lên Núi Sọ, tôi sẽ rẽ sang đường nào ? Tôi sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa ? Tôi sẽ rẽ sang con đường chối Chúa của Phêrô ? Tôi sẽ rẽ sang những con hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ ? Tôi sẽ phụ hoạ với đám đông kết án Chúa ? Hay tôi cũng theo quân lính đánh đập Chúa ? Trước sau gì tôi cũng phải lựa chọn một con đường.
***
Lạy Chúa, xin cho con luôn tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa đi. Xin thêm sức cho con để con kiên trì theo Chúa trên đường lên Núi Sọ. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Hãy so sánh đường vào thành Giêrusalem và đường lên Núi Sọ.
2. Nếu bạn có mặt ở Giêrusalem hôm ấy bạn sẽ làm gì?
3. Bạn dám có lập trường riêng hay bạn chỉ biết làm theo đám đông?
7.Tình yêu đáp lại hận thù–TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Ngày Lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời và của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa đã lập tức quay lại la ó kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng vào thành như một ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một tử tội. Giuđa vừa ăn chung một bánh, uống chung một chén với Thầy đã vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ vừa mới ngồi đồng bạn với Thầy nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống chết bên Thầy đã mau chóng hèn nhát chối Thầy.
Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao đến tột đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được tâm hồn bình an thanh thản, thái độ quan tâm ân cần và trái tim chan chứa yêu thương.
Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc Thương khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con”. Trước cái chết ai cũng run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là đáng sợ. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa Cha, khao khát kết hiệp với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ nạn để được về cùng Cha.
Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà không kháng cự.
Bị vây bọc trong bầu khí sát máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân hậu khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị thượng tế.
Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch sự, tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hy vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản bội.
Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan tâm đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã nhận được ánh mắt âm thầm của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt trách móc thì ít mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi.
Trên đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù bản thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người phụ nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.
Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành.
Còn hơn thế nữa, Người tha thứ cho những sĩ quan, những binh lính đã hành hàn. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha tha cho tất cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người.
Tình yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận, chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như loài gỗ quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton Sheen). Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội. Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương. Giữa những phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Thời nay người ta thay đổi tất cả thật nhanh chóng. Thay đổi quần áo, giầy dép, điện thoại và cả bạn bè, vợ chồng nữa. Bạn có bị cuốn theo nếp sống thay đổi nhanh chóng này không?
2. Tình yêu của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Bạn hiểu điều này thế nào qua cuộc thương khó của Chúa?
3. Đạo Công giáo là đạo bác ái. Bạn sống đạo như thế nào khi bị phản bội, bị oan ức và thiệt thòi?
8.Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến–TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Cùng với tất cả các Kitô hữu trên toàn thế giới, chúng ta bước vào Tuần Thánh. Chúa nhật này, chúng ta kính nhớ việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Cuộc hành trình của Người đã khởi đầu từ Galilêa và nay sắp đến hồi kết thúc. Giêrusalem là chặng cuối cùng. Nơi đây, những bi kịch đau thương sẽ diễn ra. Đó là cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, cuộc khổ nạn sinh ơn cứu độ cho nhân loại, mọi nơi và mọi thời.
Đọc Kinh Thánh Tân Ước, chúng ta thấy cho đến nay, sứ mạng của Đấng Thiên Sai vẫn được giữ kín. Nhưng hôm nay, Người muốn tiến vào thành thánh và vào đền thờ. Chúa muốn tỏ bày sứ mạng đích thực của Người như mục tử mới của dân Ít-ra-en, vị Mục tử Nhân lành sẵn sàng hiến mạng sống mình vì đàn chiên. Người không tiến vào thành trên một chiến xa như các thủ lãnh giải phóng thường làm, nhưng trên một con lừa con. Điều này vừa nhằm diễn tả lời ngôn sứ của Cựu ước, vừa cho thấy Đức Giêsu đến giải phóng con người bằng sự khiêm nhường và bằng cái chết của người. Khái niệm “giải phóng” qua cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu phải được hiểu hoàn toàn khác với quan niệm trần gian. Khi long trọng tiến vào thành, Người được dân chúng hoan hô, những cành lá ôliu được trải ra trên con đường Người đi như một tấm thảm chào mừng chiến thắng. Dân chúng hân hoan vui mừng và hô lớn tiến “Hosana, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. “Hôsana” trong tiếng Do Thái vừa là một lời tung hô, đồng thời cũng có nghĩa là “xin cứu giúp chúng tôi”. Chắc chắn những người Do Thái có mặt hôm đó đều liên tưởng đến Đavít khi ông chiến thắng người Philitinh trở về trong tiếng hoan hô chúc tụng của dân chúng.
Ngày hôm nay, Đức Giêsu – Đấng đã long trọng vào thành Giêrusalem năm xưa – cũng đang đi vào các thành phố và làng mạc của chúng ta. Người muốn gặp gỡ để khích lệ chúng ta giữa cuộc sống đầy những khó khăn và gian nan thử thách này. Người đến với chúng ta như một Đấng duy nhất có thể giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi và thù hận. Người là Đấng duy nhất có thể giúp chúng ta đạt tới một cuộc sống nhân bản và liên đới với nhau hơn. Dung mạo của Chúa Giêsu trong cuộc đời hôm nay không giống như một vị tướng hùng mạnh chinh đông dẹp bắc, nhưng Người mang gương mặt hiền lành và khiêm nhường. Vài ngày sau biến cố tiến vào thành Giêrusalem, Đức Giêsu là người bị người ta đóng đinh và phỉ nhổ. Vòng triều thiên được đặt trên đầu Chúa là một vòng đầy những gai nhọn. Dưới cái nhìn của nhiều người, cái chết của Chúa được coi như một thất bại thảm hại. Thực ra, đó là một chiến thắng vĩ đại, chiến thắng của tình yêu vượt lên sự chết.
Cuộc thương khó của Chúa vẫn đang diễn ra nơi những người đau khổ, nghèo hèn, bệnh tật, bị áp bức và thiệt thòi bất công trong xã hội của chúng ta hôm nay. Chúa đang đi qua cuộc đời này. Có những người đón tiếp Chúa, nhưng cũng có những người dửng dưng trước việc Chúa đi ngang qua cuộc đời họ. Tiếng gọi của Chúa là tiếng gọi khiêm tốn, đôi khi bị lấn át bởi biết bao âm thanh hỗn tạp của “biển đời” đầy bon chen và giành giật. Vì thế, để lắng nghe lời của Người, chúng ta phải trút bớt khỏi tâm hồn những toan tính, tham vọng. Chúa thường tâm sự với những ai biết chuyên tâm cầu nguyện và những tâm hồn thích sống trong lắng đọng nội tâm.
Sau khi tham dự thánh lễ hôm nay, chúng ta sẽ trở về nhà mang theo một vài cành lá đã được làm phép. Cành lá này nhắc lại điều chúng ta đã hát: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. Cành lá này cũng nhắc chúng ta rằng Chúa Giêsu đang cần đến chúng ta. Trong cơn đau đớn dưới bóng những cây ôliu tại vườn Cây Dầu, Người đã muốn được các môn đệ ở bên. Ngày hôm nay, Người cũng mời gọi chúng ta như thế. Người muốn chúng ta hãy là chứng nhân loan báo sự chết và phục sinh của Người cho đến tận cùng thế giới. Người muốn mỗi chúng ta cũng biết hy sinh cho nhau, để cuộc sống này trở nên nhân ái và công bình hơn. Người còn muốn chúng ta hãy tiếp nối sứ mạng của Người xây dựng Nước Trời, một công trình được thực hiện ngay ở đời này và sẽ hoành thành khi Người lại đến trong vinh quang. Vì thế, cành lá chúng ta mang về nhà cũng là bằng chứng những cam kết trung thành dấn thân theo Chúa. Trong suốt Tuần Thánh này, chúng ta được mời gọi liên kết mật thiết với Chúa trong lời cầu nguyện.
Khi cử hành Hy lễ Tạ ơn, chúng ta được đón nhận những hoa trái của cuộc thương khó Đức Giêsu. Người ban cho chúng ta không chỉ mình và máu Người, mà còn sự kết hợp mật thiết với Chúa Cha. Người đã khởi đầu nơi chúng ta một cuộc sống quảng đại và sự liên kết tiến tới sự thân tình trọn vẹn với Thiên Chúa là Cha của Người.
Lạy Chúa, xin củng cố Đức tin của chúng con, hầu chúng con mãi mãi trở thành những chứng nhân trung thành của Chúa. Amen.
9.Bài Giảng của ĐTGM. Phaolô Bùi Văn Đọc năm 2005 cho Giới Trẻ
Cha phải nói với chúng con những gì trong thánh lễ chiều nay? Cha đã cầu nguyện rất nhiều, và Chúa đã dạy cha.
Chiều nay, cha mời gọi chúng con cùng với cha, chúng ta hãy quyết tâm thực hiện điều quan trọng nhất đối với cuộc sống kitô hữu của chúng ta: hãy chọn Chúa Giêsu giữa nhiều đối tượng, dù Chúa Giêsu chịu đóng đinh, dù Người chịu treo trên thập giá, Người bị bỏ rơi, dù Người bị sỉ nhục, và bị giết chết…
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị sỉ nhục ngày hôm nay; Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị bôi tro trét trấu trên gương mặt đẫm máu của Người. Chúa Giêsu vẫn không ngừng bị bôi nhọ cho đến ngày tận thế, bấy giờ không ai có thể bôi nhọ Người nữa, vì Người trở lại trong vinh quang để phán xét mọi người.
Chúng ta chọn lựa Chúa Giêsu, dù có những tiếng kêu mời khác: tiếng kêu mời của hưởng thụ và tiện nghi, của lợi nhuận và tiền bạc, tiếng mời gọi của danh vọng và địa vị, của các loại tình cảm và đam mê. Chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và đã cắt đặt các con để các con đi và sinh nhiều hoa trái và hoa trái các con tồn tại (Ga 15, 16).
Khi nói như thế, Chúa Giêsu cố ý dạy chúng ta rằng: chính tình yêu của Người đi bước trước: Chúa Giêsu yêu chúng ta trước, chứ không phải chúng ta yêu Người trước. Như lời kinh Tin Kính: vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Người đã chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta. Người đã chết vì tội lỗi chúng ta như lời Kinh Thánh và như lời thánh Phaolô, Người đã sống lại cho chúng ta được nên công chính, được cứu độ, được chia sẻ Thần Khí Phục Sinh của Người, thông phần sự sống thần linh của Người…
Khi nói với các môn đệ không phải các con đã chọn Thầy, Chúa Giêsu không cố ý nói rằng các con đừng chọn Thầy, đừng theo Thầy. Trái lại Người luôn mời gọi hãy theo Thầy, hãy từ bỏ mọi sự vác thập giá mà theo Thầy. Và đã có biết bao nhiêu người trẻ bỏ mọi sự mà theo Người.
Đứng trước những khó khăn, Chúa Giêsu còn cho thấy rõ ràng là phải chọn lựa, như trường hợp có nhiều người bỏ Chúa Giêsu, nhiều môn đệ nói với Người: lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi? Bấy giờ Chúa Giêsu đã hỏi nhóm Mười Hai: “các con cũng muốn bỏ đi hay sao?” Và ông Simon Phêrô đã nhanh nhẩu đáp thay cho nhóm Mười Hai: “Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Chỉ có Thầy mới có lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6, 67-69).
Các con sẽ nói với Chúa Giêsu như thánh Phêrô: Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con theo ai? Chỉ theo Thầy, chúng con mới có những lời ban sự sống đời đời. Các con chọn Chúa Giêsu; Các con có biết rằng chọn Chúa là chọn lời của Người, chọn Tin Mừng của Người không? Lời của Người vẫn còn chướng tai đối với nhiều người hôm nay. Giáo huấn của Người, dù rất tiến bộ vẫn bị coi là bảo thủ đó! Muốn vâng nghe lời Người, đôi lúc các con phải lội ngược dòng sông!
Theo bài tường thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hôm nay, đám đông người Do Thái đã bị xúi giục chọn lựa Barraba, và họ đã chọn ông. Còn Chúa Giêsu, thì họ để cho bị lôi đi đánh đòn, và giết chết. Các con có dám nói ngược lại với đám đông không? Các con có dám chọn Chúa Giêsu, khi nhiều mãnh lực thế gian tìm cách loại bỏ Người? Các con có sợ mình lỗi thời khi chọn Chúa Giêsu không? Có nhiều người, vì sợ lỗi thời mà đã bỏ Chúa. Nhưng tất cả những ai đã bỏ Chúa rồi sẽ thất vọng, vì thế gian này qua đi, chỉ có Chúa mới tồn tại. Chỉ có Chúa mới là Tương Lai đích thực của loài người.
10.Yêu như điên–ViKiNi–‘Xây Nhà Trên Đá’–Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Bài I: Bài Ca Người Tôi Tớ Đau Khổ.
Bài này trích trong sách Ngôn sứ Isaia, là bài ca Người Tôi Tớ đau khổ, giúp ta hiệp thông với những tâm tình của Đức Kitô suốt cuộc thương khó của Người: Đau khổ, cô đơn sâu thẳm, nhưng đồng thời đầy kiên cường để đạt tới sự chắc chắn chiến thắng cuối cùng.
a) Sứ ngôn Isaia nói tới một người của Thiên Chúa, dầu bị hành hạ tra tấn, vẫn giữ vững niềm cậy trông vào Thiên Chúa.
b) Phải chăng sứ ngôn đã phác họa chân dung Đức Kitô chịu thương khó.
c) Cũng thế, người tín hữu là môn đệ Đức Kitô trong tư thế tôi tớ chân chính của Thiên Chúa sẽ được sức mạnh của Thiên Chúa nâng đỡ để chịu gian khổ, nhưng ta có vững tâm bình thản và trung thành trong cơn thử thách đó không?
Bài II: Sự hạ mình và vinh thắng của Đức Kitô.
Sự hạ mình cùng cực và sự chiến thắng vinh quang tột đỉnh là sự tương phản của bài ca này về vinh quang của Đức Kitô mà thánh Phaolô đã diễn tả trong thơ gửi giáo đoàn Philip.
a) Những đố kỵ vì ghen ghét nổ ra trong cộng đoàn Philíp. Để nhanh chóng chấm dứt thảm cảnh này, Thánh PhaoLô đã noi gương Đức Kitô, dầu là Thiên Chúa Người cũng không ngần ngại tự hạ mình xuống chịu chết ô nhục trên Thánh giá.
b) Cần thêm rằng sự tự do chuộc tội của Đức Giêsu đã hiến dâng vì tình yêu Thiên Chúa. Vì thế, Người đã được tôn vinh và tán thưởng trên hết mọi loài.
c) Bạn có muốn chia sẻ vinh quang của Chúa chúng ta không? Bạn hãy vâng phục như Người, một sự vâng phục đầy lòng yêu mến Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ngài sẽ làm cho chúng ta nhận lãnh Đức Kitô khiêm hạ và đau khổ.
Bài III: Sự khổ nạn của Chúa chúng ta.
Tất cả bốn thánh sử Tin Mừng đều tường thuật cuộc tử nạn của Đức Giêsu Kitô, nhưng mỗi vị có một nhãn giới riêng. Thánh Luca đặc biệt chú ý đến những điểm sau:
a) Lòng nhân ái của Đức Giêsu luôn luôn biểu lộ ra trong hành động: Người đón tiếp kẻ phản bội, tha thứ cho Phêrô, an ủi cho phụ nữ khóc thương, Người cầu nguyện cho quân dữ.
b) Vai trò hy tế đền tội của Người: Người gánh tất cả tội lỗi chúng ta với đòn đánh và mọi đau đớn, Người nhận lấy cuộc khổ nạn và dâng hiến lên Thiên Chúa Cha với lòng yêu mến trọn vẹn. Vì thế, cuộc khổ nạn trở thành cuộc chiến thắng và nguồn ơn cứu độ.
c) Ước mong: Chúng ta biết thấm nhuần được rằng: mỗi người chúng ta phải gắn bó với thương khó này. Như ông Simêon, chúng ta phải vác thập giá mình theo Chúa Giêsu bằng hết tâm tình yêu mến. Như vậy, cuộc thương khó của Người vẫn được tiếp tục…
GỢI Ý CHIA SẺ
Cho đến tận thế, Thánh giá vẫn tiếp tục trồng trên trái đất chúng ta và không ngớt hô to cho con người thấy rằng: “Hãy nhìn ngắm và thấm thía biết bao Thiên Chúa yêu thương bạn dường nào! Đáp lại, sao bạn không yêu mến Ngài? Sao bạn không chấp thuận thương yêu nhau như Người đã chịu khổ hình vì thương yêu bạn?
a) Đức Kitô chịu chết, ôi cái chết tàn khốc!
Ngày Người vào thành Giêrusalem, bao nhiêu cành lá vạn tuế tung hô! Không đầy 4 ngày sau, Người bị bắt, bị kết án, Người đau khổ đến cùng cực: Bị phỉ nhổ, bị nguyền rủa, kéo lết trong bùn đất, sau cùng Người chịu đóng đinh chết treo trên thập giá như một đứa bỉ ổi nhất trong các tội nhân. Chắc hẳn, chúng ta biết rõ thế; nhưng biết như một điều xa lạ ở ngoài chúng ta. Thế mà Đức Kitô lại rất thân thiết gần gũi ta hơn bất cứ cha mẹ nào. Chúng ta hãy cố gắng sống cuộc thương khó của Người một chút để hiệp thông với những tình cảm riêng của Mẹ Người, Đức Trinh nữ Maria.
b) Đức Kitô đã yêu, ôi tình yêu cao cả!
Tại sao Người chấp nhận một cái chết tàn khốc? Thưa chỉ vì yêu chúng ta! Như Thánh Gioan viết: “Người yêu những kẻ thuộc về Người và yêu họ đến tột cùng”. Toàn diện cuộc đời Đức Kitô là một mầu nhiệm tình yêu. Người đã hoàn tất cuộc đời mình bằng hành động của tình yêu cao cả này là: Hiến mạng sống cho người mình yêu. Chúng ta hãy chiêm ngắm cho thấm thía cuộc tử nạn của Đức Kitô: con tim chúng ta dù chai đá đến đâu, sau cùng chúng sẽ nghe được tiếng trái tim Người thổn thức: “Con hãy xem, không phải để làm trò hề mà Cha đã chịu khổ hình để yêu con”.
c) Đức Kitô đã giải phóng và cứu độ con người:
Tình yêu Chúa Kitô đã đến chỗ điên rồ. Chúng ta hãy hát lên: “Ôi Thánh giá, cây điên rồ thiên linh”. Tình yêu đó có hiệu quả kỳ diệu và không thể suy tưởng được: không những con người được thanh tẩy mọi tội lỗi, bứng khỏi khốn cùng và phòng ngừa khỏi chết đời đời, mà con người còn được trở nên làm con Thiên Chúa nhờ phép Rửa tội và nếu vẫn trung thành giữ vững đức tin, con người sẽ được gọi tham dự hạnh phúc của chính Thiên Chúa đến muôn đời.
(Theo Noel Quesson)
11.Thập Giá và Vinh Quang–Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Hôm nay bắt đầu Tuần Thánh, tuần lễ tưởng niệm việc Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta. Thập giá là con đường dẫn tới vinh quang. Chúng ta hãy cùng đi theo Ngài trên con đường thập giá, chết cho con người cũ để sống lại thành con người mới.
II. Lời Chúa
1. Tin Mừng (Lúc rước lá: Lc 19,28-40)
Trong đoạn này, Luca gói ghém 3 ý tưởng chính:
1. Chúa Giêsu đích thân thu xếp cuộc vào thành Giêrusalem, Ngài căn dặn các môn đệ từng chi tiết nhỏ như đi vào làng, tìm gặp một con lừa đã cột sẵn ở một chỗ, cách trả lời với người chủ lừa v.v. Điều này chứng tỏ Ngài coi việc vào thành là quan trọng.
2. Quan trọng thế nào? Vì qua cuộc vào thành lần này, Ngài sẽ tỏ cho mọi người biết Ngài là vua. Ý nghĩa này thể hiện qua các chi tiết đám rước long trọng (lưng lừa và con đường được lót áo, dân chúng tung hô, lời hoan hô “Chúc tụng Đức Vua” v.v.
3. Thế nhưng một số người thuộc nhóm Pharisêu vẫn không công nhận vương quyền Ngài và còn đề nghị Ngài quở trách các môn đệ đã tung hô Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đáp “Họ mà làm thinh thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên”, nghĩa là dù một số người không công nhận Ngài là vua thì thực chất Ngài cũng vẫn là vua.
2. Bài đọc I (Is 50,4-7)
Đây là bài ca thứ 3 về Người Tôi Tớ của Thiên Chúa.
Người Tôi Tớ này không bao giờ cưỡng lại Thiên Chúa. Trái lại luôn lắng nghe lời Ngài và làm theo ý Ngài.
Người Tôi Tớ này cũng không chống lại sự áp bức của người khác.
Người Tôi Tớ đặt trọn niềm trông cậy vào Thiên Chúa.
Mặc dù bản thân đang chịu đau khổ, Người Tôi Tớ lại tìm cách nâng đỡ những người khác đang chịu đau khổ.
3. Đáp ca (Tv 21)
Đây là lời cầu nguyện của kẻ đang chịu đau khổ. Tuy nhiên không phải chỉ có những lời than vãn, mà phần sau, tác giả bày tỏ niềm tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ giải thoát mình.
4. Bài đọc II (Pl 2,6-11)
Đây là một thánh thi diễn tả những bước thăng trầm của Chúa Giêsu: Ngài đã hạ mình xuống đến mức tột cùng, nên Thiên Chúa đã nâng Ngài lên địa vị cao sang nhất.
5. Bài thương khó theo Thánh Luca (Lc 22,14-23,56)
Mỗi quyển Tin Mừng nhìn ra một nét riêng biệt nơi Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết. Raymond E. Brown đã tóm tắt rất súc tích như sau:
Chúa Giêsu chịu nạn trong Tin Mừng Matthêu và Marcô là một Thiên Chúa “gục đầu” vì đau khổ và bị bỏ rơi.
Chúa Giêsu chịu nạn trong Tin Mừng Gioan là một “Vị Vua đang ngự trên ngai”.
Chúa Giêsu chịu nạn trong Tin Mừng Luca là một Thiên Chúa nhân từ đang “mở rộng vòng tay” đón tiếp các tội nhân.
Như thế, nhân từ là nét nổi bật nhất về Chúa Giêsu trong bài tường thuật của Luca: Ngài đã chữa lành tai người đầy tớ của Vị Thượng Tế, Ngài đưa mắt nhìn Phêrô ngay sau khi ông này chối Ngài nhờ đó làm cho ông sám hối, Ngài dừng lại an ủi những phụ nữ khóc thương Ngài, Ngài hứa ban thiên đàng cho người trộm lành v.v.
IV. Gợi ý giảng
1. Vinh quang của Chúa Giêsu
Cuộc rước Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem đã biểu dương vinh quang của Ngài. Nhưng vinh quang hôm nay chỉ thoáng qua và chóng lụi tàn vì vài ngày sau thì Ngài bị giết chết nhục nhã trên thập giá. Vinh quang thực sự của Chúa Giêsu chỉ biểu lộ trọn vẹn khi Ngài sống lại và tiến vào Giêrusalem trên trời.
Hôm nay chúng ta cầm lá đi kiệu và biểu dương vinh quang của Chúa Giêsu. Tuy nhiên chúng ta hãy nhớ rằng chúng ta chỉ thực sự biểu dương vinh quang Chúa Giêsu khi để cho Ngài thực sự làm vua ngự trị trong lòng mình, bằng cách tuân giữ những giới răn của Ngài và sống theo tinh thần của Ngài.
Tinh thần của Chúa Giêsu chính là tinh thần của Người Tôi Tớ được diễn tả trong các bài đọc hôm nay: sẵn sàng tự hạ, chấp nhận hy sinh để bước theo Ngài và cùng chết với Ngài để được cùng sống lại với Ngài.
2. Làm chứng cho Đức Kitô giữa nơi công cộng
Hôm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, các môn đệ đã công khai bày tỏ lòng tin tưởng và trung thành với Ngài. Điều đáng khen là các ông đã làm điều ấy trước mặt những người biệt phái đang quyết liệt chống đối Chúa Giêsu. Khi những người biệt phái nói với Chúa Giêsu hãy bảo môn đệ im đi, thì Ngài trả lời: “Họ mà làm thinh thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên”. Nhiều khi cũng cần có những sự ủng hộ công khai. Bởi thế thông thường Chúa Giêsu rất âm thầm nhưng hôm nay Ngài tán thành việc làm của các môn đệ.
Tuy nhiên trong thái độ của các môn đệ cũng có điều đáng nghi ngờ. Không phải nghi ngờ về lòng trung thành của các ông, mà nghi ngờ vì đó là một phản ứng theo đám đông. Phản ứng theo đám đông thì thường là ồn ào, nhưng không sâu sắc.
Chúng ta dễ làm chứng cho Chúa Giêsu trong Nhà thờ, vì nơi đây chúng ta đang ở giữa những người cùng quan điểm với mình. Nhưng không dễ chút nào khi phải làm chứng cho Ngài giữa một môi trường rất khác với mình và có khi còn thù nghịch với mình nữa. Dù vậy nhiều khi chúng ta cần phải can đảm làm chứng trong hoàn cảnh khó khăn như thế.
Thực ra, sỏi đá không thể kêu lên. Chỉ con người mới kêu lên được. Có nhiều trường hợp chúng ta được im lặng mà phải nói lên: nói lên để bênh vực một người đang bị đối xử bất công, nói lên để khích lệ một người đang âm thầm đóng góp cho việc chung, nói lên sự thật để đầy lùi những lời dối trá…
Chúng ta đang làm chứng cho Chúa trong Nhà thờ. Nhưng đừng quên làm chứng cho Ngài ở giữa chợ đời. Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: “Ai tuyên xưng Ta trước mặt người khác thì Ta sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Ta trên trời”. (FMcCarthy)
3. Con đường vinh quang
Trong bài đọc II, Thánh Phaolô đã ngầm so sánh Chúa Giêsu với Ađam.
Ađam đã đi tìm vinh quang bằng cách muốn được “ngang hàng với Thiên Chúa”. Nhiều người chúng ta cũng tìm vinh quang bằng cách khẳng định chính mình. Đây là con đường chắc chắn sẽ dẫn đến thất bại.
Còn Chúa Giêsu thì chỉ biết làm theo ý Thiên Chúa nên sẵn sàng tự hạ mình xuống đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên Thập giá. Nhưng đây là con đường đưa đến vinh quang thật. Chính nhờ thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt mọi danh hiệu… khiến mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Chúa Giêsu Kitô là Chúa”.
Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
4. Yêu cho đến cùng (Lc 19,28-40)
Tại nhà thờ chính toà Nuzburg trong miền Baviere, Tây Đức, có một tượng thánh giá nổi tiếng được chạm trỗ vào khoảng thế kỷ thứ 14. Hai cánh tay đã rút khỏi lỗ đinh và vòng ra phía trước như ôm một con người.
Tương truyền rằng có một tội nhân hết lòng sám hối ăn năn, xin Chúa thứ tha tội lỗi. Nhưng vì tội ông quá lớn, quá nhiều nên ông vẫn còn nghi ngờ lòng thương xót của Người. Chúa liền đưa tay ra ôm chầm lấy ông trong vòng tay âu yếm để bày tỏ lòng Chúa khoan dung hải hà.
****
Trong suốt cuộc đời công khai rao giảng, rất nhiều lần, Chúa Giêsu đã bày tỏ tấm lòng yêu thương con người: Người đã thực hiện các phép lạ, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỉ, dạy dỗ dân chúng, âu yếm trẻ thơ, và tha thứ cho tội nhân. Hôm nay, Người quyết định bước vào đoạn cuối của tình yêu, đỉnh cao của dâng hiến. Người quyết định yêu cho đến cùng, bằng cuộc khổ nạn và cái chết đau thương của Người.
Nhưng trước hết, Người phải chịu một cơn cám dỗ cuối cùng. Cơn cám dỗ mà Luca đã báo trước: “Quỉ rút lui để chờ dịp khác” (4,13). Dịp ấy, hôm nay đã đến. Satan nhập vào Giuđa, để người môn đệ bất trung, tham của này đùng cái hôn nộp thầy. Satan sàng Phêrô và các môn đệ như sàng gạo để Phêrô thì chối thầy, còn các ông khác thì bỏ trốn. Vườn Ghếtsêmani quả thật là nơi giao tranh giữa Chúa Giêsu và quyền lực tối tăm, giữa sự thiện và cái ác. Người dùng phương thế hữu hiệu là cầu nguyện để thắng cám dỗ. Nhưng dường như trong cuộc chiến nội tâm của Người rất căng thẳng, nên Người đã xin Chúa Cha tha cho Người khỏi uống chén này. Người lên cơn xao xuyến bồi hồi đến nỗi mồ hôi như những giọt máu rơi xuống đất.
Thế nhưng, Người vẫn nhân từ thực hiện nghĩa cử yêu thương cuối cùng, trước khi hoàn toàn dâng hiến trên thập giá: Người hiền hoà ra đón Giuđa, và dịu dàng nhắc nhở ông về tình nghĩa thầy trò. Người chữa lành tên đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai. Người quay nhìn Phêrô với ánh mắt tha thứ khi ông chối Thầy. Người an ủi những phụ nữ thương khóc người. Người xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh Người. Người ban thiên đàng cho tên trộm biết sám hối.
Cuối cùng, Người đã hoàn toàn dâng hiến trên thập giá để cứu chuộc tất cả muôn người. Sinh thời Người đã nói: “Không có tình yêu nào cao quí bằng người hy sinh mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15,13). Vậy, Người đã yêu thương con người cho đến giọt máu cuối cùng. Thánh Gioan viết: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b).
***
Lạy Chúa Giêsu, chính vì vâng theo thánh ý Cha và cũng vì yêu chúng con mà Chúa đã sẵn lòng vác thánh giá, vui chịu mọi khổ đau nhục hình. Xin cho chúng con từ nay cũng biết yêu Chúa hơn yêu bạn thân, và yêu Chúa chỉ vì Chúa chứ không mong phần thưởng nào khác.
Xin cho chúng con nhận ra thánh giá của Chúa trong mọi đau khổ của cuộc đời chúng con, và vững bước theo Chúa trên đường thánh giá, miễn là chúng con đang chu toàn thánh ý Chúa. Amen. (Thiên Phúc)
5. Chiến thắng của Tình yêu
Mỗi năm đến ngày Chúa nhật Lễ Lá là chúng ta lại được nghe Bài Thương khó của Chúa Giêsu. Chúng ta nhớ lại sự hèn nhát của những môn đệ Ngài: họ đã bỏ Ngài ngay giữa lúc Ngài cần họ ở bên cạnh nhất; chúng ta nhớ lại lòng dạ xấu xa của những nhà lãnh đạo Do Thái: họ đã tìm cách để giết Ngài; chúng ta cũng nhớ lại sự hung dữ của những người lính: họ đã hành hạ Ngài rất tàn nhẫn. Chúng ta phải nhớ những điều ấy, bởi vì chúng có liên hệ với chúng ta.
Tuy nhiên, đó không phải là mục đích chính của những bài tường thuật việc Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết. Điểm nhấn mạnh của những tường thuật này không phải là ở chỗ đó, mà là ở tấm lòng của Chúa Giêsu, nhân vật chính của các bài tường thuật ấy. Điều mà các tác giả Tin Mừng muốn chúng ta nhớ nhiều nhất, đó là lòng trung thành, lòng can đảm và lòng nhân từ của Chúa Giêsu. Trên nền trời u ám của đồi Canvê, lòng nhân từ của Chúa Giêsu càng chiếu tỏa sáng ngời.
Nhìn bề ngoài thì xem ra Chúa Giêsu đã thất bại. Nhưng thực ra, đó là một chiến thắng, chiến thắng của sự Thiện trên sự dữ, của Tình yêu trên hận thù, của ánh sáng trên bóng tối, của sự sống trên sự chết. Trong lòng Ngài lúc đó, chẳng có tình cảm nào khác ngoài Tình yêu. Nếu không có Tình yêu thì tất cả những khổ đau Ngài chịu đều vô ích. Không phải những đau khổ của Chúa Giêsu mang lại ơn cứu độ, mà chính Tình yêu của Ngài. Ai nói rằng mình thích chịu đau khổ thì đó là người khùng, bởi vì ai cũng muốn tránh đau khổ, tuy nhiên vì yêu mà người ta sẵn sàng chịu đau khổ cho người mình yêu. Chính Tình yêu làm cho đau khổ có ý nghĩa. Hơn nữa, tình yêu còn đem lại niềm vui ngay giữa những đau khổ.
Noi gương Chúa Giêsu, kitô hữu chúng ta hãy chấp nhận những đau khổ. Nhưng không chỉ có thế, chúng ta hãy thánh hóa những đau khổ ấy. Tình yêu làm cho đau khổ được thánh hóa. (FMcCarthy)
6. Những đau khổ của Chúa Giêsu và của chúng ta
Một buổi tối, một người trên đường từ sở làm về nhà. Khi đi ngang một nhà thờ, người ấy như bị thúc đẩy bước vào. Hình ảnh đầu tiên đập vào đôi mắt anh là Chúa Giêsu trên thánh giá. Thoạt nhìn, anh cảm thấy ghê sợ và muốn thụt lùi. Nhưng sau đó, anh nhận ra có một mối giây liên kết giữa người đang chịu đóng đinh trên thánh giá với những người mẹ khóc con bị chết vì chiến tranh, với những trẻ em sắp chết đói bên Châu Phi, với những gia đình có người thân chết vì tai nạn, với những bệnh nhân thể xác và tâm thần… Hình như tất cả những khổ đau của loài người đều được gom lại trên thân thể của Người đang chịu đóng đinh trên thánh giá.
Sau đó anh nhìn chung quanh mình và thấy cũng có một số người đang quỳ cầu nguyện trong thinh lặng. Một bà cao tuổi bước đến bên Thánh Giá và kính cẩn hôn những vết thương của Chúa Giêsu. Sau đó Bà rời nhà thờ, vẻ mặt thanh thản, bình an, có vẻ như Bà đã tìm lại được sức mạnh, hy vọng và tình yêu cho cuộc sống. Từ trước đến nay, anh không biết cầu nguyện. Nhưng hôm đó, lần đầu tiên anh đã cầu nguyện. Và anh khám phá rằng thập giá của sự khủng khiếp đã biến thành Thánh giá của hy vọng, thân thể bì hành hạ của Chúa Giêsu biến thành thánh thể của sự sống mới, những vết thương mở toang của Ngài trở thành nguồn thứ tha, cứu chữa và hòa giải… Khi bước ra khỏi nhà thờ, anh cảm thấy lòng mình rất bình an thanh thản.
Cuộc chịu nạn của Chúa Giêsu không phải là một màn kịch mà là một sự thật. Ngài đã chịu rất nhiều đau khổ, trong than xác và trong tinh thần. Nhưng tất cả những đau khổ ấy Ngài tự ý tự nguyện gánh chịu, vì yêu.
Khi chúng ta liên kết những đau khổ của chúng ta với những đau khổ của Chúa Giêsu trên Thánh Giá, chúng ta sẽ tìm được bình an. Chúng ta biết rằng chúng ta không cô đơn trong đau khổ, mà có Chúa cùng chịu đau khổ với chúng ta. Ngài chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. (F. Mc Carthy)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta, đã nói: Một khi được nâng lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi. với ước muốn được chia sẻ chén đắng với Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh mời gọi con cái mình cùng bước theo Chúa Giêsu trên con đường Thương Khó / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu / biết can đảm vác thập giá theo chân Chúa đến cùng.
2. Trên thế giới ngày nay / khuynh hướng thích hưởng thụ và ngại hy sinh rất phổ biến / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều người / dám xả thân phục vụ những người nghèo khổ bất hạnh trong xã hội.
3. Con đường rộng rãi thênh thang là con đường dẫn tới cái chết / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết cố gắng sống theo con đường hẹp của Tin mừng / để nhờ đó mà được sống đời đời.
4. Tuần Thánh là tuần lễ quan trọng nhất trong năm Phụng vụ / đặc biệt là Tam Nhật Vượt Qua / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sắp xếp / để tham dự lễ nghi thật đông đảo và sốt sắng.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương mà Chúa đã tự nguyện đón nhận cái chết trên thập giá để cho chúng con được sống dồi dào. Xin Chúa cho chúng con luôn sống xứng đáng với tình thương cao cả ấy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước Kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha đến nỗi hạ mình chịu chết và chết trên Thập Giá. Kết hợp tâm tình với Chúa Giêsu, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa lời Kinh Lạy Cha mà chính Chúa Giêsu đã dạy.
VII. Giải tán
Chúng ta đã chính thức bước vào tuần lễ thánh thiện nhất của Năm Phụng Vụ. Tuần này chúng ta hãy cố gắng tham dự các nghi lễ Phụng vụ với tâm tình sẵn sàng chết với Chúa để được sống lại với Ngài.
12.Thông cảm với Chúa–Lm Giuse Đinh Lập Liễm
CHÚA NHẬT LỄ LÁ, A,B,C
A. DẪN NHẬP.
Hôm nay chúng ta bước vào Tuần thánh, kỷ niệm cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Tuần thánh được khai mạc bằng nghi thức làm phép lá và cuộc rước lá. Đây là những ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu. Tất cả những việc làm của Chúa Giêsu trong tuần thánh này đều diễn tả tình yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: Ngài lập bí tích Thánh thể là bí tích yêu đương, Ngài hiến trọn thân xác mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Ngài còn dùng cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, một hành động diễn tả tình yêu đến tột cùng. Nhưng sau cái chết nhục nhã trên thập giá, Ngài sẽ sống lại vinh quang để đem lại cho chúng ta sự sống mới và bảo đảm phúc trường sinh.
Hôm nay là Chúa nhật Lễ Lá và Thương Khó, chúng ta bước vào những ngày mà nỗi khổ đau của Đức Giêsu lên đến cực điểm. Đây chắc chắn phải là những ngày cuộc đời làm sáng tỏ hơn hết tình yêu Chúa đối với chúng ta. Chính Ngài đã chẳng nhói: “Bằng chứng lớn lao nhất của tình yêu đối với bạn hữu là chết cho bạn sao”? Ngài đã chết cho chúng ta và chết trên thập giá! Chúng ta có thấu hiểu mầu nhiệm của tình yêu này không? Lời Chúa tiên báo: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta” có hấp dẫn được tâm hồn chúng ta không ?
Chúng ta hãy dùng tuần lễ này để thông cảm với Đức Giêsu bằng việc suy niệm sự thương khó của Ngài để biết theo gương Ngài đi theo con đường Ngài đã chỉ vẽ: đường thập giá: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Đồng thời chúng ta hãy vui vẻ đón nhận mọi đau khổ trong đời sống hằng ngày để thông hiệp vào sự thương khó còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Ngài nơi chúng ta để đem lại ơn cứu độ cho chúng ta và nhiều người khác.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 50, 4-7).
Ngôn sứ Isaia có 4 bài ca về Người Tôi Tớ đau khổ. Bài ca hôm nay là bài ca thứ ba. Người tôi tớ Thiên Chúa này là một tôi tớ nào đó, được Isaia diễn tả với những đặc tính sau đây:
a) Người tôi tớ Thiên Chúa luôn trung thành với nhiệm vụ được giao phó nên đã chấp nhận tất cả: sự bách hại, tra tấn, phỉ nhổ, cô đơn.
b) Người tôi tớ nhẫn nhục chịu đựng, không dùng bạo lực chống bạo lực.
c) Người tôi tớ tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa là Đấng sẽ đến giải thoát mình.
+ Bài đọc 2: Pl 2, 6-11.
Chúa Giêsu đươc coi như người Tôi tớ mà Isaia đã loan báo trước. Nơi Người có hai sự tương phản rõ rệt: sự tự hạ phi thường và chiến thắng vinh quang. Theo thánh Phaolô, Đức Giêsu có thể là một Đấng Messia chiến thắng buộc mọi người phải nhận uy quyền của mình. Thế nhưng, Ngài lại muốn hạ mình làm một người tôi tớ, hạ mình đến tận cùng để phục vụ. Những ai càng hạ mình càng được nâng lên, sự hạ mình khiêm tốn của Chúa Giêsu đã được đền đáp: Thiên Chúa đã tôn Ngài lên làm Đức Chúa của muôn loài muôn vật.
+ Bài Tin Mừng: Mt 26,14-27,66.
Chúng ta có bốn bài tường thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu trong Tin Mừng của bốn thánh ký. Mỗi bài tường thuật đều có bố cục giống nhau nhưng mỗi tác giả chú trọng vào một ý làm cho nó nổi bật lên:
. Marcô chú trọng vào mục đích truyền giáo.
. Luca nhấn mạnh vào tình thương yêu của Chúa.
. Gioan làm nổi bật sự tự do chấp nhận của Chúa, đồng thời cũng nói lên vương quyền của Ngài.
. Matthêu trình bầy đầy đủ hơn cả. Bài thưong khó này được coi như bài giáo lý dành cho những người Do thái để họ biết Đức Giêsu là ai.
Bài tường thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu của Ngài đối với chúng ta; đồng thời cũng là một thiên anh hùng ca về lòng cam đảm và tinh thần hy sinh chịu đựng, cũng như thái độ khoan dung thứ tha của Ngài. Suy niệm cuộc thương khó của Chúa sẽ giúp chúng ta biết can đảm đón nhận mọi gian nan thử thách trong cuộc sống để góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Cùng đau khổ với Chúa
1. Nói về đau khổ.
Đau khổ có mặt trên mặt đất này ngay sau khi tổ tông Adong Evà phạm tội ăn trái cấm. Thiên Chúa đã ra án phạt cho ông bà phải chịu đau khổ và sau cùng phải chết, và hậu quả bi đát này còn truyền lại cho con cháu ông bà (x. St 3,14-18).
Đức Giêsu vì đã muốn trở nên con người như chúng ta nên cũng trở nên con cháu Adong Evà, và nếu đã là con cháu ông bà thì phải chịu đau khổ như chúng ta, bởi vì Ngài đã trở nên người phàm như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi.
Có hai thứ đau khổ: đau khổ vật chất và đau khổ tinh thần. Thường người ta cho vật chất hay thể xác là đau đớn, còn đau đớn tinh thần là đau khổ. Tuy nhiên, đau đớn và đau khổ có sự tương quan với nhau: đau đớn có thể đưa đến đau khổ và ngược lại, đau khổ có thể đưa đến đau đớn, hoặc vừøa đau đớn vừa đau khổ.
Con người ta ở đời dù lớn, dù nhỏ, thế nào cũng đã phải chịu đau đớn hay đau khổ hơn một lần. Đứa trẻ dù mới sinh ra cũng phải chịu đau đớn, mặc dầu chưa biết đau khổ là gì, vì thế:
Vừa sinh ra sao đà khóc chóe,
Trần có vui sao chẳng cười khì. (Cao bá Quát)
Thiên Chúa không chủ ý dựng nên các đau khổ cho loài người, nhưng đấy là hình phạt bất đắc dĩ theo sự công bình của Chúa. Ngoài ra, không phải mọi tai họa, mọi sự đau khổ đều do Chúa gửi đến, mà do chính con người độc ác đã tạo ra cho nhau. Gần đây người ta phân tích nguyên nhân đau khổ loài người thì được biết:
. 85% đau khổ là do người làm khổ người.
. 5% là do thiên tai như mưa, gió, lũ lụt, động đất…
. 10% là do ngẫu nhiên.
Nếu người yêu người, người thực hiện tình người thì 85% đau khổ sẽ không còn, chỉ còn 15% do thiên tai và ngẫu nhiên. Và 15% đau khổ này, khi loài người thương yêu nhau, san sẻ cho nhau, yên ủi giúp đỡ nhau thì coi như đau khổ không đáng kể.
2. Ý nghĩa của đau khổ.
Đứng trước thực tại của đau khổ, không ai có thể phủ nhận được. Ai cũng phải chấp nhận sự hiện hữu của nó. Nhưng trước những đau khổ ấy, mỗi người, mỗi tôn phái có một chủ trương riêng, một cái nhìn đặc thù và gán cho đau khổ một ý nghĩa riêng.
a) Các chủ trương trước đau khổ.
* Thiên Chúa giáo:
Theo nhiều bản kinh, nhất là kinh Lạy Nữ vương, thì đời người được coi như là chốn lưu đầy, là vũng khóc lóc, là thung lũng đầy nước mắt. Nhưng đấy chỉ là lời kinh của người Công giáo đặt ra, có khi là của bậc thánh nhân khả kính, chí như trong bộ sách Phúc âm, không hề thấy nói đời là bể khổ. Chỉ thấy cuộc đời của Chúa Cứu thế này đầy những đau khổ…
Còn trong những lời Chúa Giêsu giảng dạy, nhiều lần Ngài muốn cho người ta hiểu và tin trên mặt đất này chỉ là tạm gửi trong một khoảng thời gian dự bị, thời sau mới là sung sướng hay đau khổ, và cũng là yên ủi những ai lâm vào hoàn cảnh nghèo nàn trên mặt đất này vẫn đầy đau khổ, nhưng cần phải phân biệt những thứ giả dối qua đi không hẳn là đau khổ hay là hạnh phúc cho thực.
* Phật giáo.
Đức Thích Ca đã tìm ra nguyên nhân của các đau khổ là: sinh, lão, bệnh, tử. Ngài đã giác ngộ và giúp cho chúng sinh giải thoát khỏi đau khổ. Phật giáo cho đời là bể khổ “bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”. Một số thi sĩ nước ta bị ảnh hưởng yếm thế của Phật giáo, nên các tác phẩm đề có phảng phất ý tưởng bi quan, coi đời chỉ là bể khổ, là bến mê, là ảo ảnh, là vô thường…
Đức Thích Ca nói với năm thầy Sa-môn trước kia đã tu luyện cùng ngài ở Khổ hạnh Lâm: “Này các thầy Sa-môn, đây là phép mầu về sự khổ: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, cái gì không ưa mà phải hợp là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ” (trích trong kinh Mahavagga, theo bản dịch của Phạm Quỳnh, Phật giáo đại quan, Nam phong tùng thư, tr 47). Đó là diệu đế thứ nhất nói về vạn sự ở đời là khổ, trong Tứ diệu đế là căn bản tinh hoa của Phật giáo. Chính phật Tổ cũng dạy: “Nước mắt chúng sinh trong ba nghìn thế giới, đem chứa tích lại còn nhiều hơn nước trong bốn bể”(Lm Bửu Dưỡng, Vấn đề đau khổ, Đa minh, 1966, tr 55-56).
* Phái Khắc kỷ
Phái này chủ trương triết thuyết về con người hùng. Họ coi như đời không có đau khổ, và nếu phải đau khổ thì cứ cắn răng mà chịu, không hề than khóc, cứ phớt tỉnh đi, coi như không đau khổ vậy. Những người theo phái này đều là những con người dạn dầy với đau khổ, họ không để cho đau khổ chi phối họ, và ngược lại, họ còn muốn chi phối đau khổ.
Người ta kể: Zénon de Cittium, thuộc phái Khắc kỷ, bị bắt làm nô lệ. Anh chàng nô lệ này thuyết cho ông chủ về chủ trương của phái mình trước đau khổ: coi như không đau đớn gì. Ông chủ bèn sai đầy tớ lấy hai thanh tre buộc vào sợi dây ngắn, quấn vào ống chân của Zénon mà vặn xem có đau không. Zénon không tỏ ra chút đau đớn, cứ vui cười. Ông chủ lại bảo người đầy tớ phải xoắn cho chặt, cho mạnh. Zénon cứ bình tĩnh và nói với người đầy tớ ấy rằng:
– Xoắn vừa chứ kẻo gẫy ống chân đấy.
Thấy mình bị trêu chọc, tên đầy tớ lấy hết sức vặn gẫy đôi chân của Zénon ra. Nhưng Zénon không tỏ ra đau đớn mà chỉ bình tĩnh nói:
– Tôi đã bảo kia mà! Vặn mạnh quá làm gẫy đôi ống chân ra rồi!
* Theo quan niệm người đời.
Mọi người không phủ nhận đau khổ và cũng cảm thấy khiếp sợ đau khổ, không muốn chịu nhưng lại coi đau khổ là phương tiện cần thiết để đạt tới đích cao vời. Ai muốn tới mục đích thì cần phải dùng những phương tiện để đạt tới mục đích đó. Ví dụ:
Trời đất sinh ta âu hữu ý
Khách tài tình nên trải vị gian truân,
Một mai gặp hội phong vân. (Cao bá Quát)
hoặc:
Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử? (Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con)
Kinh Thánh cũng nói: “Lửa thử vàng, gian nan thử người nhân đức”. Chính gian nan tự nó không có ý nghĩa gì, nhưng nó là phương tiện để tô luyện ta nên tốt hơn. Cũng như giống cúc “Camomile” có đặc tính kỳ lạ này: càng bị giẫm, bị đè lên bao nhiêu nó càng lớn nhanh bấy nhiêu (Chuyện lạ quốc tế, tr 108). Cũng một lẽ: chiếc lò xo bị nhận xuống ít thì bật lên nhẹ, còn nếu bị nhận xuống nhiều thì bật lên càng mạnh. Càng bị thử thách, con người càng hăng hái tiên lên. Đấy là luật bù trừ ở đời.
3. Mục đích của đau khổ.
Chúng ta phải khẳng định rằng đau khổ không phải là cứu cánh mà chỉ là phương tiện, là điều kiện “sine qua non” để đi tới mục đích, cũng như học hành vất vả là điều kiện để thi đỗ, để thành người thông thái; hoặc muốn được nhiều hoa trái thì buộc phải cắt tỉa. Việc cắt tỉa không phải là mục đích nhưng chỉ là phương tiện để cây sinh được nhiều hoa trái.
Đau khổ còn là một mầu nhiệm. Đau khổ được đức tin đặt vào trong ý định của Thiên Chúa, trở thành một thử thách cao qúi, Thiên Chúa dành cho những tôi tớ Ngài tín nhiệm. Đức Giêsu đã tuyên bố điều luật khẩn thiết này: “Quả thật, Ta bảo chúng con, nếu hạt lúa rơi xuống đất không mục đi thì cứ trơ trơ một mình, nhưng nếu mục đi, nó sẽ sinh ra nhiều hạt”. Như thế đau khổ có ý nghĩa cao qúi của nó, giúp ta gắn bó với Chúa và giúp ta lập nhiều công phúc.
4. Thái độ của ta trước đau khổ.
Chúng ta có thái độ nào trước đau khổ? Đương đầu với nó hay trốn chạy? Chiến thắng hay đầu hàng? Về vấn đề này, ông Phạm công Thiện có ý kiến: “Đối với con người tầm thường, sự đau khổ và hạnh phúc chống đối nhau như hai kẻ thù không đội trời chung (và hẳn chạy theo hạnh phúc mà trốn đau khổ). Đối với con người khác thường, đau khổ và hạnh phúc hợp tác với nhau”. (Phạm công Thiện, Ý thức mới trong văn nghệ triết học, 1965).
a) Thái độ tiêu cực.
Nhiều người khiếp sợ đau khổ, khi thấy đau khổ thì tìm cách lẩn trốn. Nhưng trốn thế nào được, vì đau khổ đi theo con người như hình với bóng. Bóng mặt trời khi ta cong lưng chạy xuôi, nó chạy trước chận lối ta đi. Nếu ta quay đầu đi ngược lại phía mặt trời, bóng đen liền nhường bước cho ta đi trước, và lui về phía sau. Các sự trái ngược trên đời cũng thế. Nếu ta cong lưng chạy trốn, chúng nó càng chặn lối ta đi. Nếu ta làm mặt hiền hòa, bình tĩnh đón nhận, chúng nó sẽ mất hết sức mạnh làm hại ta.
b) Thái độ tích cực
Tình yêu làm cho đau khổ mất hết vẻ man rợ của nó. Tình yêu cũng làm cho đau khổ thành nguồn an ủi và sức mạnh. Vì tình yêu Chúa, chúng ta hãy sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh đau khổ trong cuộc sống, hãy biến những đau khổ ấy thành những hạt ngọc dâng lên Chúa. Không có một hy sinh nào trở nên vô ích nếu trong đó đã có tình yêu Chúa.
Ta nghĩ thế nào về hạt cát? Hạt cát có lợi hay có hại cho ta? Phải chấp nhận nó hay phủi nó đi vì nó vô ích? Phải phân biệt:
. Nếu hạt cát rơi vào mắt ta, chắc chắn ta phải tìm cách phủi đi ngay vì nó làm ta đau khổ.
. Nếu hạt cát đó lại rơi vào miệng con sò thì sao? Con sò sẽ tiết ra một chất nhờn bao bọc lấy hạt cát và sẽ biến nó thành hạt ngọc. Vì thế người ta hay tìm sò hến để kiếm ngọc.
Chúng ta hãy cùng chia sẻ với Chúa Giêsu những sự đau đớn của Ngài. Đời sống của ta phải trở nên Chúa Kitô chịu đóng đinh: chính nhờ cây thánh giá mà Chúa đã cứu chuộc cả nhân loại. Chúng ta hãy cùng cộng tác với Ngài để cứu chuộc nhân loại. Công cuộc cứu chuộc đó được thực hiện trong việc thuận theo thánh ý Chúa.
Trong một trang rất hay của cuốn sách “La Prìere de toutes les heures”, cha Charles khi suy niệm về tiếng AMEN đã trình bầy cùng một ý tưởng ấy, tuy một cách khác nhau nhưng rực rỡ hơn:
“Một hôm gặp những người lấy một trang giấy lớn để viết, một trang giấy trắng tinh. Mãi cuối trang, thay vì chữ ký, họ chỉ viết một chữ AMEN. Và rồi họ chuyển đời họ đến Chúa. Chúa Quan phòng bắt đầu viết lên trên chữ Amen đã viết trước ấy câu chuyện dài và đau thương của cả một đời người. Các tang tóc xếp đặt từng hàng, có ghi rõ ngày tháng và tiếng Amen đón nhận tất cả, đã cất đi được cái vị độc, đắng cay của những ngày ấy. Chúa cũng ghi trên trang giấy những niềm hoan hỉ lành mạnh, kèm thêm cả giờ khắc được hưởng, làm những trạm nghỉ trong một cuộc hành trình. Thay vì khước từ và quên lãng, hoặc chúi đầu ngủ mê trong những hoan lạc ấy, tâm hồn ngoan ngoãn cùng vui hưởng với Chúa và vì Chúa, bởi họ đã đọc lời giải khát.
“Thưa Amen trước với hết mọi mệnh lệnh của Chúa. Amen với những thất bại bất ngờ, với những vu khống trường kỳ, với những hiểu lầm hằng ngày khiến ta bực bội. Amen khi xe lửa chạy quá sớm hay quá chậm trễ. Amen khi trời nắng hay trời mưa, khi mất ngủ, khi nhọc mệt, khi nắng hạn hay rét cóng: Amen đối với những bạn bè khó nết đầy tật xấu và điên khùng. Amen đối với những người bà con già nua mà tuổi tác làm cho họ trở nên ích kỷ và quạu cọ. Thưa Amen vui vẻ nếu có thể được, và luôn thưa cách thành thực can đảm”. (Charles SJ, La Prìere de toutes les heures, tr 135-136)
13.Cái chết giúp sự thật hiển lộ–Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ.
Sau ba năm Đức Giêsu rao giảng, không ít người đã tin vào Ngài; tuy nhiên niềm tin vào Đức Giêsu của những người này tối đa cũng tương tự như niềm tin của các tông đồ khi Đức Giêsu còn sống đời dương thế. Họ cho rằng Đức Giêsu là một vị thầy, hơn nữa có thể là một tiên tri, và cao nhất có thể là Đấng Kitô Vua (Ga.6, 15; Mc.8, 29; 11, 9-10). Vào thời điểm đó, người ta không thể biết khác hơn được. Còn đối với những người không tin Đức Giêsu, những kẻ khó chịu hoặc bực tức vì Ngài trổi trang hơn họ, Đức Giêsu đơn thuần chỉ là một con người bình thường như bao người. Những người này không chỉ bất đồng ý kiến với Đức Giêsu, không chỉ khó chịu và bực tức mà còn muốn giết Đức Giêsu nữa (Mc.3, 6).
Vào thời cuối của ba năm rao giảng, Đức Giêsu đã nhiều lần nói những điều có thể làm cho Ngài phải bị ném đá. Chẳng hạn Ngài nói Ngài có quyền tha tội (Mc.2, 5.7), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 57-58), Ngài và Thiên Chúa là một (Ga.10, 30). Vào cuối đời, Ngài có những câu nói “gây mất lòng” nhiều người. Càng vào cuối đời, càng có ít người theo Ngài, vì những lời khó có thể hiểu và chấp nhận được, chẳng hạn: “chính tôi là bánh hằng sống. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga.6. 35). Những lời nói tương tự không chỉ làm Đức Giêsu “mất người” mà còn gây thêm có nhiều người thù địch với Ngài, thậm chí còn làm cho những người muốn giết Ngài có đủ bằng cớ và hậu thuẫn. Chẳng hạn, Ngài nhận mình là Thiên Chúa: “chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp nhưng vì một lời phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa” (Ga.10, 33).
Gần lễ Vượt Qua, âm mưu giết Đức Giêsu trở nên rõ ràng nên Ngài lui về Galilê. Vì thế, thời điểm Lazarô chết không có mặt Đức Giêsu tại đó. Sau đó khi Ngài muốn lên Giêrusalem thì các tông đồ đã ngăn cản. Tông đồ Thomas đã động viên các bạn: “nào chúng ta cùng lên Yerusalem để cùng chết với thầy” (Ga.11, 16). Đức Giêsu cũng biết Ngài sẽ bị giết nếu Ngài lên Giêrusalem vào thời điểm này, tuy nhiên Ngài vẫn cứ lên. Ngài không muốn trốn chạy cái chết. Ngài đã phải chọn lựa giữa sống và chết một cách cụ thể qua việc có lên Giêrusalem dịp lễ Vượt Qua này hay không. Cuối cùng Ngài đã chọn lên Giêrusalem cho dù cái chết đang chờ đón Ngài.
Ở Giêrusalem, Ngài vẫn làm điều Ngài vẫn thường làm: “ban ngày Ngài giảng dạy trong đền thờ, còn ban đêm Ngài và các tông đồ ra vườn dầu để ngủ” (Lc.21, 37). Hôm nay Ngài vào Giêrusalem và được dân chúng đón rước như vị Thiên Sai. Ngài chấp nhận biến cố này vì biết thời điểm đặc biệt của Ngài đã đến: thời điểm Ngài được tôn vinh cũng là thời điểm Ngài chết trên thập giá. Cái chết của Ngài có thể được thấy trước vì nó cũng theo quy luật của xã hội: người ta ghét Ngài đến độ muốn giết Ngài (Mc.14, 1).
Lúc khởi đầu người ta muốn giết Ngài vì Ngài đã dám suy nghĩ và nói ngược lại những người có thế lực (Mc.3, 6; 14, 1; 14, 53-59); nhưng khi vị thượng tế hỏi Đức Giêsu và Đức Giêsu trả lời: “rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và đến trên mây trời” thì họ không cần phải sắp đặt chứng cớ để giết Đức Giêsu như trước nữa, vì Đức Giêsu đã phạm một tội vô cùng lớn mà mọi người Do Thái một khi biết đều phải xử tử Đức Giêsu, vì là người mà dám cho mình ngang hàng với Thiên Chúa (Mc.14, 62-64). Đức Giêsu đầu tiên bị người ta ghen ghét mà muốn giết, rồi khi đã bị bắt và xét xử với chứng cớ được xếp đặt trước, Ngài lại nói Ngài ngang hàng với Thiên Chúa; như vậy trước công nghị Do Thái, Đức Giêsu bị kết án tử hình vì tội tôn giáo: lộng ngôn xúc phạm đến Thiên Chúa. Trên thập giá Đức Giêsu nói: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết” (Lc.23, 34); thật vậy, không biết nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu, thì kết án Ngài là chuyện tất nhiên.
Để giết được Đức Giêsu một cách hợp pháp, người Do Thái phải đem Đức Giêsu sang tòa Roma. Vào thời người Do Thái bị đô hộ, quyền xử tử thuộc về thẩm quyền người Roma. Đức Giêsu đã bị gán cho tội chính trị “xưng vương”. Nếu không gán cho Đức Giêsu tội chính trị thì Philatô đã không kết án tử hình Đức Giêsu. Philatô biết Đức Giêsu bị oan, nhưng vì sợ mất chức nên đã kết án Ngài. Nếu không kết án Đức Giêsu, Philatô có thể bị người Do Thái tố cáo với hoàng đế Roma vì đã buông tha người xưng vua phất cờ khởi nghĩa. Nếu vậy, Philatô phải giải thích, phải biện luận, và sẽ gặp nhiều phiền phức, và hậu quả sẽ là không được hoàng đế tin tưởng nữa, vì vậy Philatô đã kết án tử hình Đức Giêsu thuận theo ý của người Do Thái.
Nếu Đức Giêsu chỉ là một con người, Đức Giêsu xứng đáng lãnh án tử. Thực vậy, khi Đức Giêsu còn sống, nào ai biết Đức Giêsu là người có nguồn gốc thần linh, vì đâu là chứng cớ để người ta có thể tin như vậy! Chỉ khi Đức Giêsu chết và sống lại, người ta mới nhận ra những gì Đức Giêsu nói và cho mình là, là chân thực. Như vậy, chỉ sau biến cố Đức Giêsu Phục Sinh, các tông đồ mới biết chân tướng của Đức Giêsu. Nếu Đức Giêsu là kẻ lộng ngôn phạm thượng, thì Thiên Chúa đã chẳng phục sinh Ngài, còn nếu Ngài đã sống lại, nghĩa là những điều Ngài đã nói là đúng, là chân lý. Nghĩa là, Ngài và Thiên Chúa là một, Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài có trước Abraham.
Khi còn sống đời dương thế, Đức Giêsu khó có thể thoát chết, vì chân tướng của Ngài chỉ có thể được thấy rõ sau khi Ngài sống lại. Đức Giêsu bị hiểu lầm mà bị kết án tử hình, vì không ai biết Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị, vì không ai có thể tưởng rằng Thiên Chúa có thể nhập thể làm người. Sau khi Ngài sống lại, với ơn của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra ý nghĩa của những lời Ngài đã nói mà khi Ngài còn đang sống các ông chẳng hiểu gì. Ngài là Đấng có nguồn gốc thần linh, Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài và Cha là một, Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn tại sao người ta giết Đức Giêsu?
2. Có cách nào giúp Đức Giêsu thoát chết không? Tại sao Đức Giêsu không dùng nó?
14.Chúa Giêsu đối diện cái chết–Lm Giuse Phạm Thanh Liêm SJ.
Chúng ta bước vào tuần thánh với Chúa Nhật Lễ Lá, kỷ niệm Đức Giêsu vào thành Giêrusalem được dân chúng đón rước long trọng. Biến cố Đức Giêsu vào thành Giêrusalem như một vị vua, gắn liền với những gì xảy đến cho Ngài vào những ngày cuối cùng của đời Ngài.
Thành công và thất bại trên đời
Sau ba mươi năm sống âm thầm và làm nghề khiêm tốn ở Nazarét, Ngài đã công khai rao giảng suốt ba năm khắp đất nước Do Thái với những thành công và thất bại. Hôm nay Ngài trở lại Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của người Do Thái mà mọi người trưởng thành thường phải lên Giêrusalem. Cha mẹ Đức Giêsu cũng vẫn lên Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, và Ngài từ năm 12 tuổi cũng đã được dạy và thực tập hằng năm. “Hôm nay Ngài có lên Giêrusalem không?” Một số người am hiểu thời sự biết tình trạng nguy hiểm của Đức Giêsu: nếu Ngài lên Giêrusalem Ngài có thể bị những người lãnh đạo giết chết. Chính vì vậy họ mới đặt câu hỏi!
Trên đời, ai không gặp thất bại? Một danh nhân Việt Nam đầu thế kỷ 20 đã nói: “không thành công cũng thành nhân”. Vấn đề chính là thái độ hay cách cư xử của mình thế nào đối diện với những thành công và thất bại trên đời.
Đức Giêsu chấp nhận những gì xảy đến, ngay cả cái chết
Đa số các tông đồ không muốn Ngài lên Giêrusalem dịp này, dù rằng đây là luật buộc người Do Thái. Thomas khi thấy Ngài quyết định lên Giêrusalem thì nói: “Chúng ta cùng lên Giêrusalem để cùng chết với Ngài” (Ga.11, 8.16). Cổ ngữ có câu: “tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Tại sao Đức Giêsu không “khôn” một chút?
Đức Giêsu vẫn làm điều phải làm, Ngài không trốn tránh, Ngài chấp nhận thân phận làm người trong mọi trường hợp, chẳng hạn Ngài nói với Phêrô dịp người ta tới bắt Ngài: “xỏ gươm vào vỏ, liệu anh tưởng Thầy không thể xin Cha cho thầy 12 đạo binh thiên thần sao, nhưng như vậy thì làm sao Kinh Thánh được nên trọn?” (Mt.26, 53). Đức Giêsu đã không biến đá thành bánh để ăn, Ngài cũng không xuống khỏi thập giá khi bị thách thức, vì Ngài chấp nhận “thân phận con người” đến cùng trong mọi trường hợp.
Tôi có sẵn sàng chấp nhận thân phận là người của mình trong cuộc sống thường ngày không?
Dâng hiến chính mình
Đức Giêsu không chỉ chấp nhận cái chết một cách thụ động. Vì tình yêu “đối với con người”, nên Ngài đã có một sáng kiến tuyệt vời: dâng hiến chính mình cho tất cả mọi người qua bí tích Thánh Thể.
Hành vi tình yêu, đòi con người phải vượt qua chính mình, tôn trọng người mình yêu trong mọi điều kiện, muốn những điều tốt lành cho người mình yêu. Yêu như Đức Giêsu yêu, tức là sẵn sàng chết để người yêu được sống. “Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Sự dữ bất lực trước tình yêu.
Phục vụ là dấu chỉ của tình yêu. Các tông đồ tranh luận xem “ai là người lớn nhất trong họ” nếu thầy không còn nữa. Và đây là đầu mối chia rẽ và bất hòa. Đức Giêsu dạy các tông đồ: “ai muốn làm lớn thì phải là người phục vụ”. Đức Giêsu đã đến như một người tôi tớ. Môn đệ của Ngài cũng được mời gọi nên giống Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Đâu là thử thách lớn nhất của kiếp người, theo ý riêng bạn?
2. Theo bạn, các tông đồ nên thánh qua những việc nào và bằng cách nào?
3. Bạn có tuyệt vọng bao giờ chưa? Mong ước nào không thành sự đến nỗi bạn tuyệt vọng? Làm sao bạn vượt qua được?
4. Bạn đã yêu và được yêu bao giờ chưa? Làm sao bạn biết người ta yêu bạn?
15.Tại làm sao Chúa chết?–Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sau khi đọc bài tường thuật đầy đủ về cuộc Thương Khó của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta theo thánh Luca. Chúng ta không thể không màng chi đến những sự xảy ra trước đó. Nhiều người không khỏi thắc mắc: một con người như vậy sao lại kết thúc trên Thánh giá? Đâu là nguyên do dẫn đến cái chết và ai là người chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu?
Theo một lý thuyết lưu hành vào thế kỷ 20 sau thảm kịch Shoah, Hitler tiêu diệt những người Do thái, người ta qui trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu cho người Do thái, Philatô và các thẩm quyền Rôma thời ấy, mà động lực thúc đẩy thuộc bản chất chính trị hơn là tôn giáo.
Bằng chứng là Hội đồng Do thái, đứng đầu là các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão (x. Lc 22, 52) ; chứng gian tìm không ra, lời chứng lại không khớp, phải nại đến Thượng Hội Đồng và hỏi Chúa Giêsu xem có phải Người là Đức Kitô không? Chúa Giêsu trả lời: “Nếu Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời” (Lc 22, 67-68. Người buộc họ lên tiếng: “Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?” Chúa Giêsu đáp: “Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa” (Lc 22, 70). Bấy giờ họ nói: “Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói” (Lc 22, 71). Họ quyết định lên án tử cho Người.
Nhưng chuyện không đơn giản, vì muốn giết được Chúa Giêsu phải qua tay tổng trấn Rôma là Philatô, nên họ “ giải Người đến Philatô” (Lc 23, 1). Philatô không phải là người quan tâm tới sự công chính đến nỗi âu lo về số phận của một người Do thái không tên tuổi; ông ta là một mẫu người cứng cỏi, độc ác, sẵn sàng đổ máu nếu có một dấu vết rất nhỏ nổi loạn (x. Lc 13, 1-9). Tất cả sự này là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, ông không ra sức cứu sống Chúa Giêsu vì thương cảm nạn nhân, nhưng chỉ để ghi một điểm thắng chống lại những kẻ tố cáo Chúa Giêsu, với họ ông đã có xung đột từ ngày tới đất Giuđêa. Dĩ nhiên, sự này không giảm bớt trách nhiệm của Pilatô trong việc lên án Chúa Giêsu, một trách nhiệm ông đã chia sẻ với những nhà lãnh đạo Do thái.
Khi gặp Chúa Giêsu, Philatô hỏi: “Ông có phải là vua dân Do thái không?” (Lc 23,3). Chúa Giêsu vẫn giữ thái độ và hành vi tương tự như trước cộng nghị: “Ông nói tôi là vua” (Lc 23,3). Câu trả lời của Chúa Giêsu không giúp Chúa thoát khỏi vụ án mà lại như thêm dầu vào lửa, khiến các thầy thượng tế lại tố cáo thêm, nhưng Chúa không đáp lại một lời nào.
Đối diện với những kẻ đòi giết Chúa Giêsu, Philatô không biết làm sao nên bảo dân “Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi” (Lc 23, 16). Lúc ấy trong khám đang có sẵn kẻ giết người tên là Baraba, Philatô nghĩ ra trò tráo mạng Giêsu để may chăng dân chúng tha cho Chúa Giêsu, nhưng ông đã lầm, chẳng những không cứu được Chúa Giêsu mà còn như thể gia tăng lòng quyết xử tử Người. Dân chúng biến các lời chúc tụng thành tiếng kêu tố cáo: “Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!” (Lc 23, 21). Philatô nhượng bộ hoàn toàn: “ Ông liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu” (Lc 23, 24).
Khi quyết định trao nộp Chúa Giêsu thì ông cũng đi vào cái vòng di chuyển của họ. Tin Mừng được giả thiết là đã minh oan cho Philatô và tố cáo những người lãnh đạo Do thái chủ mưu giết Chúa. Chính thánh Phaolô khi tường thuật về án tử của Chúa Giêsu giống như các sách Tin Mừng mô tả, ông viết “những người Do thái đã giết Chúa Giêsu” (1 Tx 2,15).
Từ những tường thuật về cái chết của Chúa Giêsu trong Talmud và trong những tài liệu Do thái khác, truyền thống Do thái không bao giờ từ chối sự tham gia của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó trong việc lên án Chúa Giêsu. Họ không bênh vực mình bằng sự chối bỏ hành động, nhưng nếu có hành động nào, họ đã chối hành động đó, từ viễn ảnh Do thái, làm thành một tội ác và án tử Chúa Kitô Giêsu là một án bất công.
Như vậy, đối với câu hỏi, “ tại sao Chúa chết? ” Sau tất cả những nghiên cứu và những sự lựa chọn được đề nghị, chúng ta phải đưa ra cũng một câu trả lời như trong các Tin Mừng là Người bị kết án vì những lý do tôn giáo. Kết luận, các thẩm quyền tôn giáo và các thẩm quyền chính trị, các thủ lãnh Công Nghị và quan tổng trấn Roma, cả hai đã tham gia, vì những lý do khác nhau, trong sự xử án Chúa Kitô.
Phần chúng ta, những người tin Chúa Giêsu đều nghĩ rằng chính những người Do thái đã giết Chúa. Chúng ta cũng thường qui kết cho Giuđa là kẻ phản bội đã bán đứng Thấy, kẻ tiếp tay cho các thượng tế và kinh sư bắt nộp Chúa.
Mỗi khi Tuần Thánh về, đọc lại bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Giáo hội muốn mỗi người chúng ta, thay vì đổ tội cho người Do thái, thì nhìn thấy trách nhiệm của mình trong cái chết của Chúa Giêsu. Chúa đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh. Tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa Thiên Chúa và tha nhân, chống lại Thiên Chúa và chống lại nhau, dẫn đến nguy cơ mất ơn cứu độ. Nên Thiên Chúa đã “vì loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế…” chịu đóng đanh, chịu chết để chuộc tội cho chúng ta (x. Kinh Tin Kính).
Khi ta từ chối Chúa và chương trình thiêng liêng của Người, hay khi ta xúc phạm đến Chúa, không sống xứng đáng là con Thiên Chúa, chúng ta chịu trách nhiệm cách đặc biệt hơn vào cái chết của Chúa. Mỗi lần chúng ta phạm tội bất công, lỗi đức bác ái, gây gương mù gương xấu, cộng tác với sự dữ gây tác hại trực tiếp cho tha nhân, làm hại bản thân, gây thiệt hại cho cả Hội Thánh nữa là chúng ta làm khổ nhau, nhất là làm cho Chúa phải đau phiền và phải chết.
Ước gì khi suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta thêm lòng tin vào Chúa, yêu mến Chúa cách mãnh liệt hơn, và đặt tất cả lòng cậy trông vào Chúa. Chúng ta tin Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết. Amen.
16.Dõi theo Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu–Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Khi Chúa vào Thành Thánh
Chúa Giêsu muốn tất cả thật đơn giản, nhưng giầu ý nghĩa về tính thiên sai. Trái lại, đám đông từ Galilêa đến dự lễ Vượt Qua lại vui mừng phấn khởi. Chúa Giêsu tiến vào Thành Thánh, đám đông và đoàn môn đệ cất tiếng ngợi ca: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời”, làm cho chúng ta nhớ lại lời thiên thần đã hát trong đêm Giáng sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời và bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2, 14).
Sự nhiệt tình của đám đông gặp phải sự chỉ trích của một số người Biệt Phái. Chúa Giêsu chấp nhận sự nhiệt tình này bởi nó phát xuất từ trái tim, cho dù có phù du đi chăng nữa (x. Lc 19,39-40).
Một ngôn ngữ loài người
Toàn bộ sứ mạng của Người Tôi Tớ Đau Khổ được Isaia tóm lại: lắng nghe để huấn luyện, huấn luyện để loan báo: “Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn … Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn” (x. Is 50, 4-7). Thật dễ để mà nói, “tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi” (Is 50, 6), nhưng không dễ để mà sống. Vì thế, ta phải không ngừng lắng nghe Thiên Chúa, để Thiên Chúa huấn luyện ta bằng ngôn ngữ loài người, để tloan báo Thiên Chúa cho anh em.
Người đã không lấy lại
Chúa Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, chia sẻ tất cả vinh quang của loài người và vinh quang Thiên Chúa: “Đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm” (Pl 2,7). Là con người, một tạo vật có giới hạn trong thời gian, gắn liền với khổ đau, ngược đãi và bị giết chết. Trử nên giống phàm nhân, ngoại trừ tội lỗi, dù là Đấng vô tội, Chúa Giêsu đã khước từ vinh quang của Con Thiên Chúa và trở thành Con của loài người, để hoàn toàn liên đới với chúng ta là những người tội lỗi. Không những thế, Người đã sống giữa chúng ta trong một “điều kiện của nô lệ”: không phải như là vua, cũng không phải là ông hoàng, nhưng là nô lệ. Vì thế Người đã hạ mình, và vực thẳm sự hạ mình của Người, mà Tuần Thánh cho chúng ta thấy, xem ra không có đáy, “vâng lời cho đến chết” (Pl 2,8), đành mất tất cả để có được vinh quang trở về với Thiên Chúa.
Khởi đầu Chặng Đàng Thánh Giá
Thánh lễ ngày Thứ Năm Tuần Thánh như là điểm khởi đầu con đường thập giá, chứ không phải vườn Cây Dầu. Bởi vì con đường này chính là Vương Quốc. Đây là nét đặc trưng của bài Thương Khó theo Tin Mừng Luca.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Cho đến khi triều đại Thiên Chúa đến, vương quốc của Thiên Chúa”. Và đối với những người bị kết án trên thập giá cùng Chúa Giêsu, Nước Thiên Chúa đến ngay lập tức, người trộm lành hỏi: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi?” (Lc 23, 43) Chúa Giêsu trả lời: ” Ngay hôm nay… ” (Lc 23, 43). Thánh Thể thực hiện hy tế của Thiên Chúa và ban tặng cho chúng ta những quả phúc tuyệt vời ngay tức khắc. Mỗi khi cử hành, chúng ta thưa: “Xin đoái nhìn hiến lễ Hội Thánh dâng lên Chúa và khi Chúa nhận đây chính là của lễ Con Cha đã dâng tiến” (Kinh Nguyện Thánh Thể III) Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Chén này là Tân ước trong Máu Ta” (Lc 22,20).
Trong vườn Giệtsimani
Trong thư gửi tín hữu Do thái Chúa Giêsu nói: “Con đến để làm theo Ý Cha” (Dt 10,9-10) lấy lại những lời Thánh Vịnh (Tv 39, 8). Nhưng lời đó vẫn tiếp tục và đặt chúng ta vào trong lễ dâng hiến của Chúa Kitô. Chính trong ý Chúa Cha, Chúa Giêsu đã dâng hiến chính thân mình làm của lễ để cứu chuộc chúng ta.
Có lần chúng ta bước trượt, lúc đó bàn tay ta không có gì để nắm. Có lúc trái tim ta bồi hồi trong ta, cuộc sống mất đi ý nghĩa, khi tình yêu tan rã, tâm trí chúng ta mất hướng. Chúa biết rằng trong vườn cây Dầu, có các môn đệ ở gần, Người vẫn cảm thấy cô đơn: “Tại sao các con ngủ?” (Lc 22, 46).
Nhưng sự cô đơn không phủ kín trên Người, mà đưa Người đến với lễ vật tự hiến phổ quát. Thánh Phaolô viết cho tín hữu Philipphê “Để mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng” ((Pl 2, 11). Chúng ta phải ra khỏi chính mình, vượt ra ngoài bóng đêm để tìm kiếm Thiên Chúa đầy lòng trắc ẩn, tìm ánh sáng của Ngài.
Chối Chúa
Hầu như tất cả các môn đệ khác trốn chạy và bỏ rơi Thày, còn Phêrô với thanh gươm cầm sẵn trong tay, tin tưởng vào sức riêng mình, ông dồn sức lực vào sự nhiệt tình với Chúa. Giờ đây ông tìm lại chính mình. Ông biết rõ người mà tên đầy tớ nữ hỏi ông, nhưng ông vẫn nói: “Này chị, tôi đâu quen biết người ấy” (Lc 22,57).
Con gà là con vật không màng chi đến giờ giấc, vào thời điểm đó đã cất tiếng gáy. Phêrô sau khi chối Chúa, quay lại nhìn Chúa Giêsu, ông sợ hãi. Lúc này, Chúa không đến nắm lấy tay Phêrô như ngày ông bị chìm trên biển khi đang đến cùng Chúa. Với cái nhìn yêu thương, giờ đây Chúa Giêsu nhắc nhở Phêrô, ông quay lại và nhìn Chúa, cái nhìn lén lút, gặp ánh mắt “yêu thương”, ông sực nhớ lời Chúa Giêsu đã nói với ông: “Khi gà chưa gáy, con đã chối ta ba lần” (Lc 22, 61).
Chúng ta hãy để Chúa Giêsu nhìn chúng ta, cho chúng ta tính xác thực của tình yêu thương xót vượt trên sự yếu hèn của chúng ta.
Các ông nói, quan nói
Trước Công Nghị, giới lãnh đạo Do thái hỏi Chúa Giêsu xem có phải Người là Đức Kitô không? Chúa Giêsu trả lời: “Nếu Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời” (Lc 22, 67-68). Người buộc họ lên tiếng: “Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?” Chúa Giêsu đáp: “Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa” (Lc 22, 70).
Bị hạ nhục trong tâm hồn với các chế nhạo, xỉ vả, và khạc nhổ, thân xác phải chịu đánh đập, đòn vọt và mạo gai khiến cho diện mạo của Ngườii không còn hình tượng người ta nữa. Trước quyền bính tôn giáo và chính trị: Ngài đã tự biến thành tội nhâ và bị coi là bất chính. Thế rồi quan Philatô gửi Ngươfi qua cho vua Hêrôđê và ông này lại gửi Chúa trở lại cho quan tổng trấn. Với Philatô, ông lồng chính trị vào khi hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là Vua dân Do Thái không?” (Lc 23,3). Chúa Giêsu vẫn giữ thái độ và hành vi tương tự như trước cộng nghị: ” Ông nói tôi là vua” (Lc 23,3).
Chúa cũng yêu cầu chúng ta trả lời cùng một câu hỏi, mà Chúa hỏi các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Chúa Giêsu không đòi cho mình
Sau khi bị bán với 30 đồng bạc và bị phản bội bởi một môn đệ Ngài đã chọn và gọi là bạn. Chúa Giêsu trong tư cách là con người bị bỏ rơi và bị ngược đãi. Người bị nộp vào tay kẻ dữ, bị mạc cả với kẻ sát nhân, phải vác thánh giá nặng nhục nhã và bị nhạo báng như tên nô lệ. Người khiêm nhường đến độ không còn được tôn trọng. Người đã tự hủy mình ra không, không còn sức để vác cây thập giá.
Trong khi Ngài bị khước từ mọi công lý, Chúa Giêsu cũng cảm nhận trên da thịt mình sự dửng dưng, bỏi vì không ai muốn lãnh trách nhiệm đối với số phận của Người. Dân chúng biến các lời chúc tụng thành tiếng kêu tố cáo, thích cho một kẻ sát nhân được trả tự do cho họ hơn. Và thế là Chúa bị chết trên thập giá, là cái chết đớn đau và hổ nhục nhất dành cho các kẻ phản bội, nô lệ và các kẻ tội phạm tồi tệ nhất.
Chúa không đòi cho mình một đặc quyền đặc lợi nào, chẳng là gì trước sự tàn bạo của binh lính, kể cả Simon người Cyrênê, Chúa cũng chẳng là gì, ông kề vai vác đỡ, chẳng qua ông bị bắt vác mà thôi. Ông không biết ý nghĩa, cử chỉ vác thánh giá này. Những người nhạo báng hay tên lính lấy bọt biển nhúng giấm cho Chúa uống, họ có hiểu được không?
Ba năm mỏi chân đi giảng đạo cho muôn dân, với những phép lạ Chúa làm, an ủi những người ốm đau, bệnh tật, nghèo nàn đã không làm cho họ khám phá con người thật của Chúa Giêsu. Trong vườn Cây Dầu, một mình đối diện với Chúa Cha, Chúa không xin điều gì: ngoại trừ xin ơn tha thứ cho những ai làm khốn mình, vì Chúa đến để mang ơn tha thứ cho mọi người: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23, 34).
Cuộc đối thoại bất ngờ
Cùng chịu đóng đanh với Chúa Giêsu có hai tên trộm cướp, một đứa bên trái, một đứa bên phải. Chúa nghe hai tên đối thoại với nhau, một kẻ nhạo báng Chúa, còn kẻ kia thừa nhận mình là kẻ có tội: “Chúng ta phải chịu xứng với việc chúng ta đã làm” (Lc 23, 41), như chúng ta vẫn đọc trước khi cử hành Thánh lễ: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em tôi đã phạm tội”.
Một trong hai tên trộm thưa Chúa Giêsu rằng: “Xin nhớ đến tôi cùng…” (Lc 23, 41); còn chúng ta, chúng ta xin anh chị em “cầu nguyện cho tôi, trước tòa Thiên Chúa, Chúa chúng ta”. Trong khoảng khắc khó nói những lời ấy vì Chúa Giêsu cũng bị tra tấn, mà tên trộm lành đã kêu lên với Chúa Giêsu là Chúa với cả con người anh. Chúa Giêsu trả lời ngay lập tức: “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta” (Lc 23, 42). Chúa Giêsu vén mở gương mặt thật của Thiên Chúa, là sự thương xót. Người tha thứ cho các kẻ đóng đinh mình, mở cửa thiên đàng cho người trộm ăn năn.
Bóng tối và màn Đền Thờ bị xé
“Vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín…màn trong đền thờ xé ra” (Lc 23,44-45). Chúa Giêsu trút hơi thở trao phó linh hồn trong tay Chúa Cha và từ nay, chắc chắn Người là tác nhân Phục Sinh, hoàn tất điều có thể trao ban. Lòng thương xót của Chúa chạm tới con tim của viên quản bách quân, khiến anh ngợi khen vinh quang Thiên Chúa, và đám đông cảm thấy nhu cầu cần thiết phải được tha thứ liền đấm ngực ăn năn trở về mừng lễ Vượt Qua.
Giuse người Arimathia với tư cách là môn đệ đã quyết định tự mình đến xin Philatô cho được tháo đanh táng xác Chúa. Những người phụ nữ thánh thiện về nhà chuẩn bị thuốc thơm vì hôm sau là lễ Vượt Qua. Các đèn chiếu sáng ngày Sabát của lễ Vượt Qua bắt đầu tỏa sáng. Nhưng nó vẫn còn tối.
Vinh quang Thiên Chúa sẽ chiếu tỏa vào buối sáng ngày Phục Sinh khi tấm cửa mộ bị lăn ra như bức màn của đền thờ bị xé. Ngày thứ nhất trong tuần, sau khi sống lại, Chúa đến giữa họ, chia sẻ bánh trên đường Emmau, và một miếng cá nướng (x.Lc 24,13-49).
Chúa đã nói với họ vào tối Thứ Năm Tuần Thánh: “Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa” (Lc 22, 15-16). Nước Thiên Chúa đã bắt đầu.
Lạy Chúa, chúng con vừa cử hành các mầu nhiệm thánh, Chúa đã ban cho chúng con được thỏa chí toại lòng. Nhờ Con Một Chúa chịu khổ hình thập giá, Chúa làm cho chúng con tin tưởng vững vàng sẽ được ơn cứu độ, thì nhờ mầu nhiệm Người đã phục sinh, xin cho chúng con đạt tới quê trời như lòng hằng mong ước. Amen.
17.Tại làm sao Chúa chết? Chúa chết để làm gì?–Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phụng vụ Chúa nhật này gồm hai phần thật là khác biệt: trước tiên, là phúc lành, sắp đặt và rước Lá tưởng nhớ lại cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu Kitô tiến vào thành Giê-ru-sa-lem và thực hiện lời tiên tri của Dacaria: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ.”(x. Dc 9, 9). Sau đó, Phụng Vụ của Giáo Hội cử hành Hy Tế Thánh Lễ, với bài đọc Tin Mừng thật dài về cuộc Khổ Nạn của Chúa chúng ta (có nhiều nơi hát) dẫn chúng ta bước ngày vào Tuần Thánh, tuần lễ thiêng liêng nhất của Năm Phụng vụ. Sau khi chúng ta tung hô Chúa Giêsu là Vua, Giáo hội mời gọi chúng ta đồng hành với Chúa Cứu Thế trong sự thống khổ, lo sợ, đau thương suốt Tuần Thánh mà Ngài muốn hoàn tất trong việc cứu chuộc chúng ta.
Sau khi đọc tường trình đầy đủ về sự Thương Khó của Đức Giêsu Kitô Chúa theo Thánh Luca. Chúng ta hãy đặt câu: Một con người như vậy sao lại kết thúc trên Thánh giá? Những kẻ chịu trách nhiệm về sự chết của Chúa Giêsu dựa trên những lý do gì?
Phaolô trong những lá thư đầu của ngài, viết vào khoảng năm 50, cung cấp cơ bản cũng một tường thuật về án tử của Chúa Kitô y như trong các sách Tin Mừng. Ngài nói “những người Do thái đã giết Chúa Giêsu” (1 Tx 2:15). Về những biến cố xảy ra tại Giêrusalem không bao lâu trước lúc ngài đến, chắc chắn Phaolô biết rõ hơn chúng ta là những người đương thời, đã một thời gian kiên trì phê chuẩn và bênh vực án tử của người Nagiaret.
Không thể đọc những tường thuật về sự Thương Khó mà không biết mọi sự xảy ra trước. Nếu đọc Bốn sách Tin Mừng, chúng ta có thể nói trong mỗi trang thể hiện rõ ràng sự khác biệt tôn giáo ngày càng lớn giữa Chúa Giêsu và một nhóm quyền thế người Dothái (Biệt Phái, Tiến Sĩ Luật, Kinh Sư) về sự giữ ngày sa bát, thái độ đối với những kẻ tội lỗi và những người thu thuế, và về sự trong sạch và sự không trong sạch.
Tin Mừng Gioan từ cuối chương 4 cho đến chương 13 được đọc trong tuần thứ IV và thứ V Mùa Chay cho chúng ta thấy rõ sự tương phản này. Vậy làm sao người ta có thể nghĩ rằng sự tương phản này cuối cùng không đóng một vai trò nào, và nghĩ rằng những người lãnh đạo Do thái đã quyết định tố cáo Chúa Giêsu cho Philatô-hầu như trái với ý muốn của họ, chỉ vì sợ một sự can thiệp quân sự của người Roma?
Philatô không phải là một người quan tâm với sự công chính đến nỗi âu lo về số phận của một người Do thái không tên tuổi; ông ta là một mẫu người cứng cỏi, độc ác, sẵn sàng đổ máu nếu có một dấu vết rất nhỏ nổi loạn (Lc 13, 1-9). Tất cả sự này là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, ông không ra sức cứu sống Chúa Giêsu vì thương cảm nạn nhân, nhưng chỉ để ghi một điểm thắng chống lại những kẻ tố cáo Chúa Giêsu, với họ ông đã đã có xung đột từ ngày tới đất Giuđêa. Dĩ nhiên, sự này không giảm bớt trách nhiệm của Pilatô trong việc lên án Chúa Kitô, một trách nhiệm ông đã chia sẻ với những nhà lãnh đạo Do thái.
Từ những tường thuật về sự chết của Chúa Giêsu hiện diện trong Talmud và trong những tài liệu Do thái khác (tuy muộn hơn và mâu thuẩn về mặt lịch sử), một sự nổi lên: truyền thống Do thái không bao giờ từ chối sự tham gia của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó trong việc lên án Chúa Kitô. Họ không bênh vực mình bằng sự chối bỏ hành động, nhưng, nếu có hành động nào, họ đã chối rằng hành động đó, từ viễn ảnh Dothái, làm thành một tội ác và án tử Chúa Kitô là một án bất công.
Như vậy, đối với câu hỏi, “tại sao Chúa Giêsu bị kết án tử? ” sau tất cả những nghiên cứu và những sự lựa chọn giữa hai sự được đề nghị, chúng ta phải đưa ra cũng một câu trả lời như trong các Tin Mừng là Người bị kết án vì những lý do tôn giáo. Như vậy kết luận chúng ta phải rút từ những nhận xét lịch sử này, là các thẩm quyền tôn giáo và các thẩm quyền chính trị, các thũ lãnh Công Nghị và quan tổng trấn Roma, cả hai đã tham gia, vì những lý do khác nhau, trong sự xử án Chúa Kitô.
Chúng ta hãy gạt ra một bên bây giờ những vấn đề lịch sử, và hãy dành một lúc để chiêm ngưỡng Người. Giáo hội muốn mỗi người chúng ta phải nói thêm cho việc này là lịch sử không nói tất cả mọi sự và không nói cả sự cần thiết trọng yếu này. Bằng đức tin, Giáo hội muốn cho chúng ta biết rằng tất cả chúng ta có trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu. Chúa đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh: “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ Trời xuống thế…Người chịu đóng đanh vào Thập giá vì chúng tôi” (Kinh Tin Kính). Tất cả chúng ta đã phạm tội, nên Chúa phải chết, trách nhiệm thuộc về chúng ta.
Chúa Giêsu đã làm sao trong sự Thương Khó? Phẩm giá siêu nhân, sự kiên nhẫn vô cùng. Không một cử chỉ hay lời nói chối bỏ điều Người đã rao giảng trong Tin Mừng của Người, cách riêng các mối phúc. Và không có gì nơi Người giống sự khinh bỉ sự đau khổ đầy kiêu căng của người khắc kỷ.
Trước đau khổ và độc ác, Người run và đổ mồ hôi máu tại Giệtsêmanim, người kêu lên nỗi đau buồn của Người trên thánh giá:” Lạy Chúa con, Lạy Chúa con, nhân sao Chúa bỏ con?”
Người chết đương khi xin sự tha thứ cho những kẻ đã đóng đinh Người. Ngài đã thinh lặng, một sự thinh lằng siêu phàm: “Đức Chúa Giêsu vẫn làm thinh” (Mt 26:63). Người làm thinh trước Caipha, Người làm thinh trước quan Philatô, Người làm thinh trước vua Hêrôđê, kẻ hy vọng thấy Người làm một phép lạ (x. Lời Chúa 23:8). Bị nguyền rủa Người không nguyền rủa lại.” Thơ Thứ Nhất của Phêrô nói về Người (2:23)
Sự thinh lặng chỉ bị phá vỡ một lúc trước khi sự chết “tiếng kêu lớn” từ trênThánh giá sau đó Chúa Giêsu tắt thở. Điều này làm cho viên đại đội trưởng Roma thú nhận: “Thật người này là Con Thiên Chúa.”
Ước gì khi suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta thêm lòng tin vào Chúa, yêu mến Chúa cách mãnh liệt hơn, và đặt tất cả lòng cậy trông vào Chúa. Chúng ta tin Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết.
18.Niềm vui – Thập giá – và Ơn Cứu độ–Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Với Chúa nhật Lễ Lá, khai mạc Tuần Thánh, trung tâm của toàn thể Năm Phụng Vụ, trong Tuần này chúng ta dõi theo hành trình thương khó của Chúa Giêsu, chết và sống lại.
Niềm vui
Hoan hô, chúc tụng vua Israel, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! (x. Ga 12, 12-16)
Nghe đọc những lời trên lúc mở đầu nghi thức làm phép kiệu lá, tưởng nhớ tới sự kiện Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, dân chúng rủ nhau ra mà đón: “Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19, 36-38). Giờ đây mỗi người cầm cành lá trong tay vừa đi vừa hát “Hoan hô…” thấy thật là vui.
Đám đông dân chúng đón rước Chúa lúc đó hân hoan, ngợi khen, chúc tụng, đúng là một bầu khí vui mừng mà chúng ta cảm nghiệm được khi tái cử hành biến cố năm xưa hôm nay. Chúa Giêsu, Thái Tử nhà Đavít tiến vào Giêrusalem đã khơi dậy lên bao nhiêu niềm hy vọng nơi tâm hồn những người đơn sơ, nghèo khổ, bị lãng quên, những người không đáng kể gì trong xã hội. Người thấu hiểu và cảm thông cảnh lầm than khốn khổ của họ, cúi mình xuống chữa lành những vết thương thể xác cũng như tâm hồnvà tỏ lòng từ bi đối với họ.
Đúng như lời ngôn sứ I-sai-a nói: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17). Đó là tình thương cao cả của Chúa Giêsu, Người đã mang tình thương ấy đi vào thành Giêrusalem. Chúng ta thật vui mừng và tràn đầy hy vọng, vì thế giới chúng ta sống đang rất cần tình thương đó.
Thập giá
Niềm vui của dân chúng đang hân hoan, tung hô, chúc tụng Chúa, sự đấu tố, đòn vọt, vòng gai và thập giá bao trùm, những lời của Tiên tri Isaia, bài tường thuật của thánh sử Marcô, và những bài đọc phụng vụ khác dẫn đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm Thương Khó và cái chết của Chúa Giêsu. Isaia mô tả cho chúng ta hình ảnh của một người bị đánh đòn và chịu vả mặt nhục nhã (x. Isaia 50, 6). Lời đáp ca: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, sao Chúa bỏ rơi tôi?” giúp chúng ta chiêm ngắm cơn hấp hối của Chúa Giêsu trên thập giá (Lc 23,44-45). Nơi bài đọc II, thánh Phaolô tông đồ giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn mầu nhiệm Vượt Qua: Chúa Giêsu, “dù là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập tự” (Phil 2, 6- 8).
Một vị Vua cưỡi trên con lừa con, không có đoàn tùy tùng đi theo, không có một binh đoàn biểu tượng quyền lực tiến vào thành Giêrusalem là Chúa Giêsu. Người không vào Thành Thánh để nhận vinh dự dành cho các vua trần thế, cho kẻ có quyền bính, cho kẻ thống trị; Người vào thành để chịu đánh đòn, lăng mạ và xúc phạm, như Isaia đã tiên báo (x. Is 50,6); Người vào để chịu đội mão gai và mặc áo choàng đỏ, vương quyền của Người là đối tượng cho sự nhạo cười; Người vào để bước lên đồi Canvê vai vác khổ giá; Người vào thành Giêrusalem để chịu chết trên Thập giá. Thập giá là ngai vàng của Người, Người mang lấy Thập giá trên mình, mang vào mình sự ác, cùng với sự nhơ bẩn, tội lỗi của trần thế và cả tội chúng ta nữa. Với lòng từ bi và tình thương của Thiên Chúa, Người lấy máu mình mà tẩy rửa cho sạch. Vì thế, Thập giá được Chúa Giêsu đón nhận với tình thương không bao giờ đưa tới sầu muộn, nhưng dẫn đến niềm vui, niềm vui được cứu độ.
Sống Tuần Thánh
Bước vào Tuần Thánh, Giáo hội cùng với con cái mình dõi theo Chúa Giêsu trên hành trình tiến lên đồi Canvê với thập giá và sự sống lại của Người. Sống Tuần Thánh là đi vào tình thương hiến thân của Chúa Giêsu hầu mang lại sự sống cho con người
Lúc sinh thời, Chúa Giêsu đã rong ruổi trên khắp nẻo đường, với lòng tin, Người đã chọn gọi 12 người đơn sơ để họ ở với và tiếp tục sứ mạng yêu thương của Người. Trong Tuần Thánh chúng ta sống trọn vẹn cuộc hành trình này. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để thi hành sứ mạng yêu thương ấy.
Chúa Giêsu không sống cách thụ động tình thương dẫn đến hy sinh, hoặc như một định mệnh không thể tránh được; Người không che giấu sự sao xuyến sâu xa như một con người trước cái chết dữ dằn, nhưng phó thác hoàn toàn nơi Chúa Cha. Chúa Giêsu tự ý nộp mình chịu khổ hình và chịu chết, để chứng tỏ tình thương của Thiên Chúa đối với thế gian. Thánh Phaolô cảm nghiệm được rằng, trên Thập giá, Chúa Giêsu “đã yêu thương tôi và hiến mình vì tôi” (Gl 2,20). Mỗi người chúng ta có thể nói: Người đã yêu thương tôi và đã phó nộp mình vì tôi.
Nhìn vào Chúa Giêsu trong cuộc thương khó, chúng ta khám phá ra những đau khổ của nhân loại nói chung và những đau khổ của chính cá nhân mình nói riêng. Chúa Giêsu, dù vô tội, đã nhận mang lấy vào thân điều mà con người không thể chịu được như: sự bất công, sự dữ, tội lỗi, hận thù, đau khổ và cuối cùng là sự chết. Trong Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa phải chịu nhục nhã và đau khổ để chứng tỏ rằng Thiên Chúa yêu thương tất cả, tha thứ cho tất cả và mang đến cho con người ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống.
Mỗi năm, với Tuần Thánh, Giáo Hội bước vào trong Mầu nhiệm Vượt Qua, Mầu nhiệm tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Chính nhờ sức mạnh của Mầu Nhiệm Vượt Qua mà Giáo Hội có thể công bố cho thế giới bằng lời nói và bằng những việc làm tốt của những con cái mình rằng: “Chúa Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh hiển” (Phil 2,11). Phải, Chúa Giêsu Kitô là Chúa, Người là Chúa của thời gian và của lịch sử; là Ðấng Cứu Chuộc con người; Người là Ðấng Cứu Thế! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Hosanna!
Cùng với Mẹ Maria, chúng ta hãy xin với Mẹ là Ðấng đã theo Chúa Giêsu Con Mẹ trong suốt chặng đường dẫn tới Canvê trong đức tin, giúp con cái Mẹ vác thập giá với niềm thanh thản và yêu thương bước theo Chúa, để đạt được niềm vui của lễ Phục Sinh. Amen.
19.Suy niệm, chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Chúa Nhật Lễ Lá tập trung vào một chủ đề duy nhất: “tưởng niệm cuộc Thương Khó của Đức Giêsu”.
Is 50: 4-7
Bài Đọc I được trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Vị ngôn sứ cho chúng ta thoáng thấy dung mạo người tôi trung của Đức Chúa chịu đau khổ, nhạo báng, sĩ nhục, nhưng không một lời oán than, trái lại đặt trọn niềm tin tưởng vào một mình Thiên Chúa.
Pl 2: 6-11
Tiếp đó, chúng ta tiếp tục suy niệm mầu nhiệm hạ mình và tôn vinh của Đức Giêsu, được thánh Phaolô họa lại trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, dưới dạng một bài thánh thi ca ngợi Đức Kitô. Đây là một lời chứng đáng chú ý về niềm tin Giáo Hội tiên khởi.
Lc 22: 14-23: 56
Sau cùng, chúng ta sống lại cuộc Thương Khó của Đức Giêsu theo thánh Lu-ca, nhắc chúng ta nhớ rằng qua con đường Thương Khó và Tử Nạn Đức Giêsu dẫn chúng ta đến sự sống.
BÀI ĐỌC I (Is 50: 4-7)
Bản văn này nói cho chúng ta về những xác tín của vị ngôn sứ. Vì luôn lắng nghe Thiên Chúa, chuyên tâm suy gẫm lời của Ngài, ông đã không tránh né sứ mạng của mình và biết lựa lời mà nâng đỡ những người bất hạnh. Ông đã không đón nhận bất kỳ lòng biết ơn nào, nhưng trái lại, đã phải hứng chịu muôn vàn ê chề nhục mạ: bị đánh đòn, chịu những lời mắng nhiếc phỉ nhổ. Nhưng người tôi trung này đã đặt trọn niềm tin tưởng vào Đức Chúa; ông “trơ mặt ra như đá”, nghĩa là “nhất quyết, không hề nao núng, vững như bàn thạch”. Thánh Lu-ca nói với chúng ta rằng “Chúa Giêsu trơ mặt ra như đá”, nghĩa là, Ngài nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem để chịu cuộc khổ nạn của Ngài, tức là Ngài thu hết can đảm và khẳng định ý muốn của mình (Lc 9: 51).
1. Dung mạo người tôi trung:
Đây bài ca thứ ba trong bốn bài ca được gọi “bài ca về Người Tôi Trung của Đức Chúa” được gặp thấy trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ thời lưu đày Ba-by-lon, vào giữa thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên. “Người Tôi Trung” này được quy chiếu đến hoặc dân Ít-ra-en (vị ngôn sứ thường gọi họ là “người tôi trung của Đức Chúa”), hay một nhân vật biệt phân và đón nhận sứ mạng đặc thù. Vả lại, lời giải thích tập thể và lời giải thích cá nhân không loại trừ nhau; chúng chồng chéo lên nhau ở nhiều đoạn văn. Người tôi trung này hành xử một cách khiêm nhu (bài ca thứ nhất); ông được trao phó cho việc giải thoát dân Ít-ra-en và hoán cải muôn dân (bài ca thứ hai), ông phải hứng chịu những bách hại và nhục mạ (bài ca thứ ba), ông bằng lòng chịu chết một cách ô nhục, đoạn được tôn vinh (bài ca thứ tư).
Đây là một khúc quanh của Mặc Khải. Cho đến lúc đó những viễn cảnh Mê-si-a nhắm đến một dung mạo một vị vua vinh quang thuộc dòng dõi vua Đa-vít, Ngài sẽ thiết lập nền hòa bình và công lý. Ấy vậy, vào lúc này, dân Ít-ra-en không còn có vua, vương quyền Đa-vít đã bị tiêu tan trong cơn bảo táp; Đền Thờ Sa-lô-mon bị phá hủy, Giê-ru-sa-lem phải làm tôi và phần lớn dân cư bị lưu đày. Đây là giờ thuận tiện để loan báo một sứ điệp mới. Qua những linh tính của vị ngôn sứ, khoa sư phạm của Thiên Chúa tiến một bước tiến vĩ đại. Không phải những sấm ngôn thuở xưa về Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít bị hủy bỏ, nhưng điều mà những viễn cảnh mới cho thấy, chính là sự can thiệp của “một người được Thiên Chúa tuyển chọn”, “một người được Đức Chúa xức dầu tấn phong”, Đấng này sẽ hành động không ồn ào nháo nhiệt, bên ngoài có vẻ thất bại: đau khổ và chết, trước khi được tôn vinh.
2. Vị ngôn sứ chịu sĩ nhục:
Ở nơi nhân vật chịu nhiều nỗi truân chuyên này chúng ta dể dàng nhận ra chính vị ngôn sứ. Lãnh nhận sứ mạng an ủi những người lưu đày bất hạnh mệt mõi chán chường, ông đã không thể tránh khỏi thái độ vô ơn bạc nghĩa này. Ông đã cố giúp họ hiểu ý nghĩa của cuộc thử thách của họ, kêu gọi họ hoán cải, hứa với họ sự giải thoát; tuy nhiên, ông đã vấp phải thái độ không hiểu, ngờ vực và hung hăng của những người mà cuộc lưu đày dài lâu đã khiến họ nên chua chát đắng cay.
3. Người công chính chịu đau khổ:
Qua dung mạo của vị ngôn sứ, ẩn hiện dung mạo người công chính thập toàn. Bản văn có cung giọng Mê-si-a. Chúa Giêsu sẽ thực hiện sứ mạng được giao phó cho Ngài trong sự vâng phục hoàn hảo; Ngài sẽ mang Tin Mừng đến cho những người nghèo khổ và phiền muộn. Như vị ngôn sứ vô tội, Ngài sẽ đón nhận, thay vì những lời cám ơn, những đòn vọt, lăng mạ, nhục hình mà Ngài sẽ gánh chịu không hề nao núng “vì biết mình sẽ chẳng phải thẹn thùng hổ ngươi bẽ mặt”.
BÀI ĐỌC II (Pl 2: 6-11)
Đoạn thư của thánh Phaolô gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê này là một bài thơ, bằng văn xuôi có nhịp điệu, gồm sáu khổ thơ. Ba khổ thơ đầu vạch lại ba giai đoạn tự nguyện hạ mình của Đức Kitô, và ba khổ thơ còn lại, trái lại, ba giai đoạn được Chúa Cha tôn vinh.
Người ta không khỏi ngạc nhiên khi gặp thấy ở nơi cung giọng nồng nàn nhưng thân quen, những dòng thơ khôn sánh này, như tuôn trào từ ngọn bút. Người ta không biết phải chăng thánh Phaolô là tác giả hay chỉ là người trích dẫn bài thơ này. Bài thơ này, bằng Hy ngữ, được phô diễn rất văn chương. Tuy nhiên, các nhà chuyên môn phát hiện ở đây những ảnh hưởng của ngôn ngữ A-ram. Phải chăng có một bản văn bằng tiếng A-ram trước bản văn Hy ngữ này? Nếu vậy, chúng ta đang đứng trước một bài thánh thi phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi. Dù sao chúng ta có ở đây một chứng liệu đáng chú ý, một trong những bản văn xưa về thần học Đức Kitô; nhất là nó mang đến một lời chứng có giá trị đầu tiên về đức tin tiên khởi vào cuộc sống tiền hữu của Chúa Giêsu, trước cả Tựa Ngôn của thánh Gioan.
1. Ba giai đoạn hạ mình:
1- Đức Giêsu, vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nhất quyết đòi cho mình được ngang hàng Thiên Chúa.
2- Ngài tự hủy mình ra hư không và mặc lấy thân phận thấp hèn, nên giống phàm nhân, nghĩa là chia sẻ tất cả mọi yếu đuối của chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
3- Ngài lại còn hạ mình đến nỗi bằng lòng chịu chết ô nhục trên thập giá.
2. Ba giai đoạn tôn vinh:
1- Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và ban tặng cho Ngài danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
Chữ “danh hiệu” được hiểu theo nghĩa tuyệt đối: “Danh khả danh phi thường Danh”, nghĩa là danh hiệu này chỉ dành riêng cho một mình Ngài, đây là danh của “Đức Chúa”, mà theo truyền thống Do thái dành riêng để chỉ tên khôn tả của Thiên Chúa.
Danh hiệu “trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu”, vì danh này trổi vượt, thậm chí trên muôn loài muôn vật trên trời dưới đất.
2- Muôn loài muôn vật phải phụng thờ Ngài.
“Để vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong cõi âm ty, muôn vật phải bái quỳ”. Không phải chỉ vì danh Giêsu, vì tên này khá phổ biến, đó là lý do tại sao tên này thường được đám đông xác định: “ông Giêsu thành Na-da-rét”; nhưng vì danh Giêsu đồng nhất với danh Đức Chúa như khổ thơ trước chỉ cho thấy.
“Cả trên trời dưới đất, và trong cõi âm ty”: chỉ toàn thể vũ trụ. Điều này muốn nói rằng, không chỉ nhân loại phải tôn thờ Ngài, nhưng còn muôn loài thọ tạo nữa. Đây là đề tài chúng ta sẽ gặp lại ở sách Khải Huyền: “Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chức tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!” (Kh 5: 13).
3- Sau cùng, Thiên Chúa ban cho Đức Giêsu quyền tối thượng hoàn vũ, nghĩa là tước vị “Chúa”. Vì những người Ki tô hữu tiên khởi đã không ngần ngại ban tặng cho Đức Giêsu tước vị này mà Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa. Đây là lời tuyên tín đặc trưng tiên khởi; thánh Phaolô nhấn mạnh nhiều lần, cũng như thánh Lu-ca trong sách Công Vụ, Thiên Tính của Ngài.
Câu cuối của bài thánh thi định rõ “để tôn vinh Chúa Cha”. Đây cũng là một nét thần học xứng đáng nhấn mạnh: siêu tôn Đức Giêsu đồng nghĩa tôn vinh Chúa Cha. Phụng Vụ Ki tô giáo sẽ theo đường hướng này: mọi lời chúc tụng dâng lên Đức Kitô đều là tôn vinh Chúa Cha.
3. Mẫu gương:
Thánh Phaolô rất yêu quý các tin hữu Phi-líp-phê mà thánh nhân đã sáng lập vào năm 49-50 và là cộng đoàn Ki tô giáo đầu tiên trên đất Châu Âu. Phi-líp-phê là một thành phố quan trọng thuộc miền Ma-xê-đoan; thành phố này được đặt tên theo vua Phi-líp-phê, cha của đại đế A-lệ-xan.
Khi thánh nhân viết cho các tín hữu Phi-líp-phê, thánh nhân đang sống trong cảnh xiềng xích. Thánh nhân ước mong các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của ngài biết đồng tâm nhất trí với nhau, nhất là khiêm tốn tận đáy lòng. Vì thế, thánh nhân đưa ra cho họ mẫu gương của Đức Kitô.
TIN MỪNG (Lc 22: 14-23: 56)
BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ THEO THÁNH LU-CA
Như tất cả các thánh ký khác, thánh Lu-ca dành một phần lớn tác phẩm của mình cho bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô. Vì thế chúng ta có bằng chứng theo đó Giáo Hội tiên khởi đã hiểu biến cố đồi Sọ, không là một giai đoạn hổ ngươi bẽ mặt mà biến cố Phục Sinh xóa đi, nhưng rõ ràng là đỉnh cao công trình yêu thương của Thiên Chúa cho nhân loại. Sự thách đố của thập giá đã được những Kitô hữu tiên khởi đảm nhận, bất chất sự kỳ chướng gây ra cho người Do thái lẫn lương dân.
Bài tường thuật của thánh Lu-ca bộc lộ một cảm xúc mãnh liệt, tuy nhiên thánh ký tránh đề cập những chi tiết quá tàn bạo, nhưng chỉ gợi ý; khi đọc bài tường thuật của ông, người ta có thể không biết rằng Đức Giêsu đã bị đánh đòn và bị đội mảo gai. Mặt khác, chân dung mà thánh ký phác họa về Đức Giêsu hoàn toàn phù hợp với những gì ông đã mô tả về Ngài trước đó. Suốt lộ trình đau thương của Ngài, Đức Giêsu gieo rắc sự tha thứ, hòa giải và lòng xót thương. Sau cùng, người ta nhận ra rằng thánh ký, tác giả của sách Công Vụ sau này, rất quan tâm đến Giáo Hội: thánh ký muốn rằng bài Thương Khó của ông phải giúp cho người Kitô hữu gặp thấy ở nơi Đức Giêsu một mẫu gương noi theo cho đến phúc tử đạo.
ĐỨC GIÊSU LẬP PHÉP THÁNH THỂ (22: 14-20)
Chúng ta bắt đầu bài tường thuật của thánh Lu-ca với việc Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể. Hai tình tiết đi trước việc thiết lập phép Thánh Thể:
– Các thượng tế âm mưu và thông đồng với ông Giu-đa, tên phản bội.
– Chúa Giêsu sai hai môn đệ, thánh PHÊRÔ và thánh Gioan, chuẩn bị bữa ăn Vượt Qua.
Thánh Lu-ca là một trong các thánh ký đã khôi phục tốt nhất việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể trong bối cảnh của bữa ăn Vượt Qua Do thái.
1. Lễ Vượt Qua Mới:
“Khi giờ đã đến”, tức là vào lúc mặt trời lặn, Chúa Giêsu và các Tông Đồ “ngồi vào bàn”. Từ lâu bữa ăn Vượt Qua không còn theo cách thức cựu trào nữa, nghĩa là “lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy” (Xh 12: 11), nhưng theo cách thức Hy-La, nằm duổi dài trên trường kỷ.
Bữa ăn Vượt Qua Do thái được người cha hay vị thủ lãnh của nhóm chủ trì, như cộng đồng nhỏ bé của Đức Giêsu cùng các môn đệ của Ngài. Người cha hay vị thủ lãnh có nhiệm vụ giải thích diễn tiến và ý nghĩa của các nghi thức, trả lời các câu hỏi. Vì thế Chúa Giêsu lên tiếng trước, trong và sau bữa ăn. Ngài xác định ý nghĩa các cử chỉ của Ngài; Ngài sắp biến đổi lễ Vượt Qua truyền thống thành lễ Vượt Qua Mới; vừa đoạn tuyệt vừa nối tiếp, vừa song đối sâu xa vừa có tính cách mới tận căn.
Ngay lập tức, Đức Giêsu đem lại cho nghi lễ sắc điệu của Ngài: lễ Vượt Qua này thể hiện một trong những ước muốn nồng nàn nhất tấm lòng của Ngài và nó mang một ý nghĩa cánh chung.
2. “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình”:
Chúa Giêsu đã bày tỏ mong ước này rồi: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bừng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” (Lc 12: 49-50). Đó là ngọn lửa tình yêu mà Ngài sẽ tỏ cho nhân loại thấy Thiên Chúa yêu thương họ đến độ nào.
3. Ý nghĩa cánh chung:
Lễ Vượt Qua Do thái tưởng niệm việc dân Do thái được giải thoát khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, biến cố quyết định của lịch sử dân Ít-ra-en. Cuộc tưởng niệm này được hiểu như đảm bảo những lần Đức Chúa can thiệp trong tương lai, việc Đấng Mê-si-a ngự đến (ở bữa ăn Vượt Qua, một chỗ tượng trưng được dành riêng cho ngôn sứ Ê-li-a), cũng như ơn cứu độ vĩnh viễn (người ta nghĩ rằng ơn cứu độ này bất chợt đến vào đêm Vượt Qua). Như vậy, bữa ăn Vượt Qua Do thái là một trong những tiên trưng của bữa tiệc cánh chung mà Thánh Kinh mô tả để diễn tả niềm vui của những người công chính trong thế giới hậu lai như: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc…Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người” (I s 25: 6-8; 55: 1-3; Cn 9: 1-6).
Lễ Vượt Qua mà Chúa Giêsu chuẩn bị thiết lập mặc lấy dấu chỉ cứu độ “cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa”. Thánh Thể là lương thực cánh chung, bảo chứng cuộc sống đời đời.
4. Chén rượu thứ nhất:
Đức Giêsu đổi mới viễn cảnh này khi cầm chén rượu người ta đưa cho Ngài. Quả thật, bản văn viết: “Rồi Người nhận lấy chén”. Đức Giêsu chủ trì bữa ăn Vượt Qua. Chỉ một mình thánh Lu-ca kể ra chén rượu thứ nhất này.
Trong suốt bữa ăn Vượt Qua Do thái, có đến bốn chén rượu. Lời tạ ơn được đọc trên chén rượu thứ nhất, trước khi bữa ăn khởi sự, nhằm mục đích thánh hiến nghi lễ: Đức Giêsu dâng lời tạ ơn thứ nhất trên chén rượu này.
Tiếp đó, người ta ăn “rau diếp đắng”, đoạn đọc lời tạ ơn và cùng ăn bánh không men.
5. Đọc lời tạ ơn trên bánh:
Lúc đó, Đức Giêsu dâng lời tạ ơn trên bánh, nhưng Ngài biến đổi nghi thức: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy”. Bản văn của thánh Lu-ca rất gần với bản văn của thánh Phaolô. Chỉ hai người kể ra “Anh em hãy làm như Thầy vừa làm mà tưởng nhớ đến Thầy” (1Cr 11: 24).
6. Chén rượu cuối bữa ăn:
“Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy”. Những lời theo sau ở đây vẫn còn tương tự với những lời mà thánh Phaolô trích dẫn (1Cr 11: 25). Chén rượu mà Chúa Giêsu dâng lời tạ ơn có thể là chén thứ tư, chén mà người ta uống ngay khi bữa ăn được hoàn tất, trước khi đọc các Thánh Vịnh 113-118, để nói lên Giao Ước Mới và phân biệt rõ nét Chén Máu của Ngài với các chén khác.
Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ Ngài cái chết dữ dội của Ngài, Ngài chết như một hiến lễ: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em”.
DIỄN TỪ TỪ BIỆT (22: 21-38)
Trái với thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô, nhưng như thánh Gioan, thánh Lu-ca tường thuật bài diễn từ của Chúa Giêsu như diễn từ từ biệt, dưới hình thức của những lời loan báo, dặn dò và hứa hẹn.
1. Loan báo Giu-đa phản bội:
Trước tiên, Đức Giêsu loan báo rằng một người trong họ sẽ phản bội Ngài. Đây là nét chung cho cả bốn sách Tin Mừng: thánh Lu-ca đặt lời loan báo này sau bữa ăn, thánh Gioan thì trong bữa ăn, còn thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô thì trên đường đến vườn Cây Dầu. Chỉ mình thánh Gioan trích dẫn Tv 41: 10: “Kẻ đã cùng chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con” (Ga 13: 18). Thánh Lu-ca chỉ dành cho lời loan báo này chỉ ba dòng mà không đưa ra bất kỳ sự xác định nào, vì thánh ký không thích trì hoãn trên những cử chỉ ô nhục. Lời than thở: “Khốn cho kẻ nào nộp Con Người” không là lời kết án, càng không là lời nguyền rủa. Đó chỉ là một ánh nhìn đượm buồn trên người bạn lầm đường lạc lối này.
“Đã hẳn Con Người ra đi như đã ấn định”, nghĩa là cuộc Thương Khó của Đức Giêsu đã được ấn định bởi kế hoạch của Chúa Cha. Chúng ta không gặp thấy bản văn Kinh Thánh nào mà Chúa Giêsu có thể ám chỉ đến, nhưng phải nhớ rằng Đức Giêsu đã thường liên kết mật thiết dung mạo Con Người với dung mạo Người Tôi Trung. Vả lại, bài học phục vụ đến rất đúng lúc như một lời quở trách gởi đến các môn đệ Ngài.
2. Lý tưởng phục vụ:
Sau một thoáng xúc động vì lời loan báo một người trong họ sẽ phản bội Thầy, các ông, vẫn chứng nào tật nấy, tranh cãi sôi nổi với nhau xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất.
Đức Giêsu nhắc lại cho họ giáo huấn mà Ngài không ngừng nhắc đi nhắc lại: kẻ rốt hết sẽ là người làm đầu, ai trở thành bé mọn như con trẻ sẽ đi vào Nước Trời, vân vân. Kẻ lớn nhất phải nên như người phục vụ: “Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ”. Người ta nghĩ rằng thánh Gioan đặt việc rửa chân vào bữa ăn này, Đức Giêsu mặc lấy y phục người nô lệ, khăn thắt ngang lưng, để cúi xuống trước mỗi vị Tông Đồ.
3. Xa-tan trở lại:
Sự phản bội của Giu-đa không là cuộc tấn công duy nhất của các thế lực sự dữ. Chúng ta gặp thấy ở đây một trong những tuyến phát triển của Tin Mừng Lu-ca, cuộc tấn công này xuất hiện ngay từ câu chuyện Cám Dỗ trong hoang địa: ở đó Đức Giêsu chiến thắng Xa-tan và cuộc chiến thắng khởi đầu này bao quát toàn bộ sứ mạng của Ngài; nhưng Xa-tan chờ đợi giờ của nó (Lc 4: 13). “Xa-tan đã nhập vào Giu-đa” (Lc 22: 3). Ngoài ra “Xa-tan đã xin được sàng các Tông Đồ như người ta sàng gạo” (Lc 22: 31), tức là đưa các ông vào một cuộc thử thách cam go đối với đức tin của các ông. Chính thánh PHÊRÔ sẽ vấp ngã.
4. Tấm lòng nhân hậu của Chúa Giêsu:
Chúng ta lưu ý đến tấm lòng nhân hậu của Đức Giêsu; Ngài gợi lên cuộc tấn công của Xa-tan này chỉ sau khi đã trấn an các Tông Đồ của Ngài; Ngài nói với họ về cuộc thử thách này, khi nhấn mạnh rằng rốt cuộc họ sẽ chiến thắng: “Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. Vì thế, Thầy sẽ trao vương quốc này cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được dồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự tòa xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en”, tức là dân Thiên Chúa.
Đối với thánh PHÊRÔ cũng thế, để thánh nhân khỏi phải quá buồn phiền, Đức Giêsu công bố cho ông, trước khi tiên báo ông sẽ chối Thầy: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh”.
Chỉ một mình thánh Lu-ca gợi lên ngay từ giây phút này uy quyền mà Đức Giêsu ban cho thánh PHÊRÔ trên Nhóm Mười Hai, và đảm bảo rằng lời cầu nguyện của Ngài sẽ phù trợ đức tin của Giáo Hội.
Thánh PHÊRÔ cực lực biện bác, nhưng Chúa Giêsu nói trước cho thánh nhân biết nội trong đêm nay ba lần ông sẽ chối Thầy, nhưng Ngài cũng giúp cho thánh nhân hiểu trước rằng Ngài sẽ bỏ qua cho ông. Đây là một trong những trang Tin Mừng ghi đậm nét lòng nhân từ của Thiên Chúa.
5. Giờ chiến đấu quyết liệt:
Đoạn Chúa Giêsu với một nghị lực đáng kinh ngạc cho các môn đệ mình hiểu rằng giờ chiến đấu quyết liệt đã đến. Không còn ra đi không hành trang như trước đây Ngài đã truyền lệnh cho họ, nhưng phải trang bị vũ khí chống lại sự thù hận khủng khiếp. Chúa Giêsu nói bằng ngôn ngữ biểu tượng về khí giới thiêng liêng.
Bây giờ sấm ngôn Is 53: 12 sắp được ứng nghiệm: “Người bị liệt vào hàng phạm pháp. Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất”. Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất áp dụng bản văn ngôn sứ I-sai-a đệ nhị về người tôi trung chịu đau khổ vào cuộc Thương Khó của Chúa Kitô. Chúa Giêsu bước đi trong khi hoàn toàn ý thức rằng mình bị bêu xấu cho đến mức bị liệt vào hàng những kẻ phạm pháp và phải chịu chết một cách ô nhục. Ngài thử truyền đạt điều này cho các môn đệ, nhưng các ông lại hiểu theo nghĩa vật chất, vì thế họ trình cho Ngài hai thanh gươm. Chúa Giêsu, thất vọng, cắt ngang: “Đủ rồi!”.
CƠN HẤP HỐI TẠI NÚI Ô-LIU (22: 39-46)
Bài tường thuật của thánh Lu-ca thì ngắn gọn: thánh ký bỏ qua nhiều chi tiết được thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô cung cấp, chỉ để tâm đến lời cầu nguyện, lời cầu nguyện căng thẳng của Chúa Giêsu, lời cầu nguyện mà Ngài khuyên bảo các môn đệ ngay từ đầu và được lập lại ở phần cuối; một kỷ thuật đóng khung có ý nghĩa.
Chẳng có gì phải ngạc nhiên: thánh Lu-ca là thánh ký của lời cầu nguyện; chính thánh nhân ghi nhận thái độ thường hằng này của Chúa Giêsu: “Ban ngày, Đức Giêsu giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ô-liu” (21: 37). Chúa Giêsu không thay đổi thói quen của mình; hơn nữa, Ngài biết rõ rằng Ngài đang đối mặt với nguy hiểm. Vào chiều hôm đó, các môn đệ theo Ngài; Ngài bận lòng trước hết về họ; họ đã thật sự không ý thức về cơn kỳ chướng kinh khiếp đang chờ đợi họ. Ngài bảo các ông: “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Chính Ngài tách riêng một mình mà cầu nguyện.
1. Chúa Giêsu cầu nguyện:
Thánh Lu-ca viết: “Chúa Giêsu quỳ gối cầu nguyện”. Thái độ này không thông thường: dân Do thái cũng như dân Hy-lạp và dân Rô-ma đứng cầu nguyện; tuy nhiên, Cựu Ước nhiều lần kể ra thái độ quỳ cầu nguyện này (2Sb 6: 13; Đn 6: 11). Đây cũng là thái độ cầu nguyện Kitô giáo được nhiều lần ghi nhận trong sách Công Vụ Tông Đồ (Cv 9: 40; 20: 36; 21: 5).
Trong suốt buổi cầu nguyện dài lâu này, Chúa Giêsu đã có thể thay đổi tư thế. Tuy nhiên, thánh Lu-ca thích kể việc Chúa Giêsu quỳ cầu nguyện hơn “sấp mình xuống mà cầu nguyện” như Mát-thêu hay Mác-cô.
Lời cầu nguyện của Đức Giêsu ở vườn Ô-liu nhắc nhớ Kinh Lạy Cha mà Ngài đã dạy cho các Tông Đồ. Đức Giêsu thân thưa với Cha Ngài với trọn niềm tin tưởng của người con thảo; nhưng thân phận con người khiến Ngài xao xuyến: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con”. “Chén” là hình ảnh Kinh Thánh chung chung được liên kết với ý tưởng trừng phạt, “chén cơn thịnh nộ của Thiên Chúa”, chén dành cho số phận của những người tội lỗi. Khi chấp nhận uống chén này, thay cho những người tội lỗi, Chúa Giêsu sẽ cho phép họ được uống chén cứu độ: chén máu Thánh Thể, tức là máu Ngài đổ ra cho họ.
2. Thiên sứ:
“Bấy giờ có thiên sứ tự trời hiện đến tăng sức cho Người”. Đây là nét riêng của thánh Lu-ca.
Đây là câu trả lời của Chúa Cha cho tấm lòng hiếu thảo của Đức Giêsu. Điểm nhấn này rất gần với Tin Mừng Gioan; quả thật, theo Tin Mừng Gioan, Chúa Cha đã chưa bao giờ yêu mến Chúa Con cho bằng khi Chúa Con chịu cuộc Tử Nạn của mình. Một tình tiết song đối được gặp thấy chính xác trong Tin Mừng Gioan. Chúng ta biết rằng thánh Gioan không tường thuật cơn hấp hối của Chúa Giêsu ở vườn Ô-liu, nhưng phải nói là thánh nhân cho một sự tham dự trước cơn hấp hối này: khi những người Hy-lạp bày tỏ ước muốn được gặp Chúa Giêsu, thái độ của họ làm Ngài xao động. Lương dân đến với Ngài; Ngài sắp chết cho tất cả họ: “Tâm hồn Thầy xao xuyến…Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này…Bây giờ có tiếng từ trời vọng xuống: ‘Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!’. Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: ‘Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!’” (Ga 12: 27-28).
3. Mồ hôi hòa lẫn với máu:
“Mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất”. Chi tiết này gây chú ý cho thánh Lu-ca, thầy thuốc. Nó chỉ cho thấy nỗi đau cùng cực của Chúa Giêsu. Mỗi Ki tô hữu tự hỏi chính mình: phải chăng việc thấu hiểu nỗi đau khổ kinh khiếp và cái chết là nguyên nhân duy nhất gây nên nỗi phiền muộn bao la của Đức Giêsu, hay còn có nỗi đau đớn lớn lao do tội lỗi của con người? Ở đây chúng ta đi vào trong mầu nhiệm.
4. Cầu nguyện không ngừng:
Sau khi cầu nguyện, Chúa Giêsu trở lại các môn đệ và Ngài gặp thấy họ đang ngủ. Thánh Lu-ca viết một cách độ lượng: “họ ngủ vì buồn phiền”. Chúa Giêsu lại khuyên họ cầu nguyện, “kẻo sa chước cám dỗ”.
Họ đã không cầu nguyện đủ; họ khó mà cưỡng nỗi chước cám dỗ, và chẳng mấy chốc nữa, tất cả họ sẽ trốn chạy mà bỏ rơi Đức Giêsu. Bên kia các môn đệ, thánh Lu-ca nghĩ đến tất cả những Ki tô hữu.
ĐỨC GIÊSU BỊ BẮT (22: 47-53)
Bài tường thuật của thánh Lu-ca không khác mấy với các bài tường thuật khác, ngoại trừ vài sắc thái.
1. Nụ hôn của Giu-đa:
Thánh Lu-ca từ chối ghi lại nụ hôn của Giu-đa bằng những ngôn từ thô thiển; thánh ký chỉ gợi ý: “Hắn lại gần Đức Giêsu để hôn Người”; tiếp liền ngay sau đó là lời của Đức Giêsu: “Giu-đa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?”. Trong khi đó thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô viết: “Rồi hắn hôn Người”; còn thánh Gioan không kể ra nụ hôn của Giu-đa.
Chúa Giêsu gọi đích danh người môn đệ phản bội này nhằm cố ý giúp hắn ý thức về cử chỉ bỉ ổi của hắn; Đức Giêsu xưng mình “Con Người”, tước hiệu mà Ngài đã luôn luôn sử dụng khi tiên báo cuộc Thương Khó của mình, nhằm lay động, nếu có thể, những tâm tư tình cảm của tên phản bội.
2. Chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế:
Tình tiết chém đứt tai tên đầy tớ thượng tế đều được cả bốn Tin Mừng tường thuật. Thánh Lu-ca xác định tai bị chém đứt là tai bên phải. Những phần thân thể bên phải được xem là cao cả hơn bên trái. Nhưng chỉ mình thánh Lu-ca tường thuật Chúa Giêsu chữa lành tai của hắn. Đức Giêsu đã cư xử kẻ thù của Ngài như thế đó…Thánh Lu-ca là thầy thuốc, vì thế ông có một tấm lòng nhạy cảm.
3. Các thượng tế và kỳ mục:
Thánh Lu-ca không kể đám đông cầm gậy gộc và gươm giáo. Trái lại, ông lưu ý đến sự hiện diện của các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ cũng như kỳ mục. Việc lãnh binh Đền Thờ có mặt ở đây là chuyện thường tình để điều hành việc bắt giữ. Nhưng những nhân vật vị vọng, như các thượng tế và kỳ mục, đêm hôm lặn lội đi bắt Ngài thì đáng ngạc nhiên. Thánh ký muốn vạch mặt chỉ tên những người chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Kitô ngay từ giây phút bắt giữ Ngài.
Đức Giêsu vạch ra cho thấy việc ra tay Ngài vào ban đêm là hành động không quang minh chính đại, bởi vì hằng ngày Ngài công khai giảng dạy cho dân chúng trong Đền Thờ; nếu muốn bắt Ngài thì quá dể dàng, cần gì phải lén lút bắt Ngài như vậy. Nhưng cách thức bắt Ngài như thế rõ ràng cho thấy có một sự thông đồng với Giu-đa: “Giu-đa ưng thuận và tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giêsu cho họ, lúc không có đám đông” (Lc 22: 6), trong khi các thượng tế và kỳ mục muốn hoản cuộc bắt giữ cho đến sau ngày lễ, kẻo gây náo loạn trong dân (Mt 26: 5). Thánh Lu-ca còn kể thêm: “Nhưng đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm”. Chúng ta gặp lại bóng tối của Xa-tan.
THÁNH PHÊRÔ CHỐI THẦY (22: 54-62)
“Họ bắt Đức Giêsu”. Chỉ vào lúc này thánh Lu-ca mới kể việc bắt giữ Đức Giêsu, trong khi thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu đặt việc bắt giữ liền ngay sau Giu-đa ôm hôn Ngài. Thánh Lu-ca muốn chứng tỏ rằng cho đến lúc đó Đức Giêsu tự do, làm chủ biến cố, vạch cho thấy những sai trái của tên phản bội và của những kẻ đến bắt Ngài, ra lệnh cho các môn đệ và chữa lành kẻ bị thương. Tin Mừng Gioan cũng đưa ra một quan điểm như thế, nhưng chỉ cho thấy Đức Giêsu bị trói. Thánh Lu-ca không bao giờ nói việc Đức Giêsu bị trói.
“Họ điệu Người đến nhà vị thượng tế”. Vị thượng tế này không được nêu tên, chắc hẳn là Cai-pha, vị thượng tế đương nhiệm. Chỉ một mình thánh Gioan kể ra việc Chúa Giêsu bị điệu ra trước Kha-nan, vị thượng tế mãn nhiệm, bố vợ của Cai-pha. “Còn thánh PHÊRÔ thì theo xa xa”; thánh PHÊRÔ cẩn trọng giữ một khoảng cách nào đó. Tuy nhiên, vào đêm xuân, khí trời thì lạnh. Thánh PHÊRÔ thấy những người canh gác đã nhóm một bếp lửa giữa sân nên đến gần để sưởi ấm. Dưới ánh lửa bập bùng, thánh nhận dể bị nhận dạng và vì thế ông bị tra hỏi đến ba lần.
Bài tường thuật Lu-ca về việc thánh PHÊRÔ chối Thầy không khác mấy với các bài tường thuật của các thánh ký khác, tuy nhiên thánh Lu-ca không diễn tả mức độ tăng dần của việc thánh PHÊRÔ ba lần chối Thầy liên tiếp, nhưng nêu lên cường độ kịch tính một cách đặc biệt bởi cái nhìn gây xúc động của Chúa Giêsu trên vị Tông Đồ, cái nhìn của Ngài khiến thánh PHÊRÔ xao động. Tiếng gà gáy nhắc cho thánh nhân nhớ lại lời của Chúa Giêsu. Thánh nhân ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.
ĐỨC GIÊSU BỊ ĐÁNH ĐẬP (22: 63-65)
Trong khi chờ đợi, Đức Giêsu bị giao lại vào tay những kẻ canh giữ, chúng nhục mạ Ngài và đánh đập Ngài; chúng chế nhạo Đấng đã xưng mình là “ngôn sứ”. Thánh Lu-ca không nhấn mạnh những chi tiết của màn bỉ ổi và đau buồn này; thánh ký tránh kể ra những cái tát tai và những khạt nhổ vào mặt.
PHIÊN TÒA DO THÁI (22: 66-71)
Đức Giêsu cần phải ra trước tòa án Do thái. Giả như Ngài bị giao nộp trực tiếp vào chính quyền Rô-ma, Ngài sẽ bị đồng hóa với những người ái quốc và được hưởng triều thiên tử đạo. Điều quan trọng trước tiên là làm mất uy tín của Ngài trước mắt toàn dân Ít-ra-en.
1. Thượng Hội Đồng:
Thượng Hội Đồng Giê-ru-sa-lem là tòa án tối cao của người Do thái. Giới học giả tranh luận về thẩm quyền của Thượng Hội Đồng này; dù thế nào đi nữa về lãnh vực tôn giáo, ba trường hợp chính buộc phải xét xử ở Thượng Hội Đồng này: thờ ngẫu tượng, một ngôn sứ giả, hay một vị thượng tế phạm một tội danh nào đó. Tước hiệu “ngôn sứ” sẽ là trung tâm của phiên tòa xét xử Đức Giêsu trước Thượng Hội Đồng, trong khi tước hiệu “vua” sẽ là trung tâm của phiên tòa Rô-ma trước quan tổng trấn Phi-la-tô.
Thượng Hội Đồng gồm có bảy mươi thành viên không tính vị thượng tế, người chủ trì Thượng Hội Đồng này; lời tuyên án của Thượng Hội Đồng chỉ có giá trị nếu hội đủ ít nhất hai mươi ba thành viên. Xem ra có nhiều hơn khi Chúa Giêsu bị điều ra trước Thượng Hội Đồng.
2. Hai tước vị của Ngài:
Thánh Lu-ca chỉ tường thuật một phiên tòa Thượng Hội Đồng, phiên tòa xảy ra vào ban ngày. Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu gợi lên một phiên tòa trước, phiên tòa xảy ra vào ban đêm. Theo luật, trong trường hợp nghiêm trọng, Thượng Hội Đồng phải nhóm họp hai lần cách nhau khoảng hai mươi bốn tiếng, ngỏ hầu những người xét xử có đủ thời gian để suy nghĩ. Phiên tòa thứ hai phải khẳng định hay hủy bỏ quyết định của phiên tòa thứ nhất chứ không có quyền tăng thêm bản án. Thánh ký không trì hoãn ở nơi những hình thức nực cười của phiên tòa mà bản án đã được định sẵn trước rồi; ông muốn hướng sự chú ý đến con người của Đức Giêsu, nơi hai tước vị của Ngài: Đấng Mê-si-a và Con Thiên Chúa. Khác với thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca phân biệt rất rõ hai tước vị này, như thánh ký đã làm lần đầu tiên, vào biến cố Truyền Tin. Sự phân biệt này nói lên nỗi bận lòng của một sử gia. Tác giả sách Công Vụ sau này biết rằng khi Giáo Hội được phát triển, nhất là ở môi trường lương dân, tước vị Do thái: “Mê-si-a” được bảo tồn ở nơi tước hiệu Hy-lạp: “Kitô”, nhưng điểm nhấn chính được đặt trên tước vị “Con Thiên Chúa” của Đức Giêsu, tức là nhận ra Thần Tính của Ngài.
Đối với câu hỏi về tước vị Mê-si-a của Ngài, Đức Giêsu trả lời bằng cách làm cho những người xét xử Ngài hiểu rằng tước vị này không tương hợp chút nào với những gì họ nghĩ: nó không thuộc trần thế, nhưng siêu việt vì “Từ nay, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng”. Cũng như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca liên kết sấm ngôn Đa-ni-en và Thánh Vịnh 110, cả hai đều loan báo việc con vua Đa-vít sẽ được tôn vinh bên hữu Đức Chúa.
Đối với câu hỏi về tước vị Con Thiên Chúa của Ngài, Đức Giêsu trả lời bằng cách biến đối thủ của Ngài thành người công bố chân lý: “Đúng như các ông nói, chính tôi đây”. Tại thánh Mác-cô, Đức Giêsu trả lời rõ ràng: “Phải, chính thế”.
3. Bản án:
Thượng Hội Đồng chỉ có thể tuyên án khi dựa vào tối thiểu hai lời chứng ăn khớp với nhau. Thánh Lu-ca để cho hiểu rằng điều kiện này không hội đủ. Sau lời công bố của Đức Giêsu, các thành viên Thượng Hội Đồng gào lên: “Chúng ta cần gì lời chứng nữa? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói!”. Thánh Lu-ca không nói về việc kết án, ông cũng không kể ra lời tuyên án: “Hắn đáng chết!”; thánh ký sẽ không nói ở bất cứ nơi nào rằng Đức Giêsu đã bị kết án, bởi vì lời tuyên án của Thượng Hội Đồng thì bế tắt. Tòa án này đã mất đi quyền thi hành án tử. Chính quyền Rô-ma đã lấy đi quyền này khỏi người Do thái. Vì thế, để có thể giết Ngài, phải tìm thấy một lý do không là tôn giáo nhưng chính trị, vì thế phải cậy nhờ đến quan tổng trấn Rô-ma.
PHIÊN TÒA RÔ-MA (23: 1-5)
Thánh Lu-ca nêu bật việc chuyển biến từ lãnh vực tôn giáo sang lãnh vực chính trị; thánh ký trích dẫn những lời buộc tội mà các thành viên Thượng Hội Đồng nêu lên để ép buộc Phi-la-tô phải can dự: tên Giêsu này sách động quần chúng phá rối trị an; hắn chống đối việc nộp thuế cho hoàng đế, hơn nữa, hắn còn xưng mình là Đấng Mê-si-a, là Vua nữa.
Phiên tòa tôn giáo dựa trên một nền tảng xác thực nào đó: Đức Giêsu công bố mình vừa là Đấng Mê-si-a vừa là Con Thiên Chúa, đó là những lời phạm thượng dưới quan điểm của những người xét xử Ngài. Phiên tòa chính trị sẽ dựa trên những lời chứng gian. Phi-la-tô khó mà khỏi nghi ngờ, ông sẽ khẳng định sự vô tội của Đức Giêsu đến ba lần (như trong Tin Mừng Gioan).
Quan tổng trấn đặt câu hỏi chủ chốt liền ngay với Đức Giêsu: “Ông là Vua dân Do thái sao?”. Chỉ tham vọng này thôi cũng đủ chính quyền Rô-ma trừng trị nghiêm khắc. Đức Giêsu tránh trả lời trực tiếp; tuy nhiên, câu trả lời của Ngài rõ ràng mang sắc thái khẳng định: “Chính ngài nói đó”, ngầm hiểu: “Tôi là vua, nhưng không theo như cách ngài nghĩ”.
Thánh Lu-ca tóm tắt rất ngắn gọn phiên tòa của Đức Giêsu trước Phi-la-tô; vả lại, thánh ký chia phiên tòa này ra làm hai phần, bởi việc áp giải Đức Giêsu đến trước mặt vua Hê-rô-đê.
Ngay từ cuộc nói chuyện đầu tiên, Phi-la-tô tin rằng những lời buộc tội là vô căn cứ. Các thượng tế liền đáp lại: “Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp vùng Giu-đê, bắt đầu từ Ga-li-lê cho đến đây”. Địa danh “Ga-li-lê” gợi cho quan tổng trấn một lối thoát. Bởi vì Đức Giêsu là người Ga-li-lê, ông giao lại cho Hê-rô-đê, tiểu vương miền Ga-li-lê. Vào lúc đó, Hê-rô-đê có mặt ở Giê-ru-sa-lem để tham dự lễ Vượt Qua.
ĐỨC GIÊSU RA TRƯỚC MẶT VUA HÊ-RÔ-ĐÊ (23: 6-12)
Việc Đức Giêsu ra trước mặt vua Hê-rô-đê là một tình tiết riêng của thánh Lu-ca. Lập luận pháp lý mà Phi-la-tô viện dẫn được các bản văn khẳng định. Chúng ta biết rằng miền Ga-li-lê không có cùng quy chế chính trị như miền Giu-đê. Chính quyền Rô-ma đã để cho miền Ga-li-lê một tiểu vương cai trị, lúc đó là Hê-rô-đê An-ti-pát, một trong những người con của Hê-rô-đê đại đế.
Động cơ duy nhất của Phi-la-tô là làm tròn những yêu sách của luật thì đáng nghi ngờ; vả lại luật không đòi buộc như thế; nhưng chắc chắn ông bằng lòng chia sẻ trách nhiệm về một công việc tinh tế với chính quyền Do thái. Phi-la-tô nắm bắt cơ hội để xoa dịu vị tiểu vương mà quan hệ giữa hai người vốn rất hiềm thù. Thêm nữa, Phi-la-tô hy vọng vị tiểu vương này tìm ra một giải pháp, vì Hê-rô-đê nổi tiếng là một nhân vật xảo quyệt (Đức Giêsu đã gọi vị tiểu vương này là “con cáo già”: Lc 13: 32).
Hê-rô-đê bày tỏ một sự hiếu kỳ không đúng chỗ và hỏi Ngài dồn dập. Với thái độ như thế, Đức Giêsu không thèm trả lời. Bị thương tổn, Hê-rô-đê khinh dể Ngài ra mặt nên ra lệnh cho thị vệ khoác cho Ngài một chiếc áo rực rỡ để chế giễu tham vọng vương quyền của Ngài. Chi tiết này phù hợp với thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu khi miêu tả bọn lính tráng khoác cho Đức Giêsu một tấm áo điều mà chế giễu Ngài. Hê-rô-đê không tuyên án, rồi cho giải Ngài lại cho tổng trấn Phi-la-tô. “Ngày hôm ấy, vua Hê-rô-đê và tổng trấn Phi-la-tô bắt đầu thân thiện với nhau”. Phải chăng thánh ký thấy ở đây lời tiên báo về sự hòa giải giữa người Do thái và dân ngoại trong những cộng đoàn Ki tô hữu tiên khởi?
ĐỨC GIÊSU LẠI RA TRƯỚC PHI-LA-TÔ (23: 13-25)
Đức Giêsu lại bị điệu ra trước Phi-la-tô nhưng không còn có đối thoại nữa giữa tổng trấn và Đức Giêsu. Lối thoát của tấn thảm kịch được diễn ra giữa chính quyền Rô-ma và giai cấp lãnh đạo Do thái; chính ở nơi giai cấp lãnh đạo này mà thánh ký sắp quy những trách nhiệm nặng nề nhất.
Phi-la-tô triệu tập các thượng tế và các thủ lãnh dân chúng; ông cao giọng công bố Đức Giêsu vô tội và tố cáo những lời buộc tội gian trá chống lại Đức Giêsu. Bài tường thuật Lu-ca rất gần với bài tường thuật Gioan. Tuy nhiên, để xoa dịu giai cấp lãnh đạo Do thái, vị tổng trấn loan báo một cách đê hèn rằng ông sẽ ra lệnh trừng trị Ngài cho dù ông vừa mới công bố Ngài vô tội và hứa sẽ thả Ngài. Thánh Lu-ca chỉ kể ra sự nhục hình đòn vọt một cách gợi ý chứ không miêu tả chi tiết. Như thánh Gioan, thánh Lu-ca tách riêng việc đánh đòn mà ý định của nó chỉ nhằm ngăn ngừa, chứ không như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu xem việc đánh đòn như điều kiện tiên quyết của việc đóng đinh trên thập giá.
Nhưng các giai cấp lãnh đạo nhất quyết đòi hỏi án tử của Ngài cho bằng được: “Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi”. Thánh Lu-ca không cung cấp bất kỳ lời giải thích nào về yêu sách này; ông giả sử rằng tập tục này ai cũng biết cả, theo đó vào dịp lễ Vượt Qua, người Do thái yêu cầu phóng thích một tù nhân, chắc chắn để tưởng niệm ngày giải thoát khỏi Ai-cập. Chính quyền Rô-ma thuận theo truyền thống Ít-ra-en.
Trái với thánh Mác-cô (15: 11) và thánh Mát-thêu (27: 20), thánh Lu-ca không kể ra tiếng gào thét của đám đông, cũng như áp lực của các thượng tế trên đám đông, bởi vì thánh ký không làm loãng đi trách nhiệm của dân Ít-ra-en. Còn Phi-la-tô, ông luôn luôn cho rằng những lời buộc tội là bất công, cuối cùng đành phải nhượng bộ, thả Ba-ra-ba, kẻ bạo động và sát nhân, và trao nộp Đức Giêsu, người vô tội, “theo ý họ muốn”. Thánh Lu-ca không muốn nói rằng Phi-la-tô giao cho các thượng tế tế và các thủ lãnh dân chúng việc hành hình Đức Giêsu, vì đối với người Do thái cuộc hành hình phải là ném đá chứ không đóng đinh vào thập giá, nhưng thánh ký muốn nói rằng cuối cùng, ý muốn của họ đã thắng.
ĐƯỜNG LÊN “ĐỒI SỌ” (23: 26-31)
Bốn bài tường thuật về phần cuối của tấn thảm kịch này rất phù hợp với nhau, ngoài trừ vài tiểu tiết. Cả bốn bài tường thuật đều mực thước, thậm chí ngắn gọn. Đặc biệt thánh Lu-ca theo đuổi ý muốn của mình là không nhấn mạnh những khía cạnh quá bi thương; thánh ký thổi vào những trang Tin Mừng của mình một hơi mát thanh bình như thử để quét sạch mọi điều ghê tởm. Lòng xót thương của Thiên Chúa thống trị trên sự thù hận của con người, lòng sám hối của kẻ gian phi phát xuất từ cái nhìn của anh trên Đức Kitô hấp hối, đám đông đến xem thay đổi từ thái độ bàng quang đến đấm ngực ăn năn; Đức Giêsu hơi tàn lực tận cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây nên cái chết của Ngài, hứa cõi đời đời cho tên gian phi hối cải, phó dâng linh hồn trong tay Chúa Cha.
1. Ông Si-mon thành Ky-rê-nê:
“Khi điệu Đức Giêsu đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Si-mon, thành Ky-rê-nê, đặt thập giá trên vai cho ông vác theo sau Đức Giêsu”.
Thánh Lu-ca không xác định ai trưng dụng người qua đường này, nhưng cách diễn tả rất gợi ý: “họ đặt thập giá trên vai cho ông vác theo sau Đức Giêsu”. Thánh ký rõ ràng ám chỉ đến những lời của Đức Giêsu: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14: 27). Ông Si-mon thành Ky-rê-nê chắc chắn là một người Ki tô hữu hiện đang sống giữa cộng đoàn Ki tô hữu; dù thế nào, thánh Mác-cô trích dẫn tên của các con ông như những nhân vật rất quen thuộc trong Giáo Hội tiên khởi.
2. Khóc thương thành Giê-ru-sa-em:
“Dân chúng đi theo Người đông lắm”. Chúng ta gặp lại cũng một từ vựng được dùng để chỉ dân chúng thiện cảm này. “Trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc”. Những người phụ nữ này làm chứng về sự vô tội của Đức Giêsu theo cách của họ. Thánh Lu-ca là thánh ký nêu lên nhiều nhất những gương mặt phụ nữ.
“Đức Giêsu quay lại”, tại thánh Lu-ca, cử chỉ này loan báo một sứ điệp quan trọng hay một giây phút quyết định (Lc 14: 25). Lúc đó, Đức Giêsu tiên báo cho các bà cuộc sụp đổ thành thánh Giê-ru-sa-lem sắp đến: “Đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu…”. Tình tiết này, riêng của Lu-ca, song đối với tình tiết mà thánh ký đã đặt vào giây phút Chúa Giêsu chuẩn bị vào thành thánh Giê-ru-sa-lem: khi đến gần Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành, Đức Giêsu khóc thương thành khi nghĩ đến việc thành bị tàn phá thành bình địa, vì thành đã không nhận biết thời giờ nó được Thiên Chúa viếng thăm (Lc 19: 41-44). Khi ra khỏi thành thánh, Đức Giêsu cũng có những cảm xúc như vậy.
Thánh Lu-ca đặt trên môi miệng Chúa Giêsu ngôn từ của các ngôn sứ: “Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem” gợi nhớ những hô ngữ của ngôn sứ I-sai-a và ngôn sứ Da-ca-ri-a; “Vì này đây sẽ tới những ngày” là cách nói rất tâm đắc của ngôn sứ A-mốt và được ngôn sứ Giê-rê-mi-a lấy lại; cách nói này báo trước những tai ương hoạn nạn. “Phúc thay đàn bà hiếm hoi”: Đức Giêsu đã diễn tả cùng tư tưởng với lời tiên báo khác về cuộc sụp đổ thành Giê-ru-sa-lem (Lc 21: 23).
Sau cùng, lời trích dẫn này mượn của ngôn sứ Hô-sê: “Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: Đổ xuống chúng tôi đi!, và với gò nổng: Phủ lấp chúng tôi đi!”, lời cầu nguyện khốn cùng này được lấy lại trong sách Khải Huyền để diễn tả sự khủng khiếp của ngày Chung Thẩm.
Chúa Giêsu hoàn tất lời tiên báo của Ngài khi nhắc lại câu cách ngôn: “Cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế (cây không phải bị đốt cháy, ám chỉ đến cái chết bất công của Ngài), thì cây khô héo sẽ ra sao?”. Nói cách khác, nếu người công chính bị đày đọa cho đến chết, thì người ta sẽ cư xử với những tội nhân như thế nào?
KHỔ HÌNH THẬP GIÁ (23: 32-33)
“Khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá”. Địa danh này gợi lên một đồi trọc, không cây cối. Nơi hành hình được định vị ngoài thánh thánh. Vùng đất thành thánh, được bao bọc chung quanh, là một khu vực thánh không được xác nạn nhân làm ô uế. Nhưng nơi hành hình này gần cửa thành Giê-ru-sa-lem, vì chính quyền muốn những khách bộ hành trông thấy những nạn nhân hấp hối để răn đe.
Trên đồi hành hình, Chúa Giêsu bị đóng đinh giữa hai tên gian phi. Sự kiện được cả bốn Tin Mừng tường thuật. Sự nhục nhã càng tăng thêm đối với Đức Giêsu, nhưng đó là số phận mà Thiên Chúa dành cho người tôi trung thập toàn của Ngài “bị liệt vào hàng tội nhân” (Is 53: 12). Trên đường từ Bữa Tiệc Ly đến vườn Ô-liu, Đức Giêsu đã nhắc lại sấm ngôn này cho các môn đệ Ngài: “Cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh này” (Lc 22: 37).
LÒNG XÓT THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA (23: 34-43)
“Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.
Thánh Lu-ca là vị thánh ký duy nhất truyền đạt cho chúng ta lời khẩn nguyện của Đức Giêsu cho các lý hình, và cho tất cả những ai đã nhúng tay vào cái chết của Ngài.
1. Lời khẩn nguyện:
Toàn bộ Tin Mừng Lu-ca chuẩn bị cho lời cầu nguyện cao cả về sự tha thứ này. Thánh Lu-ca đã không giữ lại tiếng kêu thống thiết của Đức Giêsu: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”, tiếng kêu bi thương xuất phát từ nỗi cô độc cùng cực. Thánh ký chuộng nêu lên lời khẩn cầu đầy lòng xót thương. Đức Giêsu đã dạy hãy yêu thương kẻ thù và Ngài bảo chúng ta đọc trong Kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ cho chúng con, như chúng con cùng tha kẻ có nợ chúng con”. Đức Giêsu dâng hiến một mẫu gương cho các người Ki tô hữu và đặc biệt cho Các Thánh Tử Đạo (x. Cv 7: 60).
Đối diện với tình yêu và sự tha thứ, thánh Lu-ca phác họa sự thù hận và lòng căm thù. Những chi tiết mà họ phô bày không là giai thoại; chúng ta đọc thấy ẩn hiện ở nơi những bản văn ngôn sứ: Dcr 12: 10: “Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu”, và Tv 22, lời cầu nguyện dài của người công chính chịu đau khổ trong đó chúng ta đọc thấy: “Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn” (Tv 22: 17-19).
2. Dân chúng đứng nhìn:
Thánh Lu-ca đã không nói đến dân chúng vào lúc xét xử Chúa Giêsu; bây giờ thánh ký giới thiệu họ trên Đồi Sọ, trong thái độ tôn kính và trung thành. Thánh Lu-ca không nói đám đông (plethos), nhưng dân chúng (laos); có một dị biệt tinh tế giữa hai từ vựng này. Qua từ vựng “dân chúng” thường có hậu ý Giáo Hội, thánh ký mời gọi dân Thiên Chúa chiêm ngắm mầu nhiệm thập giá.
Thánh Lu-ca đối lập thái độ dân chúng với thái độ của những giai cấp lãnh đạo, họ cười nhạo và đắc thắng (thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô còn thêm những người qua đương).
3. Binh lính cũng chế nhạo Người:
Lần đầu tiên thánh Lu-ca nói về binh lính Rô-ma và những lời chế giễu của họ; thánh ký đã không gợi lên mũ gai và trò bỉ ổi của họ. Những binh lính đưa giấm cho Đức Giêsu uống; sự kiện được cả bốn Tin Mừng tường thuật, đặc biệt ở Tin Mừng Gioan cử chỉ này được giải thích rõ hơn: Đức Giêsu vừa nói: “Ta khát”.
Bọn lính làm như vậy một cách vô tình mà không biết bản văn ngôn sứ. Quả thật, người ta đọc thấy ở thánh vịnh 69 lời phàn nàn của một người công chính, nạn nhân vì lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa: “Lời thóa mạ làm tim này tan vỡ, con héo hắt rã rời. Nỗi sầu riêng, mong người chia sớt, luống công chờ, không được một ai; đợi người an ủi đôi lời, trông mãi trông hoài mà chẳng thấy đâu! Thay vì đồ ăn , chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua” (Tv 69: 21-22).
4. Vua dân Do thái:
Một tấm bảng viết “vua dân Do thái” được treo trên đỉnh thập giá. Sự kiện được cả bốn thánh ký ghi nhận. Thánh Gioan xác định rằng nó đã được Phi-la-tô ra lệnh viết. Quan tổng trấn Rô-ma biết rõ rằng tước hiệu này chỉ là cái cớ; nhưng để biện minh cho bản án tử hình, trong bản báo cáo của ông trình lên hoàng đế, tội khi quân rõ ràng phải đặt lên hàng đầu.
5. Người gian phi sám hối:
Tình tiết này riêng của thánh Lu-ca. Đức Giêsu thực hiện sứ mạng đầy lòng xót thương của Ngài cho đến giây phút sau cùng. Tấm lòng khiêm hạ của hối nhân được đáp trả bởi ân ban soi sáng. Người gian phi nhận ra ở nơi Đức Giêsu tước vị Mê-si-a vương đế của Ngài. Lời khẩn cầu của hối nhân này: “Xin nhớ đến tôi” là lời mở đầu kinh nguyện Do thái của những người hấp hối: “Lạy Đức Chúa, xin nhớ đến tôi”.
Đức Giêsu trả lời cho anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Lời khẳng định của Đức Giêsu rất trang trọng: “Tôi bảo thật anh” thánh Lu-ca hiếm khi sử dùng cách nói này.. Từ ngữ “hôm nay” tại Tin Mừng Lu-ca luôn luôn được liên kết với ý tưởng cứu độ.
Trong niềm tin Do thái giáo, “Thiên Đàng” gợi lên một chốn bồng lai cực lạc ở đó những người công chính sau khi qua đời chờ đợi sự phục sinh; từ này được hoán chuyển với cách nói: “vào lòng ông Áp-ra-ham” mà thánh Lu-ca gợi lên trong dụ ngôn người giàu có và anh La-da-rô nghèo khổ: “Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham” (Lc 16: 22).
Đức Giêsu cho người gian phi sám hối hiểu rằng từ nay chính Ngài đón tiếp những người công chính và đưa họ vào “Thiên Đàng”. Thánh Lu-ca không tìm cách xác định giây phút Đức Giêsu phục sinh, khi định vị biến cố này ngay sau cái chết của Đức Giêsu. Không ai biết chính xác giây phút Đức Giêsu phục Sinh, đừng nhầm lẫn với giây phút khám phá ngôi mộ trống (giữa cái chết của Đức Giêsu và việc các người phụ nữ đến viếng mộ, ngày sa-bát đã trôi qua).
Nhưng thánh Lu-ca ghi lại bài tường thuật của mình theo những viễn cảnh Kitô giáo. Đừng quên rằng thánh ký vừa là môn đệ vừa là bạn đồng hành của thánh Phaolô. Đoạn Tin Mừng này gặp lại tư tưởng của vị Tông Đồ, được diễn tả trong thư gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê (Pl 1: 21-23), cũng như trong thư thứ hai gởi cho ông Ti-mô-thê (2Tm 4: 8): người Ki tô hữu qua đời được đoàn tụ với Đức Kitô. Trong sách Công Vụ, thánh ký sẽ cho thấy rằng thánh Tê-pha-nô, ngay từ trước khi bị ném đá, “thấy trời mở ra” (Cv 7: 56).
CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊSU (23: 44-49)
“Bây giờ đã gần tới giờ thứ sáu (tức mười hai giờ trưa), thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất”. Không loại trừ bầu trời thường trở nên âm u vào mùa xuân, nhưng việc gợi lên trước tiên là Kinh Thánh: những dấu chỉ vũ trụ loan báo hay thường đi theo những cuộc can thiệp của Thiên Chúa vào Lịch Sử (x. Xh 10: 22; vân vân). Các ngôn sứ đã biến các dấu chỉ này thành nét đặc trưng của ngày tận thế, ví dụ như Am 8: 9-10: “Trong ngày ấy, Ta sẽ truyền cho mặt trời lặn giữa trưa, và khiến cho mặt đất tối sầm giữa lúc ngày đang sáng….Ta sẽ làm cho đất này chịu tang như người ta chịu tang đứa con một”. Cái chết của Đức Giêsu khai mở kỷ nguyên cánh chung, nghĩa là kỷ nguyên phán xét; từ nay kỷ nguyên này sẽ được đặt dưới dấu chỉ trung gian của Ngài.
1. Bức màn trướng trong Đền Thờ:
Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất đặt việc “bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa” trước cái chết của Đức Giêsu. Bức màn trướng này, hoặc bức màn người ta giăng trước tiền đường để che phần bên trong Đền Thờ khỏi những người ở trên sân tiền đình, hay bức màn trướng phân cách phần còn lại của Đền Thờ với Nơi Cực Thánh ở đó chỉ vị thượng tế mới có thể đi vào, mỗi năm một lần, để thực hiện nghi thức xóa tội. Xem ra bức màn trướng này mà thánh Lu-ca nghĩ đến, khi nối tiếp tác giả thư gởi cho các tín hữu Do thái: nhờ máu Ngài đã đổ ra, Đức Giêsu khai mở cho nhân loại lối vào bên Thiên Chúa trong cung thánh trên trời (Dt 10: 19-20).
Dù thế nào, biểu tượng thì rõ ràng. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem đã không còn đóng vai trò của mình; việc Thiên Chúa tuyển chọn không còn ưu tiên cho dân Ít-ra-en; nó được dâng hiến cho hết mọi người. Đền Thờ đích thật của Thiên Chúa sẽ là thân thể của Đức Giêsu Phục Sinh, như chính Ngài đã loan báo.
2. Lời cầu nguyện cuối cùng:
“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Tại thánh Lu-ca, cuộc đời của Đức Giêsu được hoàn tất trên lời cầu nguyện, trong khi thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô ghi nhận “một tiếng kêu lớn” của Đức Giêsu hấp hối, còn thánh Gioan đặt trên môi miệng của Đức Giêsu như những lời sau cùng: “Thế là đã hoàn tất!”, nhưng thánh Gioan nói thêm khi nối kết với thánh Lu-ca: “Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí”.
Lời cầu nguyện này được trích từ Tv 31 ở trong số kinh nguyện truyền thống ban chiều. Chúa Giêsu thân thưa với Cha Ngài, nhưng lời cầu nguyện hấp hối của Ngài cũng định vị Ngài vào trong sự hiệp nhất với dân Ngài.
3. Lời chứng của viên bách quản:
Viên bách quản Rô-ma, đứng canh dưới chân thập giá, “cất tiếng tung vinh Thiên Chúa”: “Người này đích thật là người công chính”. Lời chứng của viên bách quản được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm kể lại, với vài biến thể; cách diễn tả của Lu-ca xem ra gần với sự thật nhất; viên bách quản nhận ra sự vô tội của Đức Giêsu. Tiếng reo vui của viên bách quản là lời tôn kính đầu tiên mà lương dân tỏ bày cho Đức Kitô; lời này loan báo chiều kích ơn cứu độ phổ quát, đồng nghĩa với việc tấm màn trướng trong Đền Thờ bị xé ra làm hai.
4. Thái độ dân chúng:
“Toàn thể dân chúng đã đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về”. Đây là cử chỉ tang chế, nhưng cũng là nghi thức ăn năn, dấu chỉ sám hối. Chỉ một mình thánh Lu-ca cho dân chúng thái độ này.
5. Những người thân quen:
Thánh Lu-ca cũng là thánh ký duy nhất kể ra sự hiện diện của những người thân quen: “Đứng đằng xa, có những người quen biết Đức Giêsu”. Thật ra, thánh ký nhạy bén trước tất cả những gì có thể làm giảm bớt những đau khổ của Đức Giêsu.
“Đứng đàng xa”: ngôn từ có âm hưởng Kinh Thánh khiến chúng ta nghĩ đến Tv 38, thánh vịnh này gợi lên nỗi cô độc của người tôi trung trong cảnh khốn cùng: “Con bị tai ương, người thân kẻ nghĩa chẳng tới gần, bà con ruột thịt cũng đứng xa” (Tv 38: 12).
6. Những phụ nữ xứ Ga-li-lê:
Thánh Lu-ca không quên kể ra sự hiện diện của những người phụ nữ xứ Ga-li-lê trên Đồi Sọ. Những người phụ nữ này đã luôn luôn đồng hành với Đức Giêsu, đã lấy của cải của mình mà giúp đỡ Ngài (Lc 8: 2-3).
MAI TÁNG ĐỨC GIÊSU (23: 50-56)
Theo phong tục tập quán Rô-ma, để việc răn đe có tác dụng, phải phơi bày thi thể của nạn nhân trong nhiều ngày. Luật Do thái thì hoàn toàn khác: không được để mặt trời lận trên xác chết của nạn nhân, nhưng phải chôn cất trước khi đêm xuống (Đnl 21: 22). Ngoài ra, buổi chiều hôm đó lại là ngày sa-bát, ngày người ta phải kiêng cử mọi công việc. Vì thế, phải vội vả chôn cất ngay kẻo không kịp.
1. Ông Giô-xếp thành A-ri-ma-thê:
“Khi ấy có một người tên là Giô-xếp, thành viên của Thượng Hội Đồng”. Thánh Mát-thêu nói với chúng ta, “ông là một người giàu sang”; còn thánh Mác-cô nói ông là “thành viên có thế giá của hội đồng”; trong khi Lu-ca lại nói ông là “một người lương thiện, công chính”, thánh ký thích đặt ưu tiên những giá trị luân lý. Với tư cách thành viên của Thượng Hội Đồng, “ông đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng”. Đây là điều chỉ dẫn quý báu: vì thế việc kết án Đức Giêsu không được mọi thành viên đồng thuận. Ông xuất thân từ A-ri-ma-thê, một thành phố duyên hải xứ Giu-đê. Ông định cư ở Giê-ru-sa-lem và đã cho đục ngôi mộ trong núi đá, ở một thuở vườn (Ga 19: 40) bên cạnh Đồi Sọ.
2. Cuộc mai táng Đức Giêsu:
Người môn đệ kín đáo này can đảm đến xin Phi-la-tô cho phép hạ thi hài Đức Giêsu xuống khỏi thập giá để mai táng. Phi-la-tô chấp thuận theo luật Do thái, có lẽ vì ông quan niệm rằng nhập gia tùy tục; hơn nữa ông tin rằng Đức Giêsu vô tội.
Như vậy, Đức Giêsu, khi còn ấu thơ, đã được ẳm trong tay cụ già Si-mê-ôn, “một người công chính và sùng đạo”, “ông những mong chờ niềm an ủi của dân Ít-ra-en” (Lc 2: 25); bây giờ, khi chết, được ẳm trong tay ông Giô-xếp, “một người lương thiện công chính”, “ông vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa”.
“Ông hạ xác Người xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào trong ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ”. Hoa trái đầu mùa không phải thuộc về Thiên Chúa sao?
3. Ánh sáng Giê-ru-sa-lem:
“Hôm ấy là áp lễ, và ngày sa-bát bắt đầu ló rạng”. Trong Tin Mừng Lu-ca, có những yếu tố khó lường mà tác giả giải thích với một độ nhạy bén gần với độ nhạy bén của thánh Gioan. Vào lúc Đức Giêsu được đặt vào ngôi mộ, mọi nhà trong thành thánh Giê-ru-sa-lem bắt đầu lên đèn. Nét đặc trưng này nêu bật tính xác thực lịch sử hơn cái ý nhị của lời văn, nhưng nhất là nó có giá trị dấu chỉ. Khi Đức Giêsu bị bắt, Ngài tuyên bố: “Đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm” (Lc 22: 53). Khi Đức Giêsu chết, bây giờ là những tia sáng đầu tiên, tia sáng của ơn cứu độ, tia sáng hy vọng, những điềm báo cho vầng sáng phục sinh.
4. Những người phụ nữ trung thành:
Phận sự của các bà là chuẩn bị dầu và thuốc thơm để chăm lo thân xác của Ngài. Vì thế, những người phụ nữ xứ Ga-li-lê theo chân Đức Giêsu này để ý đến nơi đặt thi thể Ngài trong ngôi mộ; họ sẽ trở lại sau ngày sa-bát, thực hiện công việc đạo đức của họ. Trong khi chờ đợi, họ tuân giữ ngày hưu lễ.
5. Ngày sa-bát, ngày hưu lễ:
Thánh Lu-ca chấm dứt bài tường thuật của mình trên viễn cảnh của ngày hưu lễ. Chắc chắn mọi công việc phải ngừng lại đó là lý do giải thích tại sao những nghi thức tang chế còn dang dỡ, và vì thế các bà vội vả đến mồ khi trời vừa tảng sáng. Nhưng thánh Lu-ca kín đáo gợi ý rằng Đức Giêsu đã bước vào nơi an nghỉ, vì thế việc mai táng Ngài vào lúc sắp bắt đầu ngày sa-bát mặc một ý nghĩa. Ngay từ đầu, sau khi hoàn tất công trình sáng tạo của Ngài, Thiên Chúa nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy. Công trình của Đức Giêsu không phải là một cuộc tạo dựng mới sao? Công trình này được hoàn tất. Chúa Giêsu vào nơi an nghỉ của Thiên Chúa, giai đoạn mầu nhiệm trước khi Ngài phục sinh.
BA TẤN THẢM KỊCH
Ba tấn thảm kịch chồng chéo lên nhau trong cuộc Thương Khó của Đức Giêsu: trước hết, tấn thảm kịch của việc dân Ít-ra-en từ chối, rồi đến tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người, sau cùng tấn thảm kịch của tội lỗi.
1. Dân Ít-ra-en từ chối:
Đức Giêsu đã không ngừng công bố một sứ điệp khó khăn; Ngài đã phá đổ những thành kiến, lên án chủ nghĩa duy luật và thói giả hình. Sự ghen tuông, đoạn sự thù hận đã liên kết với nhau chống lại Ngài. Những người lãnh đạo tôn giáo đã không chấp nhận nhận ra Ngài là Đấng Mê-si-a, vì Ngài không đáp ứng hình ảnh mà họ tự mình tưởng nghĩ ra. Việc họ kiên tâm tiêu diệt Ngài đã dẫn đến cái chết, nhưng không đến cái chết như họ suy tính: Đức Giêsu đã chiến thắng sự chết, nhưng do việc làm của họ, dân Ít-ra-en, dân được ký thác Lời Hứa, đã thôi không còn nữa.
2. Tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người:
Khi đón nhận kiếp phàm nhân như chúng ta, Đức Giêsu đã chấp nhận thân phận tử biệt sinh ly của chúng ta. Ngài đã đảm nhận vận mệnh con người trong mọi chiều kích đau khổ khủng khiếp. Những hoàn cảnh lịch sử đã khiến Ngài phải hứng chịu khổ hình tàn bạo nhất được sử dụng vào thời Ngài sống. Số phận này ở trong kế hoạch của Thiên Chúa: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18-19). Đây là cử chỉ yêu thương tận mức, Đức Giêsu đã muốn thuộc vào số những người bị tra tấn, những người bị hành hình, những người tử đạo, ngỏ hầu những ai phải chết trong những đau đớn cùng cực nhất, và những ai phải chịu đau khổ về thể lý cũng như luân lý, đều gặp thấy ở nơi cuộc Thương Khó của Ngài niềm an ủi tuyệt vời. Cũng phải ghi nhận rằng ở đâu có sự hiện diện của Thiên Chúa ở đó có muôn vàn ân phúc. Ở đâu có những đau khổ được liên kết với Ngài, ở đó Ngài sẽ ban muôn vàn ân sủng.
3. Tấn thảm kịch của tội lỗi:
“Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội”. Đức Giêsu cho cái chết của Ngài ý nghĩa này.
Tuy nhiên, lời này đưa chúng ta vào mầu nhiệm: “Mầu Nhiệm Cứu Chuộc”. “Người cứu chuộc” (goel) là người phục hồi phẩm giá cho một thành viên trong gia tộc phải lâm vào cảnh bần cùng, và chuộc lại nếu người ấy phải sa vào vòng nô lệ vì nợ nần. Đây là ý nghĩa đặc biệt của từ Hy-bá mà chúng ta dịch “Đấng Cứu Chuộc”.
Dù được Kinh Thánh soi sáng, biết bao vấn đề gợi lên trong tâm trí chúng ta. Tội lỗi là gì? Một sự xúc phạm đến Thiên Chúa rất mực tốt lành, Thiên Chúa-Tình Yêu, Ngài đã không muốn nhân loại một mình phải gánh chịu mọi hậu quả tội lỗi của mình. Ngài đã sai Con Ngài đến để chia sẻ gánh nặng tội lỗi và xóa đi mọi vết nhơ của tội. Đó là lý do tại sao Thánh Giá là “vinh quang” của Thiên Chúa, như thánh Gioan nói.
20.Hosanna, vạn tuế–Lm. Vũ Đình Tường
Hoan hô Thái Tử nhà Đavít. Chúc tụng Vua Israel. Đấng ngự đến nhân Danh Chúa. Hoan hô Chúa trên các tầng trời. (Mt 21,9)
Đó là những lời chúc tụng, ca vang, ngợi khen Đức Vua Kitô khi Ngài tiến vào thành Jêruslaem. Dân chúng không được báo trước, chuẩn bị đón chào vị vua họ ngày nhớ, đêm mong có ngày được gặp. Hôm nay đây tình cờ trên đường đi, gặp Ngài, dù thiếu chuẩn bị nhưng không thiếu niềm vui. Không biết lấy gì đón chào vị cứu tinh. Họ nghĩ ra sáng kiến, cởi áo choàng trải đường, tay cầm cành lá mới bẻ bên đường làm cờ phất phới đón chào, nhảy múa điệu chân chim, miệng ca hát, reo hò, vui mừng, đón chào Đấng Cứu Thế.
Ghen tức
Dân chúng ca tụng Đức Chúa trong khi những kẻ chống đối Ngài lại bực dọc, giận dữ, ngăn cấm họ ca hát, nhảy múa.
Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa. Bình an trên trời cao, vinh quang trên các tầng trời.Luca c.38
Những câu này tạo nên sự ghen tức, bực dọc của các người lãnh đạo đương thời. Họ ra lệnh ngăn cấm dân chúng. Cho họ là những kẻ thất học, mất dậy. Đức Kitô lên tiếng
Tôi bảo thật các ông, họ mà làm thinh, sỏi đá bên đường sẽ reo hò. c.40
Uy phong Đức Chúa
Đức Kitô Vua dân Do Thái tiến vào thành Jêrusalem với một phong thái khác thường. Ngài không tiến vào thành với tiếng kèn, tiếng trống. Ngài không cưỡi chiến mã, cũng không có quân binh và các tướng lãnh, tiền hô, hậu ủng. Ngài vào thành một cách âm thầm, không kèn, không trống, cưỡi trên lưng con lừa nhỏ bé mượn của dân làng. Cùng tiến vào thành thánh với Ngài vỏn vẹn có 12 tông đồ, không gậy gộc, giáo mác. Có lẽ hàng ngũ cũng không thứ tự, kẻ trước người sau, lẽo đẽo bước theo Thầy. Quang cảnh đơn hèn thế không có uy nghi, sức mạnh của một quân vương. Đức Kitô không muốn thế. Ngài không muốn tách rời ra khỏi con dân Ngài yêu quí. Một Đấng Minh Quân không cai trị dân bằng roi sắt, sức mạnh nhưng dùng tình thương, dùng thứ tha để hoán cải. Ngài hoà đồng với đại chúng. Họ ca mừng, đón chào với tất cả tâm tình, tự nguyện, bộc phát, của những lòng thành, mộ mến, kính tin. Sức mạnh nào ngăn cản được nếu đám người tầm thường bé nhỏ kia bị cấm reo vui thì sỏi đá là vật vô tri, vô giác sẽ lên tiếng. Ai dịch được ý nghĩa tiếng thông reo bên rừng. Ai giải thích nổi tiếng suối reo sau cơn mưa lũ. Tiếng rì rào của gió biển vô nghĩa hay tiếng chúng ngày này qua năm nọ ca tụng Đấng dựng nên chúng.
Được ca tụng Đức Chúa là một ân huệ. Ngài không cần tiếng con người ca ngợi bởi vì lời ca ngợi không sinh ích gì cho Chúa.
Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời.
(Kinh tiền tụng chung số IV)
Vua muôn dân
Đức Kitô vào thành thánh không có lính tráng, quân canh nhưng có đám đông dân chúng tụ họp quanh Ngài, reo vang. Điều này cho thấy Ngài không là vua riêng cho một nhóm người, một dân, một nước. Ngài là vua vũ trụ, vua của đám đông. Vua của toàn thể nhân loại, bất kì ai thành tâm đều là con dân của Ngài như thánh vịnh 23 diễn tả
Ai được ở trong đền thánh của người
Đó là kẻ tay sạch, lòng thanh,
Chẳng mê theo ngẫu tượng,
Không thề gian, thề dối……..
Đức Vua vinh hiển đó là Chúa tể càn khôn.
Tạm bợ
Đức Kitô biết tất cả những lời chúc tụng, tung hô trước Phục Sinh chỉ là tạm bợ, chóng qua, mau hết. Điều rõ ràng chúng ta nhận thấy ngay trong những lời tung hô của đám đông có pha lẫn lời dị nghị, phàn nàn. Gieo mầm chống đối đến từ nhóm lãnh đạo, nhóm cầm quyền cai trị trong tay. Chính kẻ cầm quyền châm mồi lửa, ngấm ngầm quạt cho nó bùng lên thành phong trào chống đối dẫn đến cái chết tàn bạo, khốc liệt mà Đức Kitô sắp gánh chịu. Nhóm lãnh đạo khơi mào chống đối rồi cũng chính họ ngồi toà xét xử. Kết quả phiên toà được định trước. Mọi tranh biện, tra hỏi chỉ là hình thức, giả dối.
Đức Kitô biết rõ mọi sự trên trần thế chỉ là tạm bợ. Con đường nào đi mãi cũng phải hết, kể cả đường khổ giá. Tiếng hoan ca nào cũng tàn, tràng pháo tay nào cũng nhỏ dần, tắt ngúm khi cánh tay mỏi, bàn tay rát. Vinh quang trần thế cũng vậy, bùng lên rồi tàn lụi. Mọi vinh quang trước Phục Sinh đều là tạm bợ, chóng qua, mau tàn.
Vinh quang thực sự Đức Kitô nhận từ Chúa Cha. Vinh quang mà Ngài nhận không phải bằng tiếng hoan ca của đám đông, không phải tràng pháo tay, hay điệu múa, câu hò. Vinh quang Đức Kitô giành được nhờ chiến thắng tử thần, đè bẹp tội lỗi, sống lại từ cõi chết. Nói cách khác vinh quang sau Phục Sinh là vinh quang được chính Chúa Cha ban cho. Chính vinh quang này mới thực sự là vinh quang trường cửu. Vinh quang chiến thắng sự chết. Sự chết bị tháo lui nên vinh quang đó không bao giờ chết.
21.Mầu nhiệm đời ta–Lm. Vũ Đình Tường
Mỗi người là một mầu nhiệm vượt ngoài sự hiểu biết của ta. Không ai biết rõ ta hơn ta thế mà vẫn có lúc chính mình tự thắc mắc về vận mệnh đời mình (Xem tướng, bói toán, chỉ tay đều là những hình thức muốn biết về ngày mai). Hành trình đi tìm kiếm mục đích cuộc đời kết thúc khi ta trở về với Đấng dựng nên ta, Ngài dựng nên ta do tình yêu Ngài dành cho, cứu thoát ta khỏi ác thần và cuối đời mang ta về với Ngài. Xem cuộc đời theo lối đó thì cuộc đời cđược ví như là cuộc du ngoạn, một hành trình được sai đi và gọi trở về.
Cuộc du ngoạn đời ta bắt đầu ngày ta sinh vào đời và được gọi trở về quê hương thiên quốc khi ta đi trọn hành trình trong đời. Hành trình trên trần thế là một hành trình pha lẫn niềm vui với khám phá đầy thú vị trong thiên nhiên. Phấn đấu tiến thân, nuôi thân và chia sẻ tài sức cho tha nhân đều là những khám phá niềm vui trong đời. Chúng ta liên hệ với thế giới thiên nhiên bằng chính cảm xúc của từng cá nhân. Qua yêu thương, tha thứ, bác ái và cảm mến chúng ta thấy cuộc đời đầy thú vị bởi mình khám phá rõ hơn về tài sức chính mình và khám phá thiên nhiên. Chính những khám phá này mang ý nghĩa lại cho cuộc sống đồng thời bật mí những bí ẩn đời người. Bí ẩn đó ẩn nấp sau hành động đón nhận vá ban phát yêu thương.
Người ta thường nhầm lẫn giữa tình yêu trần thế và tình yêu Thiên Chúa. Của cải, vật chất và chức tước bổng lộc thuộc vào tình yêu trần thế hấp dẫn lòng ta. Còn một loại tình yêu cao siêu hơn nhiều đó là tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa mang bình an cho tâm hồn, giúp tâm hồn thư thản, an nhàn. Tình yêu trần thế hấp dẫn con người và cũng chính tình yêu đó đè bẹp con người đến rách nát, tả tơi; trái lại tình yêu Chúa ban không bao giờ biến con người thành nô lệ cho tình yêu nhưng luôn tha thứ khi ta phạm lỗi, ban hy vọng khi ta thất vọng và kéo ta chỗi dậy khi ta vấp ngã, đón ta về khi ta lạc đường. Cuối cùng tình yêu Chúa đón nhận ta vào nhà Cha trên trời. Tình yêu Chúa mới chính là tình yêu thực sự ta cần tìm kiếm. Tình yêu thực sự này luôn đi chung với hy sinh. Tình yêu thiếu hy sinh, xả thân cho tha nhân không thể là tình yêu thực bởi tình yêu đó phục vụ chính mình; tình yêu thực sự phục vụ tha nhân, người khác.
Chối bỏ tình yêu Chúa trong đời là chối bỏ Thiên Chúa hiện hữu. Chối bỏ tình yêu Chúa làm cho ta trở nên nghèo hèn. Những ai thành tâm mở cõi lòng tìm kiếm tình yêu Chúa chắc chắn sẽ gặp; những ai tìm tình yêu Chúa nơi khác là chọn con đường dài, vất vả và thường đi lạc. Chìa khoá giúp khám phá đời mình chính là niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh, Đấng duy nhất có chìa khoá vạn năng. Khoá này mở bí mật trên trời, dưới thế. Đức Kitô chết trên thập tự và ba ngày sau sống lại vinh quang, mở cửa thiên đàng, hoả ngục nên Ngài nắm trong tay chìa khoá vạn năng. Đức Kitô sống lại đổi mới tạo vật. Tình yêu Thiên Chúa là tình yêu chân thật bởi tình yêu chân thật luôn đi kèm với hiến tế đời mình. Tình yêu thiếu hiến tế không đến từ Thiên Chúa; đó là loại tình yêu thủ lợi, yêu sống cho riêng mình. Tình yêu hiến tế sống cho tha nhân. Thập giá Đức Kitô biểu tượng của tình yêu hiến tế bởi Đức Kitô chết để cứu độ muôn dân. Đức Kitô nhân loại chính trái tim mình vì hiến tế khởi nguồn từ con tim yêu mến.
Đức Kitô tiến vào Thành Thánh và đám đông ca tụng vang trời. Những ồn ào, huyên náo trần thế dành cho thoảng qua như cơn gió. Chỉ mấy ngày sau cũng chính đám đông hô đóng đinh Đức Kitô vào thập giá. Thay vào hoan hô là đóng đinh, thay vào sờ gấu áo là những cái tát bầm tím toàn thân, thay vì được chữa lành Ngài mang thương tích chân tay và cuối cùng là cạnh sườn. Tình yêu trần thế là tình yêu phản bội, phản bội Đức Kitô coi Ngài tệ hơn tên nô lệ, vùi dập tấm thân đến mất hình tượng con người. Tình yêu trần thế hài lòng vì đã hành hạ Đức Kitô ngay cả sau khi Ngài tắt thở. Tình yêu Chúa vực Đức Kitô dậy từ chõi chết, thay thế mạo gai trên đầu bằng hào quang toàn thắng. Vinh quang thập tự không bao gìờ tàn, vinh quang muôn thuở. Chúng ta xin ơn khôn ngoan biết đón nhận tình yêu hiến tế bởi qua đau khổ là bến bờ vinh quang.
22.Thiên Chúa mang diện mạo của một thủ lãnh hiền hòa–Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB
Sự kiện Đức Giêsu long trọng tiến vào Giê-ru-sa-lem được các Phúc Âm nhất lãm, kể cả Phúc Âm Gio-an, đồng loạt thuật lại; và sự kiện này luôn được phụng vụ gắn liền với cuộc tử nạn mà Người sẽ phải chịu tại đó. Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều nhà kinh thánh học, thì các chi tiết của cuộc đón rước Chúa vào thành thánh, như được mô tả, lại phù hợp với lễ Lều cử hành vào tháng 09 dương lịch, hơn là những ngày trước lễ Vượt Qua (xem bình giải Mt 21 trong Lời Chúa cho mọi người). Điều này cho thấy, đối với các tác giả sách Tin Mừng, diện mạo Đức Giêsu trong sự kiện này có ý nghĩa rất lớn đối với cuộc thương khó và cái chết mà Người sẽ phải chịu sau này.
“Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ”. Tôi không rõ, trong văn hóa Do Thái, hình ảnh một thủ lãnh cưỡi trên lưng lừa con nói lên điều gì đặc biệt. Căn cứ vào trích đoạn từ ngôn sứ Da-ca-ri-a (Dcr 9,9-10), thì rõ ràng hai thuộc tính hiền hậu và khiêm tốn được đề cao, đối kháng với hình ảnh cao ngạo, chinh phục và thống trị của các danh tướng trên lưng chiến mã. Mỗi khi đọc các bài tường thuật thương khó, tôi vẫn thấy khó chịu khi Phi-la-tô diễu cợt cái diện mạo nực cười của phạm nhân ‘vua’ đứng trước mặt ông: “Vậy ông là vua sao?.. Đây là vua các người… Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các ngươi sao?.. tấm bảng đó ghi: ‘Giêsu Na-da-rét, vua dân Do Thái” (Ga 18,37; 19,14.15.19). Đối với một quan chức Rô-ma đầy quyền lực như ông thì suy nghĩ như vậy cũng phải thôi: đã là vua thì phải khác, không thể chấp nhận cái diện mạo kỳ cục này: thủ lãnh cưỡi lừa! Trước những người Do Thái hay cao ngạo về diện mạo đấng Ki-tô vẻ vang mà họ mong đợi, quan tổng trấn không ngừng hạ nhục: “Các ngươi muốn ta phóng thích ai cho các người đây: Ba-ra-ba hay Giêsu, cũng gọi là Ki-tô?” (Mt 27,17.22) Thế nhưng xem ra cái hình ảnh ‘thủ lãnh cưỡi lừa’ này lại thích hợp với câu tung hô ‘Hô-san-na!’ theo nghĩa ‘hãy cứu chúng tôi!’ hơn (xem bình giải: idem): đương nhiên ‘cứu chúng tôi’ có thể bằng quyền lực thống trị như bất kỳ lãnh tụ nào khác, hay ‘cứu chúng tôi’ bằng lòng từ bi và thương xót của “Đức Vua đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa”.
Quyền lực của thập giá chính là quyền lực của lòng từ bi thương xót! Nếu ai ai cũng đều, tự nguyên hay bị ép buộc, cúi rạp trước quyền lực thống trị và tung hô “Hô-san-na” (vạn vạn tuế), thì chỉ Ki-tô hữu mới biết nhảy mừng hô vang “Hô-san-na” (hãy cứu chúng tôi) trước thập giá cứu độ. Đối với họ, Đấng cưỡi trên ‘lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” chắc chắn còn vẻ vang hơn các anh hùng cái thế chễm chệ cưỡi trên lưng chiến mã bách chiến bách thắng, là vì chỉ mình Ngài mới là niềm vui mừng và hy vọng cho thân phận yếu hèn triền miên của họ. Căn bản là vì Thiên Chúa họ tôn thờ, bây giờ và mãi mãi, vẫn luôn là vị Thiên Chúa của từ nhân và xót thương, một Thiên Chúa cứu độ gánh lấy tội lỗi của gian trần.
Người Do Thái thời đó, kể cả các môn đệ thâm tín nhất của Đức Giêsu, khi đối diện với cuộc khổ nạn Người chịu, đã không thể đứng vững (chứ chưa nói là tiếp tục hò reo mừng rỡ) vì sự hiền hậu quá mực khiêm hạ của khổ nạn và thập giá Người chịu. Tín hữu mọi thời cũng sẽ như thế thôi nếu chỉ tung hô “hô-san-na – vạn vạn tuế!” mà không biết đến “hô-san-na – hãy cứu chúng tôi!” phát đi từ đáy lòng, trong ý thức con người tội lỗi và yếu hèn tột cùng của mình. Tự bản thân, Phê-rô đã phải học biết “Hô-san-na” qua nhận thức đó; chính ông, bất chấp bao nhiệt tình và thiện chí, cũng vẫn chỉ là một người mỏng giòn dễ sa ngã. Ngược lại Giu-đa thì không, anh không thể chấp nhận tội lỗi của mình nên đã ‘ném số bạc vào đền thờ và ra đi thắt cổ’ (Mt 27,5).
Từ suy tư trên, tôi nghiệm ra một điều thật quan trọng; trong suốt mùa chay, Hội Thánh kêu gọi Ki-tô hữu chúng ta nhìn vào thân phận tro bụi của mình (cả về thể chất lẫn tinh thần) là hoàn toàn có lý. Tình trạng sa ngã và phạm tội, mà ta đã phát hiện ra cách rất cụ thể nơi mình trong suốt thời gian này, không được làm ta ngắt tiếng hò reo “Hô-san-na – hãy cứu chúng tôi!”, nhưng phải giúp ta phát hiện ra nội dung Tin Mừng hơn của lời tung hô ấy trong vui sướng nhảy mừng. Chỉ lúc đó, phải, chỉ khi ấy đối với mỗi chúng ta Đức Giêsu quả thực là “Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa”, một Thiên Chúa đầy thương xót và cứu độ. Chính hôm nay ta phải nghe được lời giới thiệu: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” thật tràn trề hy vọng và an ủi biết bao!
Lạy Thiên Chúa từ nhân, xin cho cặp mắt con không ngừng chiêm ngưỡng diện mạo ‘Con Người hiền hậu ngồi trên lưng lừa’. Xin cho cuộc sống Ki-tô hữu – tu sĩ – linh mục của con, nhất là trong những ngày tháng còn lại, sẽ chỉ là một nhảy mừng hy vọng với lời hô vang ‘Hô-san-na – cứu chúng con!’ kéo dài. Xin cho các lỗi lầm con đã phạm trong suốt quá khứ cuộc đời càng thúc giục con đi đón Người cách phấn khởi và hân hoan hơn. Amen.
23.Lừa con chưa ai cưỡi bao giờ–Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Trong trình thuật Đức Giêsu vào Giêrusalem với tư cách đấng Mêsia, cả bốn Phúc Âm đều ghi nhận chi tiết mượn lừa và cỡi lừa; thậm chí có tác giả như Máccô và Luca còn xác định chi tiết hơn: Người cỡi lên ‘con lừa con chưa ai cỡi bao giờ’. Hình ảnh Đức Giêsu khải hoàn tiến vào thành thánh ngồi trên lưng lừa thật ấn tượng; ấn tượng không phải vì vẻ uy nghi bề ngoài (điển hình như bức tranh Na-pô-nê-ôn oai phong trên lưng ngựa chiến vượt qua rặng núi Alpes của Jacques-Louis David), nhưng vì một một nét gì đó êm đềm và sâu sắc đến khó tả.
Tác giả Mát-thêu đã hé cho thấy ý nghĩa của cảnh tượng đó, khi trích dẫn lời ngôn sứ Da-ca-ri-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!… Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi; Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr 9:9). Các nhà chú giải Kinh Thánh đưa ra những giải thích quen thuộc, như “Các ngôn sứ đã loan báo một vị vua hiền hòa, đến viếng thăm dân, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, như người dân đơn sơ hiền hòa, thay vì ngồi trên lưng ngựa như vị tướng quân” (Christian Community Bible). Thực ra nói như thế ta vẫn chưa giải thích được gì, hoặc có nếu có thì cũng mới chỉ cho thấy hình tượng bên ngoài như một lối trình bày trước quần chúng (theo kiểu thường thấy nơi các diễn viên).
Tra cứu Cựu Ước, tôi được biết đối với người Do Thái, trong đời thường việc cỡi lừa chẳng có một ý nghĩa gì lớn. Cho tới thời Sa-lô-mom, các tổ phụ, các vua, các quan án hay mọi người giầu có, vị vọng cũng đều cỡi lừa cả (Tl 10:3; 1:14; 1Sm 25:23). Lừa đồng thời cũng từng là phương tiện chuyên chở phổ thông của cả vùng Pa-lét-tin thời đó. Phải đến thời hậu Sa-lô-môn sau khi ngựa chiến được du nhập, lừa mới trở thành biểu tượng của thời bình, cũng như ngựa là biểu tượng của thời chiến. “Kìa đức Vua đến với ngươi, hiền hòa trên lưng lừa!”. Đức Giêsu tự giới thiệu mình với đám quần chúng Do Thái như vị Con Người của đời thường, của hòa bình, khác xa với quan niệm chính trị về một đấng Mêsia chinh chiến đánh đuổi ngoại xâm được các thượng tế và luật sĩ truyền bá. Sau này, trước mặt tổng trấn Phi-la-tô của chính quyền Rô-ma, Người cũng sẽ thẳng thừng tuyên bố cùng một nội dung đó (Ga 18:36-38).
Đối với những ai am tường Cựu Ước hơn, khi nhắc tới chi tiết ‘Vua ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ’ chắc hẳn sẽ gợi nhớ hai giai thoại; A-bra-ham sát tế I-xa-ác, và con lừa cái của ông Bi-lơ-am. Câu chuyện sách Sáng thế chương 22 thuật: “Ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác. Ông bổ củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu… rồi lên đường tới nơi Thiên Chúa bảo… Sang ngày thứ ba, ngước mắt lên, Áp-ra-ham thấy nơi đó ở đàng xa, ông bảo đầy tớ: “Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh”… Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi…” I-xa-ác trước khi bị cha mình sát tế, đã vác củi thay con lừa mang nặng. Còn sách Dân số chương 22 thì kể câu chuyện Bi-lơ-am, thầy sấm của dân Ma-đi-an, cỡi con lừa cái của mình chạy trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Ba lần con lừa ‘thấy thần sứ của Đức Chúa đứng trên đường, gươm trần trong tay…’ và nó đã tìm cách tránh đường. Sau cùng thần sứ nói với Bi-lơ-am: “Con lừa cái thấy Ta, thì nó đã tránh mặt ta tới ba lần. Giả thử nó không tránh mặt Ta, thì chắc chắn Ta đã giết chết ngươi, còn nó thì Ta đã để cho sống…” Một con lừa gợi nhớ hy tế vâng phục, con kia nhắc nhở tha thứ khỏi cơn thịnh nộ!
Như vậy cảnh tượng Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên lưng lừa không đơn thuần chỉ là một hình ảnh gây ấn tượng. Nếu Hy tế Thập giá là cả một mạc khải vĩ đại về Thiên Chúa tình yêu và cứu độ, thì hình ảnh ‘cỡi lừa’ này chính là một phần của mạc khải đó (cũng như hình ảnh con rắn đồng trong Ga 3:14-18). Nó nói lên một Thiên Chúa hiền hòa, không kết án, không luận phạt; nó là hình ảnh rất Do Thái về một đấng Mêsia hiền hòa và xót thương, cứu vớt và tha thứ; một đấng Mêsia, ‘Đấng ngự đến nhân danh Chúa’ phải là như thế, không thể nào khác được!
Lạy Đấng Mêsia hiền hòa cỡi trên lưng lừa con, ai có thể mở miệng tung hô và đón nhận Người cách nhiệt tình nhất nếu không phải là những người tội lỗi thấp hèn? Nếu con không biết tung hô lòng từ bi nhân hậu Chúa, biểu lộ cách rực rỡ nơi mầu nhiệm Thập Giá, thì y như Chúa nói: “sỏi đá cũng sẽ kêu lên!” Xin cho tâm hồn con không bị trai cứng còn hơn cả sỏi đá tới độ không biết mở miệng lớn tiếng ca tụng tình thương cứu độ Người đã thực hiện trên thập giá vì yêu con! Amen.
24.Suy niệm của Lm. Anfonso
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội thánh, cộng đoàn giáo xứ chúng ta khai mạc Tuần Thánh. Đối với người Kitô hữu, đây là tuần lễ quan trọng nhất trong năm, là cao điểm của phụng vụ thánh.
Suy niệm:
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội thánh, cộng đoàn giáo xứ chúng ta khai mạc Tuần Thánh. Đối với người Kitô hữu, đây là tuần lễ quan trọng nhất trong năm, là cao điểm của phụng vụ thánh.
Việc chúng ta cử hành nghi thức Rước Lá đầu lễ diễn tả lại việc Chúa Giêsu công khai tiến vào thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Thiên Sai, được dân chúng ca tụng như đón mừng một vị vua khải hoàn vào thành để lên ngôi vương quyền. Người thì dẹp đường, người thì trải áo làm nền, người thì cầm nhành lá thiên tuế hoan hô Con vua Đavid, Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến.
Nhưng chúng ta cùng hướng nhìn lên vị vua đang tiến vào. Ngài rất khiêm tốn, không phải cưỡi trên mình con voi to tướng, con lạc đà hai bướu hay là con tuấn mã phi nước kiệu, nhưng lại cưỡi lên lưng một con lừa con, loại con vật dành cho người nghèo thồ hàng. Một vị Thiên Sai khiêm nhu hiền hòa mà chúng ta nghe tiên tri Isaia loan báo trong Bài đọc I về người Tôi Trung của Chúa: sẵn sàng đưa lưng cho kẻ đánh, đã đưa má cho kẻ giật râu; không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ.
Trong thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã giảng giải rằng với thân phận là Thiên Chúa, đồng bản thể với Đức Chúa Cha, nhưng vì để tỏ bày về tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người, Chúa Giêsu Kitô đã tự nguỵện vâng phục Cha, huỷ bỏ chính mình để trở nên như người phàm, và còn chấp nhận mang lấy thân phận của một người tôi tớ. Người bằng lòng vâng lời chịu khổ nạn và chịu đóng đinh trên thập giá, một Thiên Chúa tự hạ đến tận cùng. Để rồi được Chúa Cha tôn vinh với danh hiệu Giêsu: Thiên Chúa cứu chuộc con người.
Là một danh y, thánh sử Luca đã giúp chúng ta cảm nhận được sự cao cả của Đấng Vô tội bị kết án như một tội nhân để đền thay tội lỗi con người. Đồng thời, thánh sử cũng giúp chúng ta cảm nhận được lòng Chúa thương xót, đã tự hiến mạng sống vì tình yêu nhân loại. Qua cuộc thương khó, Chúa Giêsu khai mở triều đại Thiên Chúa để nguồn ơn cứu độ đến cho hết mọi người.
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu cho chúng ta nghiệm ra những chiều kích khác lạ của tình yêu. Nó không đơn thuần chỉ là sự trao ban để làm vừa lòng người mình yêu, nhưng sâu thẳm hơn, nó còn là sự hiến dâng chính bản thân để chịu đau khổ. Con Thiên Chúa đã gánh chịu mọi khổ đau của thân phận con người nhưng lại không oán than, không kêu trách, không rên xiết. Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa phải mục nát đi để cho sự sống mới phát sinh. Người đón nhận khổ đau với một tình yêu sâu đậm, để biến thập giá khinh khi thành Thánh giá cứu đời.
Với tình yêu, Chúa Giêsu không đơn độc khi bước vào cuộc khổ nạn. Ngài được Cha nâng đỡ vì cả cuộc đời Người là một cuộc đời kết hợp với Chúa Cha: cả lúc lo lắng đến đổ mồ hôi máu của thân phận mỏng manh kiếp người trong vườn Dầu khi sắp đến giờ chịu khổ nạn, lẫn trên thập giá, Người hoàn toàn “Lạy Cha, con phó thác hồn con trong tay Cha”. Nhờ sự phó mình vì yêu, bóng tối của sự thịnh nộ và thù hận đã nhường chỗ cho ánh sáng của nhân ái và thứ tha.
Trong cuộc sống thường ngày, có những lúc gặp đau khổ, gặp thất bại, gặp nghịch cảnh, nhiều lúc chúng ta than trách Chúa, nghi ngờ tình yêu của Chúa, thậm chí bị lung lay đức tin. Hãy chiêm ngắm đau khổ Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn để vững vàng vượt qua thử thách, với một lòng ăn năn sám hối, hãy cùng Người phó linh hồn trong tay Chúa Cha.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu Chúa phó mình vì con, để dầu con yếu đuối, không thể bước theo Chúa trong cuộc khổ nạn như một thánh nhân, thì con vẫn luôn có thể bước theo Chúa vác lấy thập giá đời mình như một tội nhân được tha thứ với một tâm tình phó thác nơi Chúa Cha. Xin Chúa cho mỗi người chúng con ý thức để sốt sắng tham dự vào nghi lễ Tuần Thánh thật thánh thiện. Amen.
25.Con người tham sống sợ chết–Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Chuyện kể rằng: Đôi trai gái đang đi dạo trong thảo cầm viên. Chàng nắm tay nàng nhẹ nhàng nói: “Anh sẽ không bao giờ buông tay em ra đâu. Cho dù có chết anh vẫn bảo vệ em”.
Thình lình một con cọp sổng chuồng nhảy bổ ra. Chàng trai hốt hoảng nhảy thót lên cây. Còn cô gái sợ hãi nằm bất động. Rất may con cọp chỉ đến ngửi trên mình cô gái rồi bỏ đi. Sau khi con cọp đi rồi, chàng trai mới chạy đến đỡ cô gái dậy và hỏi: “Con cọp nó nói gì với em đó”.
Cô gái trả lời: Nó nói anh là thằng đểu!
Tham sống sợ chết là lẽ thường tình của con người. Cho dù có những người thề sống chết bên nhau nhưng khi đối diện với gian nan, họ cũng tìm trăm ngàn lý do để hủy lời đoan hứa. Đó là lý do chúng ta thấy con người thường dễ quên lời hứa, dễ thất hứa, thất tín và thất trung.
Có biết bao người yêu nhau thật nồng nàn, thề hứa đủ điều nhưng khi lấy nhau họ lại bỏ quên nhau và sớm quên đi những lời đã hứa cho nhau.
Có biết bao người có chức có quyền chỉ hứa xuông khi tranh cử, nhưng khi ngồi trên ghế họ chỉ lao vào kiếm tiền và củng cố địa vị của mình mà bỏ quên lời hứa với nhân dân.
Có biết bao người đã từng hứa có ăn có hưởng, hoạn nạn có nhau nhưng họ chỉ gần nhau khi thành công và bỏ rơi nhau khi gặp gian nguy.
Chúa Giê-su trong thân phận con người, Ngài cũng cảm thấy đau khổ vì bị đồ đệ bỏ rơi, người thân quay lưng chống đối. Biết bao lời hứa đã từng cam kết sẽ uống cạn chén đắng cùng Thầy, sẽ theo Thầy cho đến cùng, nhưng những lời hứa ấy chỉ như gió thoảng mây bay. Ngài hiểu thật sâu xa tính mỏng dòn của tình người. Tình người dễ phôi phai. Lòng người dễ thay đồi. Nhưng, dầu vậy, Ngài vẫn trung thành với tình yêu của mình. Ngài vượt qua mọi trở ngại để dấn thân cho người mình yêu. Ngài mãi mãi trung tín trong tình yêu vì đã yêu thì “yêu cho đến cùng”.
Thánh lễ hôm nay cũng họa lại hai hình ảnh trái ngược trong một tuần thương khó. Khung cảnh ban đầu là đoàn rước thật long trọng, hồ hởi với đàn hát, với trải lá lót đường . . . ; Khung cảnh sau là phiên tòa kết án, với lời thóa mạ, với đòn roi, với án tử. Xuyên suốt hai khung cảnh ấy là hình ảnh Chúa Giê-su luôn bình tĩnh trước mọi biến cố. Dường như Ngài đã không tìm cách lẩn trốn trước những gì đang diễn ra. Ngài bình thản đi vào tuần thương khó mà Thánh Kinh bảo rằng: “để mọi sự được nên trọn”.
Vâng, Chúa Giê-su Ngài đã bình thản trước mọi biến cố vì Ngài muốn để thánh ý Chúa Cha nên trọn. Ngài biết những cam go trước mắt, thế nhưng, Ngài vẫn mạnh dạn tiến lên Giê-ru-sa-lem. Ngài biết ở đó bản án đang chờ Ngài, nhưng “Giờ” để biểu lộ tình yêu đã tới. Giờ đã điểm. Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để thi hành thánh ý Chúa Cha là cứu độ gian trần. Đây là động lức khiến Ngài can đảm đối diện khó khăn. Đây cũng là cách nói lên lòng trung thành của Ngài với thiên ý nhiệm màu.
Xin Chúa giúp chúng ta bước vào tuần thương khó với tâm tình sám hối ăn năn, vì có những lần chúng ta cũng thay lòng đổi dạ để kết án Ngài, cũng có những lần chúng ta bỏ rơi Ngài. Nhưng tình yêu của Chúa vẫn mãi dành cho chúng ta. Xin cho chúng ta đừng bao giờ phụ bạc ân tình mà Chúa vẫn dành cho chúng ta. Amen.
26.Con người tham sống sợ chết–Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Chuyện kể rằng: Môn đệ của một vị đạo sĩ kia muốn từ bỏ thế gian, nhưng anh ta quyến luyến gia đình và bảo rằng: “Vợ con tôi quá thương yêu tôi, nên họ không bằng lòng cho tôi thoát tục”.
Nghe nói thế, vị đạo sĩ muốn cho anh ta biết sự thật nên đã dạy cho anh một kỹ thuật giả chết. Sau một thời gian học thuần thục, vị đạo sĩ bảo anh hãy áp dụng kỹ thuật này khi về đến nhà. Và quả thật, anh ta đã thực hành bài học cách tuyệt hảo để nhắm mắt xuôi tay, nhưng vẫn còn nghe được mọi tiếng khóc than của vợ con và thân nhân, bạn bè.
Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để phân ưu cùng thân quyến. Sau những giây phút tưởng niệm người quá cố, ông nghiêm nghị bảo thân nhân đang khóc thương người đã từ biệt cõi đời rằng: “Tôi có bí quyết để cứu sống anh ta, nếu có ai sẵn lòng chết thay cho anh”.
Anh chàng giả chết ngạc nhiên khi nghe mọi người trong gia đình nêu ra mọi lý do để biện minh là mình cần phải sống. Càng ngạc nhiên hơn khi anh nghe người vợ nghĩa thiết của mình tóm lược mọi lý lẽ trên bằng một lời quả quyết: “Tôi nghĩ không ai cần chết thay cho chồng tôi. Không có anh ta, chúng tôi vẫn có thể làm lụng để sống”.
Tham sống sợ chết là lẽ thường tình của con người. Cho dù có những người thề sống chết cho nhau nhưng khi đối diện với cái chết, họ cũng tìm trăm ngàn lý do để hủy lời đoan hứa. Thế nên, là người thường dễ quên lời hứa, dễ thất hứa, thất tín và thất trung. Con người thường dễ mất uy tín khi những lời mình nói mà không làm. Thực tế, con người chỉ dễ dàng hứa trong lời nói xuông mà rất khó thực hiện những lời đã hứa. Nhất là khi phải hy sinh tiền bạc, thời giờ, công sức, và càng khó hơn khi phải hy sinh tính mạng mình để thực thi chữ tín trong cuộc sống.
Có biết bao người yêu nhau thật nồng nàn, thề hứa đủ điều nhưng khi lấy nhau họ lại bỏ quên nhau và sớm quên đi những lời đã hứa cho nhau.
Có biết bao người có chức có quyền chỉ hứa xuông khi tranh cử, nhưng khi ngồi trên ghế họ chỉ lao vào kiếm tiền và củng cố địa vị của mình mà bỏ quên lời hứa với nhân dân.
Có biết bao người đã từng hứa có ăn có hưởng, hoạn nạn có nhau nhưng họ chỉ gần nhau khi thành công và bỏ rơi nhau khi gặp gian nguy.
Chúa Giêsu trong thân phận con người, Ngài cũng cảm thấy đau khổ vì bị đồ đệ bỏ rơi, người thân quay lưng chống đối. Biết bao lời hứa đã từng cam kết sẽ uống cạn chén đắng cùng Thầy, sẽ theo Thầy cho đến cùng, nhưng những lời hứa ấy chỉ như gió thoảng mây bay. Ngài hiểu thật sâu xa tính mỏng dòn của tình người. Tình người dễ phôi phai. Lòng người dễ thay đồi. Nhưng, dầu vậy, Ngài vẫn trung thành với tình yêu của mình. Ngài vượt qua mọi trở ngại để dấn thân cho người mình yêu. Ngài mãi mãi trung tín trong tình yêu vì đã yêu thì “yêu cho đến cùng”.
Chúa Giêsu Ngài biết những kẻ mà Ngài thi ân sẽ quay lưng chống lại Ngài. Ngài cũng biết rõ các đồ đệ sẽ bỏ rơi Ngài trong lúc nguy nan. Ngài cũng biết số đông theo Ngài sẽ dừng lại để một mình Ngài vác thập giá cô đơn trên đường lên Núi Sọ. Thế nhưng, Ngài vẫn can trường, vẫn bước đi cho đến cùng của tình yêu tự hiến hy sinh.
Thánh lễ hôm nay cũng họa lại hai hình ảnh trái ngược trong một tuần thương khó. Khung cảnh ban đầu là đoàn rước thật long trọng, hồ hởi với đàn hát, với trải lá lót đường…; Khung cảnh sau là phiên tòa kết án, với lời thóa mạ, với đòn roi, với án tử. Xuyên suốt hai khung cảnh ấy là hình ảnh Chúa Giêsu luôn bình tĩnh trước mọi biến cố. Dường như Ngài đã không tìm cách lẩn trốn trước những gì đang diễn ra. Ngài bình thản đi vào tuần thương khó mà Thánh Kinh bảo rằng: “để mọi sự được nên trọn”.
Vâng, Chúa Giêsu Ngài đã bình thản trước mọi biến cố vì Ngài muốn để thánh ý Chúa Cha nên trọn. Ngài biết những cam go trước mắt, thế nhưng, Ngài vẫn mạnh dạn tiến lên Giê-ru-sa-lem. Ngài biết ở đó bản án đang chờ Ngài, nhưng “Giờ” để biểu lộ tình yêu đã tới. Giờ đã điểm. Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để thi hành thánh ý Chúa Cha là cứu độ gian trần. Đây là động lức khiến Ngài can đảm đối diện khó khăn. Đây cũng là cách nói lên lòng trung thành của Ngài với thiên ý nhiệm màu.
Xin Chúa giúp chúng ta bước vào tuần thương khó với tâm tình sám hối ăn năn, vì có những lần chúng ta cũng thay lòng đổi dạ để kết án Người, cũng có những lần chúng ta bỏ rơi Ngài. Nhưng điều quan yếu là chúng ta hãy luôn nhận ra tình yêu của Chúa để biết tri ân tình yêu cao vời mà Chúa đã dành cho chúng ta. Xin cho chúng ta đừng bao giờ phụ bạc ân tình mà Chúa vẫn dành cho chúng ta. Amen.
27.Bệnh “hùa theo đám đông”–Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Khi làm sai một điều gì đó, người ta thường biện minh rằng: “Người ta làm sao, tôi làm vậy. Người ta làm bậy, tôi làm theo”.
Câu nói này không hẳn là lời nói cho vui mà dường như là căn bệnh của xã hội qua mọi thời đại. Một cách đơn giản, mỗi khi dừng trước đèn đỏ mà có một người vượt lên trước, thì y như rằng sẽ có rất nhiều người vượt lên theo. Lúc này người ta không để ý đến đèn chỉ dẫn mà chạy theo đám đông. Đám đông làm bậy, tôi làm theo.
Người ta kể rằng: có một cậu bé đang đi trên lề đường bỗng dừng lại, ngửa mặt lên trời. Có vị giáo sư đi tới, thấy thế cũng ngạc nhiên dừng lại, ngước mắt nhìn theo. Rồi một bà đứng tuổi đi ngang qua cũng làm y như vậy; một người, rồi một người nữa… Lúc cậu bé cúi xuống, quay qua quay lại, ngạc nhiên khi thấy cả chục người đứng chung quanh mình đều ngửa mặt nhìn trời. Cậu thành thực hỏi: “Ủa! Các ông các bà cũng bị chảy máu cam như cháu sao?”.
Đây là căn bệnh “hùa theo đám đông”. Đám đông làm mình cũng làm. Sự làm theo đám đông đôi khi bất chấp lề luật, bất chấp tội lỗi. Dường như người ta nghĩ rằng nhờ đám đông mà dảm bớt tội, hay giảm bớt trách nhiệm. Những bệnh “hùa theo đám đông này”, ta có thể thấy nhan nhản qua các tội: nam nữ sống “góp gạo thổi cơm chung” nơi khá đông tầng lớp công nhân và sinh viên xa nhà; chuyện phá thai nơi những bà mẹ mang con ngoài ý muốn; chuyện buôn gian bán lận để có đồng lời trong thời buổi cạnh tranh mà nhiều người nói rằng “không gian làm sao có lời”; chuyện hối lộ và tham nhũng để được việc và giữ được ghế lâu dài…; Lợi dụng đám đông để người ta phạm tội mà không e ngại, không xấu hổ và nhất là không còn ý thức đâu là tội. Đám đông làm bậy đã khiến cho tội trở thành điều bình thường như: nói tục, chửi bậy, nói dối, nói sai sự thật của người Việt nam hôm nay. Đám đông làm bậy đã làm cho nhiều trẻ nhỏ và những người kém hiểu biết mất ý thức về sự việc là tội hay không tội. Họ đã làm theo đám đông mà không còn ý thức về căn tính sự việc.
Lần giở lại lịch sử cách đây hơn hai ngàn năm, Chúa Giêsu được hoan nghênh và kết án, được tôn vinh, và tẩy chảy cũng chỉ một đám đông. Đó chính là đám đông dân thành Giê-ru-sa-lem. Họ đã từng tung hô Chúa Giêsu. Họ đã từng lấy áo lót đường cho Chúa Giêsu đi qua. Họ cầm ngành lá vạn tuế để cùng nhau tung hô Chúa là Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến. Thế nhưng, cũng đám đông đó, chỉ nghe nhóm biệt phái và thượng tế định tội Chúa Giêsu, họ đã mau chóng quay lưng lại với người mà họ đã từng tung hô. Những bàn tay cầm cành lá vạn tuế lại được giơ lên trong tư thế nắm đấm đòi triệt hạ Chúa Giêsu. Những lời tung hô đầy niềm vui được thay bằng những lời hằn học đầy căm phẫn. Có lẽ có rất nhiều người trong đám đông đó không hề thù ghét Chúa Giêsu. Có lẽ trong đám đông đó còn có rất nhiều người đã từng nhận ân nghĩa của Chúa Giêsu. Thế nhưng, họ đã bị đám đông lôi cuốn vào chuyện gian ác để đòi đóng đinh người vô tội trên thập tự giá.
Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những người công chính bị hạ bệ, bị lấy mất thanh danh bởi đám đông đang rỉ tai nhau bỏ vạ, cáo gian, nói hành, nói xấu…
Dòng đòi hôm nay vẫn còn đó những người bị tước mất tất cả danh dự, lẫn vật chất vì đám đông hãm hại mà không biết thanh minh từ đâu.
Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những bất công khi đám đông cuồng tín bất chấp lề luật toa rập với nhau hãm hại người công chính.
Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những người công chính dám bảo vệ chân lý lại bị đám đông tẩy chay theo chủ nghĩa đồng cảm chứ không đồng thuận.
Dòng đời hôm nay tội lỗi vẫn lan tràn, khi mà đám đông đã không đủ tỉnh thức để hồi tâm, để dừng lại. Nhưng lại hùa theo nhau để làm bậy đến mức độ mất ý thức về tội.
Đám đông dân thành Giê-ru-sa-lem đã toa rập với nhau giết hại người công chính. Có lẽ, họ đã hối hận sau cái chết của Chúa Giêsu. Có lẽ, họ đã hoảng sợ khi nghe tin Ngài đã từ cõi chết sống lại. Nhưng đã muộn. Giu-đa đã tự vẫn. Phê-rô xấu hổ. Viên đội trưởng chỉ thở não nề mà nói “Người này thật là Con Thiên Chúa”. Đám đông xôn xao lo lắng. Tất cả đã muộn khi sự ác chiến thắng. Người công chính đã bị kết án tử hình.
Là người ky-tô hữu chúng ta phải sống yêu thương. Tình yêu thương đòi buộc chúng ta đừng làm điều gì có lỗi với lương tâm. Tình yêu đòi buộc chúng ta vượt trên đám đông, trên dư luận để đừng hùa theo đám đông mà phải can đảm bảo vệ chân lý, bảo vệ lẽ phải. Tình yêu đòi buộc chúng ta phải sống trung thực với chính mình, biết tôn trọng sự thật và can đảm bảo vệ sự thật. Đừng vì sợ hãi mà im lặng để bất công lan tràn, sự dữ ngự trị.
Xin cho mỗi người chúng ta luôn tỉnh thức trước sự dữ, luôn có lập trường vững chắc trong cuộc sống. Xin đừng vì nhát đảm mà làm ngơ trước bất công nhưng luôn can trường bảo vệ chân lý và sự thật. Amen.
28.Giờ cứu độ–Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc đời Chúa Giêsu dường như luôn chuẩn bị cho Giờ của Thiên Chúa. Giờ cứu độ. Giờ mà chính Chúa sẽ hiến mình làm của lễ dâng mình cho Chúa Cha và để cứu độ trần gian. Chúa đã từng nói “chính vì Giờ này mà Ta đến trong thế gian”. Và cuộc đời của Chúa Giêsu dường như lúc nào cũng có bóng thập giá. Thập giá đã thấp thoáng ngay từ ngày Chúa sinh ra. Hêrôđê đã kết án tử cho Chúa. Trong suốt ba năm rao giảng tin mừng, bóng thập giá luôn lấp ló trên mọi hành trình Chúa đi qua.
Nét đẹp nơi Chúa Giêsu khi phải đối diện với Giờ cứu độ chính là thái độ cương quyết dấn thân của Chúa Giêsu. Ngài không chùn bước. Ngài không sờn lòng. Ngài vẫn mạnh dạn tiến về phía trước. Ngài đã từng nhiều lần mời gọi các môn đệ: “nào chúng ta cùng lên Giêrusalem”. Ngài biết rằng ở đó có thập giá, có khó khăn, có đau khổ đến với Ngài. Nhưng Ngài vẫn tiến bước, vì đó là sứ vụ của Ngài. Đó cũng là điều đẹp lòng Chúa Cha. Dầu trên hành trình này, Ngài đã tiến bước trong cô đơn. Dầu chẳng ai đủ can đảm theo Ngài, nhưng Chúa Giêsu vẫn phải uống chén đắng để vui lòng Chúa Cha.
Trong tin mừng hôm nay, thánh Luca đã miêu tả Chúa Giêsu thật sự cô đơn trong 12 giờ cuối cùng của cuộc đời. Các môn đệ ngủ vùi trong vườn cây Dầu và bỏ chạy khi đối diện với gian nguy. Các thành viên của thượng hội đồng Do Thái chống đối, âm mưu làm hại, môn đệ Giuđa phản bội, và cố gắng của Phêrô đã cố đi cho tới bên trong dinh thượng tế, nhưng đáng tiếc, ông không bênh vực Thầy mà đã chối bỏ Thầy mình, không chỉ một lần mà là 3 lần, dù rằng ông đã được nhắc trước về những gì sẽ đến với ông. “Ngay trong đêm nay khi gà chưa kịp gáy con đã chối Thầy 3 lần”.
Nhưng vượt lên trên sự bỏ rơi của các môn đệ, sự cô lập của các thế lực thù địch đó là thái độ bình thản của Chúa Giêsu trước các biến cố. Ngài hoàn toàn tự do để có thể lẩn tránh hay đón nhận. Ngài có thể khước từ chén đắng, nhưng Ngài đã đón nhận trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha. Tuy nhiên khi giờ đã đến, Ngài vẫn cảm thấy hãi hùng, xao xuyến. Ngài sợ hãi, vì viễn tượng chết vẫn vượt qúa những dự phóng của con người nên Ngài đã phải cầu nguyện. Cầu nguyện trong cô đơn, sợ hãi đến nỗi mồ hôi máu bịn rịn nơi thân thể Ngài. Qua đây ta thấy rõ hơn nhân tính của Ngài. Vì con người là yếu tố bất định trong lịch sử. Do đó Chúa Giêsu cũng không thể biết được ngày mai ra sao. Dòng đời sẽ xô đẩy Ngài đi đến đâu. Thực vậy, nếu Ngài biết thì không còn là con người nữa. Tất cả những gì đang diễn ra, Ngài đều phải cầu nguyện để tìm hiểu thánh ý Chúa Cha. Đây quả là giờ của đau khổ, giờ của hãi hùng, giờ bị mọi người khước từ. Đây quả là chén đắng của cuộc đời. Chén chua chát bị ruồng bỏ, của nhạo báng, của cái chết, đến nỗi Ngài đã nại đến quyền năng vô biên của Cha: “Cha có thể làm mọi sự, xin cho con khỏi uống chén này”, nhưng khi hiểu được đâu là thiên ý Ngài lại tiếp tục bình thản “xin đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha”.
Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những bóng tối của lòng người, khi chúng ta nuôi dưỡng hận thù, tìm cách hãm hại anh em. Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những con người công chính, lương thiện bị trù dập và cô lập giữa xã hội mà công bình bác ái đã không còn công minh. Đồng tiền và quyền lực đã làm cán cân công lý bị bẻ gẫy. Người công chính, kẻ lương thiện vẫn là nạn nhân của bất công, gian dối và tham lam. Biết bao người đã để cho bóng tối của lòng tham nổi loạn đến nỗi chà đạp lương tri và nhân phẩm của bản thân và đồng loại. Con người ngày nay vẫn nhân danh hạnh phúc của riêng mình để kết án tử hình người khác, nhất là các thai nhi vô tội. Biết bao cha mẹ đã viện ra nhiều lý do để loại trừ những đứa con trong lòng mình một cách dửng dưng đáng sợ. Con người chỉ vì lòng tham, chỉ vì tính ghen tỵ, chỉ vì thói kiêu căng giả hình vẫn đang tìm cách làm hại cuộc đời của nhau. Bao lâu chúng ta còn nuôi dưỡng những ý đồ bất chính, những thủ đoạn gian tham, những ích kỷ nho nhen là bấy lâu vẫn còn đó những con người lương thiện bị đe doạ, bị hành hạ và loại trừ. Và như thế, Đức Kitô vẫn lại phải chịu những bản án bất công mà con người dành cho Chúa. Đức Kitô vẫn tiếp tục bị cô đơn và khước từ giữa dòng đời này.
Hôm nay ngày khởi đầu tuần thương khó, mỗi người chúng ta hãy rà xét lại lối sống của mình để ăn năn thống hối về lời nói việc làm của mình, dù là vô tình hay hữu ý đã và đang gây đau khổ cho người khác. Nguyện xin Đức Giêsu, Đấng đã chết vì tội lỗi chúng ta ban ơn tha thứ và giúp chúng ta chỉnh sửa lại lối sống của mình cho xứng với lòng ăn năn sám hối. Amen.
29.Đức vua đa không–Trầm Thiên Thu
Hoàng đế (Hán tự: 皇帝 – Anh ngữ: Emperor – La ngữ: Imperator) là tước vị cao của Vua, thường là người cai trị của một đế chế hoặc loại khác của vương quốc, đế quốc. Nói chung, Hoàng đế là người được công nhận có danh dự và xếp hạng cao hơn so với quốc vương.
Vua thì có ngai, gọi là bệ rồng. Quần thần không được “đụng chạm” tới Vua, có tâu cũng chỉ được tâu cái bệ có cái ngai của Vua ngồi: “Muôn tâu bệ hạ”. Ngước nhìn long nhan nhà vua là phạm tội “khi quân”, xử tử ngay!
Vua nào cũng có tiền hô hậu ủng, có tất cả mọi tứ, kể cả quyền sinh tử: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Chỉ có Đức Giêsu Kitô là vị Vua cao cả nhất, Vua của các vua, là Thiên Vương, là Chúa của các chúa, thế mà lại có một số KHÔNG to lớn và tròn trịa: KHÔNG đăng quang, KHÔNG ngai vàng, KHÔNG bệ rồng, KHÔNG long bào, KHÔNG bảo kiếm,… chỉ có đám dân đen tôn Ngài làm Vua, cái mà chúng ta gọi là “ngai vua” đối với Ngài là chính “ngai khổ” Thập Giá. Và Ngài được dân chúng reo hò chúc tụng là “Con Vua Đa-vít, Đấng nhân danh Chúa mà đến” chỉ trong chốc lát mà thôi. Rồi người ta mau chóng lật mặt như trở bàn tay!
Ngay trong khi dân chúng tôn vinh Ngài, cả bốn Phúc Âm đều nói rõ rằng lòng kính trọng Chúa Giêsu khi Ngài vào Thành Giêrusalem được thể hiện nhưng không phải tất cả đều là cư dân Giêrusalem. Thánh Mát-thêu cho biết: “Khi Đức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: ‘Ông này là ai vậy?’. Dân chúng trả lời: ‘Ngôn sứ Giêsu, người Nadarét, xứ Galilê đấy” (Mt 21:10-11).
Chúa Nhật Lễ Lá là lúc giờ G đã điểm, khởi đầu hành trình khổ nạn của Đức Kitô từ lúc vào Thành Thánh Giêrusalem. Dân chúng thấy Chúa Giêsu làm nhiều thứ quá tuyệt vời, quá kỳ diệu, vượt ngoài sức tưởng tượng của loài người, thế nên họ muốn tôn Ngài làm vua, chính họ cũng đã nhận biết Ngài là ai, họ lũ lượt theo nhau và reo hò vang dội: “Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời” (Mt 21:9).
Cây càng cao, gió càng lay. Càng làm lớn càng khổ. Khổ từ khi đăng quang và vinh quy bái tổ. Vua chúa, hoàng đế hoặc quốc vương nào cũng có lễ đăng quang. Ngay cả giáo hoàng cũng có lễ đăng quang.
Người ta thường nói: “Khổ ải trần gian” hoặc “Đời là bể khổ”. Vâng, “biển khổ” chứ không phải “sông khổ” hoặc “ao khổ”. Điều đó cho thấy kiếp người không ngừng nối tiếp đau khổ, là một hành trình đau khổ triền miên. Có lẽ do vậy mà khi sinh ra không ai cười, ai cũng “cất tiếng khóc chào đời”. Biết chấp nhận thì có thể “hóa giải” đau khổ thành niềm vui, nếu không thì càng chồng chất thêm đau khổ mà thôi.
Hơn 2000 năm trước, Thích Ca Mâu Ni là người sống trong cung vàng điện ngọc, nhưng ông đã “giác ngộ” sau khi nhìn thấy những cảnh khổ của kiếp người, thế nên ông quyết ngồi thiền dưới gốc bồ đề để tu thân và “tâm niệm” Tứ Diệu Đế: Sinh là khổ, Bệnh là khổ, Lão là khổ, và Khổ là khổ. Ông đã siêu thoát và được người ta tôn vinh là Đức Phật. Muốn thoát đau khổ không gì hơn là đi xuyên qua đau khổ. Chúa Giêsu cưỡi lừa vào thành Giêrusalem, được người ta tung hô khi tay họ cầm lá thiên tuế chào đón. Nhưng đó cũng là lúc Ngài khởi đầu “hành trình đau khổ”.
NGƯỜI TÔI TỚ ĐAU KHỔ
Ngôn sứ Isaia nhiều lần tiên báo về “người tôi tớ đau khổ”. Ông cảm thấy Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho ông nói năng như một người môn đệ, để ông biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Ông xác nhận: “Sáng sáng Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ” (Is 50:4). Ông cho biết thêm: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:5).
Ngôn sứ Isaia “không cưỡng lại” và “không thoái lui” dù ông phải “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu” và “không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ” (Is 50:6). Ông tin mình “có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ”, vì thế, ông “không hổ thẹn” mà cứ “trơ mặt ra như đá”. Thế nên ông biết mình sẽ “không phải thẹn thùng” (Is 50:7). Ông là hình ảnh của Đức Kitô, con người của đau khổ, khởi đầu “hành trình đau khổ” từ Giêrusalem, ngay khi được người ta cầm những cành thiên tuế tung hô là vua.
Tác giả Thánh vịnh mô tả về tình trạng chịu nhục nhã ê chề:
Thấy con ai cũng chê cười
Lắc đầu, bĩu mỏ, buông lời mỉa mai:
“Nó trông cậy Đức Chúa Trời
Cứ để mặc Người giải cứu nó đi!” (Tv 22:8-9)
Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ không chỉ bị khiêu khích, bị đau khổ về tinh thần mà còn bị đau khổ về thể lý:
Quanh con bầy chó bao chặt chẽ
Bọn ác nhân vây bủa trong ngoài
Chúng đâm con thủng chân tay
Xương con đếm được vắn dài, chúng xem (Tv 22:17-18)
Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ bị đau khổ đến tận cùng, nhưng vẫn luôn trông cậy vào Thiên Chúa:
Áo mặc ngoài chúng đem chia chác
Còn áo trong cũng bắt thăm luôn
Chúa là sức mạnh con nương
Cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa! (Tv 22:19-20)
Đồng thời vẫn muốn tôn vinh Thiên Chúa trong chính những đau khổ của mình:
Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa
Cho anh em tất cả được hay
Và trong đại hội dân Ngài
Con xin dâng tiến một bài tán dương (Tv 22:23)
Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ luôn trung tín với Thiên Chúa, tự động viên mình và khuyến khích người khác: “Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Gia-cóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Ítraen tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:24).
NGƯỜI CHẤP NHẬN ĐAU KHỔ
Thánh Phaolô vừa phân tích vừa xác định: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2:6). Đạo cũng như đời, người quyền cao chức trọng có mấy ai dám “vi hành” để hiểu rõ cảnh khổ của người dân?
Trong tác phẩm “Authority: Its Use and Abuse” (*) có kể một số “điểm son” của Đức cố GM Irumpen, GP Palakkad (Ấn Độ), một giám-mục-đa-không, đáng để chúng ta noi gương:
Mỗi Chúa Nhật, ngài đến một giáo xứ nào đó mà không báo trước, ngồi tòa giải tội khoảng 15-20 phút, dâng lễ, giảng lễ, dạy giáo lý, và chuyện trò với giáo dân và linh mục quản xứ; ngài không bao giờ cho phép người ta tổ chức tiếp tân chào mừng ngài tại các giáo xứ. Và tại tòa giám mục hay ở bất cứ nơi đâu mà ngài ghé thăm, ngài không nhận bất cứ sự biệt đãi nào dành cho mình; ngài cho rằng sự hào nhoáng bên ngoài (kiểu như đoàn xe đưa rước trong những dịp đặc biệt) không phải là chứng nhân Tin Mừng mà là chứng nhân của văn hóa thế tục; hằng ngày ngài dành thời gian từ 9 giờ đến 12 giờ để tiếp bất cứ ai đến gặp, không cần hẹn trước; ngài không bao giờ nghỉ trưa; ngài chỉ dự những lễ kỷ niệm chịu chức hay khấn dòng nếu những lễ ấy tổ chức ở nhà thờ chính tòa; ngài không tổ chức mừng ngày kỷ niệm thụ phong giám mục của mình. Năm nào ngài cũng mừng lễ bổn mạng, dịp các linh mục tĩnh tâm tháng vào ngày 19-3 (Lễ Đức Thánh Giuse Phu Quân Đức Maria). Linh mục đoàn cùng nâng cốc chúc mừng và nhâm nhi chút bánh ngọt; ngài không đưa lên bảng thông tin giáo phận các tin về hoạt động hay đi lại của ngài trong giáo phận, mà chỉ thông tin cho mọi người biết trước về những trường hợp ngài phải ra ngoài giáo phận quá một ngày, chẳng hạn khi ngài sắp đi dự họp Hội Đồng Giám Mục,…; ngài không bao giờ đi nước ngoài, trừ phi đó là bổn phận bắt buộc như về Rôma dịp Ad limina. Ngài không bao giờ đi nước ngoài để quyên tiền. Ngài nói rằng các nhu cầu căn bản của giáo phận cần phải được gánh vác bởi chính giáo dân trong giáo phận; không bao giờ có chuyện “phạt treo”, chẳng hạn không cấp giấy chứng chỉ hôn phối vì người ta chưa đóng góp quĩ; ngài luôn ăn mặc giản dị, ăn chay trường, và chẳng ai thấy hình ảnh của ngài trên báo chí; ngài hưu trí tại nhà hưu của các linh mục cao niên. Cuộc đời ngài thật đơn giản, tất cả đồ đạc xếp gọn trong một chuyến xe nhỏ; giáo phận tặng ngài một ô tô dịp ngài về hưu, nhưng ngài không nhận, chỉ muốn được trợ cấp hưu bổng đúng theo mức hưu dưỡng như các linh mục khác trong giáo phận; ngài không muốn xin viện trợ từ bên ngoài để xây các nhà thờ to lớn. Nếu ai dâng hiến đất, ngài sẽ xây một nhà thờ vừa phải với sự hỗ trợ của chính các giáo dân địa phương; văn phòng của ngài là một gian phòng nhỏ trong một ngôi nhà cũ kỹ, không có bất cứ món trang trí nào; ngài là một chứng nhân Tin Mừng, sống điều ngài rao giảng, cách sống của ngài cho thấy rõ quyền bính là để phục vụ.
Tại Việt Nam có gương sáng của Đức cố GM Cassaigne (người Pháp, quen gọi cha Sanh, nguyên giám mục GP Saigon), vị tông đồ của người cùi. Khi còn là giám mục Saigon, ngài cũng đã từng rong ruổi khắp khu dân cư nghèo để thấy rõ thực tế, cửa tòa giám mục cũng luôn rộng mở đón tiếp mọi người.
Những chứng nhân như vậy thật đáng khâm phục vì đúng là những mục tử của Chúa, dám quên mình vì đoàn chiên, là những chủ chăn đích thực và sống động, chứ không nói suông qua các văn bản hoặc bài giảng.
Chúa Giêsu không chỉ là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ mà còn là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ-Khiêm-Nhường: “Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:7). Cái chết của Ngài khác thường là “chết trên thập giá”, loại khổ hình nhục nhã nhất thời đó. Chính vì Ngài chịu đau khổ đến tột cùng mà “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2:9), danh hiệu ấy cao cả và quyền năng đến nỗi “khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Pl 2:10). Để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:11).
Trong cuộc sống, không ai muốn đau khổ, nghĩa là ai cũng muốn sống sung sướng, muốn tận hưởng niềm hạnh phúc – tận hưởng bằng mọi cách và càng nhiều càng tốt. Vì thế mà con người miệt mài đêm ngày đi tìm hạnh phúc. Đau khổ luôn là điều bí ẩn đối với cuộc sống. Thậm chí những người chấp nhận đau khổ có thể bị coi là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, là “điên khùng”. Tuy nhiên, với người tin vào Đức Kitô, đau khổ là một mầu nhiệm.
Bất kỳ ở quốc gia nào, một bị cáo đứng trước vành móng ngựa cũng có luật sư bào chữa. Trong Giáo hội Công giáo, trước khi phong thánh cho ai thì cũng có 2 “phe”, một phe đưa ra các điều tốt và một phe đưa ra các điều xấu – được gọi là “luật sư của quỷ”, phe luật sư này sẽ đưa ra mọi thứ “bất lợi” cho ứng viên đến khi “chịu thua” mới thôi. Chẳng hạn trường hợp của Thánh GH Gioan XXIII, luật-sư-của-quỷ đã hết cách nên đành “tố cáo” Gioan XXIII hồi nhỏ hay chơi diều.
Từ cổ chí kim, chỉ có một tử tội đặc biệt không có luật sư bào chữa, cũng chẳng có ai bênh vực một lời nào, đó là Đức Giêsu Kitô. Người ta vừa tôn làm vua xong đã vội lật mặt và đòi đóng đinh vào Thập giá, đến cả những người thân cận nhất cũng sợ liên lụy mà bỏ rơi Đại Sư của mình, người mà mình leo lẻo tán dương lên tận mây xanh!
ĐIỂM BÁO GIỜ G
Bài Thương Khó hôm nay là một bộ phim dài, một tấn bi kịch đẫm lệ sầu, một cuộc chia ly đầy nước mắt.
Giờ G đã điểm, Đức Giêsu vào bàn cùng với các Tông Đồ. Người nói: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình” (Lc 22:15). Ngài đưa ra lý do: “Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa” (Lc 22:16).
Sau đó, Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể, Ngài dùng chính Mình Máu Ngài để nuôi sống chúng ta. Ngài tiên báo mọi chuyện sắp xảy ra như những lời trăng trối, và để cảnh báo mọi người. Rồi Ngài phân tích về cách cai trị: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ. Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. Vì thế, Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en” (Lc 22:25-30).
Đặc biệt là Ngài cảnh báo về sự dữ đối với Phêrô: “Simon, Simon ơi, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22:31-32). Chúa Giêsu thân thiện gọi ông là Simon, gọi tên thật chứ không gọi “nickname” Phêrô, triều đại giáo hoàng đệ nhất.
Ông Phêrô thưa với Người: “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng” (Lc 22:33). Đức Giêsu nói ngay: “Này anh Phêrô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối là không biết Thầy” (Lc 22:34). Tính nóng như lửa, thế mà Phêrô cũng chỉ biết gãi đầu và im lặng, chả nói được gì. Nói ngon lắm, nhưng rồi không phải thế. NÓI và LÀM là hai việc khác nhau, có một khoảng cách rất gần mà cũng rất xa!
Biết mình không còn bao lâu nữa sẽ xa rời người thân, nên Ngài rất quan tâm: “Anh em có thiếu thốn gì không?” (Lc 22:35). Các ông trả lời “không”. Các ông tưởng sắp có chiến tranh và đổ máu nên cùng nói: “Lạy Chúa, đã có hai thanh gươm đây” (Lc 22:38a). Nhưng Chúa Giêsu bảo họ: “Đủ rồi!” (Lc 22:38b).
Sau đó Ngài đi ra núi Ô-liu như đã quen. Các môn đệ lẽo đẽo theo Ngài. Đến nơi, Ngài bảo: “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22:40). Cầu nguyện là điều cần thiết lắm, thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hành động. Ngài đi xa các ông một quãng, rồi quỳ gối cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc 22:42). Lúc này Ngài lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Chúa Giêsu vừa lo vừa sợ, vừa buồn vừa cô đơn, đến nỗi mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất (Lc 22:44).
Cầu nguyện xong, Ngài quay lại chỗ các môn đệ, nhưng các ông đang ngủ ngon lành. Ngài nói: “Sao anh em lại ngủ? Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22:46). Lần thứ hai Chúa nhắc các ông cầu nguyện, Ngài xác định việc cầu nguyện vô cùng cần thiết, mọi nơi và mọi lúc.
Ngay lúc đó, Giuđa lại gần Đức Giêsu để hôn Ngài, và để chỉ điểm cho bọn thủ ác đến vây bắt Ngài. Chúa Giêsu ôn tồn: “Giuđa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22:48). Lời nói nhẹ mà đau thấm thía. Ngày nay, chúng ta cũng vẫn dùng “dấu tốt” để bán Chúa, để mưu hại tha nhân, để làm những điều phi nhân nghĩa.
Người ta muốn dùng gươm giáo để chiến đấu, chính Phêrô đã nhanh như chớp, tuốt gươm chém ngay, nhưng có lẽ ông run tay nên chỉ đứt tai một tên lính chứ nếu ngon lành thì ông cho nó đầu lìa khỏi cổ rồi. Phêrô còn nhát tay lắm! Thấy vậy, Đức Giêsu lên tiếng: “Thôi, ngừng lại” (Lc 22:51). Và Ngài gắn lại liền tai cho khổ chủ. Phép lạ nhãn tiền thế mà bọn thủ ác vẫn lì lợm, vẫn cứng lòng, vẫn cố chấp!
Chúa Giêsu bị chúng dẫn đi, khi đi ngang qua Phêrô, Ngài nhìn ông với ánh mắt sâu thẳm, vừa buồn trách vừa xót thương, ông giật mình vì ông vừa chối Thầy đúng như lời Thầy nói trước. Tiếng gà gáy xoáy sâu vào lòng ông khiến ông vừa xấu hổ vừa ăn năn, ông chạy ra ngoài và bật khóc, khóc như con trẻ, khóc như chưa bao giờ khóc, tiếng khóc rất thảm thiết (Lc 22:62).
Bọn thủ ác bịt mắt Ngài lại, thốt ra nhiều lời khác xúc phạm đến Ngài, và hành hạ Ngài đủ kiểu, thâu đêm suốt sáng, không chút tiếc xót. Khi trời sáng, mọi người đều nói: “Vậy ông là Con Thiên Chúa sao?” (Lc 22:70a). Ngài thản nhiên: “Đúng như các ông nói, chính tôi đây!” (Lc 22:70b). Họ liền vào hùa: “Chúng ta cần gì lời chứng nữa? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói!” (Lc 22:71).
Sau đó, họ bắt đầu tố cáo Chúa Giêsu đủ thứ, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn, cái gì cũng hóa thành trọng tội, dù là việc làm tốt. Tâm địa kẻ ác là vậy!
Philatô nhát gan vì sợ mất chức quyền, không dám hành động theo lương tâm, rửa tay để chứng tỏ mình chí công vô tư. Ông ta muốn cho đánh đòn Chúa Giêsu rồi thả ra, nhưng dân chúng không chịu, họ đồng thanh la ó: “Giết nó đi, thả Baraba cho chúng tôi!” (Lc 23:18). Baraba đã bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra trong thành, và vì tội giết người. Họ coi Chúa Giêsu không bằng một tên tử tội tàn ác khét tiếng. Thấy dân chúng nhất quyết xin tha Baraba mà giết Chúa Giêsu, Philatô đành chiều theo ý họ. Thật đê tiện!
Con đường từ dinh Philatô tới Đồi Can-vê quanh co, đồi dốc và lởm chởm. Chúa Giêsu phải tự vác Thập giá mà đi, biết bao vất vả, sức yếu dần vì bị đòn roi với đủ nhục hình và còn bị đói khát, Ngài đã ngã xuống 3 lần vì sức nặng của Thập giá. Chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi!
Đến Đồi Sọ, họ đóng đinh Ngài vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Chịu đủ loại nhục hình, từ lời nhục mạ tới hành động đóng đinh, loại tử hình nặng nhất thời đó, và dù đang bị treo trên Thập giá, Đức Giêsu vẫn đại lượng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34). Kể từ xưa tới nay, và đến mãi về sau, chắn chắn không thể có sự tha thứ nào lớn hơn nữa!
Ngay cả tên gian phi cùng bị đóng đinh với Ngài, với chỉ một lời “xin nhớ tới hắn” thôi, thế mà Ngài liền cho hắn đồng hành vào Thiên quốc, và trở thành vị thánh đầu tiên của Tân Ước. Hạnh phúc thay cho Dismas!
Cái chết là kết thúc cuộc sống trần gian, trút hơi thở cuối cùng là ranh giới giữa sự sống và sự chết. Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46). Nói xong, Ngài tắt thở!
Thấy sự việc xảy ra nhãn tiền, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: “Người này đích thực là người công chính!” (Lc 23:47), và toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về (Lc 23:48). Đó là những biểu hiện sám hối, họ còn may mắn và kịp nhận ra tội mình – không trực tiếp thì cũng gián tiếp giết chết người vô tội, làm khổ tha nhân, sát hại Đức Kitô.
Không có nỗi đau khổ nào bằng nỗi khổ của Chúa Giêsu. Được tôn làm vua mà không có ngai vàng, không được đăng quang, thay vào đó lại là nhục hình Thập giá!
Lạy Chúa, chúng con thành tâm sám hối và xin lỗi Chúa, xin thương xót và tha thứ. Xin cảm tạ Chúa Cha đã ban Đấng Cứu Thế cho chúng con. Chúng con thật may mắn và hạnh phúc vì được tận hưởng Lòng Thương Xót vô biên nhờ cái chết của Đức Kitô, dù chính chúng con đã nhẫn tâm trực tiếp hoặc đồng lõa sát hại Con Thiên Chúa. Xin ban Thánh Thần giúp chúng con can đảm sống xứng đáng với Ơn Cứu Độ, kiên trì đi trọn hành trình đau khổ và làm chứng nhân của Lòng Chúa Thương Xót, để chúng con cũng được cùng phục sinh với Chúa Con. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
——————————-
(*) Authority: Its Use and Abuse (Sử Dụng và Lạm Dụng Quyền Bính), sách của LM C.P. Varkey (NXB The Bombay Saint Paul Society, 1999).
30.Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa–Lm. Trầm Phúc
Hôm nay, Giáo Hội đọc lại cho chúng ta cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu theo thánh Luca.
Trong một vài phút ngắn ngủi, chúng ta không thể suy niệm tất cả cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa. Ít ra, chúng ta cũng nên chú ý đến một vài chi tiết để giúp chúng ta kết hợp với “Đấng đã yêu thương chúng ta và đã chết cho chúng ta”.
Và trong suốt Tuần Thánh này,chúng ta hãy can đảm dành một thời gian nào đó để đọc lại, chậm rãi và suy nghĩ sâu hơn về tình yêu của Chúa Giêsu được tỏ hiện một cách rõ ràng trong giai đoạn cực kỳ quan trọng này.
Nếu chúng ta không đủ can đảm đọc lại mấy trang giấy này, thì tình yêu của chúng ta sẽ như thế nào? Chúng ta có thể nói rằng chúng ta yêu mến Chúa được chăng?
Chúa Giêsu đã dám chấp nhận đau khổ đến tuyệt đỉnh vì chúng ta, chúng ta không dám dâng cho Ngài một khoảng thời gian nào đó để tỏ lòng biết ơn và yêu mến Ngài sao?
Thực ra, các thánh sử không muốn tường thuật một cách tỉ mỉ cuộc khổ nạn mà chỉ nói đến những sự kiện đáng chú ý thôi. Chúng ta hãy đào sâu hơn với tất cả sự chú tâm của tình yêu.
Cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu là một mầu nhiệm, vì thế, dù chúng ta có đem hết trí khôn, tâm lực để tìm hiểu, chúng ta cũng chẳng biết được gì. Chúng ta chỉ tìm hiểu bằng con tim thôi.
Trong cuộc khổ nạn, chúng ta có thể nhìn thấy tình yêu của Chúa Giêsu đối với Cha Ngài. Tình yêu đó được thể hiện bằng một sự vâng phục trọn vẹn, dù thân xác Ngài không thể chịu nổi: “Xin đừng theo ý Con mà theo ý Cha”.
Ngài sợ sệt và đau khổ đến nỗi thốt lên những tiếng nói xé lòng như thế. Đây là trung tâm của mầu nhiệm cứu chuộc.
Thánh Phaolô đã ghi lại: “Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên cây thập giá”.
Ngài vâng phục cho đến chết vì đã có một sự bất tuân đem lại sự chết cho nhân loại. Ngài phải đáp lại một cách trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, tình yêu đã bị phản bội trong vườn địa đàng. Thánh Phaolô đã thấy rõ điều đó: “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người đều bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người sẽ được Thiên Chúa cho nên công chính, nghĩa là được sống”.
Sự vâng phục này đòi hỏi Ngài đến mức độ nào? Chúng ta dễ bỏ qua những chi tiết mà chỉ nhớ những gì đập mạnh vào giác quan hay trí tưởng tượng mà thôi.
Ngài cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con, tuy vậy, xin đừng theo ý Con, mà theo ý Cha”.
Chúng ta có thể hiểu được tâm hồn Ngài lúc đó như thế nào không? Ai có thể chịu nổi cơn thủy triều đau khổ đang tràn dâng trong tâm hồn Ngài? Thánh Luca viết: “Lòng xao xuyến bồi hồi, nên Ngài càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Ngài như những giọt máu, nhỏ xuống đất”.
Chúng ta không cần chú ý đến những gì xảy ra trong thân xác, chúng ta hãy nhìn bằng tâm hồn những giọt mồ hôi máu đó.
Đó là tột đỉnh của sức chịu đựng của một con người. Những giọt mồ hôi máu đó là những giọt tình yêu nhỏ xuống trên thế giới tội lụy của con người, trên từng tâm hồn mỗi người chúng ta. Xin hãy dừng lại nơi đây để cảm thông nỗi buồn vô biên của Ngài. Hãy nhìn lại tâm hồn nhơ nhớp của chúng ta. Đứng trước vực thẳm đau khổ này, chúng ta sẽ ngơ ngác, không thể hiểu được. Chúng ta không thể đo được chiều sâu của niềm đau đang nghiền nát tâm hồn Ngài.
Vì không hiểu, chúng ta đâm ra thờ ơ…
Đây chính là tình yêu đích thực. Không có tình yêu nào có thể so sánh với tình yêu này.
Thế nhưng chúng ta vẫn ung dung phạm tội!…
Sự vâng phục tuyệt đối đó dẫn Ngài đi xa hơn, đến đỉnh núi Canvê, ngang qua roi đòn, nhục nhã, đau đớn tột cùng.
“Đóng đinh nó đi!”
Đóng đinh nó vào thập giá!”
Chúng ta có nghe thấy gì không? Một lũ người đầy hận thù sát khí đang đổ cơn giận lên một người vô tội, chỉ vì Ngài vô tội, chỉ vì Ngài là tình yêu.
Hận thù làm sao có thể để cho tình yêu tồn tại?
Chúng ta có ở trong số những người đòi đóng đinh Chúa không? Có lẽ chúng ta không dám nhận mình đòi đóng đinh Chúa, nhưng trong thực tế, chúng ta đã hơn một lần đóng đinh Chúa của mình. Đóng đinh không phải bằng đinh nhọn mà bằng chính sự bạc ơn ngoan cố của chúng ta. Chúng ta dám nhìn nhận sự thật ghê sợ đó không?
Chúa Giêsu trở thành nạn nhân của chúng ta. Ngài bị lôi kéo từ tòa án này đến tòa án khác. Chúng ta trở thành những người lên án Ngài. Ngài mãi mãi là người vô tội trước tòa án của thế gian. Tội của Ngài chính là đã dám sống cho sự thật, dám yêu thương đến tận cùng.
Nếp sống đó là một bằng chứng tố giác sự tàn bạo độc ác của chúng ta.
Chúng ta dễ bàu chữa cho mình và tưởng rằng chúng ta không có tội. Chỉ vì chúng ta không bao giờ biết xét mình, hay chỉ xét mình qua loa, làm sao chúng ta thấy được bộ mặt thật của mình? Làm sao chúng ta biết mình hèn hạ, dã man như thế nào? Chính chúng ta đóng đinh Chúa chúng ta.
Quằn quại trên thập giá, Chúa Giêsu đã như thế nào?
Trong khi thân xác Ngài đau đớn tột độ, Ngài không nghĩ đến bản thân mình, Ngài chỉ nghĩ đến người khác: “Xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Ngài vẫn tỏ ra nhân hậu, bao dung. Trong suốt cuộc tử nạn, chúng ta thấy Ngài chiếu tỏa một sự hiền lành nhân hậu lạ lùng. Ngài “như con chiên bị đem đến lò sát sinh mà không hở môi”. Các môn đệ tranh nhau chỗ đứng, địa vị, Ngài nhẹ nhàng khuyên dạy các ông phục vụ khiêm tốn. Khi quân lính đến bắt Ngài, Ngài chỉ nói một lời bình thản… Phêrô chém đứt tai một tên đầy tớ, Ngài chữa cho anh ấy lành. Phêrô chối Thầy, Thầy chỉ nhìn Phêrô với một cái nhìn đầy yêu thương khiến ông ngậm ngùi đau đớn… Với tên tội phạm trên thập giá, Ngài ban lời tha thứ: “Hôm nay, anh sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Chúng ta hãy chiêm ngắm khuôn mặt nhân từ của Chúa chúng ta để biết yêu thương hơn. Chỉ một điều đáng tiếc là chúng ta không dám nhìn sâu vào khuôn mặt của Ngài…
Đứng trước Chúa Giêsu chịu đóng đinh như thế, chúng ta không thể là đám đông chế nhạo Ngài. Chúng ta không thể ngồi yên khi bao nhiêu đau khổ tràn ngập như thủy triều. Động lòng một vài giây phút thì dễ, ra tay mới thực sự khó. Chúng ta đang bị liên lụy trong cuộc tử nạn của Chúa. Đừng giả điếc làm ngơ khi Chúa chúng ta đang quằn quại trên thập giá và cho đến tận thế, Ngài vẫn còn đau khổ. Ngài đang van xin chúng ta: “Đừng khóc cho Ngài nhưng hãy khóc cho chính chúng ta và con cháu chúng ta”. Cuộc khổ nạn của Chúa chưa chấm dứt. Ngài sẽ bị đóng đinh cho đến tận thế bao lâu chúng ta còn phạm tội, bao lâu chúng ta chưa biết yêu thương. Thế giới của chúng ta hôm nay như một hỏa ngục và Chúa Giêsu đang chìm trong biển tội ác đó. Chúng ta hiểu được điều đó không? Ngài là những tử tội mà người ta đang hành hình, Ngài là tử tội trong những nạn nhân của bạo lực, của dã man. Ngài đang bị chà đạp, bị giết chết, bị bỏ đói trong cái xã hội giàu có và vô tâm của chúng ta.
Nếu chúng ta có quả tim, chúng ta chịu nổi được sao? Chúng ta có thấy không? Có chú ý không? Những nạn nhân đó không xa chúng ta lắm đâu, họ đang sống kề cận chúng ta trong xóm làng chúng ta. Họ đang nhìn về chúng ta với cái nhìn im lặng chịu đựng, không hở môi.
Chúng ta có làm gì cho họ không? Có cho họ được một lời nguyện xin chân thành không? Có thành ông Simon, vác thánh giá giúp họ không? Có thành bà Vêrônica trao cho họ cái khăn để lau những giọt nước mắt máu của họ không? Hay chúng ta cứ dửng dưng ăn nhậu, mua sắm, làm đẹp mái tóc?
Lặng nhìn Chúa Giêsu đau khổ, chúng ta có nhớ lời Chúa nói: “Anh em làm một điều gì cho người anh em nhỏ bé nhất của Ta đây là làm cho chính Ta”. Mức độ yêu thương của chúng ta được đo bằng hành động cụ thể chứ không chỉ bằng tiếng nói.
Hãy nhìn kỹ vào khuôn mặt đau thương của Chúa, Đấng đã bị đâm thâu, chúng ta nghe Chúa hỏi chúng ta: “Đối với chúng con, Thầy là ai?” Hãy nhìn kỹ và trả lời. Chúng ta không thể né tránh.
Nơi bàn thờ hiến tế, chúng ta sẽ nhìn Ngài qua một dấu hiệu, nhưng chính Ngài đó, Đấng đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá, Đấng đã yêu thương chúng ta đến tận cùng. Chúng ta hãy đem Ngài vào trong tận con người chúng ta và yêu mến Ngài hơn và vì yêu mến Ngài, chúng ta yêu thương anh em chúng ta như Ngài.
31.Từ những nghịch lý–AM Trần Bình An
Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu xem chừng tràn ngập những nghịch lý khó hiểu dưới con mắt thế gian. Không riêng gì với những người ngoài Ki tô giáo, mà có thể cả những tín hữu, con chiên của Chúa cũng cảm nhận như thế.
1. Nghịch lý từ quần chúng.
Sau khi tưng bừng hoan hỉ đón chào Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem như vị minh quân đáng kính, tái hiện lại hình ảnh vua Salomon cưỡi con la cái của vua Đavit xuống Ghi khôn (1V 1, 38), dân chúng Israel lại sớm hùa theo các thầy thượng tế, Biệt Phái, quay lưng trở cờ lên án, kết tội Chúa và thậm chí còn quá khích, đòi đóng đinh Người.
Một sự phản bội trắng trợn đầy kịch tính và đau xót vô cùng. Nhớ lại một thuở dân chúng đã từng mê say, háo hức đi theo Chúa, vì thấy Người đầy quyền năng, giảng dạy, chữa bệnh, trừ quỷ, nuôi ăn… Nay Chúa bị bắt, bị tra khảo, đánh đập, bị lăng nhục, thì quần chúng quay ra phỉ nhổ, khinh miệt và tố cáo. Dĩ nhiên họ chịu tác động từ các thầy thượng tế, Biết Phái cùng đồng bọn thù hằn với Đấng Cửu Thế.
Từ nghịch lý này gợi lên tính phù vân của quyền lực và vinh quang nay còn mai mất, chứng tỏ lòng dạ con người dễ thay đổi, bất trung, dễ dàng phản bội, lấy oán báo ân.
Từ nghịch lý này, tưởng chừng như bóng tồi đã che khuất hoàn toàn ánh sáng. Sự ác đã thắng thế trên thế gian. Nhưng làm sao thế gian biết được rằng sự tột cùng của cái ác lại nảy sinh ra Tình Yêu vĩ đại. Đó là chính Chúa Giêsu đã tự nguyện nhập thế, gánh hết tội lỗi, cứu rỗi mọi người, “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32).
2. Nghịch lý từ tình nghĩa thầy trò.
Người môn đệ được giao tay hòm chìa khóa, lại tráo trở, phản phúc, âm mưu, cùng đồng lõa với giới lãnh đạo tôn giáo đã thoái hóa, biến chất, để bán đứng Thầy mình, lấy 30 đồng bạc. Phải chăng Chúa đã lầm lẫn, không biết tuyển chọn kỹ càng các môn đệ, mới để Giuđa Iscariot cùng đồng hành suốt 3 năm?
Còn thêm một môn đệ nữa, cũng được Chúa Giêsu tin cậy, ưu ái, đã chối bỏ Chúa trước mặt đám gia nhân 3 lần trước khi gà gáy 2 lần. Mặc dù ông Phêrô đã được Chúa cảnh báo trước đó không lâu, cũng như ông đã từng thề thốt trung thành với Người. May thay ông còn kịp sám hối, ăn năn trở lại, vì còn tin cậy vào lòng Thương Xót của Chúa.
Từ nghịch lý này chứng minh lòng tham, lòng ham mê của cải vật chất, ham mê hưởng lạc, lòng bất trung, bất nghĩa, có thể xuất hiện ở bất cứ nơi đâu, bất cứ người nào, cho dù phải bán đi, hay gây đổ máu cả người thân, một khi xa lìa Chúa, đánh mất đi mối hiệp thông sâu xa và bền vững.
Từ nghịch lý này, cũng minh chứng cái bản năng sinh tồn còn mạnh mẽ hơn cả tình nghĩa thầy trò. Cái thói tham sống sợ chết có lẽ đã nằm trong gien di truyền của loài thọ tạo. Thế mà Chúa lại dạy: “Ai qúy mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được.” (Ga 12, 25) Người đã hé mở cho thế gian biết đâu là hơn thiệt.
3. Nghịch lý từ công lý thế gian
Từ dinh thầy cả Caipha, sang dinh Hêrôđê, đến dinh tổng trấn Philatô, chẳng có bản án chính thức nào có thể buộc tội Chúa Giêsu. Đến nỗi quan tổng trấn Philatô thấy Người quá oan ức, chẳng có tội tình gì, đã toan tha bổng, nhưng chính cánh quần chúng tự phát cứ một mực đồng thanh la lên, đòi đóng đinh Chúa Giêsu.
Ôi! công lý của thế gian là thế đó, nó uốn cong theo sức mạnh quyền lực và tài lực, nó chỉ răm rắp thỏa mãn cái dã tâm của nhà cầm quyền, hay tập thể lãnh đạo nào đó. Chính nghịch lý này khiến cho con người bao đời luôn luôn đói khát tìm kiếm sự thật và công lý. Điều chỉ có ở Đấng Thiên Sai mà thôi. Chính Chúa Giêsu đã công khai công bố: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Chỉ đến với Người, con người mới nhận được Công lý thật.
Lạy Chúa Giê su, mầu nhiệm cuộc Khổ Nạn còn biết bao điều kỳ diệu, mà con chưa thể khám phá và hiểu thấu đáo. Xin cho con được hiệp thông phần nào, qua những khó nhọc, đau khổ hằng ngày, hầu con được ơn cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria từ bi nhân ái, xin chỉ dạy con ý nghĩa sự đau khổ, cho con sẵn lòng chấp nhận, hầu ăn năn sám hối tội lỗi, lánh xa dịp tội. Biết sống trung thành với Chúa luôn mãi. Amen.
32.Con đường Thập Giá–Lm. Đaminh Trần Quang Hiền
Đối với các Tông Đồ, việc Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giêrusalem để khai mào vương quốc, vương quốc mà các ông hằng mơ tưởng, thế là mộng công hầu khanh tướng của các ông đã thành hiện thực.
Đối với Chúa Giêsu thì đàng sau cái vẻ thành công bên ngoài đó, Người đã nhìn thấy rõ tương lai, là việc Người bị chối bỏ, bị kết án. Hơn thế nữa, việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ đến ngày Người sẽ đến trong vinh quang, là ngày tất cả mọi người sẽ đi vào trong vương quốc Chúa Cha, ngày họ sẽ nhận Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ nhận Người làm Chúa của họ.
Nhưng cuộc rước lá còn nhắc nhở chúng ta về nghịch lý mà những người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem đã phạm phải. Họ cắt nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy Người có tiến vào thành thánh như một vị vua nhưng là để khai trương Nước của Thiên Chúa Cha. Vị vua mà người Do Thái đón đợi là một Đavid mới, một vị vua làm cho họ được thống trị trên các dân tộc. Còn việc Đức Giêsu đến trần thế hoàn toàn khác với niềm mong chờ này của họ.
Cũng vì lẽ đó mà dân chúng đã thay lòng đổi dạ, họ tung hô Chúa Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ lại quay lưng, kết án Ngài. Một Philatô hèn nhác, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ rơi Chúa Giêsu thay vì phải trả lại sự công chính cho Người. Ngay cả các tông đồ là những người thân cận với Chúa Giêsu cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người bằng cái hôn thân tình. Phêrô chối Thầy 3 lần.
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là một trong những môn đệ hay đám đông đang khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình. Tôi cũng có thể là một Philatô vì không dám sống theo sự thật của Tin Mừng, đã bao lần tôi sống trong giả dối, chạy theo quyền lực, tiền bạc, xác thịt để khước từ Thiên Chúa, sợ theo Chúa đòi buộc tôi phải từ bỏ chính mình. Tôi cũng có thể là một Giuđa phản bội lại Thầy mình, một Phêrô chối Thầy, đánh mất giá trị của tình thầy trò, đánh mất giá trị của người môn đệ, làm rạn nứt mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất, tiền bạc, danh vọng. Với một lối sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất tôi đã chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là giá trị tuyệt đối, là ưu tiên trong cuộc sống của tôi nữa.
Bước vào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại thái độ sống là người Kitô hữu của mình, để chớ gì chúng ta biết can đảm sống theo những giá trị của Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên trên những bậc thang giá trị trần thế khác.
Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi mỗi người kitô hữu hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Chúng ta không chỉ theo Chúa khi gặp may mắn, thành công, bình an nhưng dám chấp nhận theo Chúa ngay cả khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại. Bước theo Chúa không phải là con đường hoàn toàn bình an, hạnh phúc, mà là một con đường chọn lựa quyết liệt giữa những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực để đặt Thiên Chúa chính là giá trị tuyệt đối, là hạnh phúc viên mãn của mình.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là đi ngược dòng đời, ngược lại với những trào lưu chạy theo sự dễ dãi, thoải mái, sự giả dối, ích kỉ, hận thù, bạo lực… để dám sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời gọi.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá quả thật là một thách đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đơn độc vì có Chúa cùng vác thập giá với chúng ta. Ngài luôn thấu hiểu, nâng đỡ, đồng hành với chúng ta, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên bước đường đi theo Ngài. Và nếu chúng ta can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, thì chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.
33.Rước Lá: Lc 19,28-40–‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thương Khó đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người.
Bề ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông dân chúng nô nức phất cao cành lá: “Hoan hô Con Vua Đavit” có vẻ là một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn Thương Khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc Thương Khó. Bởi vì Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng, đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ trước mặt Tong trấn Philatô trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: “Đả đảo! Đóng đinh nó vào Thập giá!”
Thưa anh chị em,
Rước lá đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn lắm. Đi theo Chúa giữa lúc Ngài đã bị mọi người bỏ rơi và lên án, điều đó còn khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba mà thôi.
Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buồn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.
Thử hỏi: nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào? Và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng, tôi không dễ gì làm như ông Simon thành Syrênê được đâu. Ông đã vác thập giá đỡ cho Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội quả quyết rằng, tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm tông đồ trốn chạy, hoặc là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ rằng tôi rất yếu đuối, dễ đứng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể, tương tự hành động của Giuđa. Thật vậy, chúng ta không ai vô tội trước cái chết của con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến ngày tận thế.
Anh chị em thân mến,
Trong những ngày thánh nầy, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại chậm rãi cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Hãy bước theo Chúa qua từng chặng đường, từ toà đạo đến toà đời, và hãy ở lại thật lâu trên Núi Sọ. Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Chúa chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta.
Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Cha và với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Vậy chúng ta hãy cảm nếm thật sâu nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng đừng quên nhận ra tình yêu bao dung nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài. Ước gì chúng ta có thể đón nhận những gai góc của cuộc đời với thái độ của Chúa Giêsu. Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
Bài Thương Khó: Lc 22,14-23,56.
ĐÁM ĐÔNG DƯỚI CHÂN THẬP GIÁ
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh “ba thập giá”.
Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét… tác giả như muốn nói rằng: không chừa một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn chuẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt (tác giả của bức tranh).
Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng: chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói rằng, mọi người đều được dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá…
Thưa anh chị em,
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây 2000 năm. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để từ chối trách nhiệm của ông. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.
Tuy nhiên, dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Đức Kitô trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm, bởi vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đau đớn như thế? Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta mà Ngài đã phải treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dầu cách xa 2000 năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính một cái đinh đóng vào thân thể Ngài…
Nhưng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá, nơi Ngài đã bị treo lên trong tủi nhục đau đớn. Nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được án phạt của tội lỗi. Nhìn lên thánh giá của Ngài để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, mà trái lại để cảm nếm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn…
Nhìn lên thập giá Chúa để cảm nếm được ơn tha thứ của Ngài. Như thế, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ hơn đối với người anh em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi để tha thứ nhiều hơn. Càng tha thứ nhiều hơn, chúng ta càng dễ cảm nếm được ơn tha thứ của Chúa hơn.
34.Baraba và Đức Giêsu–‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Văn sĩ Fabran Lagerkvist của Thụy Điển đã đoạt giải Nobel văn chương năm 1966 nhờ quyển tiểu thuyết nổi tiếng có tựa đề là “Baraba”. Baraba là một tên cướp được nhắc đến trong vụ án của Chúa Giêsu. Theo các sách Tin Mừng kể lại: Baraba là một tên cướp khét tiếng đã phạm nhiều tội ác và sa lưới pháp luật. Hằng năm vào những ngày lễ lớn, quan Tổng trấn đại diện cho Đế quốc Rôma tại Palestina có thói quen ân xá cho một tội nhân. Năm đó, Tổng trấn Philatô đã đưa Chúa Giêsu và Baraba ra trước mặt dân chúng và hỏi họ nên tha cho ai. Toàn dân đã la lớn: tha cho Baraba và đóng đinh Chúa Giêsu.
Dựa vào sự kiện lịch sử này, văn sĩ Lagerkvist đã tưởng tượng ra quãng đời còn lại của Baraba. Baraba đã trở nên một con người quyền thế được mọi người biết đến. Baraba có được tất cả, bởi vì chính Chúa Giêsu đã chết thay cho ông. Thế nhưng ông không hề muốn nhắc đến Chúa Giêsu và cũng không muốn biết Ngài là ai.
Lý do khiến văn sĩ Lagerkvist được trao giải Nobel văn chương là vì qua nhân vật Baraba, ông đã họa được chân dung đích thực của con người. Baraba chính là con người được cứu độ nhờ Chúa Giêsu, nhưng vẫn không hiểu lý do tại sao. Con người ngày nay không tin vào Chúa Kitô và nhất là muốn loại bỏ Ngài ra khỏi con người thời đại. Với những tiến bộ vượt bực trong khoa học kỹ thuật, con người chẳng khác nào một thứ Baraba trong tác phẩm của Lagerkvist: con người tưởng mình là Đấng cứu độ của chính mình, con người tưởng mình có thể loại bỏ mọi chiều kích siêu việt của cuộc sống, con người tưởng mình có thể sống mà không cần một Đấng cứu độ nào.
Thưa anh chị em,
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây hai ngàn năm. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài trên thập giá.
Nhưng dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là do chính tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dù cách xa hai ngàn năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính là một cái đinh đóng vào thân thể Chúa Giêsu.
Thử hỏi nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng tôi không dễ gì làm được như ông Simon thành Syrênê đã vác thập giá đỡ Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội vã quả quyết rằng tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm môn đệ trốn chạy, hay là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ ràng tôi rất yếu đuối, dễ dàng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ dàng trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể và khi gặp nghịch cảnh.
Anh chị em thân mến,
Với Chúa Nhật hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thủ đô Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông nô nức phất cao càch lá “Hoan hô con Vua Đavít” có vẻ một cuộc toàn thắngvang dội. Thực ra đây là một cuộc mở màn thương khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc thương khó. Bởi vì chúa biết rõ trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ dội trước mặt Tổng trấn Philatô, trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: “Đả đảo! Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!”
Rước là đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn cho lắm. Đi theo Chuá giữa lúc Ngài được tung hô chúc tụng là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục đi theo Ngài khi Ngài đã bị mọi người bỏ rời và lên án, điều đó khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. nếu kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa kitô thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buốn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.
Trong những ngày thánh này, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại chậm rãi chương 14 và chương 15 của Tin Mừng theo Thánh Marcô. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta bắt gặp một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.
Đừng đọc vội vã, hãy ngừng lại khi Chúa có điều muốn nói với chúng ta, đừng ngắt lời Ngài. Chúng ta có thể thấy mình giống với Giuđa, Phêrô hay Philatô. Chúng ta không ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến tận thế.
Đừng theo Chúa như một người quay vidéo cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Sau khi đã suy niệm lâu dài về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình yêu Thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và trân trọng thánh giá của người khác hơn.
35.Yêu cho đến cùng–Thiên Phúc–‘Như Thầy Đã Yêu’
Tại nhà thờ chính tòa Nuzburg trong miền Baviere, Tây Đức, có một tượng thánh giá nổi tiếng được chạm trổ vào khoảng thế kỷ thứ 14. Hai cánh tay đã rút khỏi lỗ đinh và vòng ra phía trước như ôm một con người.
Tương truyền rằng có một tội nhân hết lòng sám hối ăn năn, xin Chúa thứ tha tội lỗi. Nhưng vì tội ông quá lớn, quá nhiều nên ông vẫn còn nghi ngờ lòng thương xót của Người. Chúa liền đưa tay ra ôm chầm lấy ông trong vòng tay âu yếm để bày tỏ lòng Chúa khoan dung hải hà.
Trong suốt cuộc đời công khai rao giảng, rất nhiều lần, Chúa Giêsu đã bày tỏ tấm lòng yêu thương con người: Người đã thực hiện các phép lạ, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỉ, dạy dỗ dân chúng, âu yếm trẻ thơ, và tha thứ cho tội nhân. Hôm nay, Người quyết định bước vào đoạn cuối của tình yêu, đỉnh cao của dâng hiến. Người quyết định yêu cho đến cùng, bằng cuộc khổ nạn và cái chết đau thương của Người.
Nhưng trước hết, Người phải chịu một cơn cám dỗ cuối cùng. Cơn cám dỗ mà Luca đã báo trước: “Quỉ rút lui để chờ dịp khác”. Dịp ấy hôm nay đã đến. Satan nhập vào Giuđa, để người môn đệ bất trung, tham của này, dùng cái hôn nộp thầy. Satan sàng Phêrô và các môn đệ như sàng gạo để Phêrô thì chối Thầy, còn các ông khác thì bỏ trốn. Vườn Giệtsimani quả thật là nơi giao tranh giữa Chúa Giêsu và quyền lực tối tăm, giữa sự thiện và cái ác. Người dùng phương thế hữu hiệu là cầu nguyện để thắng cám dỗ. Nhưng dường như trong cuộc chiến nội tâm của Người rất căng thẳng, nên Người đã xin Chúa Cha tha cho Người khỏi uống chén này. Người lên cơn xao xuyến bồi hồi đến nỗi mồ hôi như những giọt máu rơi xuống đất.
Thế nhưng, Người vẫn nhân từ thực hiện nghĩa cử yêu thương cuối cùng, trước khi hoàn toàn dâng hiến trên thập giá: Người hiền hòa ra đón Giuđa, và dịu dàng nhắc nhở ông về tình nghĩa thầy trò. Người chữa lành tên đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai. Người quay nhìn Phêrô với ánh mắt tha thứ khi ông chối Thầy. Người an ủi những phụ nữ thương khóc Người. Người xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh Người. Người ban thiên đàng cho tên trộm biết sám hối.
Cuối cùng, Người đã hoàn toàn dâng hiến trên thập giá để cứu chuộc tất cả muôn người. Sinh thời Người đã nói: “Không có tình yêu nào cao quí bằng người hy sinh mạng sống vì bạn hữu”. Người đã yêu thương con người cho đến giọt máu cuối cùng. Thánh Gioan viết: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b).
Lạy Chúa Giêsu, chính vì vâng theo thánh ý Chúa Cha và cũng vì yêu chúng con mà Chúa đã sẵn lòng vác thánh giá, vui chịu mọi khổ đau nhục hình. Xin cho chúng con từ nay cũng biết yêu Chúa hơn yêu bản thân, và yêu Chúa chỉ vì Chúa chứ không mong phần thưởng nào khác.
Xin cho chúng con nhận ra thánh giá của Chúa trong mọi đau khổ của cuộc đời chúng con, và vững bước theo Chúa trên đường thánh giá, miễn là chúng con đang chu toàn thánh ý Chúa. Amen.
36.Vương quốc Tình yêu–Thiên Phúc–‘Như Thầy Đã Yêu’
Ngày 15-4-1996, linh mục George Parker, giám quản xứ thánh Giuse thuộc giáo phận Norwich ở Connecticut Hoa Kỳ, đã trả lại số tiền 5.000 đôla của nghị sĩ Christopher J.Dodd giúp cho trường học của giáo xứ. Cha Parker làm thế để phản đối nghị sĩ Dodd mang danh Công giáo, nhưng lại liên tục bỏ phiếu ủng hộ các dự luật phá thai. Cha Parker gọi số tiền của Dodd là “số tiền vấy máu hài nhi vô tội”. Người không ngần ngại gọi Dodd là “môn đệ của thần chết”.
Việc làm của cha khiến nhiều người cảm kích, dân chúng đã gởi về giúp trường học 61.000 đôla. Nhiều tổ chức bênh vực sự sống, và nhiều cơ quan truyền thông bày tỏ sự ngưỡng mộ ngài.
Trớ trêu thay không một linh mục nào trong giáo phận Norwich bênh vực hành động kiên cường ấy. Không ai dám công khai phê phán việc làm của nghị sĩ Dodd. Đau đớn hơn nữa, chính đức cha Daniel A. Hart vì áp lực của nghị sĩ Dodd đã cho ngài ngưng việc coi xứ. Đến nước này ngài chỉ biết xin về hưu. Đức Cha Hart viết thư cho ngài như sau: “Tôi rất tiếc là cha đã xin về hưu với tâm trạng bị xử bất công. Tôi cầu nguyện cho sự đau khổ này sẽ kết hợp cha với Đức Kitô một cách trọn vẹn hơn, nhờ Người mà cha tìm được niềm vui”.
****
Câu chuyện trên đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ tâm trạng của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Thánh Gioan viết: “Sắp đến lễ Vượt Qua, rất nhiều người đi Giêrusalem… Họ đang tìm Đức Giêsu và hỏi han nhau: “Chắc ông ấy chẳng đến dự lễ đâu!” Còn bọn tư tế và Biệt phái đã ra lệnh: Bất cứ ai biết ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt” (Ga.11,55-57). Vậy Đức Giêsu vào thành Giêrusalem với tâm trạng của một kẻ bị truy nã, một kẻ có tên trong sổ bìa đen.
Nhưng Người vẫn công khai vào thành, không một chút sợ hãi. Người cỡi trên lưng lừa con để thực hiện lời tiên tri Dacaria: “Này Vua ngươi đến, đầy vẻ dịu dàng, cỡi lừa, lừa con của lừa mẹ” (Dcr.9,9). Đức Giêsu muốn chứng tỏ Người là Đấng Mêsia, Vị cứu tinh, Vua hiền từ: Một Vị vua chiến thắng bằng cái chết trên thập giá, khác với chiến thắng bằng vũ lực của các vua trần thế ngồi trên lưng ngựa.
Dân chúng trải áo, lấy lá lót đường, hoan hô chúc tụng Người như một vị vua chiến thắng, Đấng cứu tinh của dân tộc, đuổi lũ quân Rôma ra khỏi vùng Palestina, xô nhào chúng ra biển, tái lập vương quyền vua Đavít. Trái lại, Đức Giêsu đã cưỡi con vật hiền lành, tiến vào Giêrusalem, hành động này đã đi ngược lại quan niệm của họ, nên không lạ gì họ đã hùa theo nhóm Biệt phái, kết án tử hình cho Người chỉ vài ngày sau đó.
Cha Parker đã không chấp nhận thỏa hiệp với thế gian, với tội lỗi. Người đã giữ đúng vai trò tiên tri, chấp nhận lội ngược dòng, cho dù phải chịu khổ đau và bị bỏ rơi để nên giống Thầy Giêsu.
Đức Giêsu không xua quân đi giao chiến với các dân tộc. Nhưng đã qui tụ mọi người chiến đấu với nghèo đói, bất công và thù hận.
Đức Giêsu không đến để kết án và hủy diệt kẻ khác. Nhưng đã thứ tha và băng bó những vết thương tâm hồn.
Đức Giêsu không ngồi trên ngai vàng để dân chúng hầu hạ. Nhưng đã quì xuống rửa chân cho các thần dân.
Đức Giêsu không đến để thiết lập một vương quốc trần gian tạm bợ, Người đến để xây dựng một vương quốc vĩnh hằng, vương quốc tình yêu ngay trong lòng mọi người.
****
Lạy Chúa, người đời đón rước Chúa vào thành Giêrusalem, để rồi lại kết án Chúa ngay trong thành thánh. Xin cho chúng con đừng bao giờ thỏa hiệp với thế gian, nhưng cho chúng con can đảm theo Chúa đến chiều thứ Sáu Tuần Thánh, để được sống lại với Chúa trong đêm Phục Sinh khải hoàn. Amen.
37.Người tôi tớ khổ đau của Giavê–‘Suy Niệm Lời Chúa’–Radio Veritas Asia
Trong một ngôi nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một thập giá cổ được giáo hữu rất tôn sùng. Đó là tượng thập giá tha tội, tượng Chúa Giêsu bị đóng đinh có cánh tay phải rời khỏi thập giá và hạ thấp xuống. Người ta có kể rằng dưới chân cây thánh giá này, có một người tội lỗi đến với cha xứ. Tuy ông xưng thú mọi tội lỗi với lòng thống hối ăn năn, cha giải tội lưỡng lự không biết có nên tha cho ông không, vì thấy ông phạm quá nhiều tội. Sau cùng, cha nghiêm nghị bảo ông: “Tôi ban phép giải tội cho ông nhưng mà trong tương lai thì phải để ý”. Ông ta hứa với cha xứ là sẽ cố gắng sửa mình và tránh mọi tội lỗi. Nhưng vì yếu đuối quá, sau một thời gian ông lại tìm đến xưng tội, Lần này thì cha xứ nói với ông giọng quả quyết: “Tôi ban phép giải tội cho ông lần này nữa là lần cuối cùng đó nghe”. Vài tháng trôi qua, ông lại tìm đến cha xứ và quỳ xuống chân cha năn nỉ: “Thưa cha, con thống hối đến tận đáy tâm lòng. Lần nào con cãng nhất quyết giữ lời hứa, nhưng con yếu đuối quá, xin cha tha tội cho con một lần nữa”. Cha xứ đáp: “Đâu có thể đùa giỡn với Chúa được. Tôi không ban phép giải tội cho ông nữa”. Khi đó cha nghe có tiếng nấc nghẹn ngào. Từ trên thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu hạ xuống làm phép tha tội trên đầu người tín hữu thống hối. Rồi Chúa Giêsu nói với vị linh mục: “Chính Cha đã đổ máu ra để cứu chuộc ông ấy chứ không phải con”. Và cũng từ ngày ấy, bàn tay của Chúa Giêsu chịu đóng đinh ở trong tư thế ban phép xá giải.
“Chính Cha đã đổ máu ra để cứu chuộc con”. Lời ấy chính Chúa Giêsu đã nói với mỗi người trong chúng ta trong Tuần Thánh, với biến cố Chúa Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem, để sau đó vài ngày chịu đóng đinh và chết trên thập giá, hầu trao ban sự sống mới cho chúng ta.
Chương 50,4-7, sách ngôn sứ Isaia là một trong bốn bài ca miêu tả người tôi tớ của Giavê Thiên Chúa. Trong tuyền thống Kitô, người tôi tớ Giavê là danh hiệu ám chỉ người hiến hoàn toàn cuộc sống mình để phụng sự Thiên Chúa và Lời Ngài, luôn kiếm tìm thi hành ý của Thiên Chúa cho dù có phải chịu đau khổ và bắt bớ đi nữa. Do đó trong lịch sử chú giải Kinh Thánh, khi thì người tôi tớ đó được đồng hóa với ngôn sứ Isaia, khi thì là Giêrêmia, khi khác nữa lại là Đấng Cứu Thế toàn dân Israel. Tuy nhiên, các chương sách Isaia II, tức các chương từ 40-55, đề cập đến cảnh sống lưu đày bên Babylon của dân Israel, do đó có thể bài ca này ám chỉ cách sống đày ải khổ đau của dân Do Thái. Để miêu tả cảnh khổ đau này, bài ca trên đây dùng kiểu nói diễn tả nỗi khổ nhục thê thảm của kiếp sống lưu đày: Đưa lưng cho người ta đánh đòn, ám chỉ hình phạt dành cho người ngu dại bị coi như đồng hạng với thú vật; giơ má cho người ta vặt râu, ám chỉ đến danh dự và lột mất phẩm giá của một người; chường mặt cho người ta phỉ nhổ, ám chỉ mọi hành động xúc phạm và khinh rẻ phẩm giá của một người cũng như sự sống của một người. Tất cả cảnh sống trên đây diễn tả cảnh sống nhục nhã, bị khinh miệt và khổ đau dân Do Thái phải chịu trong thời lưu đày.
Tuy nhiên trong tình trạng sống buồn thương ấy, dân Do Thái vẫn ý thức được sự can thiệp của Thiên Chúa. Bởi vì thực ra, chỉ có Thiên Chúa là có thể biến đổi được tình trạng sống khổ đau ấy trở thành suối nguồn trao ban ơn cứu độ cho họ. Qua đau khổ, Thiên Chúa giáo dục cho con người biết sống thái độ sẵn sàng đón nhận thánh ý Ngài. Khi chấp nhận sống lưu đày, dân Israel chấp nhận tự thanh tẩy chính mình khỏi mọi bất trung và tội lỗi đã sai phạm. Họ cảm nghiệm được sâu xa hơn Thiên Chúa là Đấng hướng dẫn và dùng mọi biến cố lịch sử để làm ích lợi cho con người.
Trong thời Tân Ước, người tôi tớ khổ đau ấy là hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế chịu khổ nạn và đóng đinh. Thánh Giá xem ra là dấu chỉ của ơn cứu độ và ơn thánh Ngài ban cho con người. Khi tuyệt đối trung thành với thánh gia, chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha, đến sẵn sàng chấp nhận khổ đau và cái chết khổ nhục trên thánh giá. Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết ý nghĩa và giá trị cứu độ của khổ đau.
Trong chương 2,6-11 thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô dùng tước hiệu người tôi tớ ấy để nói về Chúa Kitô. Khi nhập thể làm người, Chúa Kitô đã đi ngược lại lộ trình mà Ađam đã đi xưa kia. Nếu Ađam là hình ảnh diễn tả toàn nhân loại đã từ chối địa vị thụ tạo của mình và muốn trở thành Thiên Chúa, nên phá hủy chương trình Thiên Chúa có đối với loài người trong thời tạo dựng. Thì giờ đây, từ địa vị Thiên Chúa, Đức Giêsu hạ mình làm người, chấp nhận khổ nhục y như một tên nô lệ, một người tôi tớ để trao ban cho loài người cuộc sống hạnh phúc thần thiêng. Con đường Thiên Chúa đi là đại lộ kinh hoàng, là con đường của khổ đau và thập giá, là con đường của khiêm hạ và thất bại. Nhưng nó là con lộ duy nhất dẫn đến ơn cứu độ.
Thật vậy, thánh giá khổ nhục và khiêm hạ đánh đổ được kiêu căng tội lỗi đã khiến con người xa rời Thiên Chúa và đánh mất đi cuộc sống hạnh phúc của mình. Nhưng con đường khiêm hạ được Thiên Chúa can thiệp và đảm bảo với biến cố Phục sinh. Thiên Chúa đã đặt để Chúa Kitô, Ađam mới trong chốn vinh quang, trong nơi danh dự mà Ađam loài người xưa kia đã không đạt tới được. Nội dung con đường trao ban ơn cứu độ ấy được ghi lại trong trình thuật của bốn Phúc Âm, nó là phần nòng cốt được biên soạn ra trước tiên và sau này được các thánh sử khai triển theo hướng thần học riêng của mình.
Trong chương 22,14-23,56 thánh Luca trình bày cuộc khổ nạn như một trận chiến quyết liệt cuối cùng của Satan, như là phần kết thúc các cám dỗ nó đã khởi sự trước khi Chúa Giêsu công khai loan báo Tin Mừng Nước Trời. Kết thúc trình thuật ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc, thánh Luca viết trong chương 4,13: “ma quỷ rời bỏ Ngài để trở lại vào thời điểm đã định”. Cuộc khổ nạn là thời điểm Satan trở lại để lại vào giao đấu với Chúa Giêsu lần cuối cùng. Ngoài ra, trong nhãn quan thần học của thánh sử Luca, cuộc khổ nạn cũng ghi lại chặng cuối cùng, đồng thời là đạt đỉnh con đường loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu khởi đầu từ Galilê và kết thúc tại Giêrusalem.
Cuộc khổ nạn cũng là lúc diễn tả rõ rệt nhất các nét đặc thù trong gương mặt của Chúa Giêsu. Theo thánh sử Luca, trước hết là tinh thần cầu nguyện. Chúa Giêsu đã gia tăng lời cầu nguyện trong những ngày và những giây phút cuối đời của Ngài. Lời cầu hấp hối kéo dài trong vườn cây Dầu trước khi Chúa Giêsu bị bắt là chứng tích rõ ràng nhất. Càng phải đương đầu với thử thách bắt bớ và khổ đau, Chúa Giêsu càng tín thác tha thiết kết hợp với Thiên Chúa Cha cho dù Ngài có cảm tưởng Thiên Chúa làm thinh và cũng đã bỏ rơi Ngài.
Tiếp đến là lòng nhân từ thương xót của Chúa Giêsu Kitô đối với những người tội lỗi. Chúa Giêsu thương chữa tên đầy tớ thầy thượng phẩm bị chém đứt tai. Nhân từ thương xót với thánh Phêrô đã chối Ngài ba lần, Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô nhân từ, thương xót. Đối với những người đã đóng đinh Ngài: “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Nhân từ thương xót với người ăn trộm bị xử cùng lúc với Ngài: “Hôm nay ngươi sẽ ở cùng Ta trên Thiên Đàng”.
Sau cùng thánh sử Luca nêu bật thái độ vâng lời triệt để của Chúa Giêsu đối với thánh ý của Thiên Chúa Cha. Theo thánh sử, cuộc tử nạn của Chúa Giêsu không do con người muốn, mà nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha. Thánh Luca chỉ qui tội cho giới lãnh đạo Do Thái mà thôi, ngay cả quan tổng trấn Philatô cũng được thánh sử châm chước. Nghĩa là theo quan điểm thần học, Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục chương trình cứu độ do Thiên Chúa Cha hoạch định, do đó cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá là điểm tới thành toàn. Chúa Giêsu phải chết không phải do một định mệnh dã man và khắt khe, cũng không phải do quyết định của một người trần gian nào khác, vì Ngài muốn tuân hành thánh ý và chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha. Chương trình cứu độ ấy được thành toàn trên thập giá và qua cái chết hiến dâng đền tội của Chúa Giêsu Kitô, người tôi tớ khổ đau của Giavê Thiên Chúa.
38.Vui lòng vâng phục thánh ý Chúa–‘Suy Niệm Lời Chúa’–Radio Veritas Asia
Với Lễ Lá hôm nay, chúng ta bắt đầu tuần lễ quan trọng nhất của Năm Phụng Vụ gọi là Tuần Thánh. Trong Tuần Thánh, chúng ta cử hành cuộc khổ nạn, sự chết và nhất là sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Dầu cho với cái nhìn chính trị, xã hội của con mắt người đời, việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua, là một việc có tính cách gây rối chính trị, vì đế quốc Rôma đang cai trị và Hêrôđê đang làm vua. Nhưng Chúa Giêsu, Người biết rõ việc Người làm. Trước mặt Philatô, Người tuyên bố rõ ràng: “Tôi là Vua nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này”.
Vậy Phụng vụ Lễ Lá có thể gợi lên cho chúng ta ba ý nghĩa. Trước tiên Chúa nhật lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem long trọng của Chúa Giêsu trước khi Người chịu khổ hình và chết. Biến cố đó cho chúng ta thấy Chúa Giêsu biết rằng giờ của Người đã đến, biết rằng Người phải làm gì và Người đã tự nguyện bước vào cái chết sinh ơn cứu độ, như hạt lúa miến đã chết đi để sinh sự sống mới. Người tự hiến mình để chu toàn thánh ý của Chúa Cha. Vì thế trước đó nhiều lần, những người Do Thái chống đối lập mưu để giết Người, như ném đá Người hoặc xô Người xuống vực thẳm, nhưng họ không làm được việc gì, vì giờ của Người chưa đến. Và cũng đã nhiều lần dân chúng hợp lại định tôn phong Người lên làm vua, nhưng Người đã lẫn trốn sang nơi khác cũng chỉ vì giờ của Người chưa đến.
Ý hướng thứ hai của lễ Lá là ngày lễ để tôn kính Chúa Kitô là Vua. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế của Người, Chúa Giêsu đồng ý để cho dân chúng tung hô vạn tuế Người là Vua: “Hoan hô chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời”. Người vào Giêrusalem, thành của vua cả trong phong cách đế vương, và chính vì phong cách đế vương này mà Người đã bị kết án tử hình. Bản án của Người được viết bằng ba thứ tiếng, Do Thái, La Tinh và Hy Lạp, “Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái”. Vì thế, dầu cho Người bị kết án tử hình bằng một hình khổ dã man và nhục nhã, đóng đinh chân tay căng thây trần truồng trên thập giá, nhưng các sách Phúc Âm đều ghi đậm nét vẻ vương giả của Người để khai mào một vương quốc mới. Vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc của yêu thương và an bình như Người đã nói trước mặt Philatô: “Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi”. Vậy Chúa nhật lễ Lá cho chúng ta một cơ hội nữa để tuyên xưng niềm tin của chúng ta vào Vua các vua, Vua cả trời đất, nhất là Vua của mọi cõi lòng.
Với ý nghĩa thứ ba, Chúa nhật lễ Lá nhắc cho chúng ta biết sống trên đời là đối đầu với đau khổ, vì lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Người trên đồi Canvê. Khi chấp nhận bằng lòng vác thập giá mình mà theo chân Chúa Giêsu, đó là chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Người, noi gương Người để vác thập giá, nhưng điều quan trọng là không phải vác đi trong than khóc mà trong hy vọng. Vì với Chúa Giêsu, đau khổ và chết chóc không dồn con người vào ngõ bí, mà là dẫn đưa đến vinh quang của ngày sống lại.
Hôm nay trong cái nghịch lý của Lễ Lá, vị Vua của chúng ta tiến lên, vị Vua đã bênh vực nhân vị của con người, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác như tinh thần của những ai đến cùng Người. Vị Vua đó đã thu, đã hút tất cả những đau khổ của thể xác và tinh thần của con người vào chính bản thân mình, để chết đi một lần cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào chốn trường sinh. Đó là niềm hy vọng của chúng ta.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ tìm cách tế nhị giúp cho một người đang gặp khó khăn vật chất hoặc đau buồn tinh thần, để họ lấy lại được niềm hy vọng. Và noi gương Chúa Giêsu nơi vườn cây Dầu, khi Người cầu nguyện: “Lạy Cha nếu có thể được, xin cất chén đắng này xa Con, nhưng xin đừng theo ý Con một theo ý Cha mà thôi”, chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta biết vui lòng vâng phục thánh ý Chúa, dầu lắm khi chúng ta không hiểu được tại sao.
39.Vác thập giá với Chúa Giêsu–Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Có người cho rằng: “Vác thập giá đền tội cho loài người là việc của Chúa Giêsu, chẳng liên hệ gì đến tôi. Tôi chẳng liên quan gì đến chuyện này. Chỉ mình Chúa vác thập giá đền tội cho loài người là đủ.”
Thực ra, việc chịu khổ nạn và vác thập giá đền tội cho muôn người là việc của toàn Thân mình Chúa Giêsu, tức là của toàn thể Hội thánh, chứ không phải là việc riêng của Đầu là Chúa Giêsu.
Từ ngày lãnh bí tích Thánh tẩy, chúng ta được tháp nhập vào thân mình Chúa Giêsu, trở nên chi thể của Chúa Giêsu, cụ thể là trở nên bàn tay, trở nên vai của Ngài…
Vì đã trở nên tay của Chúa Giêsu, chúng ta cùng chịu đóng đinh với Ngài; vì trở nên vai của Chúa Giêsu, chúng ta cùng vác thánh giá với Ngài…
Đây là một điều kiện phải có để làm môn đệ Chúa Giêsu như lời Ngài phán: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24) và “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,27).
Những ai vác thập giá với Chúa Giêsu thì sẽ được chung hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa Giêsu, như lời thánh Phao-lô dạy: “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng sống với Ngài…” (2Tm 2, 11).
Vác thập giá thế nào?
Cách thứ nhất là tham dự Thánh lễ, kết hiệp với Chúa Giêsu, dâng cuộc đời chúng ta làm lễ tế cùng với Mình Máu thánh Chúa Giêsu, để tôn vinh Thiên Chúa Cha.
Cách thông thường hơn là kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu như tay kết hợp với thân mình, để cho Chúa Giêsu sống trong chúng ta, làm việc trong chúng ta như lời thánh Phao-lô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là Chúa Giêsu đang sống trong tôi” (Gal 2,20) mà làm việc bổn phận hằng ngày.
Cụ thể là mỗi khi làm việc gì, ta nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, xin Chúa làm việc với con.”
Và ban tối, trước khi đi ngủ, ta nguyện với Chúa: “Con xin dâng mọi việc con làm cho Chúa.”
Như vậy, những công việc ta làm hằng ngày “sẽ trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa” như lời thánh Công đồng Vatican II dạy:
“Người giáo dân… được mời gọi và được ban ơn cách lạ lùng để Thánh Thần sinh hoa trái nơi họ ngày càng phong phú hơn. Thực vậy, mọi hoạt động của họ như kinh nguyện và công việc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công ăn việc làm thường ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần… tất cả những việc đó đều trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô…” [1]
Nhờ đó, ngày làm việc của ta trở thành ngày vác thập giá; những việc tầm thường ta làm hằng ngày trở thành việc đạo đức, “trở thành của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa”, mang lại nhiều ơn phúc cho ta và cho muôn người.
————————
[1] Hiến Chế tín lý về Giáo hội, chương IV số 34
40.Giờ chiến thắng vinh quang–Lm Ignatio Trần Ngà
Đức Giêsu gọi giờ tử nạn là giờ Ngài được tôn vinh, được vinh quang.
Vinh quang ở đâu mà chỉ thấy bị bắt bớ, xét xử, bị vu cáo đủ điều, rồi bị kết án, bị đòn vọt, đinh sắt, lưỡi đồng, gai nhọn và cuối cùng là cái chết thảm thương trên thập giá.
Nhìn lên thập giá, người ta chỉ thấy ô nhục và đau thương, thất bại cay đắng! Vậy vinh quang của Chúa Giêsu ở đâu? Vì sao Ngài gọi đây là giờ Ngài được tôn vinh? Nghe có vẻ ngược đời.
Đối với người không suy xét, thì cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại, một thất bại rất chua chát đắng cay; nhưng suy cho kỹ, cái chết đó là một chiến thắng oanh liệt vô cùng.
Đây là chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung vô bờ bến. Đối diện với cuộc kết án bất công, đối diện với đám đông cuồng nộ đòi đóng đinh Ngài, đứng trước những vị lãnh đạo tôn giáo muốn diệt mình cho bằng được, đứng trước những kẻ chế giễu nhạo cười với bao lời thách thức, đứng trước đội quân hành quyết hung dữ bạo tàn… Chúa Giêsu vẫn không mảy may oán hận! Ngài chiến thắng sự hận thù lẽ ra phải có bằng lòng bao dung vô bờ bến. Ngài nhìn họ với ánh mắt đầy thương xót, vẫn yêu thương họ bằng trái tim nhân hậu… Rồi Ngài sợ Chúa Cha đánh phạt họ vì tội lỗi ngất trời của họ, nên trước khi nhắm mắt tắt hơi, Ngài tha thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ và kết án tử cho Ngài. “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”.
Đây là sự chiến thắng tính khiếp nhược, chiến thắng lòng tham sinh uý tử bằng một sự dũng cảm rất cao cường. Là người ai không sợ chết. Chính Chúa Giêsu cũng đã trải qua những giờ phút kinh hoàng trước viễn ảnh cái chết đau thương sắp đến khi cầu nguyện trong vườn Dầu, thế nhưng Ngài không bị khuất phục bởi cái chết. Ngài đã đứng dậy để dũng cảm đương đầu với nó. Ngài đã chấp nhận chết cách can trường và đã huỷ diệt sự chết để hồi sinh.
Đây là chiến thắng trên sự đau đớn thể xác và đau khổ trong tinh thần. Là người ai cũng sợ khổ, sợ đau. Ai cũng tìm cách lánh thoát khổ đau. Nhưng Chúa Giêsu đã đón nhận những cực hình đau thương khủng khiếp một cách can đảm phi thường. Qua thập giá, Ngài đã hoàn toàn chiến thắng nỗi sợ hãi đau đớn của kiếp người.
Qua cách thức Ngài đương đầu với cuộc khổ nạn, ta thấy không một thách thức nào làm cho Ngài nao núng; không một đau khổ nào làm cho Ngài khiếp sợ; không một sỉ nhục nào làm cho Ngài nổi giận hay mất bình an; không một khó khăn nào làm cho Ngài lùi bước… Cả cái chết cũng không làm Ngài khiếp sợ mà thoái thác sứ mạng Chúa Cha trao cho Ngài. Ngài thắng được bản năng tham sinh úy tử; Ngài chiến thắng bản năng sợ khổ, sợ khó, sợ đớn đau; Ngài thắng được bản năng muốn được an toàn, muốn được sung sướng hạnh phúc; Ngài thắng được lòng thù hận lẽ ra phải có khi người ta bị sỉ nhục và đối xử tàn ác và rất dã man… Trong cuộc khổ nạn của mình, Đức Giêsu chiến thắng hoàn toàn bản thân mình, vượt qua mọi thách thức từ mọi phía để hoàn thành mỹ mãn sứ mạng Chúa Cha đã trao ban.
Chiến thắng cả thiên hạ không bằng chiến thắng chính bản thân mình. Chúa Giêsu đã thực sự chiến thắng bản thân mình, hoàn toàn làm chủ con người mình, bắt thân xác phải vâng phục tinh thần như chiên ngoan. Đó là chiến thắng vĩ đại nhất không còn chiến thắng nào lớn lao hơn.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Ngài vô cùng dũng cảm và hùng mạnh nên đã chiến thắng tử thần và đẩy lùi mọi cuộc tấn công của nó, xin nâng đỡ chúng con là những kẻ yếu hèn bạc nhược, đừng để chúng con chào thua trước tội lỗi cách dễ dàng mà phản bội lại tình yêu cao vời của Chúa.
41.Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, hôm xưa và hôm nay–Lm. Ignatiô Trần Ngà
Qua bài thương khó năm nay, thánh Luca thuật lại cho chúng ta vô vàn đau khổ mà Đức Giêsu Kitô phải chịu vì tội lỗi chúng ta. Người ta đua nhau lên án Chúa Giêsu, xô đẩy Người vào chỗ chết.
Trước hết, “các thượng tế và kinh sư tìm cách thủ tiêu Chúa Giêsu” (Lc 22,2).
Biết trước những khổ đau hết sức khủng khiếp sắp giáng xuống trên mình, Chúa Giêsu “lâm cơn xao xuyến bồi hồi”, Người cầu nguyện khẩn thiết với Chúa Cha. Người kinh hoàng đến nỗi “mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22,44).
Dù vậy, cả ba môn đệ thân tín được Chúa Giêsu đem theo Người vào vườn Dầu vẫn say ngủ li bì, không màng gì đến nỗi thống khổ Thầy mình đang chịu (Lc 22,45).
Kế đó, Giu-đa dẫn đầu một đám đông mang gươm giáo gậy gộc đến bắt Chúa Giêsu như bắt một tên gian ác (Lc 22,47). Các môn đệ còn lại bỏ trốn. Sau đó, PHÊRÔ theo Người xa xa nhưng rồi cũng đã chối bỏ Chúa đến ba lần. (Lc 22, 57. 58. 59). “Những kẻ canh giữ Đức Giêsu thì nhạo báng đánh đập Người” (Lc 22, 63). Còn “các thượng tế và kinh sư thì tố cáo Người dữ dội” (Lc 23, 10).
“Cả vua Hê-rô-đê cũng như thị vệ đều khinh dể Người ra mặt nên khoác cho Người một chiếc áo rực rỡ mà chế giễu” (Lc 23, 11).
Về phần mình, Phi-la-tô muốn tha cho Chúa Giêsu, nhưng dân chúng lại đòi: “Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi!”
Khi Phi-la-tô tỏ ý muốn tha Chúa Giêsu lần thứ hai, thì dân chúng “cứ một mực la lớn: “Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập giá!
“Lần thứ ba, ông Phi-la-tô biện minh rằng Chúa Giêsu không làm gì nên tội đáng phải chết, thì “họ cứ la to hơn, nhất định đòi phải đóng đinh Người. Và tiếng la càng thêm dữ dội” (Lc 23, 20-23).
Thế là rốt cuộc, ông Phi-la-tô phải trao Chúa Giêsu cho họ. Họ bắt Người vác thập giá đến pháp trường.
Rồi khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái” (Lc 23, 33)
Các thủ lãnh, cả lính tráng cũng cười nhạo Người. Ngay cả một trong hai tên gian phi cùng chịu án thập giá với Chúa Giêsu cũng nhục mạ Người dù Người đang bị treo thân trên thập giá. (Lc 23,39)
Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục chịu khổ hình
Trước muôn vàn đau thương Chúa Giêsu phải chịu; trước bao lăng nhục, nhạo cười, phỉ nhổ trút lên Chúa Giêsu, những người con cái Chúa có đem lại cho Người một chút an ủi nào chăng hay đang đồng lõa với đám dân vô ơn để lăng nhục Người?
Biết bao lần con cái Chúa đã vô tình hùa theo quân nhạo báng để phỉ nhổ Chúa Giêsu khi gây ra những điều tai tiếng khiến cho khuôn mặt của Giáo Hội và Chúa Giêsu bị lem luốc thảm hại.
Biết bao lần con cái Chúa đã quất những lằn roi xé thịt vào thân mình Chúa khi họ gây ra đau khổ hay thương tích cho người khác.
Biết bao lần con cái Chúa đã thọc sâu lưỡi đòng vào tim Chúa khi chạy theo xa hoa, lạc thú mà bỏ rơi bao người cùng khổ quanh mình.
Lạy Chúa Giêsu,
Khổ nạn Chúa chịu hôm xưa chắc chắn ít nhức nhối đau thương như khổ nạn mà Chúa đang chịu hiện nay.
Nỗi đau của Chúa càng tăng thêm vạn lần hơn khi chính con cái trong nhà lại trở thành những tên đao phủ, những người hành hình Chúa cách tàn bạo bằng vô vàn tội lỗi dưới mọi hình thức của mình.
Biết đến bao giờ chúng con mới cảm thương những đớn đau Chúa chịu do tội chúng con gây ra và biết rằng đã đến lúc phải dừng tay lại, đừng tiếp tục hành hình Chúa nữa?
42.Tôi không bán Chúa–PM. Cao Huy Hoàng
Cho đến hôm nay, vẫn còn nhiều người tự cho mình là vô can trong vụ án Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thập tự giá. Trong số đó, có thể có tôi, có bạn, những người vẫn xưng mình là Kitô hữu, hoặc hơn thế nữa, những người vẫn đang nhiệt tình tổ chức hoành tráng, cờ hoa rực rỡ, đón rước linh đình, tung hô vang dội và kêu gọi mọi người hãy cất tiếng: “Hoan hô con Vua Đavit. Chúc tụng Vua Israel, Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời”.
Hai mặt thiện ác trong mỗi con người tưởng như là luôn lẩn tránh nhau, đối nghịch nhau, thì lại song hành cách đồng thuận trong tâm hồn khi con người bị thần dữ thống trị. Thần dữ Satan có phép biến những gì mà một người cho là chân lý, thành công cụ phục vụ cho mưu đồ gian ác của chúng, khi người ấy nhận tất cả về mình những gì mình có: học thức, hiểu biết, tài năng, và nhất là đức tin. Đó là trường hợp của những luật sĩ, biệt phái, kinh sư… Họ vẫn nghĩ rằng đức tin của họ là do sự hiểu biết siêu phàm hoặc do tài năng mà họ có được. Đối với họ, đức tin của họ không được soi dẫn bởi Thánh Thần, mà là bởi cái tôi chủ quan và mù quáng của họ. Bởi vậy, họ không thể chấp nhận một Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đến cứu chuộc trần gian, khi hiểu biết của họ vẫn chưa chịu nhường chỗ cho sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Họ dựa theo suy luận thấp bé mà cứ tưởng cao siêu của họ để định dạng, định hình một Đấng Cứu Thế có thể thỏa mãn những nhu cầu của họ. Vì thế, có thể hôm nay họ hoan hô Chúa Giêsu, nhưng ngày mai họ đả đảo dẫn tới cái chết của Con Thiên chúa.
Có thể chúng ta đã lên án họ, rằng chính họ chủ mưu trong vụ án Đức Giê-su vô tội bị lãnh án tử hình nhục nhã nhất lịch sử nhân loại. Còn chúng ta, nghĩ rằng mình vô can sao? Trong khi, mỗi chúng ta, có thể còn kinh khủng hơn họ nữa: nếu họ “hôm qua hoan hô ngày nay đả đảo”, thì hãy coi chừng mỗi chúng ta, vừa hoan hô vừa đả đảo, hoặc hoan hô theo cách đả đảo ngay chính trong cách thể hiện niềm tin của mình.
Quả thật, chúng ta đã từng có suy nghĩ rằng: tôi không tố cáo kết án Chúa Giêsu, tôi không bán Chúa Giêsu, không nộp Ngài cho thế quyền, không đánh đập Ngài, không sỉ nhục ngài, không đội mão gai cho Ngài, không quất vào ngài khi Ngài té ngã, không đóng đinh Ngài… Chính người Do Thái đã làm tất cả những điều tệ hại ấy, và ấy là chuyện đã rồi của hai ngàn năm trước. Chúng tôi vô can. Nếu nghĩ như thế, thì việc cùng đoàn người rước Chúa Giê-su vào thành thánh cách long trọng với lời tung hô vạn tuế hôm nay, và việc nghe lại trang thương khó đẫm máu của Chúa Giêsu, sẽ không mang lại ý nghĩa, lợi ích gì cho đời sống đức tin của chúng ta cả.
Phụng Vụ dẫn chúng ta vào tuần thương khó của Đức Giê-su, để chúng ta có cơ hội hiểu rằng: không phải Đức Giê-su đi đường thương khó hai ngàn năm trước mà Ngài còn đang đi đường thương khó ngay hôm nay, ngay lúc nầy….
Bao lâu tôi không chịu thương khó, thì bấy lâu, Chúa Giê-su còn phải chịu thương khó vì phần rỗi của tôi.
Bao lâu tôi còn sống trong vũng lầy tội lỗi, thì bấy lâu, Chúa Giê-su còn có lý do để tiếp tục vác Thánh Giá lên Calvê và chịu chết.
Bao lâu tôi còn vô tâm không màng đến hay bất cần đến cái chết của Đấng Vô Tội, thì bấy lâu, tiếng kêu tha thiết của Chúa Giêsu từ thánh giá vẫn còn vang lên và vọng xa cho tới tân cõi lòng mình: “Ta khát”. Tôi, bạn, cả chúng ta, không thể là những người đứng ngoài cuộc trong vụ án Thập Tự Giá nầy.
Vì thế, không thể nghĩ rằng: tôi không tố cáo Chúa Giêsu, tôi chỉ bất bình với những lời dạy nghe chói tai, những yêu cầu từ bỏ nghe có vẻ bất thường làm đảo lộn cuộc sống trần gian đang đầy thú vị của tôi. Hoặc, tôi là Ki-tô hữu mà, tôi không hề tố cáo Chúa Giêsu, chỉ là tôi chưa sống đúng như Lời Ngài dạy, vì đời còn dài, có vội chi mà phải nhốt mình trong cái khung chờ chết. Nhớ vào dịp Tết, có người nhận được lộc xuân, anh ta mở ra đọc: “Của Cesar trả cho Cesar. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Anh ta đưa cho ông hội đồng đọc và hỏi: “Nói gì thế?”. Ông hội đồng giải thích: “Chúa bảo đừng có tham lam của thế gian, lo trở về với Chúa”. Anh ta lẩm nhẩm: “Thời buổi nầy, không tham sao sống nổi. Chúng nó hối lộ tham nhũng nhan nhản đầy dẫy kia, ai làm gì được chúng nó”. Ra đến chỗ giữ xe, anh ta vò nát lộc xuân, vất xuống đất, thản nhiên về. Không phải là chúng ta đang tố cáo Chúa Giêsu nói và dạy những điều sai trái đấy sao?
Cũng không thể nghĩ rằng: tôi không bán Chúa Giêsu ba mươi đồng bạc, tôi chỉ đem thời gian, tài năng, tiền bạc và sức lực của tôi để đổi lấy cho tôi một cuộc sống thoải mái theo bản năng con người, hoặc thiết thực hơn, tôi chỉ ham theo cho hết cuốn phim tình cảm hay, hay đã lỡ hẹn với bạn bè, mà không thể đến nhà thờ dâng lễ, rồi thành thói quen, bỏ cả lễ, quên cả Chúa. Ngày nào, Giáo xứ chưa có linh mục, chưa có nhà thờ, ai nấy khát khao mong mỏi… đến lúc có cha ngon lành, có nhà thờ to lớn xinh đẹp rồi, thì việc của cha là sáng chiều làm lễ, việc của giáo dân là sáng ngủ cho đã giấc, chiều xem phim, hát karaoke, nhậu nhẹt… chẳng màng! Nếu ngày xưa Giuđa đã xem ba mươi đồng bạc có giá trị và cần thiết hơn là tánh mạng của Chúa Giê-su, thì rõ ràng hôm nay, không phải là chúng ta cũng đã từng xem các thực tại chóng qua kia lại có giá trị hơn một thánh lễ, hơn một Thánh Thể Chúa Giê-su đó sao?
Càng không thể nói rằng tôi không hề bắt Chúa Giêsu phải vác Thánh Giá, không hề đội mão gai cho Ngài, cũng không sỉ nhục Ngài, đóng đinh Ngài… trong khi ngôi nhà tâm linh của chúng ta đã lún, nghiêng theo chiều bất chính hoặc đã đổ sập, nát vụn thành một đống hoang tàn.
Vâng, không thể nói:
Tôi không hề bắt Chúa Giêsu vác Thánh Giá, tôi chỉ nhường phần khó nhọc cho anh em và chọn cho mình phần nhẹ nhàng thong thả.
Tôi không hề đánh đập Chúa Giêsu, tôi chỉ làm ngơ trước những bạo lực của luật rừng đàn áp những người vô tội.
Tôi không hề sỉ nhục Chúa Giêsu, tôi chỉ ngại lên tiếng bênh vực cho công lý, lại còn đồng tình với những lời đàm tiếu rằng dại chi mà chiến đấu cho công lý để phải mất chức, thiệt thân, còn bị phát lưu, tù đày, hay bị cách ly khống chế.
Tôi không hề đóng đinh Chúa Giêsu, tôi chỉ làm thinh vô tình trước bao cái chết oan uổng của ngàn ngàn thai nhi bé nhỏ, trước cái chết của những thanh thiếu niên sa đọa vì hút chích, trước những cái chết của những thiếu nữ bán hoa lỡ lầm, trước cái chết của những người nghèo khổ không tiền chạy chữa, và trước cả cái chết muôn đời của một tập đoàn không tin, còn chống lại Thiên Chúa, trong khi tôi có thể góp một phần của mình vào công cuộc cấp cứu.
Cuộc sống bất chính trong ‘con người tưởng như là công chính’ của mỗi chúng ta đang là lời chứng hùng hồn rằng chúng ta là những người vừa hoan hô vừa đả đảo Chúa Giêsu. Chính chúng ta tiếp diễn vụ án Đức Giêsu ngay hôm nay, trong lúc nầy. Chính chúng ta đang xử Chúa Giêsu theo luật rừng của những con người hoang dã, không phải vì ngu muội do thiếu ánh sáng văn minh của Thiên Chúa, nhưng ngu muội do kiêu căng, cố tình tôn vinh sự hiểu biết, khôn ngoan, tài năng, trí tuệ của mình lớn hơn sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Đức Giêsu vô tội “như con chiên hiền lành” bị đem đi giết để chết thay đoàn chiên có tội, là chúng ta, được cứu sống.
Tuần thương khó mời gọi mỗi chúng ta nhận ra mình là can phạm, nếu không nói là chủ mưu, trong vụ án Đức Giêsu bị đóng đinh và chết trên thập giá. Đồng thời, cũng mời gọi chúng ta thành tâm sám hối tội lỗi để được hưởng ơn khoan hồng vô lượng. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta tham dự vào đường thương khó của Chúa, vào cuộc tử nạn của Chúa bằng cách sống đời sống công chính – đời sống đòi hỏi khước từ những quyến rũ của những thực tại phù vân, đòi hỏi đóng đinh tính xác thịt mình, đòi hỏi chấp nhận đau khổ, chấp nhận hiến thân, hy sinh vì phần rỗi của mình và của người khác.
Hãy cùng chết với Chúa Giêsu để được cùng Người phục sinh vinh hiển.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con không vô can trong vụ án đóng đinh Chúa. Đời sống bất chính của chúng con với biết bao tội lỗi đã hình thành bản án tử hình Người Vô Tội. Xin cho chúng con biết trân quí ơn Cứu Chuộc nơi Thánh Giá Chúa, để biết thành tâm sám hối, biết cải thiện đời sống, và biết cùng Ngài vác Thánh Giá mình mỗi ngày mà theo Chúa, với niềm hy vọng, niềm tin tưởng Phục Sinh với Ngài. Amen!
43.Vác đỡ Thánh Giá Chúa–PM. Cao Huy Hoàng
Vào Tuần Thánh với Lễ Lá, bài Thương khó đã kể lại cho chúng ta nghe về Con Một Thiên Chúa mang thân phận con người với tên Giêsu. Ngài đã cô đơn đổ mồ hôi máu trong Vườn Cây Dầu như bị bỏ rơi, chấp nhận hóa thân mình nên thần lương cho nhân loại, bị chính môn đệ phản bội nộp thầy cho quân dữ, bị đứng trước vành móng ngựa, nghe bản cáo trạng hàm oan, rồi lại nghe tuyên án tử hình, chịu vác thập giá, đánh đòn, đội mão gai, té ngã trên đường lên Núi Sọ, và cuối cùng, chịu đóng đinh và chết thật.
Đó là cái giá phải trả để chuộc lại tội bội phản của tổ tông loài người. Cụ thể hơn, chỉ có hy tế thập giá của Chúa Giêsu mới là lễ dâng đẹp ý Thiên Chúa Cha, để nhờ án tử hình của Chúa Giêsu mà Thiên Chúa Cha xóa đi bản án tử hình đời đời cho con người.
Tham dự vào cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu với lòng biết ơn Người đã mang lại cho chúng ta niềm hy vọng được tham dự vào cuộc sống vĩnh cửu của Thiên Chúa, nhờ lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa Cha.
Có người đặt vấn đề khá thời sự rằng: Chúa Giêsu đã chịu thương khó, đã chết và sống lại hai ngàn năm rồi. Chúng ta đang nghe việc thuật lại như một chuyện kể, một cổ tích. Làm sao chúng ta có thể lại bước đi trên Đường Thương Khó với Chúa Giêsu nữa?!? Thật mơ hồ.
Tôi đồng ý với bạn rằng: chúng ta không tận mắt thấy Chúa Giêsu đổ mồ hôi máu trong đêm Vườn Dầu. Nhưng thiết tưởng, chúng ta có thể thấy rất cụ thể từng nếp nhăn cằn cỗi trên khuôn mặt của những Chủ Chiên ngày qua ngày phải đối phó với bầy quân dữ của Satan đang rình mò cắn xé Giáo Hội là Thân Thể Chúa Giêsu Kitô. Xin đừng nghĩ là các Chủ Chiên đang vô tư, vô tình, vô cảm trước những bức bách mang tính chủ trương và toàn diện đang xảy ra trong và cho Giáo Hội địa phương của mình. Nhưng nên nghĩ là các Ngài đang đổ mồ hôi máu mà thưa với Chúa Cha rằng: “Lạy Cha nếu có thể được, thì xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, một theo ý Cha mà thôi”.
Những chủ chiên ấy, không chỉ là những Giám Mục, Linh Mục, mà cụ thể hơn là bạn, là tôi, là tất cả những người làm ông bà, cha mẹ, anh chị đang mang trong mình trọng trách bảo vệ Đức Tin cho những thành viên non trẻ của mình trước những trận cuồng phong duy vật, vô thần, vô cảm, vô nhân đạo, vô lương tâm, vô luân lý.
Một người bạn tôi, đã từng là Đại Chủng Sinh Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt, từng Giáo Lý Viên dự tòng và hôn nhân nhiều năm liền tại Giáo Xứ của mình, hôm nay, thầy lại đành bó tay, đành cắn răng chờ xem người con rể tương lai vốn con nhà Cộng Sản kia định liệu thế nào cho số phận con gái mình khi đã trót “ăn cơm trước kẻng”: có thể là nó chịu theo Đạo để cưới vợ, cũng có thể là nó bảo Đạo ai nấy giữ, rồi cũng có thể là nó xúi dại con gái mình phá cái thai ấy đi. Thật là đau khổ! Thế rồi, đúng là nhà ông sui của thầy đã ép thằng nhỏ phải bắt con gái thầy phá thai. Hai vợ chồng thầy đau khổ lắm. Đêm đêm bên ngọn đèn dầu thầm thĩ kêu van xin Chúa sáng soi cho con gái mình biết đường mà tuân giữ lề luật của Chúa.
Tôi vẫn nghĩ là sự chọn lựa để bảo vệ Đức Tin, để trung thành với lề luật Chúa, để tuân hành thánh ý Chúa cũng làm cho người yêu mến Chúa đến phải đổ mồ hôi máu như Chúa vậy.
Một cha giải tội cho một hối nhân thường xuyên, lần nào xưng tội cũng bấy nhiêu tội tày trời ấy, có khi còn nặng nề hơn. Cha vừa nghe tội vừa khẩn khoản tha thiết kêu xin lòng thương xót Chúa đến độ vã cả mồ hôi, lạnh ớn người ngay trong Tòa Giải Tội.
Những người đau đầu nhất, đang đổ mồ hôi máu nhất hiện nay có phải là những Giám Mục, Linh Mục, những chủ chiên đang “lựa chiều bẻ lái” cho con chiên của mình một cách ứng xử Công Giáo nhất trước tình trạng thế quyền quá lộng quyền đối với Sự Sống con người hiện nay. Nếu con người thời bây giờ biết rằng: vài chục năm trước đã có chủ trương phá thai cách toàn diện, cấp quốc gia như thế, thì hẳn đã không thể còn có chính họ hiện diện trên đời ngày hôm nay để chủ trương phá thai nữa. Là những người bảo vệ Đức Tin Công Giáo, làm chứng cho Chân Lý của Thiên Chúa, nối tiếp công cuộc Sáng Tạo và Cứu Rỗi của Thiên Chúa, không đổ mồ hôi máu được sao?
Cũng vậy, chúng ta không thấy cảnh Chúa Giêsu bị bắt bớ, không tham dự phiên tòa xét xử Chúa Giêsu, không thấy những vết bầm tím trên thân mình Chúa Giêsu khi bị quân dữ đánh đòn, không thấy Chúa Giêsu vác thập giá, ngã lên ngã xuống trên đường lên đồi cao chịu chết, hoặc nếu có thấy, thì thiết tưởng, cũng chỉ là thấy qua những bản vẽ do các họa sĩ.
Thế nhưng chúng ta có thể thấy được tận mắt các tín hữu của Chúa đang bị bắt bớ giam cầm tra tấn khắp nơi nơi đấy chứ? Nhất là, trong thời đại truyền thông nầy, thì tin tức về những chuyện bắt oan các tín hữu, bỏ tù gian, ném đá giấu tay, hay mượn tay người gây thương tích cho các Linh Mục trên đường Mục Vụ đều có thể truyền đi nhanh như chớp, làm sao mà lấy “thúng úp voi được”? Ấy vậy, những chuyện “quả tang”, “công khai” tra tấn những người theo Chúa Kitô trong Giáo Hội Chúa Kitô đang diễn ra hàng ngày khắp nơi và cả trên đất nước chúng ta, mà chúng ta nói rằng chúng ta không tham dự được với Thập Giá Chúa Kitô sao?
Tại nơi chúng ta đang sống, Chúa Giêsu vẫn đang bị bán đứng với giá 30 đồng bạc, có khi ít hơn chỉ vài đồng, hoặc chỉ cần là sự đổi chác một chỗ ngồi, chỗ đứng cho vinh thân phì gia. Chúa Giêsu vẫn đang chịu bao lời phỉ báng, bôi nhọ, hạ nhục. Chúa Giêsu vẫn đang bị bắt bớ giam cầm, đánh đập tra tấn, đổ máu và cả mất mạng nữa. Vâng cuộc Thương Khó Chúa Giêsu đang hiển hiện nơi các tín hữu Chúa.
Như vậy, tín hữu Công Giáo Việt Nam vào cuộc Thương Khó với Chúa Giêsu không chỉ là những giờ ngắm rằng, ngắm đứng, ngắm quì sốt sắng đến rơi lệ, không chỉ là những vành khăn tang trắng xóa quấn trên đầu suốt Tuần Thánh, không chỉ là những cử hành Phụng Vụ long trọng trong Thánh Đường, không chỉ là những việc chay tịnh sám hối chỉ với Chúa, mà thiết tưởng còn phải cụ thể hơn là: khẩn cấp nhận ra và tham dự vào nỗi lo, niềm đau của các chủ chiên, của các tín hữu khắp nơi trên đất nước.
Là con cái trong nhà, xin dâng những hy sinh và vác đỡ Thánh Giá cho cha mẹ mình trong việc lo cái ăn, cái mặc, cái học và nhất là trong việc bảo vệ đời sống Đức Tin trước những nguy cơ. Là con chiên trong một đoàn chiên Giáo Hội, xin dâng những hy sinh và vác đỡ Thánh Giá cho những Chủ Chiên, những tín hữu đang gặp bức bách, giam cầm, tra tấn. Là tín hữu Công Giáo trong xã hội, xin dâng những hy sinh và chia sẻ niềm đau thương của mọi người, niềm đau do gian ác, bất công, đàn áp, niềm đau của bệnh hoạn tật nguyền, niềm đau của những mảnh đời nghiệt ngã không ai giống ai…
Đang viết bài này, tôi nhận được cú điện thoại của chị H, có người chồng 15 năm bại liệt, mọi sinh hoạt tại chỗ, con trai lớn cột sống dính khớp 9 năm nay cũng nằm luôn một chỗ cho chị H. lo lắng, con trai thứ có vợ tận Cà Mau, con gái út vừa đi học đi làm ở Sàigòn, nhà mái tôn rách nát. Mùa mưa tới rồi, chẳng biết tính sao? Tôi có thể trả lời rằng trong cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu đâu thấy có cảnh bại liệt hay dính khớp cột sống để từ chối một cảm thông được không?
Tôi bỗng nghe tiếng lòng nhắc bảo: xin đừng vừa sốt sắng tham dự Phụng Vụ cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu lại vừa dửng dưng vô tâm trước cảnh thương khó của biết bao người.
Lạy Chúa, Thánh Phanxicô đã thưa: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”. Xin cho chúng con cũng nhận ra Chúa Giêsu đang đau buồn, thương tích, bị nhục mạ, bắt bớ, giam cầm, đánh đập nơi những anh chị em chúng con, và cho chúng con nhiệt tình vác đỡ Thánh Giá của anh em, như vác đỡ Thánh Giá Chúa Giêsu vậy. Amen.
44.Sứ điệp tình yêu–Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tuần lễ này, tôi đọc say mê cuốn sách “Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn liệm Turin” của tác giả An Thiện Minh. Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Nihil Obstat. Đức Cha Giuse Võ Đức Minh, Imprimatur. Nhà xuất bản tôn giáo, Nhà sách Đức Bà Hòa bình phát hành.
Cuốn sách viết thật hấp dẫn, tái dựng lại cuộc khổ nạn dựa trên Tấm khăn liệm Turin và Tin Mừng, đưa người đọc từng bước đi vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu với những thống khổ và cực hình về thể lý. Sự tàn ác của tội lỗi và sự đố kỵ của sự dữ trước một Tình Yêu quảng đại và bao dung. Sự yếu đuối của thể chất trước một tinh thần bình an và vượt thoát. Giá trị của vinh quang và tủi nhục, tha thứ và hận thù, sự sống và sự chết. Những cảm nhận đó đưa độc giả vươn tới giá trị siêu nhiên trong Chúa Kitô Phục Sinh.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong cái nhìn nhân loại như một bi kịch của sự tàn bạo, bất công và hủy diệt. Chúa Giêsu bị phản bội, bị hiểu lầm, bị ghen ghét, chịu kết án bất công. Cuộc thương khó làm cho chúng ta kinh khiếp vì sự tàn ác và độc dữ của con người. Nó làm cho chúng ta xót xa và thương cảm một con người là nạn nhân của lòng hận thù và đố kỵ.
Thế nhưng, cái chết trong đau thương nhục nhã của Chúa Giêsu chính là nguồn ơn cứu rỗi cho nhân loại. Người chết để đền tội, để chuộc tội, để gánh tội hầu cứu độ con người. Cái chết của Đấng Cứu Độ nhưng lại bi thương vô cùng.
Tin Mừng về cuộc thương khó kể lại từng chặng đường khổ nạn của Đấng Cứu Thế.
1. Chúa Giêsu chết trong cô đơn
Những giờ phút sau cùng của Chúa là những khoảng khắc cô đơn kinh hoàng.Trong Vườn Cây Dầu, ba môn đệ thân tín đi với Chúa, họ ngủ say để Chúa một mình. Giuđa phản bội bán Thầy 30 đồng bạc là giá một nô lệ bằng một nụ hôn giả dối. Phêrô chối Thầy 3 lần, ông thề là không quen biết Chúa Giêsu trước một đầy tớ gái. Các môn đệ sợ hãi chạy trốn, có một môn đệ chạy trốn bỏ lại cả áo, chạy mình trần. Một đám đông cuồng nộ: Đóng đinh nó đi. Họ coi Chúa Giêsu còn thua Baraba là một tên phiến loạn giết người. Các môn đệ ở đâu? Những người được Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi ăn giờ ở đâu? Những người mới tung hô vạn tuế Con Vua Đavit giờ ở đâu? Chúa Giêsu đi đến tột cùng của sự cô đơn khi thổn thức với Cha: Lạy Thiên Chúa tôi, sao Ngài nỡ bỏ tôi?
2. Chúa Giêsu chết trong đau khổ
Đau khổ Chúa Giêsu chịu trong giờ sau hết thật ghê rợn.
a. Đau khổ về thân xác Người ta khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào Người. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi. Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để thu nhận và tống không khí. Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thở, mau kiệt sức và chóng chết.
b. Đau khổ về tinh thần Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi. Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Người mà nói: Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền! Cả những tên cướp cùng đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế.
3. Chúa Giêsu chết trong sự vâng phục
Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha, nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu than thở: Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha. (Mt 26,39). Theo thánh ý Chúa Cha, “Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá”(Pl 2,8).
4. Lời Thánh Kinh ứng nghiệm
Cái chết cô đơn, đau khổ của Chúa Giêsu ứng nghiệm hình ảnh Người Tôi Trung của Ngôn sứ Isaia. Những nổi khổ đau, mọi sự sĩ nhục và cực hình Người Tôi Trung phải chịu: bị đánh vào lưng, bị giật râu, bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Mặc dầu vậy, Người Tôi Trung vẫn vững lòng tin tưởng có Thiên Chúa phù trợ. Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với Người Tôi Trung một lần (Lc 22,37; Is 53,12) nhưng truyền thống không ngừng đồng hoá khuôn mặt của Người Tôi Trung với Đức Kitô (Mt 8,16;Is 53,4; Mc 1,1;Is 52,1; Mt 12,18-21;Is 42,1-3; Mc 9,31;Is 53.6.12; Ga 12,38;Is 53,1). Đề tài Người Tôi Trung chịu đau khổ là đề tài khai triển một cách rõ rệt nhất quan niệm một Đấng Cứu Thế phải trải qua đau khổ và sự chết thì mới hoàn thành được sứ mệnh (Cv 3,13-26; Is 4,25-30; Is 53,5.6.9.12; Mc 10,41; Is 53,5; 1Cor 11,24). Hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ cho thấy rõ Đức Giêsu đảm nhận thân phận làm người cho tới cùng. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa tự mạc khải là Thiên Chúa “vì mọi người và cho mọi người” chứ không phải như một Thiên Chúa tuyệt đối và toàn năng của triết lý và huyền thoại. Nhân tính của Đức Giêsu mạc khải dưới một siêu việt tính đích thực, nhìn dưới một dạng thức hoàn toàn mới mẻ. Đó là sự siêu việt của một tình yêu vượt qua cái tôi ích kỷ, vượt qua được sự chết để trở nên sự sống cho mọi người. Bài Thánh ca của Thánh Phaolô gợi lên hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ (câu 8; Is 53,7.10.12), nhưng ở đây, Người Tôi Trung được đối chiếu với hình ảnh Đức Chúa vinh quang. Sự tự hạ thẳm sâu và chiến thắng vinh quang là bài ca ca ngợi Chúa Giêsu Kitô đã hạ mình chịu chết và được siêu tôn. Chính sự vâng phục theo thánh ý Chúa Cha đã làm nên giá trị của Chúa Giêsu trên mọi thụ tạo.
5. Sứ điệp tình yêu
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy những chiều kích khác lạ của tình yêu. Tình yêu không đơn thuần chỉ là sự trao ban thuần túy để làm hài lòng người mình yêu thương, nhưng sâu thẳm hơn, nó là sự hiến dâng chính bản thân để chịu đau khổ.
Tình Yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại qua con đường thập giá thật đẹp và tinh tuyền như ánh trăng lấp lánh trên dòng sông tình ái. Thấp thoáng trong bóng tối đau khổ, sợ hãi, cô đơn và sự chết là lung linh ánh sáng khoan dung, tha thứ, bình an và vượt thoát. Trong màn đêm của bạo lực và bất công, bầu trời vẫn lấp lánh ánh sao của dâng hiến và yêu thương. Ngước lên và ngắm nhìn, chúng ta có thể nhận ra từng nét chân dung huyền ảo của Tình Yêu và trái tim của chúng ta sẽ nhận ra được dung mạo của Chúa Giêsu yêu thương đến cùng.
Trong hình hài đầy thương tích của Đấng Chịu Đóng Đinh, bóng tối của sự thịnh nộ và thù hận đã nhường chỗ cho ánh sáng của nhân ái và thứ tha. Làm sao chúng ta có thể nhận ra “Con Người” đẹp nhất trần gian, nếu chúng ta không nhìn qua lăng kính của Tình Yêu! Cuộc khổ nạn của Chúa cho chúng ta một cái nhìn thật thâm trầm và sâu sắc về sự nguyên tuyền của Tình Yêu: đứng trên sự cuồng nộ là thinh lặng, đứng trên hành vi bạo lực là một tinh thần bình an, đứng trên lòng thù hận là tha thứ, đối lại thô bạo là bao dung. Tình Yêu làm chúng ta bỡ ngỡ và sửng sốt. Chúng ta thích ngắm nhìn hình ảnh của một tình yêu siêu thoát và bay bổng, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu trở nên bình dị và gần gũi. Chúng ta mong muốn một tình yêu được nhận lãnh và chiếm hữu, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu lại trở thành trao ban và từ bỏ. Tình yêu là nét đẹp của sự tự hạ và quên mình, là dâng hiến bằng chính trái tim và trọn vẹn cuộc đời. Tình yêu không là ngôn từ để kết án, không là vũ khí của bạo lực đa đoan. Tình yêu là âm thanh gợi cảm của trái tim, là nét vẽ thanh thoát của vũ hoàn và là dòng suối của hoa trái tha thứ và bao dung. Chúa Giêsu đã làm tan chảy mọi ô nhơ và đố kỵ, khi Người đặt tất cả trong ánh sáng của tình yêu. Nguồn suối ân sủng từ tình yêu Chúa Giêsu làm cho mảnh đất khô cằn của sự chết trở nên hồi sinh và đầy tràn sức sống.(x.sđd, trang 232-269). Trước tình yêu vô biên của Đấng Cứu Độ, con người sao có thể đáp đền cân xứng?. Làm thế nào so sánh một giọt nước nhỏ nhoi với cả đại dương mênh mông vô tận!?
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đều hướng về một sứ điệp. Đó là sứ điệp tình yêu. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến độ vâng lời đón nhận cái chết thập giá và yêu thương con người nên đã đón nhận mọi khổ đau của nhân loại mà đưa lên cây thập gía hầu ban ơn cứu độ. Chính tình yêu, chứ không phải đau khổ, đã biến thập giá tủi nhục thành Thánh Giá vinh quang. Chính tình yêu của Chúa Giêsu, chứ không phải cuộc khổ nạn mà chúng ta được Cứu Độ (Ga 3,17), được giải thoát mọi xích xiềng tội lỗi. Như vậy, cuộc thương khó của Chúa Giêsu là một hành trình của tình yêu tiến tới sự sống và hạnh phúc cho muôn người. Khi chấp nhận mang lấy những khổ đau, những nhục nhã của cái chết Thập giá, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa phải mục nát đi để cho sự sống mới phát sinh. Nhờ sự chết của Người mà sự sống đời đời xuất hiện cho nhân loại. Đó là định luật nối kết sự chết và sự sống. Chấp nhận đau khổ và sự chết vì tình yêu thì nó trở thành con đường dẫn đến sự sống muôn đời.
Trong cuộc sống thường ngày, có những lúc chúng ta gặp đau khổ, gặp thất bại, gặp nghịch cảnh. Nhiều lúc mình than trách Chúa, nghi ngờ tình yêu của Chúa. Có người bị lung lay đức tin. Có người đã đánh mất đức tin. Hãy chiêm ngắm đau khổ Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn để vững vàng vượt qua thử thách, băng qua gian truân. Qua Thập giá mới đạt tới vinh quang Phục Sinh. Hãy xin được như Thánh Gioan kiên vững dưới chân Thập giá để trung thành với một tình yêu sắt son cùng Thầy Giêsu. Hãy xin được như Đức Maria can đảm dưới chân Thập giá cùng chịu đau thương nhục nhã với người con yêu. Con Thiên Chúa đã gánh chịu mọi khổ đau của thân phận con người, nhưng Người không oán than, không kêu trách, không rên xiết; trái lại, Người đón nhận khổ đau với một tình yêu sâu đậm: Yêu Chúa Cha và yêu nhân loại. Chính tình yêu này đã biến khổ đau của Người nên nguồn ơn cứu rỗi. Tình yêu cứu độ của Chúa đưa nhân loại đi tới bến bờ hạnh phúc. Chúng ta hãy tin yêu Chúa Giêsu và bước đi theo Người để có sự sống dồi dào và niềm vui an hoà.
45.Đấng vô tội phải chết–Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Vừa tảng sáng, hội đồng các niên trưởng trong dân nhóm họp cùng với các thượng tế và luật sĩ. Họ cho điệu Đức Giêsu đến để tra vấn… Mọi người cùng hỏi: “Ông là Con Thiên Chúa ư?” Ngài đáp: “Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa.” Nghe thế, nộ khí bừng lên, họ đồng thanh la lớn: “Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta đã nghe từ miệng hắn.” Đoạn tất cả bọn họ chỗi dậy và giải Ngài đến Philatô (Lc 22:66-23:1).
Các thượng tế và luật sĩ phải đưa Đức Giêsu đến Philatô bởi vì lúc bấy giờ người Do thái không có quyền lên án tử cho bất cứ ai nếu như không được chính quyền Rôma chuẩn y. Nhưng sau khi hè nhau kéo Chúa đến trước mặt quan tổng trấn, họ lại không dám tố Ngài tội lộng ngôn, vì biết như thế sẽ thất bại chua cay. Philatô sẽ cho là chuyện mê tín tôn giáo, không thuộc phạm vi xét xử của ông ta. Thế nên, để có sức thuyết phục, họ không chơi đòn tôn giáo, song là chính trị.
Chắc hẳn người Do thái còn nhớ có lần Philatô cho diễn quân vào thành Giêrusalem với các cờ hiệu có hình hoàng đế dẫn đầu. Luật Do thái cấm mang hình tượng các thần ngoại vào khuôn viên thành thánh, vì như thế là một sự sỉ nhục tôn giáo. Thời bấy giờ, hoàng đế Cêsarê được xem như một vị thần. Thế nên các vị tổng trấn trước đây, mỗi lần có cuộc diễn quân vào thành, đều cho cất bức hình của hoàng đế khỏi cờ hiệu. Nhưng đến thời Philatô, ông đã chẳng coi luật lệ tôn giáo của người Do thái ra gì, nên trong một cuộc diễn hành vào thành ban đêm, Philatô nhất quyết cho quân lính mang tượng hoàng đế đi đầu, bất chấp sự chống đối kịch liệt của người Do thái.
Khi biết Philatô không chú trọng lắm đến vấn đề tôn giáo, hội đồng người Do thái đã tố cáo Đức Giêsu về ba điểm thuộc phạm vi chính trị: thứ nhất, “Tên này, chúng tôi bắt gặp đã xúi dân nổi loạn;” thứ hai, “Tên này ngăn cản việc nộp thuế cho hoàng đế Cêsarê;” thứ ba, “Tên này xưng mình là vua” (Lc 23:2).
Cả ba điều tố cáo đều dối trá. Họ biết thế. Nhưng khi mục đích đã mù quáng lầm lạc thì phương thế đúng sai nào có quan hệ gì. Miễn sao đạt được như ý mới thôi.
Dầu rất nhạy bén với bản chất hay làm loạn của người Do thái, và dầu đã thẳng tay trừng trị những kẻ dấy loạn, “hoà máu với lễ tế của họ” (Lc 13:1), Philatô đã không bị hoả mù chính trị che mắt.
Rõ ràng Philatô thấy Đức Giêsu vô tội (Lc 23:14). Có ít nhất bốn lần ông ta tìm cách tránh né việc lên án tử cho Đức Giêsu. Lần thứ nhất, ông bảo người Do thái hãy tự giải quyết lấy chuyện nội bộ tôn giáo của mình (Gn 19:6). Lần thứ hai, ông trao vụ án qua cho Hêrôđê xét xử. Lần thứ ba, ông muốn thuyết phục người Do thái tha cho Đức Giêsu theo như quy định cho phép ông thi hành trong mỗi dịp lễ lớn. Lần thứ tư, ông đưa giải pháp dung hoà: đánh Giêsu một trận nên thân rồi thả về (Lc 23:15-23).
Muốn giết Chúa mà quan tổng trấn cứ đòi tha. Thấy ba lá bài chính trị không đi tới đâu, người Do thái quay sang con tẩy cuối cùng: “Nếu ông tha cho tên ấy là ông thất nghĩa với hoàng đế. Ai xưng mình là vua, tất làm phản với Hoàng đế” (Ga 19:12). Theo luật công bình của đế quốc Rôma, mỗi địa phương đều có quyền khiếu nại với hoàng đế về tình trạng cai trị của các quan chức Rôma. Thế nên, khi thấy chiếc ghế tổng trấn của mình bị áp đảo, khi mà tình hình vinh thân phì gia bị đe doạ, Philatô lập tức đầu hàng. Bên ngoài rất hùng, nhưng bên trong rất hèn. Công lý đã bị lợi ích cá nhân vùi dập. Bản án được thông qua. Chúa Giêsu vô tội mà phải chết.
Nhưng nếu chỉ thế thôi thì chẳng có gì lạ lắm, vì như hôm nay, vẫn còn biết bao người vô tội phải mang án tử. Biết bao tù nhân phải lên ghế điện cách oan uổng. Biết bao thai nhi bị ném vào thùng rác cách vô tình và vô trách nhiệm. Song điều đáng nói ở đây là Đức Giêsu, Đấng vô tội, đã tự nguyện chấp nhận cái chết bất công đó để giải án bất nhân cho con người.
Bản án càng nói lên tính chất hàm hồ, giả dối, ác độc, ghen tị, ích kỷ nơi con người bao nhiêu càng làm nổi bật tình thương cứu độ nơi thập giá của Đức Kitô bấy nhiêu. Sự sống của ơn cứu độ đã thật sự tuôn trào từ thập giá. Những chứng từ sau đây đã khẳng định điều đó:
Thứ nhất, lời kêu van thống thiết “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23:34) đã phát ra từ miệng Đức Giêsu trên khổ giá. Một nhà chú giải Kinh thánh nhận xét: “Chúa Giêsu đã nói nhiều câu tuyệt vời, nhưng câu ‘xin tha cho chúng’ trên thánh giá là một trong những câu tuyệt vời nhất.” Thiên Chúa đã can thiệp bằng cách đón nhận khổ đau để tha thứ tội lỗi con người.
Từ Thánh giá lời hứa Nước Trời cũng được trao ban. Đức Giêsu nói với [người trộm lành]: “Hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta” (Lc 23:43). Như thế, ơn cứu độ đã linh nghiệm. Loài người được ơn thoát khỏi án chết để tiến vào cõi sống.
Thánh Luca cũng ghi nhận: đoàn lũ dân chúng khi nhìn lên thánh giá, chứng kiến cảnh Chúa Giêsu trút hơi thở đã đấm ngực ăn năn. Cả viên bách quản cũng phải thốt lên: “Đúng thật, ông này là người công chính” (Lc 23:47). Như thế, lời Chúa Giêsu nói “Khi được giương cao lên mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta” đã được ứng nghiệm. Người ta đã nhận ra Đức Giêsu là ai. Và khi tin nhận ra Ngài, họ có được sự sống đời đời nơi tâm hồn (Ga 3:15).
Thế đấy, Đức Giêsu-như lời vị tông đồ dân ngoại xác quyết-Đấng không hề biết tội, nhưng vì ta, Ngài đã tình nguyện trở thành tội nhân và gánh chịu hậu quả của tội là sự chết ô nhục trên Thập giá. Vậy, chúng tôi nài xin anh em hãy mau làm hoà và trở về cùng Thiên Chúa. Vì “đây là thời đại sủng; đây là ngày cứu độ” (2 Cr 5:20 – 6:2).
46.Những đổi thay đến ngỡ ngàng–Jos. Vinc. Ngọc Biển S.S.P.
Sau 40 ngày Mùa Chay, hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta bước vào Tuần Thánh là tuần cao điểm của năm Phụng Vụ, bởi vì đây là tuần cả Giáo Hội sống lại mầu nhiệm thương khó, tử nạn và phục sinh của Đức Giêsu cách đặc biệt.
Tin Mừng hôm nay trình thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu, khởi đi từ việc Ngài tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng hoan hô vang lừng của dân chúng.
Tuy nhiên, sự tung hô, tôn vinh ấy chẳng được bao lâu, thì Ngài đã phải chết. Nguyên nhân chính dẫn đến sự kiện đau lòng này chính là những sự đổi thay của lòng người!
1. Những đổi thay của lòng người
Ca dao Việt Nam có câu: “Dò sông, dò biển dễ dò. Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng!”. Chính vì lòng dạ con người như thế, nên người xưa, nhất là những người quân tử thường hay dùng người: cho ở xa để đem lòng trung, cho ở gần để đem lòng kính, sai làm nhiều việc để xem cái tài, hỏi lúc vội vàng để xem cái trí, hẹn cho ngặt ngày để xem có tín, ủy cho tiền của để xem có nhân, giao cho việc nguy biến để xem có tiết, cho đánh chén say sưa để xem cử chỉ, cho ở chỗ phiền tạp để xem thần sắc. Xem người đại khái như vậy, thì họa mới có thể biết được người!
Đức Giêsu cũng đã biết rõ lòng dạ con người nham hiểm, khó lường…, nên Ngài đã tìm mọi cách với hy vọng những gì mắt thấy, tai nghe, sẽ làm cho người môn đệ cũng như mọi người hướng thiện và sống tốt. Nhưng ai ngờ, do những tác động ngoại cảnh làm cho lòng người đổi thay theo, vì thế, cuộc thương khó của Đức Giêsu ngày càng leo thang!
Người đổi thay đầu tiên được kể đến, chính là Giuđa. Ông là người Đức Giêsu yêu thương và tuyển chọn. Ngài cũng đã dạy dỗ ông nhiều điều, nhất là những bài học về từ bỏ, thanh thoát. Hơn nữa, còn tín nhiệm và trao cho ông chức vụ quản lý của Nhóm Mười Hai.
Tuy nhiên, thay vì coi đồng tiền là tôi tớ, là phương tiện, thì đằng này, ông đã coi nó là ông chủ, là mục đích. Vì thế, chính đồng tiền đã đè bẹp ông, khiến lòng dạ ông đổi thay. Chỉ với 30 đồng bạc, ông đã chấp nhận đánh đổi vị trí của mình: từ chỗ là môn đệ, thành kẻ phản bội khi bán Thầy của mình bằng cái hôn giả tạo và với giá rẻ mạt. Ôi một sự đổi thay đến đau điếng!
Thứ đến là sự thay đổi của Tông đồ trưởng Phêrô. Đức Giêsu rất thương Phêrô, bởi lẽ ông là một con người bộc trực, nhưng thẳng thắn, chân thành. Điều này lý giải cho việc tại sao Ngài thường đem ông và hai môn đệ khác đi riêng với mình để mặc khải cho ông những sự kiện quan trọng.
Khi ưu ái ông cách đặc biệt như vậy, ấy là vì Ngài muốn ông mục kích tận mắt và thấy tỏ tường quy luật: “Qua đau khổ mới tới vinh quang”. Hơn nữa, khi đưa ông vào trong mối tương quan thân tình với Ngài như vậy, đó là để có dịp tập cho ông những đức tính cần có của người lãnh đạo.
Tuy nhiên, sự hèn nhát, sợ hãi, đã làm tê liệt ngọn lửa mến nơi ông. Sự trung thành đã không còn nữa. Ông đã sẵn sàng chối Thầy của mình trước toán lính quèn đang sưởi khi chúng gặng hỏi thân thế và mối liên hệ giữa ông với Đức Giêsu. Ôi lại một sự đổi thay khó hiểu!!!
Tiếp theo là sự đổi thay của đám đông. Đám đông này là những người thụ ơn Đức Giêsu. Họ là những người đã được Ngài chữa bệnh, trừ quỷ, dạy dỗ, cho ăn no nê…. Vì thế, khi nghe tin Đức Giêsu vào thành, họ đã tuôn đến như thác lũ và vang tiếng tung hô dạy cả một vùng trời! “Hoan hô Con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”.
Tuy nhên, sẵn trong lòng sự hưởng thụ, nên họ đã vẽ lên trong tâm tưởng một Đức Giêsu theo ý của họ: Ngài phải là vua thống trị và giải thoát bằng quyền uy cũng như đem lại cho họ sự giàu có vượt trội! Nhưng khi Đức Giêsu không đáp ứng điều họ mong muốn, thế là đám dân này đã đi vào vết xe đổ vô ơn của tổ tiên họ nơi sa mạc khi xưa. Vì thế, họ đã coi Ngài như một kẻ xa lạ, là tội đồ của dân tộc, và, họ đã không ngần ngại đả đảo Ngài tới cùng “Đem đi! Đóng đinh nó vào thập giá”. Ôi một sự đổi thay đến xót xa!
Cuối cùng là sự đổi thay của quan tổng trấn Philatô. Ông là một vị quan toàn quyền Rôma thời bấy giờ. Lẽ ra, ông phải là người cầm cân nảy mực, bênh vực người nghèo và bảo vệ công lý.
Thế nhưng, trước sức ép của đám đông, trước sự tấn công của các Thượng tế, Biệt phái…, ông đã không nghe theo tiếng Lương Tâm mách bảo, nhưng đã trở thành kẻ đê hèn đến độ thuận theo cái ác để trù dập, loại trừ sự thiện và chấp nhận để “Lẽ phải thuộc về kẻ mạnh”. Ôi một sự đổi thay đầy nhục nhã!
Như vậy, qua các cuộc đổi thay của lòng người, ta nhận thấy một mẫu số chung, đó là:
“Chút lợi danh, tính toan mưu kế
Mà lãng quên chữ nghĩa, chữ nhân”.
Và:
“Vẫn chạy theo sa hoa, hào nhoáng.
Người sang kết bạn, kẻ khó quay lưng”.
2. Những đổi thay của chính chúng ta
Đọc và lắng nghe bài thương khó của Đức Giêsu hôm nay, nhiều người chúng ta không khỏi bức xúc trước thái độ đổi thay của lòng người thời Đức Giêsu!
Tuy nhiên, trải qua suốt dọc dài lịch sử nhân loại, những thái độ đó lại nhan nhản nơi xã hội hôm nay!
Nhưng điều đáng nói hơn cả, đó là những thái độ ấy lại đang hiển hiện lên thật rõ nét ngay nơi mỗi người chúng ta.
Thật vậy, nhiều khi chính tôi chứ không ai khác! Hình ảnh một Giuđa ham tiền, hám bạc, phản bội lại hiện lên trong tâm hồn tôi khi tôi vẫn còn ham hố và bất chấp, để sẵn sàng chạy đua trên cuộc đua kiếm tiền bằng mọi cách. Vì thế, nhiều lúc tôi đã “đánh lận con đen” để ngụy biện cho hành vi đen tối của mình.
Nhiều khi chính tôi chứ không ai khác! Một Phêrô thời hiện đại với đầy đủ sự hèn nhát, ham sống, sợ chết, đang ẩn hiện trong con người tôi khi tôi không dám can đảm tuyên xưng niềm tin nơi môi trường sống của mình. Tôi cũng đã thất trung với Chúa khi không trung tín giữ giao ước với Ngài.
Nhiều khi chính tôi chứ không phải ai khác! Khi hình ảnh và lựa chọn của đám đông xưa kia cũng chính là lựa chọn của tôi hôm nay. Thật vậy, đã biết bao lần, tôi theo và tin Chúa chỉ vì cái bụng, nên: “Khi vui thì vỗ tay vào, gian nan hoạn nạn thì lìa nhau ra”.
Đã có lúc, tôi tạo ra một vị Thiên Chúa theo ý mình, để rồi yêu cầu Ngài phải đáp ứng đúng như yêu sách mà tôi đã đặt ra! Khi không đạt được, tôi đã sẵn sàng bỏ Chúa để đi tìm đến với một vị thần nào đó…! Những lúc như thế, tôi thuộc hạng người “ba phải”.
Nhiều khi chính tôi chứ không phải ai khác! Khi hình ảnh và thái độ hèn nhát của quan Philatô đang ẩn hiện trong con người tôi, khi tôi sợ không dám bảo vệ cho sự thật, công lý. Không dám đứng về phía người nghèo để bênh vực họ. Nhiều khi tôi đã hùa theo “hiệu ứng đám đông” mà quên đi lẽ công bằng, tình yêu thương, bác ái với anh chị em. Có những lúc tôi đã nhắm mắt để nói “có” thành “không” và nói “không” thành “có”, nhằm vu vạ cáo gian cho anh chị em tôi. Những lúc như thế, tôi thật hèn nhát, vì tôi thuộc dạng người “sợ tiếng chửi, ăn mày tiếng khen…”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy bước vào Tuần Thánh và đi theo Chúa trên con đường khổ nạn với tâm tình của Mẹ Maria; của người môn đệ Đức Giêsu yêu mến; của các Phụ nữ Giêrusalem; của ông Simong; bà Veronica và ông Giuse Arimathia….
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con và ban ơn giúp sức, để chúng con trung thành đi theo Chúa đến cùng trên đường thương khó, ngõ hầu chúng con cùng chết với Chúa để được cùng Ngài sống lại trong vinh quang. Amen.
47.Đường Thương Xót của Thiên Chúa–Jos. Vinc. Ngọc Biển S.S.P.
Hôm nay, phụng vụ Giáo Hội chính thức bước vào Tuần Thánh với biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, khởi đầu hành trình thương khó trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu là một nghịch lý, ô nhục, điên rồ với người Do thái, là nỗi thất vọng cho các môn đệ và nhiều người… Tuy nhiên, con đường bất thường này lại làm lộ hiện dung mạo, khuôn mặt, tâm tư và lòng dạ thương xót phi thường của Thiên Chúa ngang qua con người, sứ vụ và nhất là cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
Muốn hiểu thêm về cuộc thương khó, chúng ta cùng nhau tìm hiểu nơi các đối tượng, động lực, hành vi của những kẻ gây nên cái chết bi thương cho Người Công Chính, để thấy được mục đích gian ác của con người thời đó và chương trình yêu thương của Thiên Chúa cũng như sự liên hệ của chúng ta trong mầu nhiệm cứu chuộc hôm nay.
1. Con đường thương xót của Thiên Chúa ngang qua bàn tay gian ác của con người
Những kẻ gây nên cái chết cho Chúa Giêsu chính là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ. Họ là những Luật Sĩ, Thượng Tế và Pharisêu. Những con người này có mối thù sâu sắc với Chúa Giêsu, nên quyết không đội trời chung với Ngài!
Những mâu thuẫn được khởi đi từ chuyện Chúa Giêsu vạch trần lối sống giả hình, kiêu ngạo, ích kỷ, dã tâm nơi giới lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ. Đây là điều mà họ cảm thấy bất lợi và có nguy cơ bại lộ lối sống giả nhân giả nghĩa theo kiểu: dùng phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt!
Chúa Giêsu đã không chấp nhận, vì thế, họ đã quyết loại trừ Ngài ra khỏi xã hội của họ bằng cái chết.
Tuy nhiên, điều mà họ muốn thì chính bản thân họ hay dân tộc họ không thể làm được, bởi lẽ, dân Dothái đang bị đô hộ bởi Đế quốc Rôma, vì thế, muốn giết Chúa Giêsu, họ phải mượn tay của Đế quốc, mà người đại diện là Philatô!
Bản án mà họ trình lên quan Tổng trấn để xin ông xét xử, đó là tội: khi quân, phản loạn, sách động dân chúng, lật đổ chế độ, rồi tự xưng mình là vua…!!!
Với ngần ấy cái “mũ” mà họ chụp lên đầu Chúa Giêsu, chắc chắn cuộc thương khó sẽ xảy ra và cái chết là kết cục cho Ngài!
Để thuận lợi, giới lãnh đạo tôn giáo đã âm thầm đề nghị Giuđa, một người trong nhóm môn đệ của Chúa Giêsu là nội gián, tiếp tay từ bên trong. Quả thật, Giuđa đã nhận lời và chấp nhận trở thành nội thù khi bán Thầy với giá 30 đồng bạc qua dấu chỉ một cái hôn.
Ôi một sự chua xót và đau đớn vô cùng, bởi lẽ, nụ hôn là biểu lộ của tình yêu. Yêu ai thì mới trao cho nhau nụ hôn, ai ngờ nụ hôn của trò với Thầy lại là dấu chỉ đẩy Thầy vào chỗ chết!!!
Khi đã được Giuđa chỉ điểm và cho dấu hiệu, họ đã bắt Chúa Giêsu và trao nộp cho Philatô. Từ đây, Philatô cũng là những người có can hệ đến cuộc thương khó của Chúa Giêsu, bởi vì ông là người đại diện cho luật pháp, có trách nhiệm cầm cân nảy mực… Thế nhưng, thay vì làm việc mang tính công minh chính đại, ông lại bị sức ép từ phía dân chúng, sợ mất chức, mất quyền… nên đã phủi tay, không còn can đảm nghe theo tiếng Lương Tâm để bênh vực Người Công Chính, bảo vệ lẽ công bằng và đứng về phía người vô tội.
Thế là bản án tử hình được trao tặng cho Chúa Giêsu.
Như vậy, nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của những người can dự vào cuộc thương khó Chúa Giêsu chính là: kiêu ngạo, hèn nhát, gian dối, tham lam và sợ hãi…
2. Con người càng tàn bạo, lòng thương xót của Thiên Chúa càng rõ nét
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đây, có lẽ chúng ta sẽ nghĩ rằng: Thiên Chúa đã thất bại trước sự ác của con người! Công chính, công lý và sự thật đã nhường bước cho sự ác lên ngôi và lộng hành… Không! Chính lúc Con Thiên Chúa bị treo trên thập giá, ấy là lúc Thiên Chúa đang biểu lộ quyền năng và lòng thương xót của Người rõ nét hơn bao giờ hết!
Như đã nói: cuộc thương khó của Chúa Giêsu là một cuộc thương khó vô cùng nghịch lý, nhưng nó lại hợp lý đối với lòng dạ Thiên Chúa, bởi vì: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4, 16).
Quả thật, vì yêu, Người đã chấp nhận trao ban Con Một của mình cho nhân loại. Vì yêu, Chúa Giêsu đã xuống thế làm người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, để cứu chuộc chúng ta. Vì yêu, Chúa Giêsu đã một đời rao giảng lời Tình Yêu; Lời Hằng Sống; Lời Cứu Chuộc. Vì yêu, Ngài đã chữa lành và giải thoát con người khỏi bệnh tật phần xác, giải phóng cảnh nô lệ phần hồn.
Đỉnh cao của con đường thương xót, ấy là: Thiên Chúa muốn Con của Người đón nhận cái chết đau thương để giải thoát nhân loại cách toàn diện. Chúa Giêsu đã đón nhận con đường thương xót ấy trong tâm tình vâng phục và yêu mến, để lòng dạ xót thương của Thiên Chúa được lộ hiện…
Như vậy, qua cái chết của Chúa Giêsu hoàn toàn không phải là sự thất bại, nhưng là sự chiến thắng. Chiến thắng trong và do lòng thương xót của Thiên Chúa.
3. Chúng ta được mời gọi đi trên con đường của lòng thương xót mà Chúa Giêsu đã đi
Qua cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chúng ta hãy dừng lại để suy tư về hành trình theo Chúa của mỗi người chúng ta:
Bấy lâu nay, chúng ta đi theo Chúa trên con đường nào?
Trên con đường thương xót hay hận thù? Yêu thương hay ích kỷ? Hướng tha hay vụ lợi? Sứ vụ hay danh vọng?
Làm một cuộc cật vấn Lương Tâm như thế để thấy rõ con người thật của chính mình…, bởi vì có biết bao nhiêu mục đích, lựa chọn khác nhau như:
Có nhiều người theo Chúa như những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ. Họ là những người Công Giáo, thường xuyên đi lễ, nhà thờ, luôn tỏ vẻ đạo đức, nhưng thực ra những điều đó chỉ là bình phong cho một ý đồ đen tối, để khi thuận tiện, sẵn sàng làm hại Giáo Hội, coi rẻ Lương Tâm, bán đứng anh chị em mình… Sẵn sàng trở thành nội gián để tiếp tay cho những kẻ chống phá Giáo Hội! Những người này theo Chúa không phải vì yêu mến, kính trọng hay phần rỗi, nhưng theo Chúa để tìm dịp thuận tiện nộp Ngài, chẳng khác gì Giuđa!
Có những người theo Chúa, nhưng theo xa xa, theo nửa vời. Họ như dân Dothái xưa: khi hay thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì rời nhau ra… Vì thế, chúng ta không lạ gì khi vẫn còn đó những kẻ theo khi thuận tiện, những lúc khó khăn là rút lui… Không những thế, việc trối bỏ đức tin ngang qua những lựa chọn bất chính là điều dễ dàng xảy ra đối với những người này…
Cũng không thiếu những người theo Chúa như Philatô, họ theo vì nhu cầu lợi lộc, thực dụng. Vì thế, họ sống theo kiểu: “Sợ tiếng chửi và ăn mày tiếng khen”. Nếu vì Chúa mà ảnh hưởng đến cuộc sống, sự nghiệp, chức quyền…là họ “rửa tay” như Philatô.
Mong sao, ngày càng có nhiều người Kitô hữu theo Chúa như Đức Mẹ, thánh Gioan, bà Verônica, ông Simong, hay như một số phụ nữ… Các ngài theo vì lòng yêu mến, hiệp thông, để cảm, để thấu và muốn được cùng Thầy trở thành chứng nhân của lòng thương xót.
Lạy Chúa Giêsu, khi nghe bài Thương Khó hôn nay, xin cho chúng con không chỉ dừng lại ở sự xót xa nơi những lời vu khống không thương tiếc, những lằn roi tê tái, những lời nhục mạ bỉ ổi và những nhát đinh chết người mà con người dành cho Chúa!
Nhưng điều quan trọng, xin Chúa ban cho chúng con biết sống sứ điệp của Chúa ngang qua cuộc thương khó, để ước gì thế giới này được chan chứa tình yêu và hy vọng qua cuộc sống chứng nhân của chúng con. Amen.
48.Vâng theo ý Cha–Jos. Vinc. Ngọc Biển S.S.P.
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Đức Giêsu vào thành Giêrusalem để khởi đầu cuộc thương khó. Ngài tiến vào thành trong tiếng reo hò vang dội của dân chúng. Họ trải áo của mình xuống để lót đường cho Chúa đi. Tay cầm nhành lá thiên tuế vẫy chào. Miệng vang hò reo mừng: “Hoan hô con vua Đavít”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”.
Sự kiện Chúa vào thành làm cho dân chúng vui mừng và hy vọng. Họ mong ước từ lâu được nhìn thấy Chúa đến với họ trong cương vị của một vị vua, đến để giải thoát họ khỏi ách thống trị của đế quốc Lamã thời bấy giờ.
Còn Đức Giêsu, Ngài đến với tư cách gì, và, sứ mạng của Ngài ra sao?
1. Đức Giêsu đến để thực thi thánh ý Thiên Chúa Cha
Theo Tin Mừng Gioan thì: “lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa” (Ga 1,1). Thánh Gioan muốn xác quyết thật rõ ràng rằng: Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, vì thế Ngài luôn hướng về với Đấng mà Ngài đã từ đó mà đến trong thế gian này.
Điều này được chính Đức Giêsu minh định khi nói với Đức Mẹ và thánh Giuse lúc 12 tuổi, khi các ngài tìm thấy Chúa trong đền thờ, Ngài nói: cha mẹ không biết là con phải thi hành ý của Cha con sao?
Điều này đã được chính Chúa Cha giới thiệu với mọi người khi Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan: “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3, 22). Khởi đầu sứ vụ cứu rỗi, Đức Giêsu đã chịu cám dỗ (x. Mt 4,1-11). Satan dù thất bại, nhưng vẫn luôn chờ đợi thời cơ (x. Lc 4,13). Sự kiện này cho chúng ta thấy: Satan sẽ không ngừng cám dỗ Đức Giêsu sử dụng chức quyền để vụ lợi, để đề cao chính mình, để tranh thủ quyền lực thế gian, và mục đích cuối cùng của nó là loại bỏ sứ mạng Thiên Sai trong tư cách là Người Tôi Tớ của Giavê. Nhưng giờ đã đến, giờ phải bỏ thế gian để về cùng Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu đã vào vườn Giệtsimani cầu nguyện. Ngài đã linh nghiệm trước những đau khổ mà mình sẽ phải chịu để cứu độ nhân loại, nên Ngài toát mồ hôi máu, và, cũng với tư cách là Người Tôi Tớ đau khổ của Giavê, bằng lời cầu nguyện tại vườn Cây Dầu, Đức Giêsu bày tỏ sự tùng phục tuyệt đối ý định của Thiên Chúa Cha (x. Mc 14,36), bởi vì lương thực của Ngài chính là làm theo ý Chúa Cha.
Như vậy, việc Đức Giêsu vào thành Giêrrusalem là để khởi đầu cuộc thương khó và thực hiện ý định cứu độ nhân loại qua sự vâng phục trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa Cha trong sứ vụ Thiên Sai của Người Tôi Trung.
2. Đức Giêsu vào thành Giêrrusalem để chịu chết
Sứ mệnh cứu độ của Người Tôi Trung đã đến, Đức Giêsu nhất quyết lên Giêrusalem để chịu chết như lời Ngài đã tiên báo với các môn đệ: “Thày đi Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (x. Mt 16, 21).
Đức Giêsu biết trước điều đó, nhưng vì Ngài đến để thực thi sứ mạng của Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Và, “Chén Cha ta trao, lẽ nào ta không uống”. Ngài đã chấp nhận cái chết, để cho chúng ta được sống, như lời thánh Phaolô đã nói: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Nhờ Người mang những vết thương của anh em mà anh em đã được chữa lành” (1Pr 2,24).
Hôm nay, Đức Giêsu vào thành Giêrusalem để khởi đầu cuộc thương khó. Ngài đã thực sự sống mầu nhiệm tự hủy của hạt lúa: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trụi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống của mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (Ga 12, 23-25). Ngài đã chấp nhận đi theo con đường khổ nạn để đến vinh quang.
3. Sứ điệp Lời Chúa cho con người hôm nay
Sứ điệp Lời Chúa ngày hôm nay nhắc nhớ mỗi người chúng ta luôn hướng Thiên nhằm tìm thánh ý Thiên Chúa để thi hành. Chỉ khi nào chúng ta làm mọi sự theo thánh ý Chúa, thì khi đó ta mới được cứu độ. Đồng thời cũng phải hướng tha để đem lại hạnh phúc cho tha nhân. Con đường đó là con đường vâng phục; khiêm nhu và phục vụ; con đường của hạt lúa; con đường của khổ giá. Nói chung, con đường đó là con đường hẹp, con đường từ bỏ ý riêng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con sẵn sàng từ bỏ ý riêng của con để thay vào đó là ý Chúa. Xin cho con biết khiêm tốn và nhạy bén để nhận ra thánh ý Chúa mà thi hành. Xin cho biết dấn thân phục vụ và sẵn sàng chấp nhận tất cả vì phần rỗi của anh chị em con. Và, xin cho con được vác thập giá mình mà theo Chúa lên đồi Canvê, để được sống với Ngài trong vinh quang Phục sinh. Amen.
49.Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Chủ đề: Chúa Giêsu, Người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa, chịu chết vì sự sống trần gian.
Chết vì người khác là một nghĩa cử anh hùng, cao quý luôn được người đời tán dương và ca ngợi.
Cha Maximilian Kolbe, Linh mục dòng Thánh Phanxicô khó khăn, được cả thế giới biết đến vì một nghĩa cử anh hùng. Bị bắt giam trong nhà tù Auschewitz. Tại đây người ta áp dụng một đạo luật hết sức tàn nhẫn và bất công: nếu một người trốn trại thì người khác phải chết thay. Mục đích là để các tù nhân tự coi nhau. Năm đó, một tù nhân trốn trại, tất cả được gọi xếp hàng chờ tên cai ngục chỉ gọi tên. Gọi tên ai thì người đó phải chết. Một tù nhân được gọi tên mình, anh khóc lóc kêu gào vì còn cha mẹ già, vợ và bốn con. Đột nhiên một tù nhân bước ra khỏi hàng đến trước mặt tên quản trại: “Tôi muốn chết thay cho người này”. Hắn hết sức kinh ngạc trước hành động anh hùng của người tù. Hắn gằn giọng: “Mày là ai?” “Là linh mục công giáo”. “Không cần biết danh tính địa vị, ngu thì chết, vào hàng”. Thế là mười người được dẫn đi, bị bỏ đói cho đến chết. Cha Maximilian Kolbe là một trong số họ.
Ngày 10 tháng 10 năm 1982, Cha được Đức Giáo Hoàng J-P. II tôn phong lên hàng các thánh tử đạo. Một người đã chết vì sự sống của anh chị em mình. Cha thật là hình ảnh của Đức Kitô, Mục tử nhân lành, sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đoàn chiên: “Ta đến để cho chiên được sống và được sống dồi dào” (Jn 10, 10).
Câu chuyện cha Maximilian Kolbe mở lối cho chúng ta vào phụng vụ Lời Chúa hôm nay: Chúa Giêsu, Người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa, chịu nạn, chịu chết vì sự sống trần gian.
Bài đọc I, trích sách Ngôn sứ Isaia, phác họa chân dung Người Tôi Tớ Chúa:
• Là Người được Chúa huấn luyện để phục vụ lợi ích cộng đoàn, nhất là những người bé nhỏ, nghèo hèn, bất hạnh: Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Chúa huấn luyện để ngài luôn sống trong tỉnh thức, luôn sẵn sàng tìm kiếm và đáp trả thánh ý Chúa.
• Là Người ngoan ngoãn dễ dạy, khiêm tốn, hiền lành như con chiên bị dẫn đi làm thịt, không mở miệng than van, hiền lành nhẫn nại dạy đường lối Chúa cho kẻ bất lương với châm ngôn: cây lau bị dập, Người không bẻ gãy, tim đèn còn khói, Người không dập tắt.
• Là Người can đảm cứ đường lối Chúa mà đi, nghĩa là cương quyết sống trong và bảo vệ chân lý, chứ không phải là hạng người cuồng tín và liều lĩnh.
Người Tôi Tớ mẫu mực này chỉ có thể đậu lại nơi Chúa Giêsu, nơi Ngài hội tụ đến mức hoàn hảo các nhân đức mà Ngôn sứ Isaia diễn tả.
Marcô, trong bài Tin Mừng, ghi lại bản án tuyên đọc trên Chúa Giêsu. Chủ đích của ngài, không nhằm kê khai những tội trạng người ta vu khống và gán cho Chúa, nhưng đề cập đến những ân huệ dẫy tràn trên chúng ta trong cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa:
Ân huệ lớn lao nhất là bí tích Thánh Thể. Trong khi cử hành lễ Vượt Qua theo truyền thống Do Thái, Chúa Giêsu muốn sống lại biến cố được giải thoát khỏi kiếp nô lệ Ai-Cập, đồng thời Ngài muốn thực hiện cho dân mới một lễ Vượt Qua mới mà chiên vượt qua là chính bản thân Ngài được hiến tế vì chúng ta. Này là Mình Ta, này là Máu Ta, máu giao ước mới và vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được ơn tha tội, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Ân huệ ấy được thực hiện trong thời gian cho đến tận thế, vì lẽ, mỗi khi bí tích Thánh Thể được cử hành là mỗi lần ơn cứu độ chúng ta được thực hiện.
Hồng ân sự sống được ban tặng trong sự chết của Đức Giêsu, Người Tôi Tớ Thiên Chúa. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã thực hiện kế hoạch của Chúa Cha: “Nơi cạnh sườn của Đấng bị đâm thâu qua, máu và nước chảy ra, từ đó phát sinh các bí tích của Hội Thánh, để lôi kéo mọi người đến cùng trái tim rộng mở của Đấng Cứu Thế, thì muôn đời hân hoan kín múc tận nguồn ơn cứu độ” (kinh tiền tụng lễ Thánh Tâm).
Người kitô hữu không coi thập giá là phương tiện hành hình tội nhân, mà coi như dấu chỉ của sự bình an, của tình yêu, ơn tha thứ và sự sống: “Phần tôi, khi nào được giương cao lên khỏi đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi” (Ga 12, 32). Do vậy, trong ngày thứ sáu tuần thánh, chúng ta tôn vinh thập giá của Đấng chịu đóng đinh: “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người ơn cứu độ ta, sức sống của ta và sự phục sinh của ta” (phụng vụ thứ sáu tuần thánh).
Đức Giêsu vì yêu thương đã tự hiến, tự hủy mình ra không vì chúng ta và vì sự sống trần gian. Thánh Phaolô, trong bài đọc II, nhìn thấy thập giá trong biến cố Ngôi Lời nhập thể: “Đức Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa…”. Trong sự tự hủy “trở nên người”, Ngài đã kéo chúng ta lên địa vị làm con Thiên Chúa.
Bạn thân mến,
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta điều này: Thiên Chúa rất mực yêu thương, rất khôn ngoan lo liệu hết mọi phương thế để chúng ta được ơn cứu độ và được sống. Chúng ta có thâm tín rằng: Chúa yêu tôi và Ngài đã chết vì tôi không? Đây là câu trả lời hệ trọng, vì nó kéo theo cả cuộc đời vào trong tâm tình cảm mến tri ân Đấng đã yêu thương và chết vì chúng ta là kẻ có tội. Khi anh em còn là tội nhân thì theo kỳ hẹn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta là những kẻ có tội.
Để cảm tạ và đáp đền lòng Chúa yêu thương, mỗi người chúng ta cần có lòng sám hối, ăn năn và nhất là sinh hoa quả xứng với lòng sám hối. Một đời sống phù hợp với Tin Mừng: công bằng, chính trực, bác ái, yêu thương, nhất là xây dựng tình hiệp thông từ trong gia đình tới cộng xã hội nơi chung ta cùng chung sống.
Một khi đã được mặc lấy Chúa Giêsu, anh em đừng theo lối sống xưa kia, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc. Nếu cuộc đời chúng ta sống tâm tư của Chúa, chắc chắn sẽ có con người mới, gia đình mới, xã hội mới và một thế giới mới.
Xin Chúa thương chúc lành cho chúng ta trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay. Amen.
50.Con Chiên vô tội–Lm Hồng Phúc
Hôm nay bắt đầu Tuần Thánh, tuần trọng đại nhất trong năm và Chúa nhật Lễ Lá là Chúa nhật khởi đầu sự Thương Khó Chúa. Hôm nay, Giáo hội bắt đầu đọc lại cuộc Thương Khó Chúa Giêsu theo Thánh Luca. Chúng ta có thể nói rằng Luca đã chia thành 3 ý tưởng chính:
Một là người đặt câu hỏi: Vì sao đời của Chúa lại đến nông nỗi này? Và người đã đi tìm nguyên do sâu xa: Đó là quyền lực ma quỉ. Cuộc tử nạn là cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và ma quỉ, giữa sự thiện và sự ác. Khi Chúa Giêsu chịu ma quỉ cám dỗ trong rừng vắng, Luca kết thúc câu chuyện bằng một câu: “Ma quỉ rút lui để chờ dịp khác” (4, 18). Thì nay dịp ấy đã đến. Ma quỉ vào trong lòng tên phản bội là Giuđa (22, 3). Ma quỉ muốn sàng Phêrô và các môn đệ như sàng gạo (22, 31), và cuộc đau thương trong vườn Giệtsimani được mô tả như là giờ của quyền lực tối tăm đã đến.
Trong cuộc giao tranh giữa Chúa Giêsu và quyền lực tăm tối ấy, Luca cho ta thấy Chúa đã dùng hai thứ khí giới Ngài quen dùng. Trước hết là sự cầu nguyện. Ngài sấp mình xuống cầu nguyện, mồ hôi chảy hòa với máu (22, 40-44). Rồi Ngài tỏ ra nhân từ tha thứ, Ngài đón tên phản bội, Ngài chữa lành đứa đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai, Ngài quay lại nhìn Phêrô vừa chối thầy, Ngài an ủi những phụ nữ khóc than, Ngài cầu cho những kẻ đóng đinh, hứa Thiên đàng cho người ăn trộm, và lời cuối cùng là một lời phó thác: “Con xin phó linh hồn con trong tay cha” (23, 46).
Sau cùng, qua tất cả tường thuật của Luca về cuộc tử nạn, chúng ta thấy nổi bật lên sự vô tội của Chúa. Philatô tuyên bố: Ta không thấy tội gì nơi người này (23, 4), Herođê cũng không thấy Ngài có tội gì, nên dạy đem trả lại cho Philatô (23, 11). Các người phụ nữ Gierusalem cũng không cầm được nước mắt (23, 27-31). Người trộm lành trên thập giá cũng nói lên rằng: “Ông không làm điều gì trái!” (23, 41). Và sau khi Chúa chết, người đội trưởng cũng kêu: “Người này là người công chính” (23, 42), và dân chúng ra về đấm ngực ăn năn vì đã đổ máu một người vô tội.
Ngài là Con Chiên vô tội đã gánh lấy tội lỗi thế gian, tội của chúng ta hết thảy.
Thánh Anphongsô nói: “Tuần Thánh là tuần của Tình yêu, chúng ta hãy đem hết tình để sống những ngày Thánh này. Chúng ta hãy trở về với Chúa. Chúa đang chờ ta và tha thứ cho chúng ta”.
Tại một ngôi Thánh đường ở bên Đức người ta còn thấy một pho tượng Thánh giá chuộc tội đặc biệt: Chúa bị treo trên thập giá, nhưng một tay thì còn bị đóng đinh vào thập tự giá, còn tay kia lại buông rũ xuống thân mình. Số là trước đây có một người có tội đã hết lòng sám hối ăn năn đến quì trước pho tượng này. Ông ăn năn nhưng vẫn còn run sợ không biết Chúa có tha cho không? Thì bỗng nhiên, một cánh tay Chúa rút ra khỏi lỗ đinh và ôm chầm lấy cổ ông trong một bộ điệu yêu thương và tha thứ và cánh tay ấy còn thấy ngày nay nơi pho tượng lịch sử.
Chúa cũng đang chờ chúng ta để tha thứ! Chúng ta hãy đến với Chúa trong tuần trọng đại này.
51.Tin và không tin–Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Thưa quý ông bà và anh chị em,
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo hội bước vào Tuần Thánh được khai mạc bằng nghi thức làm phép và kiệu lá, tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem được người Do Thái tung hô: Hoan hô con vua Davit! Trong suốt Tuần Thánh cũng là tuần lễ Gíao hội theo sát Đức Giêsu trong những ngày cuối cùng của Ngài cho đến khi bước vào cuộc khổ nạn. Khung cảnh ngày lễ hôm nay mang màu sác tương phản, lúc đầu lễ là một cuộc rước tưng bừng theo hình ảnh cuộc rước của dân Do Thái ngày xưa khi Đức Giêsu công khai vào thành Giêrusalem trong tư cách là Vua Mesia, ngay sau đó các bài đọc và bài Tin Mừng lại kể về cuộc thương khó của Người. Trong trình thuật cuộc thương khó cho thấy những người Do Thái đồng hương của Chúa, họ tìm mọi cách để loại trừ Đức Giêsu vì họ không tin Ngài là Đấng Mesia – Con Thiên Chúa, trong khi đó chứng kiến cuộc khổ nạn của Ngài thì những người dân ngoại lại tin nhận Ngài là người công chính.
Những người Do Thái họ muốn loại trừ Chúa Giêsu vì thấy Đức Giêsu không như họ nghĩ và Ngài đã không đáp ứng những điều họ muốn, những người này không chấp nhận một vị Thiên Chúa mà lại khiêm nhu mang gương mặt của một người đầy tớ như bài đọc thứ nhất mô tả. Trong khi họ chờ đợi một Đấng Mesia oai phong, bách chiến bách thắng, thì Isaia lại nói về một tôi tớ khiêm hạ, đưa lưng cho kẻ đánh mình, và đưa má cho kẻ giật râu, không tránh né những lời nhạo cười phỉ nhổ.
Hình ảnh người tôi tớ của Thiên Chúa đã ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, Đấng đã đến và sống theo tinh thần của một người tôi tớ phục vụ, và cư xử nhân từ tha thứ, trong khi đó người Do Thái lại muốn một Thiên Chúa phảỉ trừng phạt hết những kẻ mà họ cho xấu xa, như quân La Mã để đem lại sự độc lập và thịnh vượng cho đất nước, họ không chấp nhận Đức Giêsu giao du tiếp xúc với người thu thuế và tội lỗi, họ muốn một Thiên Chúa phải đáp ứng ngay lập tức những thứ họ cần. Chính vì Đức Giêsu đã không như họ mong đợi, nên những người Do Thái đã muốn mượn tay Philatô để loại trừ Ngài.
Để thực hiện ý đồ này, những người lãnh đạo Do Thái đã không ngần ngại vu khống bịa chuyện, xuyên tạc để có cớ lên án Chúa Giêsu. Những người Do Thái cho là Chúa Giêsu nói phạm thượng khi Ngài xưng mình là Con Thiên Chúa, là Đấng đến từ Thiên Chúa và làm những việc của Thiên Chúa, họ cho rằng Chúa Giêsu lộng ngôn khi dám tuyên bố tha tội cho người mù và người bại liệt, và là người vô đạo khi vi phạm trầm trọng luật nghỉ việc ngày Sabat. Từ những xung khắc ban đầu hoàn toàn chỉ là những vấn đề liên quan đến niềm tin tôn giáo và những cáo buộc về tôn giáo tại dinh Caipha, thì sáng hôm sau, vì nhất quyết loại trừ Chúa Giêsu, những người Do Thái đã dẫn Chúa Giêsu đến dinh Philatô và bịa ra những vấn đề chính trị xã hội để cáo buộc Ngài, và vu cho Ngài như là một tội phạm chính trị: Tên này đã xúi dân làm loại, đã tự xưng mình là vua, đã ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế La-mã.
Bài tường thuật cũng cho thấy, Chúa Giêsu đã trở thành nạn nhân của con người và trở thành trò chơi cho các thế lực và như quả bóng trên sân chính trị của con người. Tất cả những việc làm vì yêu thương của Chúa đối với dân chúng, thì giờ đây lại bị coi như là những thứ để họ đùa cợt, trong khi quan Philatô không tìm ra tội gì nơi Chúa Giêsu thì những người Do Thái lại đòi giết Ngài, Philatô muốn phủi trách nhiệm của mình không chỉ bằng việc rửa tay để cho rằng mình là người vô can, mà ông còn chuyển giao Đức Giêsu cho vua Hêrôđê để khỏi mang trách nhiệm. Vua Hêrôđê, đùa cợt coi thường và còn thách thức Chúa Giêsu làm vài phép lạ để xem cho vui, và khi không được như ý muốn, thì ông cho rằng Chúa Giêsu là một người điên và trả lại cho Hêrôđê. Mặc dù việc làm này cho thấy Chúa Giêsu trở thành như quả bóng bị đá qua đá lại giữa những người có thế lực, như Thánh Luca lại cho thấy, nhờ Chúa Giêsu mà Hêrôđê và Philatô đã trở nên thân thiết với nhau xóa bỏ được sự thù hằn đã lâu.
Từ sự căm thù, mà những thượng tế và luật sĩ đã cố tình muốn đưa Đức Giêsu đến cái chết, mặc dù Philatô đã mượn cả Hêrôđê để cho thấy Chúa Giêsu là người vô tội, nhưng các thượng tế và luật sĩ vẫn muốn loại trừ Ngài, và đánh đổi Ngài để lấy một tên trộm cướp giết người tên là Baraba. Cuối cùng Philatô cũng phải chiều theo ý họ, giao Đức Giêsu vào tay họ để họ thỏa mãn cái ác của mình và đem đi đóng đinh. Kế hoạch của người Do Thái đến đây đã thành công, kẻ mà họ muốn loại trừ đã ở trong tay họ, cái ác đã thắng thế và càng ngày càng đi đến tột cùng, họ điên cuồng gào thét, họ hả hê thỏa mãn vì thành công của mình là đã loại trừ được Đức Giêsu bằng việc đóng đinh Ngài vào thập giá và đứng dưới chân thập giá để nhạo cười thách thức Người: nếu ông là con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin.
Còn về phía Chúa Giêsu, Ngài đã im lặng và đón nhận tất cả những sự độc ác và gian dối mà con người đang trút xuống trên Ngài, với lòng tin vào quyền năng và sự chiến thắng của sự thiện trên sự ác, của Thiên Chúa trên ma quỷ, của tình yêu thương trên hận thù. Trên cây thập giá khi mà tay chân bị đóng chặt vào cây gỗ, đau đớn đến tột cùng vì sư phản bội của các môn đệ, sự bội bạc tráo trở vô ơn của dân chúng, và sự độc ác dã man của con người, Chúa Giêsu đã hướng về Thiên Chúa Cha để xin Thiên Chúa Cha tha thứ tội lỗi cho nhân loại cho những người gây ra cái chết cho mình, cho những kẻ đang nhạo cười Người: Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết việc họ làm. Chính khi ở trên cây thập giá Chúa Giêsu đã làm cho tình yêu thương trổ sinh hoa trái là sự tha thứ, và chính lúc bị treo, bị mọi người từ chối, thì viên sĩ quan người Rôma lại nhận ra kẻ tử tội mà ông vừa mới hành hình là Người Công Chính, là Con Thiên Chúa. Viên sĩ quan này đã tin vì đã chứng kiến từ đầu của bản án và thấy ở nơi Đức Giêsu sự nhân từ và tha thứ, điều mà ông chưa bao giờ thấy ở nơi các tử tội khác.
Thưa quý ông bà và anh chị em, không phải chỉ có người Do Thái ngày xưa họ muốn loại trừ Chúa Giêsu, mà ngày nay thế giới và con người cũng vẫn đang muốn tìm mọi cách để loại trừ Ngài. Trong Tông Thư Cánh cửa Đức tin, Đức Thánh Cha Benedictô cũng cho thấy thế giới ngày hôm nay vẫn đang tìm cách loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, ra khỏi thế giới và ra khỏi tâm hồn họ. Con người ngày nay dường như họ sợ Thiên Chúa ngăn cản lối sống buông thả dễ dãi của họ, họ sơ Thiên Chúa đòi họ phải sống nghèo khó thay vì chạy theo lối sống vật chất hưởng thụ, họ sợ Thiên Chúa đòi họ phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy thay vì trả thù trả đũa, cấm vận, và người ta không muốn chấp nhận một Thiên Chúa đòi con người phải từ bỏ phải hy sinh và dám sống theo ngài, chính vì thế mà người ta tìm cách loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống họ.
Không chỉ những người vô thần hoặc thế giới đang tìm cách loại trừ Thiên Chúa, mà ngay những người mang danh là Kitô hữu, cũng đang xa rời Ngài, vì cho rằng Đức Kitô gây cản trở cho tự do của họ. Chính vì thế, nhiều người tín hữu ngày nay mang danh là Kitô hữu nhưng lại không thực hành niềm tin của mình, không hiểu biết về Thiên Chúa và không yêu mến Ngài, và cũng không có Chuá trong tâm hồn, vì nhiều người đã lười biếng không đón nhận Ngài vào tâm hồn, không muốn để cho lời Ngài hướng dẫn mình, họ sống một đời sống tôn giáo khô khan, không tham dự nghi lễ hoặc chỉ tham dự một cách hời hợi cho qua lần.
Chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa hôm nay, mỗi người hãy tự đặt cho mình cầu hỏi: tôi có còn tin thật Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hay không và tôi sẽ phải làm gì để tuyên xưng và diễn tả đức tin ấy trong cuộc sống hiện tại của tôi?
Cầu chúc cho mọi người có những ngày Tuần Thánh thật sốt sáng, theo sát Đức Giêsu trên con đường yêu thương và dành những phút thinh lặng trong ngày để chiêm ngắm về một tình yêu đến cùng mà Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Amen.
52.Cùng theo Chúa–Lm. Nguyễn Nguyên
Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu bằng việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thủ đô Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông nô nức phất cao cành lá “Hoan hô con Vua Đavít” có vẻ giống một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn thương khó mỉa mai nhất và cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc đời Chúa Giêsu.
Thật vậy, khi cho chúng ta nghe lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu, không phải để gợi lên trong ta niềm thương cảm đau xót, nhưng là muốn mời gọi chúng ta hãy can đảm bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá. Rước lá đi theo Chúa một vòng quanh nhà thờ hay trong vài giờ là điều dễ. Theo Chúa giữa lúc Ngài được tung hô, cũng chẳng khó khăn gì. Nhưng theo Chúa khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều. Tin mừng cho thấy không một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. Bước vào tuần thánh, người tín hữu kytô chúng ta được mời gọi bước theo Chúa Kytô trên con đường thập giá. Những nẻo đường không phải lúc nào cũng thuận lợi, êm ái. Vì luôn có đó những thánh giá – đời cũng như đạo.
Đúng như vậy, bước đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá hôm nay, cho dù chúng ta không bị đòn vọt, tù tội, không có mão gai, không bị đóng đinh vào tay chân, không bị lưỡi đòng đâm thâu, nhưng cũng không kém phần khốc liệt. Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn phải đối diện với nỗi đau đớn của sự phản bội, vu khống, bội bạc của những người đang cùng sống với chúng ta. Thậm chí, có khi sự vô ơn, bội bạc đó còn đến bởi những người thân yêu nhất của chúng ta, những người cùng chung chăn chung gối, anh chị em trong một nhà, con cái, bạn bè…
Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta đặt vật chất, danh vọng và thú vui là trên hết, còn ta lại chọn Chúa và đặt Chúa làm giá trị cao nhất là ta đang vác thập giá theo Chúa Giêsu.
Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta chỉ muốn hưởng lạc thú thể xác mà không muốn sinh con, người ta dễ dàng “khóc”, và lớn tiếng kêu gọi “chia sẻ” khi thấy những nạn nhân của sóng thần, thiên tai, nhưng lại cho phép và cổ võ việc giết những con người vô tội, vô phương chống cự, đó là những thai nhi còn nằm trong bụng mẹ, hay những người già yếu, bệnh tật. Còn ta, ta biết cộng tác với Chúa một cách ý thức và trách nhiệm trong việc sinh và giáo dục những con người mới là ta đang vác thập giá theo Chúa Kitô.
Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta xem lường gạt và dối trá như đút lót, tham nhũng, hay đơn giản hơn, việc “quay” bài của các em học sinh là điều bình thường, còn ta, ta sống chân thật chấp nhận chịu thiệt thòi, mất mát là ta đang vác thập giá theo Chúa Giêsu.
Như vậy, bước vào Tuần thương khó, giáo hội mời gọi mỗi chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa bằng cách sống đời sống công chính – đời sống đòi hỏi khước từ những quyến rũ của những thực tại phù vân, đòi hỏi đóng đinh tính xác thịt mình, đòi hỏi chấp nhận đau khổ, chấp nhận hiến thân, hy sinh vì phần rỗi của mình và của người khác. Tuy nhiên, để có thể bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá, chúng ta phải chấp nhận đi ngược với suy nghĩ, với cách sống của con người hôm nay, và lúc ấy người kitô hữu chúng ta sẽ cảm thấy mình như cô đơn, như đang đứng bên lề của xã hội.
Thế nhưng, cho dù vậy, chúng ta cũng không được phép nản lòng, thối chí, bởi vì chúng ta tin rằng, chúng ta không vác thập giá một mình, chúng ta có Đức Giêsu, người Thầy, người bạn, và là Chúa của chúng ta cùng vác với chúng ta. Và nếu chúng ta dám đi trọn con đường thập giá với Ngài, thì chắc chắn, cuối cùng chúng ta cũng sẽ được cùng Ngài hưởng trọn niềm vui của cuộc Phục Sinh vinh hiển. Xin Chúa Giêsu, Đấng đã từng chịu đau khổ thêm sức cho mỗi người chúng ta, để chúng ta cùng chết với Chúa nhờ đó mai sau được cùng Người phục sinh vinh hiển. Amen.
53.Ba nỗi đau khổ–Lm. Mark Link
“Chúa Giêsu đã chịu đau khổ trong ba phương cách như chúng ta chịu về tinh thần, thể xác và tâm linh”
Trong thời thế chiến II, linh mục Titus Brandsma làm viện trưởng một đại học tại Hòa Lan. Ngài bị Đức Quốc Xã đem về trại tập trung ở Dachau. Nơi đây, ngài bị biệt giam trong một chiếc cũi nhốt chó cũ kỹ. Bọn lính gác mua vui bằng cách bắt ngài phải sủa lên như chó mỗi lần chúng đi ngang qua. Cuối cùng ngài bị chết vì bị tra tấn. Bọn lính kia đâu có ngờ rằng ngay giữa cơn thử thách, vị linh mục ấy vẫn tiếp tục viết nhật ký giữa những dòng chữ in trong quyển sách kinh cũ của ngài. Ngài kể lại rằng, sở dĩ ngài có thể chịu đựng được nỗi đau đớn là vì ngài biết rằng Chúa Giêsu cũng đã từng chịu đau khổ như thế. Trong một bài thơ ngỏ gởi Chúa Giêsu, ngài viết: “Sẽ không có đau đớn nào làm con gục ngã, bởi con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy khổ đau của Chúa. Con đường cô độc mà Chúa từng đi qua đã giúp con chịu đựng nỗi cay đắng một cách khôn ngoan. Tình yêu của Chúa đã biến màn đêm tăm tối trong con thành nguồn sáng rực rỡ. Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với con, chỉ cần ở lại thôi. Con sẽ chẳng còn sợ hãi chi nếu khi đưa đôi tay ra con cảm thấy Chúa đang ở bên con.” (Kilian Healy, Walking with God).
Sự thống khổ của Chúa Giêsu được chúng ta đặc biệt nhắc lại trong ngày hôm nay đã từng là nguồn sức mạnh cho rất nhiều người trong lịch sử. Giống như linh mục Brandsma, những người này sẽ không bao giờ chịu đựng nổi sự đau đớn nếu họ không biết rằng Chúa Giêsu đã từng chịu đau khổ như vậy, và Ngài hiện đang nâng đỡ họ trong giây phút thử thách.
Khi nhìn lại sự thống khổ của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Người đã chịu đau khổ dưới cả ba hình thức khác nhau.
Trước hết là đau khổ tinh thần. Chúa Giêsu chịu đau khổ này trong vườn Cây Dầu, Người đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến thử thách trước mặt, đồng thời Người rất đau khổ khi các môn đệ phản bội và bỏ Người chạy trốn hết. Tất cả chúng ta đều cảm nghiệm sự đau khổ tinh thần này, tỉ như một cậu bé 15 tuổi bỏ nhà ra đi đã mô tả sự đau khổ tinh thần của mình trong cuộc phỏng vấn của tạp chí Parade như sau: “Tôi không bao giờ thực sự có được một mái nhà, tôi không bao giờ được thực sự nhìn thấy người cha của tôi. Tôi luôn cô độc… Tôi cảm thấy có gì sái quấy nơi tôi. Chắc là tôi tệ lắm. Tôi cảm thấy mình không hiện hữu, vì chẳng có ai yêu mến tôi.” Trong lúc đau khổ tinh thần như thế, chúng ta chỉ còn một nguồn an ủi duy nhất, đó la biết rằng chính Chúa Giêsu từng bị đau khổ như thế trước chúng ta, và Người hiện đang nâng đỡ chúng ta trong khi bị thử thách.
Tiếp đến, Chúa Giêsu từng bị đau khổ nơi thể xác. Người bị đánh đập tàn bạo, bị đội mão gai và bị đóng đinh vào thập giá. Và chúng ta, ít nhiều cũng đã từng chịu những đau đớn phần xác. Đây là loại đau đớn mà bác sĩ Sheila Cassidy đã phải gánh chịu khi ở Chile vào đầu thập niên 1970. Cô là một bác sĩ y khoa và đã phạm một lỗi lầm tai hại là đã chữa lành vết thương cho một phần tử chống đối chính phủ. Cảnh sát đã bắt cô và tra tấn buộc cô phải khai tên những người dính líu đến phong trào chống đối.
Giống như Chúa Giêsu bị treo trên thập giá, cô cũng bị căng thây trong bốn ngày. Nhớ về sự thử thách ấy cô viết:
“Tôi cảm nghiệm được một cách mơ hồ về sự đau đớn mà Chúa Giêsu từng chịu. Trong suốt cơn thử thách, tôi luôn luôn cảm thấy Người ở đó, và tôi nài xin Người giúp tôi được kiên vững.“
Cũng thế, trong giờ phút chịu đau đớn thể xác, chúng ta thường chỉ còn nguồn an ủi là biết rằng Chúa Giêsu đã từng chịu đau đớn như thế, và Người hiện đang nâng đỡ chúng ta trong cơn thử thách này.
Và cuối cùng, chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu cũng từng chịu đau đớn về tâm linh. Tỉ như, khi Người bị treo bơ vơ trên thập giá, dường như chính Chúa Cha cũng đã ruồng bỏ Người. Chúa Giêsu cầu xin: “Lạy Chúa con, lạy Chúa con, sao Ngài lại bỏ rơi con” (TV 22:1). Tất cả chúng ta cũng từng gặp đau khổ tâm linh giống như Người. Nhiều lần, chúng ta cảm thấy như bị Chúa bỏ rơi. Đây là sự đau đớn mà Walter Ciszel, vị linh mục người Hoa Kỳ đã từng chịu khi bị cầm tù ở Nga suốt 23 năm. Có lúc, tâm linh ngài bị suy sụp đến mức gần như tuyệt vọng. Nhưng thay vì đầu hàng, ngài lại biết noi gương Chúa Giêsu trên thập giá, hướng về Thiên Chúa Cha trong cơn thử thách. Cha Walter Ciszel viết:
“Tôi thưa với Chúa rằng, hiện giờ mọi khả năng của tôi đều cạn kiệt và chỉ còn Ngài là nguồn hy vọng duy nhất của tôi… Tôi chỉ có thể mô tả lại cảm nghiệm này giống như một sự ‘phó mặc‘”
Vào lúc bấy giờ, lần đầu tiên, cha Ciszel hiểu được những lời cuối cùng trên thập giá của Chúa Giêsu: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc. 23:46). Về sau, cha Ciszel nói rằng chính quyết định phó thác ấy đã giúp ngài kiên định và sống sót.
Như thế, Chúa Giêsu đã từng chịu cả ba sự đau đớn mà con người có thể gặp phải. Người đau đớn tinh thần vì bị các môn đệ phản bội. Người đau đớn thể xác vì bị tra tấn, và sau cùng Người đau đớn tâm linh khi cảm thấy bị Chúa Cha bỏ rơi. Đây chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu trao lại cho chúng ta, để khi gặp bất cứ đau khổ nào, chúng ta cũng biết hướng về Chúa Giêsu. Người hiểu được sự đau khổ của chúng ta và sẵn sàng nâng đỡ chúng ta. Từ đó, chúng ta hãy trở lại câu chuyện mở đầu nói về Cha Brandsma. Khi gặp đau đớn dưới bất cứ hình thức nào, không có gì tốt hơn là chúng ta hãy lập lại những lời mà Cha Brandsma đã cầu nguyện với Chúa Giêsu: “Sẽ không có đau đớn nào làm con gục ngã, bởi con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy khổ đau của Chúa. Con đường cô độc mà Chúa từng đi qua đã giúp con chịu đựng nỗi cay đắng một cách khôn ngoan. Tình yêu của Chúa đã biến màn đêm tăm tối trong con thành nguồn sáng rực rỡ. Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với con, chỉ cần ở lại thôi. Con sẽ chẳng còn sợ hãi chi nếu khi đưa đôi tay ra con cảm thấy Chúa đang ở bên con.”
54.Qua đau khổ thánh giá, tới vinh quang phục sinh–Lm Trần Bình Trọng
Vào những ngày cuối cùng của cuộc đời tại thế, Chúa bị Giuđa phản bội. Giuđa nộp Thày mình để đổi lấy ba mươi đồng bạc. Nghĩ đến cái viễn tượng đau khổ và tử nạn Người sắp phải chịu, Chúa đi ra núi Ôliu cầu nguyện. Chúa cầu nguyện xong thì Giuđa, kẻ phản bội dẫn một toán người đến bắt Chúa bằng một dấu hiệu là cái hôn. Để bảo vệ Thày mình, một người trong nhóm các tông đồ tuốt gươm chém đứt tai bên phải của tên đày tớ của thượng tế. Phúc âm không nói ai chém. Tuy nhiên các học gỉa Kinh thánh và hầu hết mọi người đồng ý là Phêrô. Nói đến việc chém đứt tai thì có người kia từ nhỏ vẫn thắc mắc sao ông Phêrô chém kiểu nào mà chỉ làm đứt tai tên đầy tớ thôi, mà không làm bị thương vai hay cổ? Người đó lý luận: nếu Thánh Phêrô bổ từ trên xuống dưới thì thế nào cũng làm bị thương vai của người đầy tớ. Nếu chém chéo, thì không những làm đứt tai mà còn làm bị thương cả cổ nữa. Cho nên người nêu thắc mắc kết luận rằng Thánh Phêrô đã phải luyện chưởng, biết dùng nội công để cho thanh gươm dừng lại ở điểm nào đó cho khỏi làm bị thương cổ hoặc vai của tên đày tớ. Như vậy thánh Phêrô chỉ chém để cảnh cáo cho quân lính đến bắt Chúa như là nói với chúng: Tụi bay đừng có đụng đến Thày của tụi tao kẻo sẽ phải chung số phận. Tuy nhiên đường lối của Chúa thì khác với đường lối loài người. Đường lối của Chúa là vâng phục thánh ý Chúa Cha cho nên Chúa Giêsu bảo Phêrô dừng lại và rồi chữa cho lành tai của tên đầy tớ.
Hãy tưởng tượng xem những đau khổ về thân xác và tâm hồn mà Chúa phải chịu vào những ngày cuối đời. Một tông đồ thân tín phản bội bằng một cái hôn, tông đồ khác chối Chúa. Số còn lại thì lẩn trốn, không dám xuất đầu lộ diện để khỏi bị liên lụy. Philatô thấy Chúa Giêsu không làm gì đáng tội cho nên muốn tha cho Người. Còn dân chúng thì nhạo bánh, vu oan, khinh rể và xúc phạm đến Chúa. Họ cứ khăng khăng đòi đóng đinh Chúa. Vì áp lực, Philatô đã phải nhượng bộ cho đóng đinh Chúa. Trên thánh giá, chỉ có ba cái đinh giữ xác Chúa lại, chứ người ta không cột chân tay Chúa vào thánh giá, và không có bệ đỡ chân Chúa. Đa số những cây thánh giá mà người ta làm để tôn kính thì thấy có bệ dốc. Mà bệ dốc như vậy thì cũng không đỡ được chân Chúa khỏi trụt xuống. Cho nên thân xác kéo ghì xuống làm vết thương ở hai tay và chân toạc ra, đau nhức, và xương sườn bị giãn ra. Máu cùng nước trào ra từ tay chân và cạnh sườn. Kiệt sức mà chết. Đừng tưởng rằng những đau khổ mà Chúa phải chịu không là gì vì Chúa là Chúa. Không phải vậy. Chúa Giêsu cũng là người. Chúa không phải là năm mươi phần trăm Chúa và năm mươi phần trăm người cộng lại. Chúa Giêsu là 100% Chúa và là 100% người. Với tư cách là người, Chúa cũng sợ đau khổ và sợ chết. Chúa đã chịu đau khổ tột bậc.
Phúc âm hôm nay ghi lại, trong vườn Ôliu, lòng Chúa xao xuyến bồi hồi (Lc 22:44). Chúa xin với Thiên Chúa Cha cho Người khỏi phải uống chén đắng, nghĩa là khỏi phải chịu khổ và chịu chết. Vì thế trong khi cầu nguyện, mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất (Lc 22:44). Tuy nhiên Chúa cũng xin vâng theo thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu đã phải đồng hoá mình với người tôi tớ chịu đau khổ của Giavê trong sách tiên tri Isaia hôm nay: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ (Is 50:6). Còn Thánh Phaolô thì ghi lại về Chúa như sau: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá (Pl 2:8).
Chúa đã chịu chết không hẳn cho nhân loại tội lỗi xa xưa. Chúa còn chịu khổ hình và chịu chết cho tội lỗi mỗi người để ta được sống. Trong Mùa chay ta đã làm gì để đền bù tội lỗi? Ta đã làm gì để nhổ gai nhọn nhận vào đầu Chúa hay ta đã đónh thêm gai nhọn và đinh vào đầu và mình Chúa? Ta đã lãm gì để an ủi Chúa và an ủi những người xấu xố là hình ảnh và là hiện thân của Thân thể Màu nhiệm của Chúa: đói khát, rách rưới, đau yếu, bệnh tật, tù đầy, vô gia cư, vô nghề nghiệp…? Hay ta chỉ phàn nàn, kêu trách Chúa, và than thân trách phận?
55.Cuộc thương khó của Chúa–Lm Micae Võ Thành Nhân
Khi Chúa chịu phép rửa tại sông Giođan, Chúa cha tuyên phán Chúa là Con Chí Ái của Chúa Cha, đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng. Chúa Cha khen Chúa trước mặt con người nhân loại chúng ta là bởi vì Chúa sống quá khiêm nhường. Chúa đứng về phía chúng ta là tội nhân. Chúa bênh đỡ, phù trì, chở che chúng ta. Chính vì thế mà Chúa Cha đã mở cửa nước thiên đàng cho chúng ta (Lc 3, 21 – 22).
Ngày Chúa biến hình trên núi Tabo (Lc 9, 28 – 36). Chúa Cha tuyên dương Chúa là Con Yêu Dấu của Chúa Cha, Con làm đẹp lòng Cha mọi đàng. Bởi vì Chúa vâng lời Chúa Cha. Chúa chấp nhận chịu chết trên thập giá để cứu chúng ta. Mặc dù Chúa chưa có chịu chết. Nhưng sự vâng lời Chúa đã làm cho Chúa Cha rất hài lòng về Chúa. Chúa Cha đã ban cho Chúa được biến hình sáng láng, không có gì trên trần gian này sánh ví được cái đẹp lộng lẫy của Chúa.
Hai lần Chúa Cha tuyên dương Chúa. Chúa Cha hạnh phúc, hãnh diện về Chúa biết là dường nào, để rồi Chúa Cha khoe Chúa cho chúng ta và Chúa Cha nói cho con người chúng ta hãy bắt chước Chúa, sống như Chúa, vâng lời Chúa Cha trong mọi sự như Chúa, để Chúa Cha thương chúng ta giống như Chúa Cha thương Chúa.
Thế nhưng, chúng ta không hiểu tại làm sao, vì lý do gì mà khi Chúa chính thức bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Cha không tuyên dương Chúa gì cả? Lẽ ra đây mới là thời điểm quan trọng nhất trong chương trình cứu độ, vì nếu Chúa không thực hiện, thì con người chúng ta không được Chúa Cha cứu. Vậy mà dường như Chúa Cha bỏ rơi Chúa. Điều này khiến cho Chúa phải thưa lên với Chúa Cha: “Vào giờ thứ chín, Chúa kêu lớn tiếng: Êlôi. Êlôi, lamaxabácthani! Nghĩa là: Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” (Mc 15, 34). Lúc đó, mọi người dường như cũng phản bội Chúa: “Cả bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp con” (Tv 41, 10).
Trước lời than thở của Chúa như thế, chúng ta cảm thấy cõi lòng chúng ta sao mà đắng ngắt, đau buồn, tan nát vô cùng. Chúng ta thương Chúa vì Chúa đã chịu nạn chịu chết để cứu độ con người chúng ta. Dường như Chúa rất cô đơn, lẻ loi, không một người nào ở bên cạnh Chúa lúc này. Hình ảnh của Chúa Cha ở đâu, lúc này, chúng ta không thấy: “Lũ địch thù buông câu nguyền rủa bao giờ nó mới chết, cho tên tuổi xóa nhòa” (Tv 41, 6). Nhưng mà: “Chúa nâng đỡ con vì con vô tội, và đặt con ở mãi trước nhan Ngài” (Tv 41, 13). Như vậy, chúng ta không thấy Chúa Cha, là vì chúng ta biết rằng khi Chúa chịu đau khổ khủng khiếp như vậy. Chúa Cha vẫn ở bên cạnh, nhưng Chúa Cha không thể nào tưởng tượng nỗi được sự ác độc, dã tâm, man rợ của con người chúng ta. Nghĩa là con người chúng ta không chừa bất cứ một thủ đoạn thâm độc nào đối với Chúa cả. Dường như Chúa Cha có vẻ hối hận vì đã để cho Chúa phải chịu đựng cảnh tượng như thế này. Có thể Chúa Cha không dám nhìn Chúa, mà quay mặt sang chỗ khác để Chúa Cha khóc thầm, nước mắt chảy ngược vào trong cũng có: “Nhưng con người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, thì chúng ta thấy lại được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam chịu tử hình. Con người đó, chính là Chúa Giêsu. Thật vậy, Chúa Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho loài người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa” (Dt 2, 9). Nói tóm lại, Chúa Cha đã để cho Chúa chịu đựng như vậy là vì Chúa Cha yêu thương con người tội lỗi chúng ta. Chúa Cha chấp nhận hy sinh Con Một của Chúa Cha là chính Chúa: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3, 16 – 17). Do đó, chúng phải tạ ơn Chúa muôn ngàn đời. Đồng thời, để lời tạ ơn Chúa của chúng ta tròn đầy ý nghĩa, không gì khác hơn là chúng ta phải đi con đường thập giá của Chúa, vác thập giá theo Chúa mỗi ngày và cuối cùng là đóng đinh tính xác thịt của chúng ta vào thập giá Chúa.
Chúng ta vác thập giá theo Chúa hàng ngày, khi chúng ta chấp nhận những gian nan, thử thách, khốn khó, cơ cực, đói khát, rách rưới, thất bại, nợ nần, bệnh tật, đau khổ, bị hất hủi, bị bỏ rơi, bị khinh bỉ, bị chà đạp….trong cuộc đời này trong tinh thần tin tưởng, cậy trông, phó thác, vâng phục cho Chúa. Chúng ta đóng đinh các tính hư tật xấu, đam mê xác thịt, danh lợi thú, tham sân si… vào thập giá Chúa để rồi chúng ta xin Chúa xót thương ban tha thứ và cho chúng ta được chia sẻ vinh quang phục sinh với Chúa sau này.
Lạy Chúa, Chúa vâng lời Chúa Cha và thương xót chúng con đang bị nô lệ cho ma quỷ, xác thịt, thế gian và Chúa đã chấp nhận chịu nạn chịu chết để cứu chúng con, cho chúng con được sống. Xin Chúa cho chúng con được đóng đinh tính xác vào thánh giá và cho chúng con được sống lại với Chúa.
Lạy Chúa, hôm nay, chúng con bước vào Tuần Thánh, xin Chúa, trong tuần này, cho chúng con biết dâng những hy sinh, hãm mình, khổ chế, làm các việc lành phúc đức, tuy rất nhỏ nhoi, chẳng xứng đáng tí nào với Chúa để an ủi Chúa trong cuộc khổ nạn, để bù đền tội lỗi, để xin Chúa cho chúng con hạnh phúc thiên đàng.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn cho Ðấng cứu chuộc loài người phải sống kiếp phàm nhân và chịu khổ hình thập giá để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Xin cho chúng con biết đón nhận bài học Người để lại trong cuộc thương khó, và được thông phần vinh quang phục sinh với Người. Amen.
56.Tự hạ vâng lời–Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Lễ Lá Năm C này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã muốn cho Đấng Cứu Thế mang thân phận người phàm và chịu khổ hình thập giá, để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Xin Chúa cho chúng ta biết đón nhận bài học Người để lại trong Cuộc Thương Khó, và thông phần vinh quang phục sinh với Người.
Đón nhận bài học Thương Khó, để được thông phần vinh quang phục sinh, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thư Hípri cho thấy: Đức Kitô dâng hiến lễ một lần, nhưng vĩnh viễn làm cho ta nên hoàn hảo. Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể; Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội; Máu bò, máu dê không tẩy xóa được tội lỗi, chính vì thế, Đức Kitô khi vào trần gian, Người nói: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài.
Đón nhận bài học Thương Khó, để cùng chiến thắng với Đấng chiến thắng, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Anrê Cơrêta nói về: Chúc tụng Vua Ítraen, Đấng ngự đến nhân danh Chúa… Thoạt nghe tin Đức Giêsu tới Giêrusalem, dân liền đi đón. Đông đảo quần chúng trải áo xuống mặt đường; một số khác, tay chặt nhành lá mà rải lên lối đi, miệng cất tiếng reo hò: Hoan hô Thái Tử nhà Đavít! Vạn phúc Đấng ngự đến nhân danh Chúa!
Đón nhận bài học Thương Khó, để biết tự khiêm, tự hạ vâng phục thánh ý Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách ngôn sứ Isaia: Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ, tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 21, vịnh gia kêu xin: Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao? Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi. Thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào! Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô cho thấy: Đức Kitô đã tự khiêm tự hạ, nên Thiên Chúa đã siêu tôn Người.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Vì chúng ta, Đức Kitô đã tự hạ, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Trong bài Tin Mừng, thánh Luca tường thuật: Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đức Kitô đã tự nguyện bước vào Cuộc Thương Khó, để hoàn thành mầu nhiệm cứu độ chúng ta. Đấng từ trời xuống vì chúng ta, đã đến và tự nguyện lên Giêrusalem để đưa chúng ta đang ở chỗ thấp hèn lên địa vị cao cả. Người hiền lành và khiêm nhường, ăn mặc đơn sơ và tiến vào Giêrusalem với dáng vẻ tầm thường. Chúng ta hãy lấy chính mình mà trải đường đón Đức Kitô, chứ đừng lấy áo choàng hay cành lá vô tri vô giác, hoặc những tấm thảm bằng cây cỏ trông vui mắt trong giây lát, rồi héo tàn, trở thành thức ăn cho súc vật. Chúng ta đã mặc lấy ân sủng của Người, nghĩa là chính Người, vì bất cứ ai được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô đều mặc lấy Đức Kitô. Chúng ta hãy mang những phần thưởng chiến thắng mà dâng lên Đấng chiến thắng sự chết, hãy phất những cành lá đầy tràn sức sống của tâm hồn, mà cất tiếng tung hô: Chúc tụng Vua Ítraen, Đấng ngự đến nhân danh Chúa. Chúa đã muốn cho Đấng Cứu Thế mang thân phận người phàm và chịu khổ hình thập giá, để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Ước gì chúng ta biết đón nhận bài học Người để lại trong Cuộc Thương Khó, và thông phần vinh quang phục sinh với Người. Ước gì được như thế!
57.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Một trong những điểm nổi bật và làm rơi nước mắt của bao nhiêu người khi xem bộ phim về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu đó là cảnh bạo lực.
Người Do Thái dùng bạo lực một cách khủng khiếp đối với Đức Giêsu. Họ bắt Ngài phải vác thập giá. Họ đánh đòn Ngài. Họ khạc nhổ vào mặt Ngài. Họ bắt Ngài đội mạo gai. Họ đóng đinh chân tay Ngài vào thập giá. Họ còn lấy lưỡi gươm đâm thấu cạnh sườn Ngài thấu cả trái tim. Người Do thái thời bấy giờ quả thật là quá tàn nhẫn với Đức Giêsu Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Xem cảnh bạo lực đó, có lẽ không ai không trách móc người Do thái sao họ lại làm như thế với Đức Giêsu? Nhưng nếu để ý thì chúng ta vẫn thấy những cảnh bảo lực người ta gây nên cho Đức Giêsu vẫn được tái diễn lại nơi các Tông đồ và các môn đệ của Ngài suốt hơn 2000 năm qua. Và ngày hôm nay, bạo lực vẫn còn tái diễn lại trong các gia đình, nơi học đường, nơi mỗi môi trường sống của xã hội hôm nay.
Thật vậy, trong số các Tông đồ, chỉ có Thánh Gioan bị bỏ vào vạt dầu sôi không chết, còn 11 vị khác đều chịu chết vì đạo, nghĩa là các Ngài đã phải chịu cảnh bạo lực trước khi chết. Rồi suốt 2000 năm qua, vô vàn vô số các kitô hữu đã phải chịu nhục hình vì Chúa. Chỉ riêng ở Việt Nam chúng ta, với gần 300 năm bách hại đạo, có khoảng 150 ngàn kitô hữu chịu chết tử vì đạo, trong số đó đã có 117 vị thánh đã được phong hiển thánh và 1 vị được phong chân phước. Sau đây là hình khổ mà các vị tử đạo Việt Nam phải chịu: 1 vị chịu bá đao, tức là bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho đủ 100 miếng; 4 vị chịu lăng trì, tức là bị chặt chân chặt tay trước khi chém đầu; 6 vị chịu thiêu sinh, tức là bị thiêu sống; 75 vị chịu xử trảm, tức là bị chém đầu; 22 vị chịu xử giảo, tức là bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết; 9 vị chịu chết rủ tù, tức là bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù.
Ngày hôm nay, người ta vẫn dùng bạo lực để bạch hại các kitô hữu đây đó trên thế giới. Người ta không chỉ dùng bạo lực đối với các kitô hữu mà người ta còn dùng bạo lực để giải quyết mọi vấn đề giữa con người với nhau trong gia đình, nơi trường học, nơi các cơ quan công quyền và nơi mọi môi trường sống.
Trước hết, bạo lực trong gia đình: Theo thống kê của Vụ Gia đình (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) Việt Nam cho thấy trong 5 năm trở lại đây, số vụ bạo lực gia đình được ghi nhận khoảng 20.000 vụ/năm. Chỉ riêng trong năm 2015 có 31 phụ nữ, 7 trẻ em bị người thân giết hại. Số liệu báo cáo của các tổ chức phi chính phủ năm 2014 cũng cho thấy cứ 2-3 ngày lại có một người bị giết liên quan đến bạo lực gia đình, mà nạn nhân đa phần là phụ nữ và trẻ em (theo www.rfa.org). Xin nêu lên một số vụ nổi cộm như: Bố tẩm xăng đốt hai con gái tại Hải Phòng; con giết cha tại Đăk Nông; giết chồng để đi theo người tình tại Lâm Đồng; đâm chồng 18 nhát rồi vứt xác xuống sông tại Thái Nguyên; cha giết 2 con rồi tự sát tại Nam Định; chồng đánh vợ gẫy 8 xương sườn, chấn thương sọ não tại Hạ Long (Theo phununews.vn).
Thứ hai, bạo lực ở học đường: Theo số liệu thống kê đầu năm 2015 của Bộ GD&ĐT, trong một năm học, toàn quốc xảy ra khoảng 1.600 vụ học sinh đánh nhau ở cả trong và ngoài phạm vi nhà trường, tương đương khoảng 5 vụ đánh nhau trong một ngày. Nguyên nhân xẩy ra bạo lực có đôi khi không đáng là gì. Chẳng hạn: Vì viết sai chính tả, một học sinh lớp 1 bị cô giáo đánh tím mặt; vì thiếu 5 nghìn đồng “nộp tô”, một nam sinh cấp 2 bị đánh hội đồng dã man; 6 nam sinh bị giáo viên đánh chỉ vì một cái ghế gãy; 6 nữ sinh lớp 9 Trường THCS Quỳnh Long đánh 2 nữ sinh Trường THCS Quỳnh Thuận, Quỳnh Lưu, Nghệ An bằng dép, tát và đối phương dùng chân đạp liên tiếp vào người đối phương như phim hành động (theo dantri.com).
Thứ ba, bạo lực tại các đồn công an: Những năm gần đây người ta thường đồng hóa công an với côn đồ. Bởi vì, công an giả dạng côn đồ hay côn đồ được công an bảo kê để đi đánh người dân. Mặt khác, nhiều người dân được mời đến trụ sở công an, rồi bị đánh cho đến trọng thương, thậm chí bị đánh cho đến chết: Vụ 5 công an dùng nhục hình gây chết người ở Phú Yên; Nam Sinh Tu Ngọc Thạch (14 tuổi, học sinh lớp 9) bị công an đánh chết tại trụ sở công an xã Vạn Long, huyện Vạn Ninh, Tỉnh Khánh Hòa…
Ngoài ra, bạo lực còn xảy ra nơi mọi môi trường chúng ta đang sống: trên đường đi, nơi làm việc, nơi quán ăn nhậu, nơi quán cà phê…Chẳng hạn như: Bảo vệ dân phố sát hại bé trai 6 tuổi ở Sài Gòn; nam thanh niên sát hại người tình tại Royal City – Hà Nội; bé trai 6 tuổi tử vong với nhiều vết thương trên người ở Quảng Bình; nam thanh niên bị đâm chết khi đi dự đám cưới tại Nghĩa Đàn, Nghệ An; nam thanh niên giết người vì đèn pha xe mấy dõi vào mặt ở Nghĩa đàn… (theo kenh14.vn).
Chúng ta phải có thái độ nào trước bạo lực? Chúng ta hãy học gương của các Tông đồ, các thánh Tử đạo và đặc biệt gương của Đức Giêsu, các Ngài không bao giờ chủ trương bạo lực, các Ngài còn lên án bạo lực và khi đứng trước bạo lực mà con người gây ra cho các Ngài, các Ngài vẫn bình tĩnh và chấp nhận theo thánh ý Thiên Chúa. Với Đức Giêsu, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin cất cho con khỏi chén đắng này, nhưng đừng theo ý con một làm theo ý Cha”. Thái độ của Đức Giêsu trước bạo lực cũng được diễn tả trong bài đọc I hôm nay: Người tôi tớ đau khổ ở đây chính là Ngài; Ngài chấp nhận sự bách hại, tra tấn, phỉ nhổ, cô đơn; Ngài nhịn nhục chịu đựng, không dùng bạo lực chống lại bạo lực; đặc biệt, Ngài tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa là Đấng sẽ đến giải thoát mình.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có chủ trương bạo lực không? Hãy xét lại thái độ sống của chúng ta đối với những người thân trong gia đình, với bà con làng xóm láng giềng, với bạn bè và đồng nghiệp nơi chúng ta làm việc và với mọi người chúng ta gặp gỡ. Có khi nào chúng ta dùng bạo lực để giải quyết các vấn đề không? Chồng có dùng bạo lực đối với vợ không? Vợ có dùng bạo lực đối với chồng không? Cha mẹ có dùng bạo lực với con cái không? Con cái có dùng bạo lực đối với cha mẹ không? Anh chị em có dùng bạo lực đối với nhau không?
Hãy quyết tâm: Không được gây ra bạo lực; không được dùng bạo lực để chống lại bạo lực; hãy xây dựng sự hòa thuận trong gia đình và các mối tương quan bằng cách sống hiền lành và khiêm nhường.
Thánh Phanxico Salesio có bẩm tính rất nóng nảy, họ hàng bè bạn ai cũng biết thế …
Một hôm, có người đến Toà Giám Mục Annecy để thăm thánh nhân. Trong câu chuyện trao đổi hai bên, ông ta nhiều lần lớn tiếng cãi vã, đấm bàn đấm ghế, chỉ trích phê bình và mắng nhiếc thánh nhân thậm tệ. Thế nhưng, thánh Phanxicô vẫn cứ ngồi nghe cách thinh lặng, thỉnh thoảng lại nhã nhặn mời ông khách xơi trà, hút thuốc. Trước những câu nói nặng nề xấc láo, thánh nhân vẫn đáp lại bằng những lời lẽ hết sức dịu dàng, khiến ông khách qúy bắt đầu cảm thấy thẹn thùng rồi từ từ rút lui.
Người anh của thánh nhân ngồi ở phòng sau chăm chú theo dõi câu chuyện hai bên. Khi người khách vừa ra khỏi cổng, ông phóng ngay ra phòng thánh nhân và lạ thay…. Phanxicô vẫn tươi cười bình tĩnh! Ông liền nói:
– Nè, chú Phanxicô, xưa nay chú tính nóng như lửa, sao độ này lại hiền từ nhịn nhục đến thế? Tôi ở phòng sau nghe lão ta nói mà sốt ruột lộn gan, muốn nhào ra đánh một trận cho vỡ mặt hắn ra. Ðồ lếu láo mất dạy!
– Anh à, ai cũng có máu Adong cả. Em cũng bực tức xung giận lắm, nhưng em cố gắng theo gương Chúa Giêsu, hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Cứ mỗi dịp như vừa rồi, em lại tập thêm được một chút ít bằng cách tự bảo: này hỡi Phanxicô, hãy đậy kỹ vung, đừng mở, đừng nói gì ráo! Cuối cùng em thấy rằng: lấy một giọt mật, bắt được cả bầy ruồi; chứ lấy cả thùng giấm, chẳng tóm được một con. (Trích: chuyện ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận kể)
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường xin uốn lòng chúng con nên giống Chúa.
58.Lòng thương xót của Chúa Giêsu Kitô–Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Khi hoạ lại cho chúng ta con đường khổ giá của Chúa Giêsu, Thánh Luca không trực tiếp mô tả đến cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, như việc Chúa ngã xuống đất, bị lăng nhục, chịu sỉ vả…. Nhưng thánh sử chủ ý hướng về lòng thương xót của Chúa Giêsu Kitô.
Thứ nhất, Chúa Giêsu dồn mọi nghị lực để cầu nguyện hầu cho Lòng Thương Xót của Chúa Cha được thực hiện nơi Ngài. Ngài khẩn khoản xin cho mình khỏi uống chén đắng, nhưng đừng theo ý Con một xin theo ý Chúa Cha mà chớ và Ngài đã vâng phục ý Chúa là lên đồi chịu chết để rồi từ cạnh sườn Chúa Giêsu lòng thương xót Chúa trào tràn cho muôn người được sống.
Thứ hai, lòng thương xót của Chúa Giêsu là tha thứ. Trong trình thuật khổ nạn, Thánh sử Luca đã nêu bật thái độ của Đức Giêsu, trước lửa hận thù hừng hực, Ngài đã chiếu toả ánh sáng của lòng thương xót cho đến cùng. Cụ thể, trong bài thương khó, Thánh sử nêu bật sự dịu hiền của Chúa Giêsu khi đứng trước những kẻ tố cáo người. Trên đường lên núi Sọ, Người vẫn lo âu cho sự khốn khổ của đám dân đã chối bỏ Người. Trên thập giá, Người tha thứ cho anh trộm hối cải, tha thứ cho những người có lỗi với Ngài, “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc mình làm”. Nhờ lời tha thứ cuối cùng này của Chúa Giêsu mà tình yêu thương xót của Chúa nên viên mãn, hoàn hảo và trọn vẹn nhất không tình yêu thế gian nào sánh bằng vì khi Chúa sống không để bụng và chết cũng không mang theo chút hận thù gì cả; tình yêu thương xót không chỉ còn là lý thuyết mà trở thành hiện thực. Cho nên, nhà tư tưởng là mục sư Martin Luther King đã thốt lên rằng “Đó là giây phút đẹp nhất đời người”.
Thứ ba, Thánh giá là công trình hoà giải, là lòng thương xót của Thiên Chúa tỏ hiện rõ nhất. Luca là thánh sử của tình yêu Thiên Chúa và lòng thương xót của Thiên Chúa. Chẳng lạ gì mà thánh nhân đã đọc và giải thích các biến cố của cuộc Khổ nạn khởi đi từ hai thái độ ấy. Tin Mừng thứ ba, khi dõi theo đường thánh giá Đức Giêsu, đã khám phá ra tình yêu thương xót của Thiên Chúa dành cho Con của Người và cho tất cả mọi người, kể cả những kẻ thù nghịch. Cho nên, Thánh giá là công trình hoà giải và lễ dâng của Đức Giêsu hiệu quả ở điểm là qui tụ được tất cả những kẻ thù địch ác liệt nhất trong một mối hiệp nhất. Qủa thế, trong suốt cuộc đời công khai rao giảng, rất nhiều lần, Đức Giêsu đã bày tỏ tấm lòng thương xót hết mọi người: Người đã thực hiện các phép lạ, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, dạy dỗ dân chúng, âu yếm trẻ thơ, và tha thứ cho tội nhân. Và rồi, đoạn cuối của tình yêu, đỉnh cao của dâng hiến là bằng cuộc khổ nạn và cái chết đau thương của Người. Người phải chịu một cơn cám dỗ cuối cùng: Satan nhập vào Giuđa, để người môn đệ bất trung tham của này dùng cái hôn để nộp thầy. Satan sàng Phêrô và các môn đệ như sàng gạo, để Phêrô thì chối Thầy, còn các ông khác thì bỏ trốn. Thế nhưng, Người vẫn nhân từ, thực hiện nghĩa cử yêu thương cuối cùng, trước khi hoàn toàn dâng hiến trên thập giá: Người hiền hòa ra đón Giuđa, và dịu dàng nhắc nhở ông về tình nghĩa thầy trò. Người chữa lành tên đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai. Người quay nhìn Phêrô với ánh mắt tha thứ khi ông chối Thầy. Người an ủi những phụ nữ thương khóc Người. Người xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh Người. Người ban thiên đàng cho tên trộm biết sám hối. Và rồi, Người hoàn toàn dâng hiến trên thập giá để cứu chuộc tất cả muôn người. Cho nên, Thánh Gioan đã thốt lên rằng: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về người mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b). Như vậy, đối với Luca, việc đức Giêsu chịu chết trên Thập giá không còn phải là chuyện hành hình của một tử tội nữa, nhưng là một biến cố cứu rỗi.
Vì thương xót nhân loại, Chúa Giêsu luôn trung thành với thánh ý Chúa Cha. Ngài không rút lui khỏi sứ vụ nhưng hiên ngang đi lên Giêrusalem để chịu khổ nạn và chịu chết (Lc 9,51). Ngài còn khuyên nhủ những kẻ theo Ngài vác thập giá mình hàng ngày mà theo. Cho nên thánh giá hôm nay là những khổ đau hữu hình cũng như vô hình, thể xác cũng như tinh thần, thể lý cũng như tâm lý mà chúng ta đang phải gánh chịu, trên con đường thi hành lòng thương xót Chúa, chúng ta không được thối chí hoặc lùi bước trước những khó khăn ấy như một lòng vâng theo thánh ý Chúa Cha như Chúa Giêsu để được vinh quanh như Chúa. Vác thập giá theo Chúa là can trường chịu đựng đủ mọi hình thức khổ nạn ấy, vì chưng đó là con đường tự do lựa chọn, dâng hiến toàn thân để thi hành thánh ý Thiên Chúa hôm nay và được Chúa làm gia nghiệp mai sau.
Hôm nay chúng ta bước vào tuần thánh, tức là bước vào con đường thương xót của Chúa Giêsu cao điểm nhất, xin cho mỗi người chúng ta thật sự cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa dành cho mỗi người trong cuộc đời đồng thời sẵn sàng sống, chia sẻ và loan báo lòng thương xót Chúa cho anh chị em chung quanh mình bằng chính đời sống đức tin sống của chúng ta. Amen.
59.Hoan hô- Đả đảo–Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Kitô vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài bằng Chúa nhật Lễ Lá. Vì thế ngày lễ hôm nay gồm có hai phần: phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước kiệu lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa. Cho nên, trong ngày Lễ Lá chúng ta thấy cảm giác vui buồn lẫn lộn: một khởi khởi đầu vui nhưng lại có một kết cục buồn. Khởi đầu Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêsusalem. Kết cục, Chúa Giêsu chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá. Con đường vào thành của Người là con đường vinh quang vương giả. Còn con đường lên Núi Sọ lại là con đường của Đấng chịu nạn chịu chết như một kẻ có tội.
Ngày Chúa nhật trước khi đi chịu nạn chịu chết, Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo nhau lên thành thánh Giêrusalem, trên đường vào thành thánh, họ trải áo choàng trên đường và chặt những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavit”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Người người nồng nhiệt hò la, Chúa Giêsu im lặng chấp nhận để họ đón rước và tung hô như thế cốt để người ta hiểu rằng Ngài là một vị vua vinh quang nhưng khiêm hạ, Ngài không phải là vị vua như dân Do Thái mong đợi, nghĩa là vua phần xác, đến để giải phóng dân tộc họ khỏi ách đô hộ của đế quốc Rôma, nhưng Ngài là vua trong lòng của họ, đem đến tình thương và bình an trong cuộc sống này đồng thời đem lại sự sống đời đời cho con người.
Đàng khác, cũng trong ngày lễ hôm nay, chúng ta nghe đọc bài tường thuật về cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Cuộc khổ nạn diễn ra vào ngày thứ sáu sau Chúa nhật lễ lá, nghĩa là chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô Chúa Giêsu, dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi giết Chúa, “đóng đinh nó vào thập giá, đóng đinh nó vào thập giá”. Và Chúa Giêsu đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị đóng đinh vào thập giá trên núi Sọ như một tên tội phạm của xã hội.
Rõ ràng, trong một ngày hai phần Lời Chúa đã cho chúng ta thấy hai thái độ trái ngược nhau của dân Do Thái: hoan hô Chúa và đả đảo Chúa, đưa Chúa lên ngai vua và hạ bệ Chúa trên thập giá. Chắc chúng ta khó chịu, bực tức và lên án thái độ đổi thay, lòng dạ tráo trở của những người đó phải không? Nhưng suy đi nghĩ lại thì chúng ta đôi lúc chúng ta cũng như người dân Do Thái xưa: hôm nay chúng ta hoan hô, chúc tụng Chúa: vạn tuế, vạn tuế, ngày mai chúng ta có thể sẽ gào thét: đả đảo, đóng đinh Chúa qua việc hôm nay chúng ta đạo đức thờ Chúa, yêu Chúa, giữ các điều răn của Chúa và Hội Thánh hết sức chân tình, nhưng ngày mai bỏ Chúa, không giữ các giới răn của Người vì tính kiêu ngạo của chúng ta, vì sự thất vọng của chúng ta khi xin Chúa cái này cái kia Chúa không cho. Rồi hôm nay chúng ta yêu thương mọi người lắm, nhưng ngày mai chúng ta oán ghét, hận thù. Hôm nay chúng ta hiền hòa, ngày mai chúng ta hung dữ. Hôm nay chúng ta tin tưởng, phó thác cho Chúa tất cả ngày mai chúng ta hoài nghi, ngờ vực và sa ngã bỏ Chúa. Và hôm nay chúng ta làm điều thiện ngày mai chúng ta làm điều ác.
Mỗi người giờ nay trên tay ai cũng đang cầm một cành cá phải không? Đã là cành lá thì có cành và có cá. Khi cành cá còn nguyên vẹn thì chúng ta dùng nó vẩy tung hoan hô, chúc tụng, yêu thương, hân hoan, hiền hòa, tin tưởng trong nhà thờ. Ra khỏi nhà thờ hay giờ này chính ngay trong nhà thờ này có nhiều người tuốt trụi lá còn chỉ cành không, hay cộng dừa không, chính những lúc như vậy được ví như chúng ta khước từ Chúa, không tin Chúa hiện hữu, oán ghét anh em, buồn phiền chính mình, hung dữ và hoài nghi. Chính lúc này cành lá xanh tươi đã biến thành một chiếc đinh có thể dùng để đóng đính Chúa và hành hạ nhau trong gia đình và cuộc sống, biến thiên đàng trần gian đầy yêu thương thành địa ngục tội ác mà chúng ta xảy ra đầy dẫy trong gia đình hôm nay: bạo lực gia đình, cha mẹ hành hạ con cái, con cái chém giết cha mẹ, rồi trong xã hội nào là bạo lực học đường, tệ nạn xã hội lan tràn… dẫn đến một xã hội bất an nhiều hơn bình an.
Cuộc sống của chúng ta có nhiều tiêu cực hơn tích cực, chúng ta làm khổ nhau nhiều hơn làm đẹp lòng nhau, chúng ta xích mích, gây chia rẽ bất hòa nhiều hơn là xây dựng, yêu thương, đoàn kết là vì sao? Bời vì, chúng ta tôn vinh Chúa ở trong nhà thờ nhưng trong cuộc sống chúng ta ít tôn vinh Ngài bằng cách chưa giữ Lời Ngài một cách triệt để. Vì vậy, mỗi khi chúng ta không tôn trọng bất cứ người anh em nào là chúng ta không tôn vinh Chúa. Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn trung thành với lời chúng ta hoan hô “vạn tuế Con Vua Đavít, Chúc Tụng Đức Chúa” trong cuộc đời người Kitô hữu bằng cách chúng ta quyết đem ra thực hành Lời Chúa trong cuộc sống để xây dựng bình an và tình thương của Chúa trong gia đình, giáo xứ và xã hội chúng ta đang sống. Amen.
60.Lòng dạ con người
Với lễ lá hôm nay, chúng ta bắt đầu tuần lễ quan trọng nhất của năm phụng vụ gọi là tuần thánh. Bài thương khó hôm nay có rất nhiều ý nghĩa, con xin gợi lên một vài chi tiết để thấy được lòng dạ của con người khi đối diện với thập giá Đức Kitô.
Trước hết là đám đông dân chúng. Lúc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem, dân chúng đã vui mừng nghênh đón Chúa như một vị vua cao sang, tay cầm lá tung hô: “vạn tuế con vua David”, có kẻ trải áo xuống đường để bày tỏ niềm hân hoan. Nhưng chỉ vài hôm sau, cũng những con người đó lại la lói trước dinh Philatô: “đóng đinh nó vào thập giá”. Vì họ nhận thấy vị vua Giêsu này không làm vua theo cách họ muốn, không thỏa mãn nhu cầu của họ nên đã loại trừ Ngài.
Các môn đệ của Chúa thì sao?. Ba năm theo Thầy, được Thầy dạy dỗ, chứng kiến bao nhiêu phép lạ Thầy làm. Cách đây vài hôm ai cũng hùng hồn tuyên bố: “chúng ta cùng lên Giêrusalem để chết với Thầy”. Vậy mà giờ đây, trong những giờ phút khổ hình của Thầy không còn ai bên cạnh. Giuđa vì 30 đồng bạc nhẫn tâm bán Thầy. Phêrô, kẻ được Thầy tin tưởng nhất lại chối bỏ Thầy đến 3 lần, những môn đệ khác cũng không thấy bóng dáng đâu.
Chỉ trong khoảng thời gian không đầy 1 tuần mà chúng ta chứng kiến bao cảnh thay lòng đổi dạ của con người đối với Chúa Giêsu. Vì sợ thánh giá, sợ đau khổ, sợ mất quyền lợi mà con người đã đối xự tệ bạc với Chúa.
Lòng dạ của con người là thế nhưng Chúa Giêsu vẫn luôn trung thành với tình yêu. Chúa chấp nhận vác lấy tất cả sự phụ bạc của con người, sự phản bội của Giuđa, sự yếu hèn của Phêrô mà không một lời trách mắn. Trên thập giá, khi chỉ còn lại chút hơi mọn Người đã kêu xin Chúa Cha hãy tha cho tội cho những kẻ làm khổ Người. Đây là một tình yêu cho đến tận cùng, tha thứ cho tới chết.
Khi nghe bài thương khó, có lẽ chúng ta không khỏi đau lòng, vì trong cuộc sống, đôi lúc chúng ta cũng cảm thấy mình đang có mặt trong đám đông chối bỏ Chúa. Chúng ta sẽ dễ dàng theo Chúa, tôn xưng Ngài là vua là Chúa cuộc đời mình khi chúng ta ở trong nhà thờ, trong hoàn cảnh thuận lợi: gia đình hạnh phúc, tiền bạc đầy đủ, sức khỏe dồi dào. Thế nhưng khi cuộc đời gặp thử thách, bệnh tật, nghèo khổ, hay vì phải mất một số quyền lợi khi xưng nhận mình là người có đạo thì việc trung thành với Chúa cũng không phải là chuyện dễ dàng chút nào.
Chúa nhật lễ Lá nhắc cho chúng ta rằng: vị vua Giêsu chúng ta đang theo đó là vị vua của hòa bình, của yêu thương và tha thứ. Để được vào vương quốc của Ngài, chúng ta phải đi trên con đường Ngài đã đi qua: con đường thập giá, con đường của tình yêu và tha thứ. Chỉ ai dám can đảm dấn bước trên con đường đó thì mới chiếm được sự sống vĩnh cửu mà Ngài hứa ban.
61.Lễ lá
Hôm nay bắt đầu tuần thánh, một tuần lễ trọng đại nhất trong năm phụng vụ và Chúa nhật lễ Lá là Chúa nhật khởi đầu cho cuộc thương khó của Chúa. Chúng ta cùng nhau chia sẻ ba điểm.
Điểm thứ nhất đó là tại sao Chúa lại phải chịu đau khổ như thế? Tôi xin thưa đó là vì quyền lực của Satan. Chúng ta có thể nói cuộc tử nạn chính là cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và Satan, giữa sự thiện và sự ác. Hẳn chúng ta còn nhớ: Khi Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, thánh Luca đã kết thúc biến cố ấy bằng câu: Ma quỷ rút lui để chờ dịp khác. Thì nay dịp khác ấy đã đến. Ma quỷ chiếm hữu cõi lòng Giuđa, tên phản bội. Ma quỷ sàng gạn Phêrô và các môn đệ như sàng gạo. Và cuộc hấp hối trong vườn Cây Dầu được mô tả như là giờ của quyền lực tối tăm đã đến.
Điểm thứ hai, đó là Chúa Giêsu dùng thứ khí giới nào để chiến thắng? Thánh Luca cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đã dùng hai thứ khí giới quen thuộc. Trước hết là sự cầu nguyện. Người sấp mình xuống đất cầu nguyện và mô hôi chảy ra hoà lẫn với máu. Tiếp đến là lòng nhân từ tha thứ. Người niềm nở đón chào tên phản bội. Người chữa lành đứa đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai, Người quay lại nhìn Phêrô vừa mới chối Người ba lần. Người an ủi những phụ nữ đang than khóc, Người tha thứ cho những kẻ đóng đinh Ngài vào thập giá, Người hứa ban nước thiên đàng cho người kẻ trộm. Và lời cuối cùng là một lời phó thác: Lạy Cha, con xin phó hồn con ở trong tay Cha.
Điểm thứ ba đó là sự vô tội của Chúa Giêsu. Thực vậy, Philatô đã tuyên bố: Ta không thấy người này có tội gì. Hêrôđê cũng nhận thấy như vậy, nên đã truyền đem trả Ngài lại cho Philatô. Các phụ nữ Giêrusalem cũng không cầm được nước mắt. Còn người trộm lành thì xác quyết: Người này có làm điều gì trái đâu. Và sau khi Chúa đã chết, viên đội trưởng Lamã cũng kêu lên: Người này là người công chính. Còn dân chúng vừa ra về vừa đấm ngực ăn năn vì đã đổ máu người vô tội. Phải, Người là con chiên vô tội đã gánh lấy tội thế gian cũng như tội của mỗi người chúng ta. Vì vậy thánh Alphongsô đã nói: Tuần thánh là tuần của tình yêu, chúng ta hãy đem hết tình yêu để sống những ngày trọng đại này. Hãy trở về cùng Chúa vì Người đang chờ đợi ta và tha thứ cho ta.
Tại một ngôi thánh đường ở bên Đức, người ta còn thấy một pho tượng thánh giá cuộc tội đặc biệt. Chúa bị treo trên thập giá nhưng một tay thì bị đóng đinh còn một tay thì thòng xuống. Số là trước đây có một tội nhân đã hết lòng sám hối quỳ trước pho tượng này. Ông ăn năn nhưng không biết Chúa có tha thứ cho hay không. Thì bỗng nhiên một cánh tay Chúa rút ra khỏi lỗ đinh và ôm chầm lấy cổ ông trong bộ điệu yêu thương và tha thứ. Cánh tay ấy vẫn còn như vậy cho đến hôm nay. Hãy đến với Chúa trong tuần thánh này vì Ngài đang chờ đợi để tha thứ.
(Nguồn: giaophanlongxuyen.org)