TỪ NÔ LỆ ĐẾN VỊ THÁNH – CÂU CHUYỆN CỦA THÁNH JOSEPHINE BAKHITA

Đây là một hội thảo văn hóa để suy tư về hành trình của 10 người nữ phi thường, với chủ đề: “Phụ nữ trong Giáo hội: những người sáng tạo của nhân loại”. Nữ tu, thừa sai và cả giáo dân, những người đã lập gia đình và những người mẹ, những phụ nữ này đến từ các lục địa khác nhau, đã gieo rắc Lời Chúa bằng cách sống trọn vẹn đức tin của mình, trong một thế giới thường thù địch và đôi khi trong những điều kiện vô nhân đạo.
Trong số 10 phụ nữ được thảo luận trong hội nghị vừa qua, chúng tôi xin giới thiệu thánh Josephine Bakhita, nữ thánh người Phi Châu, da màu và thậm chí chỉ là một nô lệ bị mua đi bán lại nhiều lần, một cô gái tầm thường, bị coi thường, bị tra tấn dã man, bị chà đạp nhân phẩm nặng nề. Tuy vậy, trong thân phận của mình, Thánh nữ đã trở thành một gương sáng cho các người nữ trong đời sống Giáo hội.
***
Cô bé gái đang đi bộ trên những cánh đồng cách nhà vài dặm, thì hai người lạ mặt xuất hiện và yêu cầu cô mang cho họ một ít trái cây. Được giáo dục phải biết cư xử lịch sự với người lớn, cô bé chín tuổi vội vã vâng lời. Phải mãi cho đến khi bị lạc trong khu rừng, cô bé mới nhận ra mình đã bị đánh lừa.
Sau này chị nhớ lại: “Tôi đã nhìn thấy hai người phía sau tôi. Một người trong họ nhanh chóng một tay túm lấy tôi, trong khi người kia rút một con dao từ dây lưng ông ta và dí nó vào hông tôi. Ông ta dữ tợn quát tôi rằng: ‘Nếu mày khóc, mày sẽ chết! Hãy đi theo chúng tao!’”
Sau khi bị bắt buộc phải đi bộ dài ngày, cô bé đã bị bán như một nô lệ. Những người bắt cô gọi cô là “Bakhita” – Tiếng Ả Rập nghĩa là “Người May Mắn”.
Mặc dù họ đặt cho cô bé cái tên đó với ý mỉa mai, nhưng nó lại diễn tả quan điểm riêng của cô bé về cuộc đời của mình. Những năm sau đó, cô vui vẻ chấp nhận cái tên (Bakhita) đó và ước ao có cơ hội tha thứ cho những kẻ đã bắt cô. Đáng nói hơn nữa, cô đã tạ ơn Thiên Chúa về điều tốt lành đã đến từ sự đau khổ của cô. Cô viết: “Nếu tôi gặp lại những người đã bắt cóc tôi, và thậm chí cả những người đã tra tấn tôi, tôi sẽ quỳ xuống và ôm hôn đôi tay của họ. Vì nếu những điều ấy không xảy ra, thì hôm nay tôi đã không phải là một Kitô hữu và là một tu sĩ”.
Trong cảnh tối tăm.
Được sinh ra gần Darfur, ở miền Sudan hiện đại, khoảng năm 1869, vị thánh mà chúng ta biết đến tên là Josephine Bakhita, thành viên của một gia đình rất yêu thương nhau với tám người con, bao gồm một cặp chị em song sinh. Mặc dù là những người theo thuyết duy linh tôn thờ các thần thánh nơi những vật thể tự nhiên, ngay cả khi còn là một đứa trẻ, Bakhita đã đói khát được biết Thiên Chúa. “Khi tôi chiêm ngắm mặt trăng, những vì sao và tất cả những thứ xinh đẹp của tự nhiên, tôi đã tự hỏi ‘Ai là chủ của tất cả?’ Và tôi cảm thấy một niềm khao khát tha thiết được thấy Người, biết Người và thờ kính Người”.
Bóng tối đầu tiên đã chụp xuống khi chị gái cả của Bakhita bị bắt bởi những người buôn nô lệ trong khi hầu như cả gia đình đang ở ngoài đồng. Mặc dù những người Phi Châu không còn bị chuyển qua Đại Tây Dương vào thời điểm này, nhưng vẫn có một dịch vụ buôn bán nô lệ vì lợi nhuận xuyên lục địa. Những kẻ cướp người Phi Châu hoặc Ả Rập sẽ bắt những người dễ bị tổn thương và bán họ cho những người Ả Rập giàu có hoặc cho các thủ lãnh của bộ lạc khác. Cha của Bakhita và những người làm của ông đã tìm kiếm khắp vùng nông thôn để tìm cô gái đã bị bắt cóc – “nhưng tất cả đều vô ích. Chị gái tôi đã ra đi mãi mãi”.
Ngay sau đó đến lượt Bakhita, trong khi cô và một người bạn đang hái thảo dược. Những người lạ mặt có vũ trang đã tách hai em ra và mang Bakhita đi. Cô đã trải qua một tháng ở trong “một chỗ trũng của một căn phòng, đầy rác rưởi với những dụng cụ và phế liệu”, em khóc không ngơi vì (nhớ) gia đình mình. Sau đó cô bé nhận ra mình đang ở trên khu đầu tiên trong năm khu chợ bán nô lệ. Những người chủ kế tiếp của cô gồm có vị tướng người Thổ Nhĩ Kỳ hung ác và một người Ý tử tế nhưng không hề biểu hiện một chút ray rứt nào về việc tham gia vào con đường buôn bán người này.
Mặc dù có lần Bakhita và cô gái nọ đã trốn thoát, nhưng khi leo lên cây để tránh sư tử, hai cô liền bị phát hiện và lại bị bán. Sau này Bakhita đã mô tả lại một số những sự tàn ác mà cô đã phải hứng chịu: “Thậm chí không một ngày nào mà tôi không bị phạt cách này hay cách khác. Khi một vết thương bị đánh bằng roi da bắt đầu lành, thì những trận đòn khác lại đổ xuống trên tôi, ngay cả khi tôi đã chẳng làm gì để phải chịu như vậy”.
Một lần kia cô đã bị đánh vì nghe trộm cuộc cãi vã giữa ông chủ của cô với vợ ông ta – vết thương quá nghiêm trọng đến nỗi “tôi phải nằm trên tấm chiếu rơm suốt hai tháng mà không thể cử động”. Theo phong tục thời đó và vùng đó, cánh tay, ngực và bụng của cô đã bị xăm với 114 hình tỉ mỉ bằng một dao cạo, rồi để hở bằng cách xát muối. Tuy nhiên, cô chưa bao giờ bị cưỡng đoạt “Đức Trinh Nữ Maria đã bảo vệ tôi, ngay cả trước khi tôi có thể biết Mẹ”.
Bất chấp sự đau đớn này, Bakhita nói cô “không bao giờ thất vọng. Tôi cảm thấy một sức mạnh nhiệm mầu ở bên trong tôi đã nâng đỡ tôi”. Cô đã cố kiềm chế không trộm cắp, gian dối hay oán giận.
“Lạy Thiên Chúa của con, con tạ ơn Chúa!”
Khi khoảng mười bốn tuổi, Bakhita bị bán ở Khartoum cho Callisto Legnani, một viên chức lãnh sự Ý. Lần đầu tiên, một người chủ đã đối xử tử tế với cô. Thậm chí ông còn giúp đỡ cô tìm kiếm gia đình của cô, nhưng không thành công. Hai năm sau đó, khi ông ta về Ý, Bakhita đã xin đi với ông.
Cùng đi trên một con tàu tới Genoa là ông Augusto Michieli, một người bạn tốt của Legnani. Lãnh sự trao Bakhita cho vợ của Michieli, bà Maria, để giúp bà sau này chăm sóc đứa trẻ mà bà đang cưu mang. Đó là cô con gái tên Mimmina, khi lớn lên cô bé rất thích Bakhita và họ thương mến nhau.
Gia đình Michieli không sùng đạo cách đặc biệt gì, nhưng chính ở đó mà Bakhita đã tiếp xúc với đạo Công giáo. Một trong những người làm của họ đã cho Bakhita một thánh giá, nó đã thu hút tâm hồn cô cách lạ lùng. Cơ hội để cô học thêm về đạo đã đến vài năm sau đó, khi Augusto và Maria trở về Sudan; họ gửi Mimmina – với Bakhita như chị bảo mẫu – vào một trường nội trú ở Venice của các Sơ Dòng Nữ Tử Bác Ái Thánh Canossa.
“Và như thế, các Sơ thánh thiện, với lòng kiên nhẫn thực sự quả cảm, đã hướng dẫn tôi đi vào niềm tin Công giáo”, Bakhita viết. Khi cô chuẩn bị lãnh bí tích Rửa tội, cô nhận ra rằng cô đã kinh nghiệm Thiên Chúa “trong tâm hồn từ khi còn nhỏ, dù không biết Người là ai… Bây giờ, cuối cùng, tôi đã biết Người. Tạ ơn Chúa, lạy Thiên Chúa của con, con tạ ơn Ngài!”
Chín tháng sau, ngài Michieli đã quay lại để đón Mimmina và Bakhita về lại Phi Châu. Bất chấp mọi sự, Bakhita đã từ chối: “Việc học để lãnh bí tích Rửa tội của tôi chưa xong”. Tức giận, Maria cầu khẩn, dọa nạt và cuối cùng đã kiện ra tòa. Tuy nhiên, vì bà nghe biết rằng việc chiếm hữu nô lệ đã là bất hợp pháp tại Ý từ lâu, nên Bakhita đã được tự do quyết định. Thật đau đớn, Bakhita đã phải từ biệt gia đình mà cô đã nảy sinh lòng yêu mến.
Bakhita được gia nhập Giáo hội chỉ hơn một tháng sau đó, ngày 9 tháng 1 năm 1890. “Với một niềm vui mà chỉ các thiên thần mới có thể diễn tả được”, cô được rửa tội với tên Josephine Margaret Bakhita, được Thêm Sức và được rước Mình Thánh Chúa lần đầu tiên. Bởi không thể diễn tả bằng lời cuộc sinh ra mới ấy có ý nghĩa với mình như thế nào, những ngày sau đó Bakhita thường đến hôn giếng Rửa tội.
Ca ngợi sự quan phòng của Thiên Chúa.
Bakhita vẫn tiếp tục học hỏi, cầu nguyện và giúp việc nhà cho các Sơ Dòng Canossa, tất cả các Sơ đều sinh ở Ý. Ít năm sau, Bakhita mới rụt rè hỏi “một cô gái Phi Châu nghèo nàn” có thể vào dòng tu không. Vào năm 1893, Bakhita được nhận vào Dòng: “Tôi đã nghe, ngày càng rõ ràng hơn, một giọng nói nhẹ nhàng của Chúa, thúc bách tôi dâng hiến cuộc đời tôi cho Người”.
Tràn ngập niềm vui vì chính Thiên Chúa đã chọn mình, Sơ Josephine Bakhita đã phụng sự Chúa như một người nữ tu suốt hơn năm mươi năm, hầu hết ở Venice, Milan và Schio, một tỉnh nhỏ ở Italian Alps (dãy núi phía Tây Bắc Ý). Công việc của Sơ Bakhita thật tầm thường: nấu ăn, lau dọn, dạy thêu và phục vụ như một người gác cổng. Mặc dù đi lại chậm chạp – có lẽ do những lần bị tra tấn thời niên thiếu – Sơ đã làm mọi việc bằng tình yêu, với một niềm vui lan tỏa. Sơ nói với những người có những vai trò quan trọng: “Chị cứ đi dạy. Em sẽ tới nhà nguyện cầu nguyện để chị có thể dạy thật tốt”.
Ai đi ngang qua cửa nơi Bakhita làm việc cũng đều tin tưởng vào người phụ nữ tốt bụng này. Trong số họ có những bà mẹ và trẻ mẫu giáo đang học trường của các Sơ. Josephine thường trìu mến đặt tay lên đầu chúng và chúc lành cho chúng.
Cuộc sống phục vụ vì tình yêu ở Schio tiếp tục không gián đoạn qua hai cuộc chiến tranh thế giới. Khi tiếng còi báo động oanh kích khiến mọi người phải tìm nơi ẩn núp, Sơ Josphine vẫn tiếp tục công việc nấu ăn hoặc quét dọn. Sơ nói: “Họ cứ việc bắn đi. Chính Thầy mới là Đấng truyền lệnh”. Nhiều người dân trong làng đã tin sự kiện mà làng của họ đã thoát khỏi sự thiệt hại nặng nề là nhờ những lời cầu nguyện của “Nostra Madre Moretta – Người Mẹ Đen của chúng tôi” (Mẹ Bakhita).
Được các bề trên khuyến khích, Josephine đã viết tự truyện và thực hiện một chuyến đi diễn thuyết ở Ý để kể câu chuyện đời mình và quyên góp tiền cho công việc truyền giáo. Sơ nói ít và luôn nhường lời cho những diễn giả hùng hồn hơn. Sơ luôn luôn bắt đầu bằng câu: “Vì vinh danh Thiên Chúa và tạ ơn sự quan phòng của Chúa đã đưa tôi đến ơn cứu độ”.
Sơ đã tha thiết cầu nguyện gia đình Sơ được ơn hoán cải, cho dẫu Sơ không bao giờ biết được họ ở đâu. Như người gác cổng tu viện, Sơ khuyến khích các bậc cha mẹ hãy để cho các tập sinh tương lai đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa để trở nên các nhà truyền giáo. Sơ hy vọng sẽ có một số nhà truyền giáo đến miền đất Phi Châu, là nơi luôn ở trong tư tưởng và lời cầu nguyện của Sơ.
Đừng sợ.
Hành trình của Bakhita tới sự tự do thực sự đã làm cho Sơ ý thức sâu sắc rằng Sơ luôn ở trong bàn tay của Chúa. Khi được hỏi Sơ có ước ao lên thiên đàng hay không, Sơ trả lời rằng “Tôi không ước ao lên thiên đàng cũng không ước ao ở lại đây. Thiên Chúa biết tìm tôi ở đâu khi Người muốn tôi!”
Sơ Bakhita nói về việc mang hai cái bao trên hành trình của Sơ đi về cõi vĩnh hằng. “Một cái chứa các tội lỗi của tôi. Cái kia, nặng hơn nhiều, chứa đựng những công trạng vô hạn của Chúa Giêsu Kitô”. Sơ diễn tả Sơ sẽ bao bọc cái bao xấu xa của Sơ bằng những công trạng của Đức Trinh Nữ Maria, và mở cái bao kia ra vào lúc Sơ chịu phán xét. ‘Tôi chắc chắn mình sẽ không bị loại. Rồi tôi sẽ quay về phía Thánh Phêrô và thưa với ngài rằng: ‘Ngài có thể đóng cánh cửa phía sau con – Con ở lại đây’”.
Đến khoảng 75 tuổi, khi chứng viêm khớp và viêm phổi làm cho Sơ phải dùng gậy để đi lại rồi đến xe lăn, Sơ vẫn luôn sống tâm tình biết ơn. “Con tạ ơn Chúa vì nhiều ơn huệ Chúa đã ban cho con, con vui vì có một chút gì đó để dâng lại cho Chúa”. Sơ không bao giờ tự hành xác khắt khe, nhưng sẵn sàng chấp nhận “chịu đau đớn do bệnh tật”. Trong những ngày cuối đời, sự đau đớn và cơn sốt cao đã làm cho Sơ sống lại những cực hình khi còn là một nô lệ. Trong cơn mê sảng, Sơ cầu xin “Xiềng xích thắt chặt quá. Xin làm ơn nới lỏng chúng ra một chút!”.
Sơ Josephine qua đời tại tu viện ở Schio vào ngày 08 tháng Hai năm 1947. Khi những người dân trong thành xếp hàng bên quan tài của Sơ, những bà mẹ đặt tay Sơ trên đầu con cái họ lần cuối cùng; một số người ghi nhận rằng bàn tay của Sơ vẫn mềm mại ngay cả khi Sơ đã chết.
Thiên Chúa – Chủ nhân của sự sống.
Thật bi thương, trên thế giới ngày nay còn có nhiều nô lệ hơn số nô lệ bị bắt từ Phi Châu qua đường dây buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương trong bốn thế kỷ. Ở nước Sudan hiện đại, nơi sinh của Josephine, một ước tính thận trọng cho thấy con số nô lệ đã là trên hai mươi lăm ngàn (25.000). Nhưng trên toàn thế giới – bao gồm Hoa Kỳ và các nước Châu Âu – hàng triệu người nam, nữ và trẻ em đang bị mua bán, bị giam giữ và bị hành hạ vì lợi nhuận.
Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã ám chỉ thực tại đen tối này khi ngài tuyên thánh cho Sơ Bakhita vào năm 2000. Ngài nói: Cuộc đời của Sơ “không truyền cảm hứng thụ động chấp nhận, mà truyền cảm hứng kiên quyết hoạt động cho việc giải phóng các bé gái và phụ nữ khỏi áp bức và bạo lực, và trả lại cho họ phẩm giá trong việc thực hành đầy đủ các quyền của họ”.
Đức giáo hoàng nói, Thánh Josephine – một phụ nữ đã được biến đổi nhờ tình yêu của Chúa Kitô và biết tha thứ – cũng là một sứ giả của hòa giải và là một “người nhiệt thành bảo vệ cho sự giải phóng đích thực”. Qua đau khổ, “Sơ đã hiểu được chân lý sâu xa này: Thiên Chúa, chứ không phải người phàm, mới là Chủ thực sự của mọi con người, và là Chúa của mọi sự sống”. Theo cách riêng của mình, mỗi người chúng ta cũng phải khám phá chân lý ấy.
***
Đôi dòng cảm nhận
Josephine Bakhita, người Phi Châu, da màu và thậm chí chỉ là một nô lệ bị mua đi bán lại nhiều lần, một cô gái tầm thường, bị coi thường, bị tra tấn dã man, bị chà đạp nhân phẩm nặng nề. Một con người như thế thì có thể đóng góp gì cho xã hội và nhất là cho Giáo hội?
Chị là một con người vĩ đại, một vị thánh tuyệt vời. Bởi lẽ, chị có sự phân định khôn ngoan và sâu sắc, dù không hề biết Chúa là ai, nhưng khi chiêm ngắm vũ trụ tự nhiên, chị tin chắc phải có một Đấng tuyệt vời tạo dựng nên tất cả, Đấng ấy là chủ muôn loài, chủ mọi sự sống và chủ của cuộc đời chị; chị có một trái tim ‘vàng’, chưa bao giờ được nghe Tin Mừng nhưng chị đã sống Tin Mừng yêu thương, tha thứ cho những kẻ ‘bắt nạt’, đối xử gian ác với chị; chưa phải là tông đồ của Chúa nhưng chị đã sống tinh thần truyền giáo ngay trong những nghịch cảnh cuộc đời mình. Và tưởng như chị chẳng là gì, chẳng góp gì nhưng thực tế chị đã không chỉ tham gia vào đời sống và sứ mạng của Giáo hội nhiều hơn ai hết, mà chị còn góp phần làm cho đời sống của Giáo hội tỏa sáng tình yêu và hy vọng trong thời đại của chị cũng như cho cả thời đại chúng ta. Thật vậy, qua việc chấp nhận số phận nô lệ (do chính con người gây nên) của mình cách kiên cường, chủ động, tích cực với lòng yêu thương, tha thứ thì thay vì là nạn nhân, rốt cục chị lại trở nên con người hữu ích, truyền cảm hứng và tiếp sức cho những cô gái, những phận người cùng hoàn cảnh hoặc bị ‘nô lệ’ cách này cách khác biết tôn trọng nhân phẩm, sự sống của chính mình. Chị cũng nhắc cho những người có trách nhiệm biết luôn nhiệt tâm, can đảm bảo vệ sự sống của những con người xấu số, bị bỏ rơi, bị xúc phạm. Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II quả đã nhận định chí lý khi tuyên thánh cho chị vào Năm thánh 2000: “Cuộc đời của sơ (Josephine Bakhita) ‘không truyền cảm hứng thụ động chấp nhận, mà truyền cảm hứng kiên quyết hoạt động cho việc giải phóng các bé gái và phụ nữ khỏi áp bức và bạo lực, và trả lại cho họ phẩm giá trong việc thực hành đầy đủ các quyền của họ’.”
Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương, Hội Dòng Đa Minh Tam Hiệp
Chuyển ngữ từ: wau.org
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 143 (Tháng 9 & 10 năm 2024)